Thử nghiệm ảnh hưởng của Zeolite đến khả năng tăng trọng, tỷ lệ tiêu chảy của lợn con sau cai sữa"
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay do tiến bộ khoa học kỹ thuật, ngành chăn nuôi nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ, áp dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi nhằm nâng cao năng xuất, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, tiêu thụ trong nước, giúp nền kinh tế nước ta phát triển. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của ngành chăn nuôi thì bệnh tật ngày càng phát triển ngày càng mạnh, vấn đề ô nhiễm môi trường, vấn đề đảm bảo sức khỏe của của con người là một bài toán khó cần có câu trả lời. Do vậy vấn đề làm sao trong chăn nuôi vừa có năng xuất cao, vừa bảo vệ môi trường, vừa giảm thiểu bệnh tật và nâng cao chất lượng thịt . Được các nhà khoa học, người chăn nuôi tìm tòi và phát triển.
Zeolite là một loại khoáng tự nhiên có nguồn gốc từ núi lửa và có cấu trúc tinh thể dạng khung kiên kết. Từ năm 1956 nhà địa chất Cronstede người Thuỵ Điển phát hiện ra khoáng chất zeolite tự nhiên là loại khoáng muối acid Silic chứa kim loại kiềm và kiềm thổ. Hiện nay có trên 40 loại Zeolite tự nhiên, nhưng sử dụng chủ yếu trong chăn nuôi là loại có nguồn gốc từ núi lửa, có tia hổng, xốp, hình thành từ biến đổi nhiệt dịch đá núi lửa.
Trên Thế Giới việc nghiên cứu ứng dụng Zeolite trong các lĩnh vực như nông nghiệp, y học, bảo vệ môi trường, lọc hoá dầu, đặc biệt trong lĩnh vực chăn nuôi đã được tiến hành từ những năm 60. Hầu hết các nghiên cứu về ảnh hưởng của Zeolite trong chăn nuôi đều khẳng định được tác dụng của Zeolite khi bổ sung vào khẩu phần thức ăn là giảm hàm lượng N-NH3 và mùi thối trong phân (Bernal và Lopez-real, 1993), giảm hàm lượng nguyên tố kim loại nặng độc hại và làm tăng các nguyên tố vi lượng trong các sản phẩm chăn nuôi như thịt, trứng, sữa và một chừng mực nào đó làm cải thiện tốc độ sinh trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn (Ward và cộng tác viên, 1991). Nước đầu tiên sử dụng Zeolite trong chăn nuôi là Nhật Bản, rồi các nước Liên Xô cũ, Hoa Kỳ. Những năm gần đây thì Trung Quốc sử dụng Zeolite tự nhiên rất phổ biến trong chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản.
Ngoài ra cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành chăn nuôi thì tình hình dịch bệnh cũng xảy ra đa dạng và phức tạp.
Xuất phát từ thực tế trên chúng tôi tiến hành đề tài.
“Thử nghiệm ảnh hưởng của Zeolite đến khả năng tăng trọng, tỷ lệ tiêu chảy của lợn con sau cai sữa, một số chỉ tiêu vệ sinh thú y của lợn con sau cai sữa và điều tra một số bệnh thường gặp tại trại lợn của công ty TNHH Thiên Phúc-Nghĩa Hưng-Nam Định ”.
1.2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
- Điều tra tình hình chăn nuôi và một số bệnh thường gặp trên đàn lợn nái và lợn con tại trại lợn công ty TNHH Thiên Phúc – Nghĩa Trung – Nghĩa Hưng – Nam Định.
- Bước đầu thử nghiệm chế phẩm Zeolite đến khả năng tăng trọng, tỷ lệ tiêu chảy, quá trình hô hấp của lợn con sau cai sữa và một số chỉ tiêu vệ sinh.
- Biết cách thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học. .
60 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2312 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thử nghiệm ảnh hưởng của Zeolite đến khả năng tăng trọng, tỷ lệ tiêu chảy của lợn con sau cai sữa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay do tiến bộ khoa học kỹ thuật, ngành chăn nuôi nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ, áp dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi nhằm nâng cao năng xuất, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, tiêu thụ trong nước, giúp nền kinh tế nước ta phát triển. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của ngành chăn nuôi thì bệnh tật ngày càng phát triển ngày càng mạnh, vấn đề ô nhiễm môi trường, vấn đề đảm bảo sức khỏe của của con người là một bài toán khó cần có câu trả lời. Do vậy vấn đề làm sao trong chăn nuôi vừa có năng xuất cao, vừa bảo vệ môi trường, vừa giảm thiểu bệnh tật và nâng cao chất lượng thịt... Được các nhà khoa học, người chăn nuôi tìm tòi và phát triển.
Zeolite là một loại khoáng tự nhiên có nguồn gốc từ núi lửa và có cấu trúc tinh thể dạng khung kiên kết. Từ năm 1956 nhà địa chất Cronstede người Thuỵ Điển phát hiện ra khoáng chất zeolite tự nhiên là loại khoáng muối acid Silic chứa kim loại kiềm và kiềm thổ. Hiện nay có trên 40 loại Zeolite tự nhiên, nhưng sử dụng chủ yếu trong chăn nuôi là loại có nguồn gốc từ núi lửa, có tia hổng, xốp, hình thành từ biến đổi nhiệt dịch đá núi lửa.
Trên Thế Giới việc nghiên cứu ứng dụng Zeolite trong các lĩnh vực như nông nghiệp, y học, bảo vệ môi trường, lọc hoá dầu, đặc biệt trong lĩnh vực chăn nuôi đã được tiến hành từ những năm 60. Hầu hết các nghiên cứu về ảnh hưởng của Zeolite trong chăn nuôi đều khẳng định được tác dụng của Zeolite khi bổ sung vào khẩu phần thức ăn là giảm hàm lượng N-NH3 và mùi thối trong phân (Bernal và Lopez-real, 1993), giảm hàm lượng nguyên tố kim loại nặng độc hại và làm tăng các nguyên tố vi lượng trong các sản phẩm chăn nuôi như thịt, trứng, sữa và một chừng mực nào đó làm cải thiện tốc độ sinh trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn (Ward và cộng tác viên, 1991). Nước đầu tiên sử dụng Zeolite trong chăn nuôi là Nhật Bản, rồi các nước Liên Xô cũ, Hoa Kỳ. Những năm gần đây thì Trung Quốc sử dụng Zeolite tự nhiên rất phổ biến trong chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản.
Ngoài ra cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành chăn nuôi thì tình hình dịch bệnh cũng xảy ra đa dạng và phức tạp.
Xuất phát từ thực tế trên chúng tôi tiến hành đề tài.
“Thử nghiệm ảnh hưởng của Zeolite đến khả năng tăng trọng, tỷ lệ tiêu chảy của lợn con sau cai sữa, một số chỉ tiêu vệ sinh thú y của lợn con sau cai sữa và điều tra một số bệnh thường gặp tại trại lợn của công ty TNHH Thiên Phúc-Nghĩa Hưng-Nam Định ”.
1.2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
- Điều tra tình hình chăn nuôi và một số bệnh thường gặp trên đàn lợn nái và lợn con tại trại lợn công ty TNHH Thiên Phúc – Nghĩa Trung – Nghĩa Hưng – Nam Định.
- Bước đầu thử nghiệm chế phẩm Zeolite đến khả năng tăng trọng, tỷ lệ tiêu chảy, quá trình hô hấp của lợn con sau cai sữa và một số chỉ tiêu vệ sinh.
- Biết cách thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học.
PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. MỘT SỐ HIỂU BIẾT VỀ CHẾ PHẨM KHOÁNG ZEOLITE
2.1.1. Khái niệm
Zeolit là các aluminosilicat tinh thể có cấu trúc không gian 3 chiều với hệ thống mao quản (pore) đồng đều và rất trật tự. Hệ thống mao quản này có kích thước cỡ phân tử cho phép phân chia (rây) phân tử theo hình dạng và kích thước. Vì vậy zeolit còn được gọi là rây phân tử.
2.1.2. Công thức hoá học
MxO.Al2O3.mSiO2.nH2O
M là kim loại kiềm (x = 2) hoặc kim loại kiềm thổ (x = 1)
2.1.3. Thành phần hoá học
Thành phần chủ yếu là Silicon Dioxide SiO2, Al2O3, nước và kim loại kiềm hoặc kim loại kiềm thổ. Zeolite hàm chứa SiO2 60 % trở lên (nhiều mỏ ở Trung Quốc đạt 73 %), hàm chứa hơn 20 loại nguyên tố vi lượng: Cu, Zn, Co, Ag, Vi, Ni, Se,Cr, Ba, Pb, As, Hg, Cd…
2.1.4. Phân loại
Phân loại Zeolite theo nhiều tiêu chí khác nhau:
Phân loại theo nguồn gốc: gồm Zeolite tự nhiên và Zeolite tổng hợp
Theo chiều hướng không gian của các kênh hình thành cấu trúc mao quản: gồm Zeolite có cấu trúc mao quản 1 chiều, 2 chiều, 3 chiều.
Theo tỉ lệ Si/Al: Zeolite hàm lượng Si thấp (Si/Al = 1 – 1.5: A, X), hàm lượng Si trung bình (Si/Al = 2 – 5: Zeolite Y, chabazit...), hàm lượng Si cao (ZSM - 5)
Zeolite ZSM - 5 Zeolite X
Theo điều kiện hình thành Zeolite được chia làm 2 loại: Zeolite tự nhiên và Zeolite tổng hợp.
Trong tự nhiên có khoảng 40 loại Zeolite. Zeolite tự nhiên không có độ tinh khiết cao nên việc ứng dụng chúng còn hạn chế, một số ít được dùng làm chất độn, chất trao đổi ion trong các chất tẩy rửa, làm chất hấp phụ, chất mang cho phân bón hoá học...Nếu yêu cầu hàm lượng lớn, độ tinh khiết không cao. Một số loại Zeolite tự nhiên là lerynit, chabazit, stibit, analcime...
Zeolite tổng hợp đã được nghiên cứu chế biến có cấu trúc giống với cấu trúc tự nhiên và cũng có nhiều cấu trúc không tồn tại trong tự nhiên. Zeolite tổng hợp có nhiều tính chất ưu việt hơn: Đồng nhất về thành phần, độ tinh khiết cao, độ bền cơ học cao... Được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong công nghiệp như các lĩnh vực hấp phụ, xúc tác, tách lọc các chất lỏng và khí...
Ngày nay có 200 loại Zeolite có cấu trúc khác nhau đã được tổng hợp. Nếu phân biệt theo thành phần thì có thể chia làm 4 nhóm:
Zeolite có hàm lượng Silic thấp (R ( 4)
Zeolite có hàm lượng Silic trung bình (4 ( R ( 20)
Zeolite có hàm lượng Silic cao (20 ( R ( 200)
Zeolite biến tính
Với: R = SiO2/Al2O3 và R ( = 2
Cách phân loại này rất phù hợp với mục đích nghiên cứu.
2.1.5. Cấu trúc
Zeolite được hình thành từ mạng lưới ba chiều của các tứ diện SiO4 liên kết trong không gian 3 chiều tạo thành các khối đa diện, trong đó một số nguyên tố Si được thay thế bằng nguyên tử Al tạo thành khối tứ diện AlO4
Do Si hoá trị 4 được thay thế bằng Al hoá trị 3 nên để trung hoà điện cần có sự kết hợp thêm với cation, thường là kim loại kiềm hoặc kiềm thổ.
Các tứ diện SiO4 và AlO4 kết hợp với nhau tạo thành đơn vị cấu trúc sơ cấp (SBU, secondary building unit).
Các SBU kết hợp với nhau tạo thành đơn vị cấu trúc tinh thể và hệ thồng mao quản khác nhau.
2.1.6. Đặc tính và tác dụng của Zeolite
Zeolite làm thức ăn bổ sung, tăng nhanh hiệu quả sinh trưởng phát triển của động vật; giảm giá thành thức ăn chăn nuôi, giảm tỉ lệ bệnh trong chăn nuôi, nâng cao chất lượng thịt, Zeolite có 4 đặc điểm sau:
Đặc tính vật lý: Có thể dung giải với những nguyên tố hữu ích, hấp phụ những nguyên tố có hại và ammonium, mùi hôi, đặc biệt có khả năng khống chế hoạt tính vi khuẩn có hại (khuẩn độc), bảo vệ sức khoẻ động vật, đồng thời cải thiện, làm sạch môi trường chăn nuôi và sử lý nước trong nuôi trồng thuỷ sản.
Về hoá tính: Có khả năng trao đổi và chọn lọc lớn, cũng như có vai trò chất xúc tác.
Có tác dụng với các nguyên tố vi lượng hữu ích như trong đường ruột tăng cường khả năng hấp phụ Ca... Và nhiều loại nguyên tố vi lượng hữu ích khác trong cơ thể động vật.
Có tác dụng tăng cường khả năng nghiền, ma sát trong dạ dày động vật, đặc biệt là đối với gia cầm. Làm giảm tốc độ di chuyển thức ăn trong đường ống dạ dày và đường ruột do đó tăng khả năng tiêu hoá trong dạ dày và đường ruột, từ đó tăng hiệu quả hấp phụ, sử dụng thức ăn.
2.1.7. Quy trình tổng hợp Zeolite
Quy trình tổng hợp Zeolite thông dụng:
Qui trình tổng hợp từ kaolin:
Kaolin trước khi tổng hợp được nung ở 400 – 650oC để chuyển thành dạng metakaolin:
2Al2Si2O5(OH)4 → 2Al2Si2O7 + 4H2O kaolin metakaolin
Về kaolin:
Kaolin là một loại khoáng sét. Nhóm Kaolin bao gồm kaolinit, dickit, nacrit. Khoáng kaolin là những nhôm silicat ngậm nước và có thành phần xấp xỉ 2H2O.Al2O3.2SiO2. Kaolinit là khoáng kaolin thông dụng nhất. Cấu trúc của kaolinit bao gồm một lớp tứ diện SiO4 và một lớp bát diện nhôm oxit kết hợp với nhau thành một lớp cơ sở của kaolin. Trong kaolinit, có sự hình thành liên kết hydrogen giữa các lớp đồng thời liên kết bên trong một lớp rất bền vững do vậy mạng tinh thể rắn chắc và ổn định, kích thước tinh thể tương đối lớn. Khả năng hấp phụ, độ trương nở, độ dẻo, độ co thấp, khả năng trao đổi cation khá yếu.
Như vậy cả kaolin và zeolite đều là những aluminosilicat tinh thể ngậm nước nhưng cấu trúc khác nhau. Vấn đề tổng hợp zeolite từ nguồn kaolin rẻ tiền là khả thi.
2.1.8. Các nghiên cứu và ứng dụng Zeolite trong nước.
Ở Việt Nam cũng đã có những công trình nghiên cứu về Zeolite trong thời gian vừa qua.
Việt Nam cũng có một số mỏ khoáng Zeolite tự nhiên trữ lượng lớn được các nhà địa chất phát hiện ở nhiều nơi như: Đèo Bảo Lộc, đèo Rù Rì, dọc duyên hải từ bắc Tuy Hoà đến nam Nha Trang, khu vực An Xuân – cao nguyên Vân Hoà. Đức Linh – Bình Thuận, Long Phước - Bà Rịa – Vũng Tàu... Với trữ lượng khác nhau từ 10 – 75%, trữ lượng và chất lượng chưa được đánh giá kỹ lưỡng (Đỗ Đình Toát, Phạm Văn An, 1995; Lê Thị Nghinh, Petrova, 1996; Trần Kim Phượng, 2000)
Đặc biệt trong thời gian vừa qua TS Tạ Ngọc Đôn cùng GS.TSKH Hoàng Trọng Yêm đã nghiên cứu thành công việc biến đất sét thành Zeolite bằng phương pháp không nung, phương pháp này không chỉ mới ở Việt Nam mà với cả Thế giới. Ngày 30/9/1999 nhóm tác giả đã làm được Zeolite từ khoáng sét mà không cần dùng phương pháp nung ở nhiệt độ cao.
Đề tài "Chuyển hóa vật liệu Zeolit từ khoáng sét thiên nhiên Việt Nam" của nhóm nghiên cứu Đại học Bách khoa, Hà Nội, đã làm nên một bước đột phá với sáu ứng dụng ban đầu, mở ra nhiều hướng đi mới cho phát triển kinh tế và cải tạo môi trường. Những ứng dụng của vật liệu Zeolite chuyển hoá từ khoáng sét.
1. Trong nuôi trồng thủy sản: Làm sạch hồ nuôi. Đã xây dựng các nhà máy ở Quảng Bình,Cần Thơ, Phú Yên.
2. Trong nông nghiệp: Cải tạo đất. Đã thử nghiệm trên vụ lúa hè - thu 2005 tại Thanh Hoá làm lợi khoảng 600 nghìn đồng/ha.
3. Trong chăn nuôi: Tăng sản lượng và chất lượng vật nuôi. Đang thử nghiệm quy mô chính quy.
4. Trong chế tạo nhiên liệu sạch: Tạo ra ethanol có nồng độ trên 99,5% từ cồn có nồng độ thấp.
5. Trong bảo vệ môi trường: Xử lý nước và không khí ô nhiễm. 6. Trong lọc - hóa dầu: Chất hấp phụ và chất xúc tác chuyển hóa hóa học.
Ở Việt Nam việc ứng dụng Zeolite chủ yếu được ứng dụng trong ngành lọc hoá dầu, ngành nuôi trồng thuỷ sản, bảo vệ môi trường, trồng trọt, bước đầu ứng dụng trong chăn nuôi.
Đề tài "Nghiên cứu ứng dụng cột hấp phụ bằng Zeolite vào xử lý nước sinh hoạt nông thôn bị nhiễm bẩn amôni" do sinh viên Đinh Đức Anh và Nguyễn Thị Thanh Huyền lớp Môi trường 48, Khoa Đất môi trường Trường Đại học Nông nghiệp I. Kết quả thu được rất khả quan, mẫu nước thu được cuối cùng có hàm lượng NH4+ còn lại là 2.25mg/l thấp hơn tiêu chuẩn cho nước sinh hoạt Việt Nam (3mg/l – TCVN 5502:2003). Tính khả thi của mô hình này còn ở chỗ cột hấp phụ này thiết kế đơn giản, khoáng dễ kiếm.
Đề tài “Nghiên cứu và chọn lọc các nguồn kaolinite trong nước để tổng hợp vật liệu chứa zeolite, đồng thời xây dựng qui trình công nghệ bảo vệ môi trường thủy sản ở VN” do các sinh viên Nguyễn Khánh Diệu Hồng, Phạm Minh Hảo, Nguyễn Xuân Phi sinh viên khoa Công nghệ hóa học Trường ĐH Bách khoa Hà Nội. Đây là đề tài có tính kế thừa từ những nghiên cứu của TS Tạ Ngọc Đôn và GS.TSKH Hoàng Trọng Yêm.
Zeolite còn được sử dụng để tách các ion kim loại nặng, amoni, các hợp chất hữu cơ độc hại trong nước thải và nước sinh hoạt. Sản phẩm đã được thử nghiệm để làm sạch nước Hồ Văn và cho kết quả tốt. Ngoài ra, đây cũng là vật liệu dùng trong chế tạo cồn tuyệt đối (do tính chất tách nước chọn lọc của zeolite), lọc hoá dầu (do tính chất hấp phụ và xúc tác), hoá dược và hoá chất bảo vệ thực vật.
Trong nuôi tôm cá thâm canh, Zeolite được sử dụng nhằm mục đích làm giảm TAN (NH3 và NH4+) trong môi trường. Kết quả cho thấy Zeolite có tác dụng hấp thụ TAN tốt nhất trong môi trường nước ngọt, 1 g Zeolite có khả năng làm giảm 0,12 mg TAN. Độ mặn càng cao tác dụng hấp thụ TAN của Zeolite càng giảm. Zeolite có tác dụng làm tăng hàm lượng Oxy hoà tan. Sau 12 giờ xử lí, Zeolite không còn khả năng hầp thụ TAN [Luận văn cao học của Nguyễn Lê Hoàng Yến, Lớp Cao học Nuôi trồng Thủy Sản khoá 9, Trường Đại Học Cần Thơ].
Trung tâm công nghệ lọc hoá dầu đã nghiên cứu thành công hai loại phân nhả chậm trên cơ sở Zeolite:
- Phân Urê nhả chậm
Lượng Urê bón trực tiếp xuống đồng ruộng thường bị rửa trôi khoảng 40% còn cây trồng chỉ hấp thụ tối đa 60%. Họ đã tiến hành cho Urê hấp phụ vào trong khoang của Zeolite . Dưới tác dụng của môi trường bên ngoài Urê sẽ từ từ giải hấp. Điều này sẽ giúp cho cây trồng hấp thụ được Urê tránh được sự rửa trôi nhiều Urê như cách bón phân cổ điển. Ngoài ra các nguyên tố vi lượng cũng cần thiết cho cây trồng. Loại phân bón chứa Zeolite đã được ứng dụng trong vụ lúa hè thu 2005 trên 3.000m2 tại 3 huyện của tỉnh Thanh Hoá. Kết quả cho thấy loại phân này giúp làm lợi 300 - 600 nghìn đồng/ha so với đối chứng.
Các nhà khoa học của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã nghiên cứu thành công quy trình chế tạo các chất tạo phức có tên thương mại là BK-DO015 và BK-DO017 từ cao lanh. Đây là những loại hợp chất đáp ứng tốt cho việc kết tinh tạo ra các hỗn hợp Zeolit X, Y trong dung dịch. Trộn hai thành phần zeolit X, Y và đất sét (được khai thác tại huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang) vào hợp phần thức ăn chăn nuôi và phân bón sẽ tạo thành các sản phẩm BK-ZCR2, BK-ZAF2a, BK-ZAF3 sử dụng trong chăn nuôi lợn thịt và trồng các cây lúa, lạc mang lại hiệu quả kinh tế cao. Qua thử nghiệm trong chăn nuôi lợn thịt quy mô trang trại ở huyện Lạng Giang và trồng lúa, lạc tại huyện Hiệp Hòa từ năm 2007 đến nay cho thấy lạc vụ xuân thu lãi tăng thêm trên 2,6 triệu đồng/ha, lạc vụ đông thu lãi trên 1,3 triệu đồng/ha, năng suất thực thu tăng từ 4 - 6%; lúa xuân thu lãi tăng thêm trên 4,7 triệu đồng/ha, lúa mùa tăng thêm trên 1,4 triệu đồng/ha, năng suất tăng khoảng 2,6% so với khi chưa sử dụng sản phẩm công nghệ trên. Đối với lợn thịt, sử dụng BK-ZCR2 như một chất phụ gia trong thức ăn đã làm tăng thêm lợi nhuận từ trên 100.000 đồng đến hơn 330.000 đồng/đầu lợn, tiết kiệm được khoảng 4% tổng lượng thức ăn và điều quan trọng nhất là chất lượng thịt lợn tốt hơn, sạch hơn, an toàn hơn. Thời gian tới tỉnh Bắc Giang dự kiến sẽ ứng dụng rộng rãi công nghệ này trong chăn nuôi, trồng trọt bằng việc quy hoạch vùng nguyên liệu khoáng sét tại chỗ và xây dựng các dây chuyền sản xuất zeolit và các chất phụ gia chứa zeolit đạt công suất khoảng 3.000 tấn/năm.(Theo tin tức/Việt Nam)
Trong chăn nuôi cũng đã có những nghiên cứu về tác dụng của Zeolite đối với vật nuôi. Đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của Zeolite trong khẩu phần thức ăn đến năng xuất sinh trưởng, chất lượng thịt và một số chỉ tiêu sinh lý sinh hoá máu của lợn nuôi thịt trong điều kiện thức ăn và nuôi dưỡng ở Việt Nam” của các tác giả Trần Quốc Việt, Trịnh Vinh Hiển, Ninh Thị Len và Hoàng Hương Giang ở Bộ môn Nghiên cứu Dinh dưỡng và Thức ăn Chăn nuôi. Kết quả cho thấy bổ sung Zeolite trong khẩu phần không có premix khoáng vô cơ cho lợn thịt lai F2 ở mức 3 – 5 % không làm ảnh hưởng đến khả năng thu nhận thức ăn, tốc độ sinh trưởng, hiệu quả sử dụng thức ăn, các chỉ tiêu sinh hoá máu, làm giảm hàm lượng tồn dư một số kim loại nặng trong thịt nạc. Mức sử dụng 3% cho hiệu quả cao nhất.
Theo ông Lê Bá Lịch - Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Việt Nam thì Zeolite vừa dùng làm thức ăn bổ sung khoáng vi lượng nuôi dưỡng gia súc, gia cầm, nuôi trồng thuỷ sản, vừa làm chất độn chuồng nuôi gia cầm , gia súc, nó hút mùi hôi thối, diệt khuẩn, vừa làm chất lọc nước, sạch môi trường nuôi trồng thuỷ sản (Đặc san khoa học kỹ thuật thức ăn chăn nuôi - số 4/2004).
2.1.9. Các nghiên cứu và ứng dụng Zeolite trên Thế giới
Từ năm 1956 Nhà địa chất Cronstede người Thuỵ Điển phát hiện ra khoáng chất Zeolite. Hiện nay trên Thế giới có hơn 40 loại Zeolite thiên nhiên. Nước đầu tiên sử dụng Zeolite trong chăn nuôi là Nhật Bản, rồi đến các nước Liên Xô cũ, Hoa Kỳ, những năm gần đây Trung Quốc sử dụng Zeolite tự nhiên rất phổ biến trong chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản.
Năm 1982 Gevorkyan và cộng tác viên đã đưa ra khuyến cáo nên bổ sung 3% Zeolite vào khẩu phần ăn. Năm 1984 Shurson và cộng tác viên đã đưa ra khuyến cáo bổ sung 5% Zeolite vào khẩu phần lợn sinh trưởng.
Năm 1991 Ward và cộng và cộng tác viên đã nghiên cứu và đưa ra kết luận khi bổ sung Zeolite đã làm giảm hàm lượng các nguyên tố kim loại độc hại và làm tăng các nguyên tố vi lượng trong các sản phẩm chăn nuôi như thịt, trứng, sữa và một chừng mực nào đó làm cải thiện tốc độ sinh trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn.
Năm 1993 Bernal và Lopez-real đã nghiên cứu và khẳng định khi bổ sung Zeolite vào khẩu phần ăn đã làm giảm hàm lượng N-NH3 và mùi thối trong phân.
Theo IM, 12/2004 thì quặng zeolit thương mại ở Mỹ chứa 60 - 80% clipnotilolit (năng lực trao đổi cation, (CEC) là 1,0 - 1,6 mili đương lượng/ g) và có diện tích bề mặt từ 15 đến 60m2/gam.
Zeolit tự nhiên chủ yếu được dùng để cung cấp thức ăn bổ sung cho gia súc, làm ổ cho súc vật, sử dụng trong thiết bị lọc nước, cải tạo đất và sản xuất nhiều loại sản phẩm hút ẩm. Công ty Teague Mineral ở phía Nam Oregon còn khai thác zeolite với diện tích bề mặt cao và hàm lượng kali cao dùng làm phụ gia thủy lực cho xi măng. Ưu điểm chính của chất phụ gia này là làm giảm lượng xi măng sử dụng và tăng độ rắn chắc của xi măng. Một ứng dụng quan trọng của khoáng chất zeolit này là kiểm soát mùi.
* Ứng dụng trong thức ăn bổ sung cho gia súc
Ở Mỹ, người ta bổ sung khoảng 1/2 pao zeolit mịn cho một tấn thức ăn gia súc hoặc 2 aoxơ/ đầu vật/ ngày. Zeolit được bổ sung vào thức ăn để làm phụ gia thực phẩm theo quy định liên bang.
Các nghiên cứu trong 30 năm gần đây cho thấy, Zeolit có thể giúp điều tiết hoạt động của dạ dày ở bò sữa và bò thịt, tác động như chất liên kết các chất độc để vô hiệu hóa những tác động xấu của thức ăn mốc, cải thiện mức tăng trọng trung bình hàng ngày cho lợn sữa và gia cầm. Zeoltit có thể cải thiện chất lượng trứng và tuổi thọ của gà đẻ trứng, cải thiện môi trường bằng cách giảm mùi hôi, giảm sự thất thoát nitơ và tăng tỷ lệ đạm/lân trong phân bón.
Hiện tại, các cơ quan Chính phủ Mỹ chưa chấp nhận những tuyên bố về ích lợi của zeolit trong thức ăn gia súc. Tuy nhiên, nhiều nhà sản xuất và các nhà nghiên cứu về dinh dưỡng đã chỉ ra các nghiên cứu lớn cho thấy các lợi ích khác nhau từ liên kết chất độc đến kiểm soát mùi vị.
Theo kết quả điều tra ở Mỹ, ít nhất zeolit cũng phải có mặt trong khẩu phần thức ăn của vài trăm nghìn bò sữa và bò thịt. 1 - 2% nguyên liệu khô nguyên chất trong khẩu phần ăn được dùng để kiểm soát mùi vị và ô nhiễm môi trường khi nuôi động vật trong chuồng trại. Nếu chứng minh được đồng thời lợi ích về môi trường và hiệu quả chăn nuôi của Zeolit trong thức ăn, thì có thể dự báo sự tăng trưởng mạnh mẽ trong sản xuất và kinh doanh zeolit vài năm tới.
Ngoài ra họ còn ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác như: Ứng dụng trong lọc nước, ứng dụng trong cải tạo đất….
2.2. MỘT SỐ ĐẶC TÍNH SINH LÝ Ở LỢN CON
Ở lợn con, do cấu tạo cũng như chức năng của các cơ quan, bộ phận cơ thể chưa hoàn chỉnh. Do đó môi trường ngoại cảnh có ảnh hưởng rất lớn đến cơ thể vật nuôi và vật nuôi chịu tác động mạnh mẽ của điều kiện ngoại cảnh và cùng với các vi sinh vật có trong đường ruột như E.coli, Salmonella, protozoa, Rotavius,… Nhân cơ hội này đã nhân lên mạnh trong ruột của lợn con. Vì vậy, làm mất sự cân bằng giữa vi sinh vật có lợi và vi sinh vật có hại, khi sức đề kháng của con vật giảm, tạo điều kiện cho vi sinh vật có hại phát triển mạnh mẽ để gây bệnh. Tuy nhiên tự bản thân nó không gây ra được bệnh, chỉ khi môi trường thay đổi là các vi sinh vật có hại ở đường ruột nhân cơ hội này phát triển làm con vật ỉa chảy mạnh. Các yếu tố liên quan gián tiếp là khí hậu, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng, khẩu phần thức ăn thay đổi đột ngột làm mất đi sự cân bằng trong cơ thể, quá trình tiêu hoá bị rối loạn dẫn đến quá trình loạn khuẩn trong đường ruột. Đây là môi trường thuận lợi cho vi khuẩn có hại phát triển mạnh cả về số lượng và độc lực gây bệnh.
2.2.1. Đặc điểm tiêu hoá của lợn con
Cơ quan tiêu hoá của lợn con phát triển rất nhanh nhưng chưa hoàn thiện. Phát triển nhanh thể hiện sự tăng lên về dung tích dạ dày, ruột non và ruột già. Nhưng cơ quan tiêu hoá của lợn con chưa được hoàn thiện là do một số men tiêu hoá thức ăn chưa có hoạt tính mạnh, nhất là ở 3 tuần tuổi đầu.
Lúc đầu ở dạ dày nồng độ ion H+ rất thấp, thậm chí không có, khả năng diệt trùng rất thấp, sau một tháng HCl bắt đầu tiết ra sau một thời gian bú sữa làm nồng độ HCl bắt đầu tăng lên. Các tuyến tiêu hoá dần dần được phát triển và khả năng tiêu hoá tốt hơn.
Nhìn chung bộ máy tiêu hoá của lợn con biến đổi theo tuổi, còn ở giai đoạn lợn con theo mẹ độ pH rất thấp ở dạ dày (Trần Cừ 1972)
2 tuần tuổi: pH= 2,82
9 tuần tuổi: pH= 4,96
Theo Đào Trọng Đạt, Lê Ngọc Mỹ, Phan Thanh Phương, Huỳnh Văn Kháng (1996), lợn con trên 14 - 16 ngày tuổi tình trạng thiếu axit HCl tự do trong dạ dày không còn là sự cần thiết cho sinh lý bình thường nữa. Do đó việc tập cho lợn con ăn sớm, đặc biệt là việc cai sữa sớm đã rút ngắn được giai đoạn thiếu HCl, hoạt hoá hoạt động miễn dịch, tạo khả năng xây dựng nhanh chóng các đáp ứng miễn dịch của cơ thể.
2.2.2. Đặc điểm thích nghi của lợn con
Lợn con theo mẹ có những điểm yếu khiến lợn con thích ứng kém với môi trường: hệ thống enzym tiêu hoá chưa hoàn chỉnh, hệ thống miễn dịch chưa phát triển, điều hoà thân nhiệt kém, dự trữ năng lượng cơ thể rất ít, thiếu sắt.
* Hệ thống enzyme tiêu hoá chưa hoàn chỉnh
Ở lợn 15 - 21 ngày hệ thống enzyme chỉ thích ứng cho tiêu hoá sữa (chimozin, chimotripsin cho tiêu hoá protein sữa, lipaza cho lipid và lactaza cho lactoz). Bắt đầu từ 3 tuần, hoạt tính enzyme tiêu hoá. Vì vậy, việc cho lợn con tập ăn sớm sẽ kích thích sự phát triển đầy đủ các loại enzyme tiêu hoá
* Hệ thống miễn dịch chưa phát triển
Lợn con sơ sinh nhận từ sữa đầu một lượng kháng thể đặc hiệu (IgG) có hiệu quả trong 10 ngày đầu. Nhưng sự hấp thụ Immuglobulin của sữa đầu cũng giảm nhanh trong vòng 24 giờ sau khi sinh.
Do đó tất cả các tác nhân, yếu tố hạn chế bú sữa đầu đều làm tăng tỷ lệ nhiễm bệnh, tỷ lệ tử vong sau khi sinh. Miễn dịch chủ động được thực hiện bắt đầu từ 3 tuần tuổi.
* Điều hoà thân nhiệt kém
Hệ thống thần kinh ở lợn con chưa phát triển, chưa có các phản xạ có điều kiện, khả năng điều tiết nhiệt ở đại não và các trung khu vỏ não là rất kém. Thân nhiệt ở gia súc non thường cao hơn ở gia súc trưởng thành và hay biến động. Khả năng giữ nhiệt ở da kém, thường thay đổi theo ngoại cảnh và khó thích nghi với điều kiện môi trường cho nên rất dễ bị cảm lạnh về mùa đông. Thân nhiệt ở lợn con dao động từ 39,5 - 40,5OC thường cao, còn ở lợn trưởng thành ổn định ở mức trung bình 38 - 40 OC.
* Dự trữ năng lượng cơ thể rất ít
Khi mới sinh, cơ thể lợn con chứa 80% nước và 20% chỉ có lipid, còn ở 3 tuần có 65% là nước và 12% là lipid. Ngoài chất dự trữ cơ thể là lipid còn có glycogen. Tổng năng lượng dự trữ (lipid + glycogen) khoảng 1000 - 1200 Kcal, chỉ tương đương với 1 lít sữa, năng lượng này chỉ đủ cho lợn con sống khoảng 2 ngày. Do đó đòi hỏi phải đảm bảo cho lợn con bú sữa sớm và giữ ấm. Vì năng lượng và các chất dinh dưỡng thu được đều được sử dụng vào việc cấu tạo cơ thể. Có thể nói con vật giai đoạn này rất dễ bị mắc bệnh.
*Thiếu sắt
Thiếu sắt dẫn tới thiếu máu do thiếu hàm lượng Hb (Hemoglobin) dẫn tới hạn chế khả năng sản sinh kháng thể.
Hàm lượng huyết sắc tố trong máu của các loài gia súc khác nhau là khác nhau, và ngay trong cùng một giống thì hàm lượng cũng dao động lớn. Ngoài ra gia súc ở độ tuổi khác nhau thì số lượng hemoglobin cũng thay đổi.
Qua nghiên cứu thấy số lượng hồng cầu và hàm lượng Hemoglobin (Hb) thấp ở lợn sơ sinh, sau đó tăng ở lợn 1 - 2 tháng tuổi, rồi lại giảm dần và ổn định ở lứa tuổi trưởng thành (Trần Cừ, Cù Xuân Dần 1979). Trong điều kiện nóng ẩm thì hàm lượng Hemoglobin (Hb) cũng tăng lên điều đó liên quan đến sự phân bố máu và tác dụng kích thích của nhiệt độ, ánh sáng mặt trời đến cơ quan tạo máu. Hàm lượng hemoglobin còn phụ thuộc vào chế độ dinh dưỡng và tình trạng sức khoẻ.
Dự trữ sắt lúc mới sinh rất ít (60 - 70 mg ở gan), trong khi đó nhu cầu của cơ thể lợn tới 6 - 7 mg/ngày, mà lượng sắt ở sữa chỉ có 1mg/con/ngày. Điều đó cho thấy lợn con thiếu sắt, nhất là sau khi cai sữa. Do vậy việc bổ sung sắt là việc làm rất cần thiết trong chăn nuôi lợn nhằm tăng trọng nhanh, hạn chế bệnh lợn con ỉa phân trắng.
2.2.3. Hệ vi sinh vật đường ruột của lợn
* Nhóm vi khuẩn định cư vĩnh viễn bao gồm: Eshcherichia coli, Salmonella, Shigella, Klebsiella, Proteus,… trong đó chủ yếu là nhóm vi khuẩn đường ruột “Enterobacteriaceae”.
Enterobacteriaceae: là một họ vi khuẩn bao gồm các trực khuẩn Gram âm, sống trong đường tiêu hoá của người và gia súc, tồn tại trong phân rác, trong đất và thực vật. Enterobacteriaceae đại diện có: E.coli, Samonella, Shigella, Klebsiella, Proteus.
Escherichia (E.coli): vi khuẩn luôn tồn tại trong đường tiêu hoá của người và gia súc, gia cầm. Đây là loại vi khuẩn phổ biến có mặt ở mọi nơi. Khi có điều kiện thuận lợi thì trong cơ thể các chủng E.coli trở lên cường độc gây bệnh cho gia súc, gia cầm.
Cấu trúc kháng nguyên của E.coli rất phức tạp, có đủ ba loại kháng nguyên. Dựa vào cấu trúc kháng nguyên người ta xác định được 170 kháng nguyên: 80 kháng nguyên K, 56 kháng nguyên H và một số quyết định kháng nguyên F.
Bệnh lợn con ỉa phân trắng do serotype O78, K88 gây ra ở lợn con thường làm chết lợn ở 1 tuần tuổi và 2 tuần tuổi, do E.coli vào trong cơ thể gây tiêu chảy và bại huyết.
- Salmonella (Sal)
Ở điều kiện bình thường Salmonella không gây bệnh mà có vai trò góp phần giữ cân bằng hệ vi sinh vật đường tiêu hoá. Khi sức đề kháng của cơ thể bị giảm sút, vi khuẩn xâm nhập vào một số cơ quan nội tạng và gây bệnh.
Cấu tạo kháng nguyên của Salmonella hết sức phức tạp bao gồm 3 loại: kháng nguyên O, kháng nguyên H, kháng nguyên K.
Salmonella có hai loại độc tố: nội độc tố và ngoại độc tố.Trong đó nội độc tố là độc tố nguy hiểm, gây độc thần kinh, hôn mê, co giật, gây phù nề mảng payer và hoại tử ruột.
- Klebsiella: là vi khuẩn không di động, không hình thành nha bào, thường sinh giáp mô và sản sinh niêm dịch. Vi khuẩn Klebsiella có ba loại kháng nguyên: kháng nguyên K, kháng nguyên O dạng S, kháng nguyên O dạng R.
- Proteus: thường ký sinh trong đường ruột, bình thường với số lượng ít không gây bệnh. Nhưng khi có các yếu tố bất lợi tác động vào cơ thể làm cho sức đề kháng của cơ thể giảm thì vi khuẩn trỗi dậy gây bệnh và gây tổn thương tại nơi cư trú.
- Shigella: không có khả năng di động, cư trú tại ruột già, là một trong những tác nhân gây nên viêm dạ dày - ruột.
2.2.4. Đặc điểm về khả năng miễn dịch của lợn con
Lợn con mới sinh ra trong máu hầu như không có kháng thể. Lượng kháng thể tăng nhanh sau khi lợn con bú sữa đầu. Vì thế khả năng miễn dịch của lợn con là hoàn toàn thụ động, phụ thuộc vào lượng kháng thể thu được nhiều hay ít từ sữa mẹ.
Trong sữa đầu của lợn nái, hàm lượng protein rất cao. Những ngày đầu mới đẻ hàm lượng protein chiếm tới 18 - 19%, trong đó hàm lượng γ-globulin chiếm số lượng khá lớn (34 - 35%) có tác dụng tạo sức đề kháng cho nên sữa đầu có vai trò quan trọng đối với khả năng miễn dịch của lợn con. Quá trình hấp thu nguyên vẹn γ-globulin giảm đi rất nhanh theo thời gian.
Nếu lợn con không được bú sữa đầu thì từ 20 - 25 ngày tuổi lợn con mới có khả năng tự tổng hợp kháng thể. Do đó nếu lợn con không được bú sữa đầu sớm thì khả năng mắc bệnh rất cao. Đây là điều rất quan trọng, đòi hỏi người chăn nuôi cần phải biết, hiểu rõ để có phương pháp chăn nuôi tốt, nhất là chăn nuôi lợn nái sinh sản. (Võ Trọng Hốt, Trần Đình Miên, Võ Văn Sự, Vũ Đình Tôn (2000).
2.3. HIỂU BIẾT VỀ HỘI CHỨNG TIÊU CHẢY
* Nguyên nhân gây bệnh
Tiêu chảy là một biểu hiện lâm sàng của quá trình bệnh lý đặc thù ở đường tiêu hoá. Biểu hiện lâm sàng thể hiện tuỳ theo đặc điểm, tính chất, diễn biến, tuỳ theo độ tuổi mắc bệnh.
Bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi của lợn, từ sơ sinh cho đến độ tuổi sinh sản nhưng trầm trọng nhất là ở lợn sơ sinh đến cai sữa [Hoàng Văn Tuấn, Lê Văn Tạo, Trần thị Hạnh (1998) ].
Sử An Ninh (1993), [Lê Văn Tạo và cộng sự (1993)], [Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng], [Nguyễn Thị Khanh, Nguyễn Thị Vân (1997) ], cho biết ở nước ta bệnh tiêu chảy xảy ra quanh năm, đặc biệt là vào vụ Đông Xuân, khi thời tiết thay đổi đột ngột và vào những giai đoạn chuyển mùa trong năm.
Thực chất tiêu chảy là một hội chứng bệnh lý liên quan đến nhiều yếu tố là nguyên nhân nguyên phát, có yếu tố là nguyên nhân thứ phát. Việc phân biệt rạch ròi nguyên nhân gây tiêu chảy là vấn đề không đơn giản và nó chỉ mang tính chất tương đối, nhằm mục đích xác định nguyên nhân nào là chính, xuất hiện trước, nguyên nhân nào là kế phát, xuất hiện sau để có biện pháp phòng trị hữu hiệu nhất [Nguyễn Bá Hiên (2001)].
Nghiên cứu về hội chứng tiêu chảy nhiều tác giả cho thấy dù bất cứ nguyên nhân nào dẫn đến tiêu chảy thì hậu quả của nó bao giờ cũng gây nên viêm nhiễm, tổn thương thực thể đường tiêu hoá và cuối cùng là một "quá trình nhiễm trùng" là vai trò tác động của vi sinh vật [Đào Trọng Đạt, (1996)], [Hồ Văn Nam, Nguyễn Thị Đào Nguyên, Trương Quang, Chu Đức Thắng, Phạm Ngọc Thạch, (1997) ].
* Do vi khuẩn
Vi sinh vật trong đường ruột tồn tại dưới dạng một hệ sinh thái, bình thường thì hệ sinh thái này ở trạng thái cân bằng và có lợi cho cơ thể vật chủ. Dưới tác động của yếu tố gây bệnh, làm cho trạng thái cân bằng của vi sinh vật đường ruột bị phá vỡ, dẫn đến tình trạng loạn khuẩn đường ruột và hậu quả là con vật bị tiêu chảy.
Theo Cù Xuân Dần (1996) cho biết: Khi sức đề kháng của cơ thể bị giảm sút, vi khuẩn gây thối là nguồn gây bệnh đường ruột. Vi khuẩn gây thối hoạt động, phân giải các chất đường ruột sinh ra CO2, H2S, NH3, CH4... hợp chất phenol, indol, scatol... làm biểu mô niêm mạc đường tiêu hoá bị tổn thương, tạo điều kiện cho vi sinh vật xâm nhập và gây bệnh.
Nguyễn Thị Nội (1985), đã xác định được các tác nhân gây tiêu chảy cho lợn ngoài E.coli còn có nhiều loại vi khuẩn khác tham gia như: E.coli, Streptococccus, Klebsiella, Proteus, Pseudomonas...Trong đó chủ yếu là E.coli độc, Salmonella và Streptococ.
Hoàng Văn Tuấn, Lê Văn Tạo, Trần Thị Hạnh (1998), còn phát hiện thêm vai trò của Clostridium perfringens trong hội chứng tiêu chảy của lợn.
+ E.coli
Vi khuẩn E.coli được Escherich phân lập năm 1985 từ phân trẻ em. E.coli luôn có sẵn trong đường ruột của động vật, nhưng chỉ gây bệnh khi sức đề kháng của động vật bị giảm sút do chăm sóc nuôi dưỡng kém, cảm lạnh, cảm nóng...
E.coli là một vi khuẩn chiếm nhiều nhất trong số các vi khuẩn hiếu khí sống trong đường tiêu hoá động vật.
Đào Trọng Đạt và cộng sự (1996), nghiên cứu bệnh lợn con phân trắng cho biết, khi sức đề kháng của cơ thể giảm sút, E.coli thường xuyên cư trú trong đường ruột của lợn thừa cơ sinh sản rất nhanh và gây nên sự mất cân bằng hệ vi khuẩn đường ruột.
* Sức đề kháng: E.coli bị diệt ở 550C trong vòng 1h, ở 600C trong thời gian 15 - 30 phút, đun sôi 1000C chết ngay. Các chất sát trùng thông thường như axit phenic, biclorua thuỷ ngân, Fomol, hydropexyt 1‰ có thể diệt vi khuẩn trong 5 phút. Tuy nhiên, ở môi trường bên ngoài, các chủng E.coli độc có thể tồn tại đến 4 tháng.
* Các yếu tố gây bệnh của E.coli
- Khả năng bám dính: Đây là yếu tố gây bệnh quan trọng, thực hiện bước đầu tiên của quá trình gây bệnh. Quá trình bám dính thực hiện nhờ một hay nhiều yếu tố bám dính, các yếu tố bám dính quan trọng là F4 (K88), F5 (K99), F6 (987p) và F41.
- Khả năng xâm nhập: Chính là quá trình mà chúng vượt qua hàng rào bảo vệ của lớp mucosa trên bề mặt niêm mạc ruột để xâm nhập vào tế bào epitel, sinh sản và phát triển trong đó, tránh được các đại thực bào của lớp hạ niêm mạc.
- Khả năng dung huyết: Một số chủng E.coli có khả năng sản sinh ra men haemolysin có tác dụng dung giải hồng cầu. Khả năng gây dung huyết là yếu tố độc lực quan trọng của vi khuẩn E.coli gây bệnh đường tiết niệu và E.coli phân lập từ cơ quan cảm nhiễm ngoài đường ruột thường có khả năng gây dung huyết cao hơn E.coli phân lập từ phân (49% so với 8 - 18%). Có 4 kiểu dung huyết nhưng quan trọng nhất là hai kiểu ( và (.
- Yếu tố kháng khuẩn (Colicin V): Để tạo thuận lợi cho quá trình phát triển của mình và trở thành vi khuẩn chiếm ưu thế trong đường ruột, E.coli thường sản sinh ra một loại chất kháng khuẩn có khả năng ức chế và tiêu diệt các loại vi khuẩn khác, đó là Colicin V. E.coli sản sinh Colicin V thông qua plasmid col. Colicin V được coi là bacteriocin, có tác dụng độc đối với các loại vi khuẩn thuộc họ Enterobacteriacae.
Có khoảng 40% các chủng E.coli của người và động vật có đặc tính sản sinh Colicingenic hay còn gọi là các E.coli col. Hầu hết các chủng E.coli gây bệnh đều chứa các gen mã hoá cho Colicin V nằm trên plasmid.
- Độc tố đường ruột: Vi khuẩn E.coli có khả năng sản sinh ra độc tố đường ruột. Độc tố này gồm độc tố chịu nhiệt và độc tố không chịu nhiệt.
+ Độc tố chịu nhiệt ST(Stabile toxin): Độc tố ST chịu nhiệt, chịu được nhiệt độ 1210C/5 phút, dựa vào đặc tính hoà tan trong Methanol và hoạt tính sinh học chia độc tố ST thành 2 nhóm là STa vá STb. Trong đó STa là một protein không có tính kháng nguyên, STb là một protein có tính kháng nguyên yếu.
+ Độc tố chịu nhiệt LT(Labile toxin): Độc tố này bị vô hoạt ở nhiệt độ 600C/5 phút. Độc tố LT có phân tử lượng lớn, có hai tiểu phần A và B. Trong đó tiểu phần B có 5 phần nhỏ, tiểu phần này có khả năng gắn với thụ thể của tế bào biểu mô ruột. Tiểu phần A mới mang hoạt tính sinh học. Tiểu phần A và B được tổng hợp trong tế bào, di chuyển đến gần màng tế bào vi khuẩn, chúng kết hợp với nhau để tạo thành độc tố hoàn chỉnh và được tiết ra bên ngoài.
Khi tác động vào tế bào, tiểu phần B sẽ gắn vào Receptor của tế bào biểu mô ruột, tiểu phần A sẽ hoạt hoá enzym Adenylate Cyclaza để chuyển ATP thành cAMP tăng cao sẽ gây hiện tượng tăng bài xuất nước và các chất điện giải từ mô bào vào xoang ruột, cản trở sự hấp thu nước từ xoang ruột vào mô bào, làm cho nước trong xoang ruột tăng cao và từ đó gây ỉa chảy.
- Tính kháng kháng sinh của E.coli: [Phạm Khắc Hiếu, Bùi Thị Tho và cộng sự (1996)], nghiên cứu tính mẫn cảm và tính kháng thuốc của E.coli phân lập được từ lợn mắc bệnh phân trắng lợn con đã kết luận có 40% đa kháng với 5 loại thuốc, 10% đa kháng với 4 loại và 6% đa kháng với 3 loại.
Theo Phạm Khắc Hiếu, Bùi Thị Tho và cộng sự (1996), khi sử dụng kháng sinh hay hoá trị liệu điều trị bệnh E.coli trong một thời gian dài thì vi khuẩn sẽ có tính kháng thuốc, có thể là đa kháng hay đơn kháng, tính kháng thuốc của E.coli ngày càng tăng.
Bùi Thị Tho (2003), cho biết việc sử dụng thuốc trong điều trị ở các địa phương khác nhau nên dẫn đến tính kháng thuốc ở các địa phương này cũng rất khác nhau. Vì vậy, để có kết quả cao trong điều trị bệnh, cần phải làm kháng sinh đồ. Việc làm kháng sinh đồ cho ta kết luận về tính kháng thuốc của E.coli và lựa chọn thuốc có tác dụng tốt trong điều trị.
+ Salmonella
Vi khuẩn Salmonella lần đầu tiên được phát hiện bởi D.E Salmon và Smith.
Theo Đỗ Trung Cứ, Trần Thị Hạnh, Nguyễn Quang Tuyên (2003), hiện nay người ta đã phân lập được trên 2300 chủng Salmonella, nhưng chỉ có khoảng 5% trong số đó là gây bệnh. Salmonella thường gây bệnh cho lợn lứa tuổi 45 - 90 ngày tuổi. Lợn ở các lứa tuổi khác cũng mắc nhưng ít hơn.
- Các yếu tố gây bệnh của Salmonella: Quá trình gây bệnh của Salmonella có sự tham gia của độc tố và các yếu tố không phải là độc tố. Kháng nguyên O, yếu tố bám dính, Khả năng xâm nhập, được coi là các yếu tố không phải là độc tố, là yếu tố gây bệnh gián tiếp. Một mặt chúng tác động gây bất lợi cho vật chủ, một mặt chúng tạo điều kiện cho vi khuẩn tác động gây bệnh.
Độc tố của Salmonella gồm nội độc tố và ngoại độc tố, trong đó nội độc tố đóng vai trò quan trọng trong quá trình gây bệnh. Nội độc tố (Endotoxin) thường là Lipoposaccharide (LPS) được giải phóng từ vách tế bào vi khuẩn bị dung giải.
[Evan D.G, Evan D.J, Gorbach S.L (1973)], khi nghiên cứu về độc tố đường ruột của Salmonella cho biết, độc tố gồm hai thành phần là độc tố thẩm xuất nhanh (Rapid permeabity Factor viết tắt là RPF) và độc tố thẩm xuất chậm (Delaye permeabity Factor viết tắt là DPF). Độc tố RPF giúp Salmonella xâm nhập vào tế bào biểu mô ruột, nó có cấu trúc và thành phần giống độc tố chịu nhiệt E.coli và được gọi là độc tố chịu nhiệt Salmonella. Độc tố DPF có thành phần giống độc tố không chịu nhiệt của E.coli, nên gọi là độc tố không chịu nhiệt của Samonella.
+ Clostridium perfringens
Clostridium perfringens là thành viên điển hình của họ Clostridium, đòi hỏi điều kiện yếm khí tuyệt đối cho quá trình phát triển. Clostridium perfringens có khả năng sản sinh nha bào, Gram(+), catalaza (-).
Hiện tại, người ta đã phát hiện Clostridium perfringens có 5 type là A, B, C, D và E. Chúng được phân chia theo các dạng độc tố gây chết mà chúng sản sinh (alpha,beta, epsilon, iota).
Clostridium perfringens type A đã được phân lập từ ruột lợn nhiều năm và được xem như một trong những vi sinh vật bình thường trong đường tiêu hoá của người và động vật.
Nguyễn Như Thanh, Trần Thị Lan Hương (2001), Clostridium perfringens type A thường gây viêm ruột cho bê, thỏ.
Type D và E gây nhiễm độc cừu ở mọi lứa tuổi. Chúng cũng gây bệnh ở Dê, trâu bò và có thể ở người. Công thức kháng nguyên của type D là (, (, (, (, (, (, (, (, ( và (; type E có công thức kháng nguyên là (, (, (, (, ( và (.
Trong số 5 type huyết thanh của Clostridium perfringens, type C là type phân bố rộng rãi và quan trọng nhất, đặc biệt ở lợn. Clostridium perfringens type C có thể phân lập được trong chất chứa đường ruột của động vật khoẻ. Viêm ruột hoại tử ở lợn con do Clostridium perfringens type C được coi là một bệnh ở lợn con từ năm 1995, khi những trường hợp bệnh đầu tiên được mô tả ở Anh và Hungari [Nguyễn Bá Hiên (2001) ].
Clostridium perfringens sản sinh ra 12 loại độc tố khác nhau, một trong số các độc đặc biệt quan trọng, gây ra những tình trạng bệnh lý đặc trưng và gây chết con vật, các độc tố (, (, (, ( là các độc tố gây chết chủ yếu. mặt khác, mỗi loại độc tố có vai trò quan trọng trong việc nhận biết các chủng gây bệnh khác nhau của Clostridium perfringens [Đào trọng Đạt (1996) ].
* Do virus
Nhiều tác giả đã nghiên cứu và đưa ra kết luận về vai trò của một số loại virus trong quá trình gây tiêu chảy như: Rotavius, TGE, Enterovirrus, Parvovirus, Adenovirus.
Lecce J.M, Kinh M. W, Mock R (1976) , nghiên cứu về virus gây bệnh đường tiêu hoá đã xác định vai trò của Rotavirus trong hội chứng tiêu chảy ở lợn. Rotavirus thường gây bệnh tiêu chảy ở lợn, bò và người.
Niconxki. V.V (1986) , đã thống kê được hơn 10 loại virus có tác động làm tổn thương đường tiêu hoá gây viêm ruột ỉa chảy.
Theo Lecce J.M, Kinh M. W, Mock R (1976), trong số những mầm bệnh thường gặp ở lợn trước và sau cai sữa bị bệnh tiêu chảy có rất nhiều loại virus, 29% phân lợn bị tiêu chảy phân lập được Rotavirus, 11,2% có virus TGE, 2% có Enterovirus, 0,7% có Parvovirus.
* Do ký sinh trùng
Có rất nhiều loại ký sinh trùng đường ruột tác động gây ra hội chứng tiêu chảy như: Sán lá ruột lợn (Fasciolopsis buski), giun đũa lợn (Ascarissuum)...
Theo Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996) , giun đũa ký sinh trong ruột non của lợn là loại Ascarissuum.
Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996) cho biết, sán lá ruột lợn và giun đũa lợn ký sinh trong đường tiêu hoá, chúng làm tổn thương niêm mạc đường tiêu hoá gây viêm ruột ỉa chảy.
* Các nguyên nhân khác
- Do thời tiết khí hậu: Ngoại cảnh là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sức đề kháng của gia súc. Khi có sự thay đổi của các yếu tố như: Nhiệt độ, ẩm độ, độ thoáng khí của chuồng nuôi... Đều ảnh hưởng tới sức khoẻ của vật nuôi.
Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng, Lê Ngọc Mỹ, Huỳnh Văn Kháng (1996), Phạm Khắc Hiếu, Lê Thị Ngọc Diệp, Trần Thị Lộc (1998), cho rằng các yếu tố stress lạnh, ẩm ảnh hưởng rất lớn tới lợn sơ sinh, lợn con vài ngày tuổi. Trong các yếu tố về tiểu khí hậu thì quan trọng nhất là nhiệt độ và độ ẩm. Độ ẩm thích cho lợn là 75 - 85%. Vì thế việc làm khô và giữ ấm chuồng nuôi là vô cùng quan trọng.
- Do kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng: Việc thực hiện đúng quy trình kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng sẽ đem lại sức khoẻ tăng trưởng tốt cho đàn lợn. Khi thức ăn chăn nuôi không đảm bảo, chuồng trại không hợp lý, kỹ thuật chăm sóc không phù hợp, là nguyên nhân làm cho sức đề kháng của lợn giảm, tăng nguy cơ mắc bệnh.
- Do Stress: Theo Phạm Khắc Hiếu, Lê Thị Ngọc Diệp, Trần Thị Lộc (1998), hệ thống tiêu hoá của lợn mẫn cảm đặc biệt với Stress. Hiện tượng stress thường gây nên hiện tượng chán ăn, nôn mửa, tăng nhu động ruột, đau bụng và có khi tiêu chảy.
Sự thay đổi của các yếu tố khí hậu, thời tiết, mật độ chuồng nuôi, phương thức chăn nuôi, vận chuyển đi xa đều là những tác nhân stress quan trọng trong chăn nuôi, dẫn đến hậu quả làm giảm sút sức khoẻ vật nuôi, là nguy cơ xảy ra các bệnh trong đó có hội chứng tiêu chảy.
2.4. HIỂU BIẾT VỀ HỆ HÔ HẤP CỦA LỢN
Cơ quan hô hấp của lợn gồm: Đường dẫn khí và phổi. Đường dẫn khí gồm: Mũi, họng, hầu, khí quản, phế quản. Các phế quản phân bố nhỏ dần đi khắp phổi. Dọc đường dẫn khí là hệ thống mạch máu dày đặc để sưởi ấm không khí trước khi vào phế nang. Dọc đường dẫn khí còn có nhiều tuyến tiết dịch nhầy có tác dụng giữ lại bụi bặm trong không khí, sau đó nhờ sự vận động của lớp tế bào tiên mao, bụi bặm được đẩy dần ra ngoài. Đường hô hấp rất mẫn cảm với các thành phần lạ chứa trong không khí, từ đó tạo ra những phản xạ tự vệ như hắt hơi, ho để đẩy chất lạ ra ngoài. Các nhánh phế quản nhỏ lại phân thành những ống nhỏ hơn gọi là ống phế bào. Tận cùng những phân nhánh của ống phế bào được nối với phế bào thành phế nang. Nhiều phế nang tạo thành lá phổi. Xung quanh phế nang có mao mạch bao phủ dày đặc. Số lượng phế nang rất lớn, do đó bề mặt trao đổi khí rộng tạo điều kiện cho sự trao đổi khí giữa máu và không khí thuận lợi. Phổi là một tổ chức bao gồm nhiều sợi đàn hồi do đó nó có tính đàn hồi và co giãn. Phổi sinh lý có màu hồng nhạt, xốp.
Trong xoang ngực, phổi được bao bọc bởi hai lá:
- Lá thành là lớp màng lót mặt trong của xoang ngực.
- Lá tạng bao phủ sát trên bề mặt của phổi.
Khoảng trống giữa lá thành và lá tạng gọi xoang màng ngực. Trong xoang có chứa chất dịch làm giảm ma sát khi phổi co giãn (Nguyễn Xuân Tịnh và cộng sự, 1996).
* Cơ chế hô hấp
+ Phổi không có cấu tạo cơ nên tự nó không thể co giãn mà phổi co giãn một cách thụ động nhờ các cơ hô hấp gồm cơ hoành và các cơ gian sườn. Các cơ này đóng vai trò động lực chính cho động tác hô hấp, làm cho lồng ngực mở rộng hay thu hẹp, dẫn đến làm biến đổi áp lực âm xoang màng ngực, kéo theo sự vận động của phổi và động tác hô hấp.
+ Tần số hô hấp: Tần số hô hấp là số lần thở/phút.
Tần số hô hấp phụ thuộc vào cường độ trao đổi chất, tuổi, tầm vóc. Gia súc non có cường độ trao đổi chất mạnh nên tần số hô hấp cao. Ngoài ra, trạng thái sinh lý, vận động, nhiệt độ môi trường cũng ảnh hưởng đến nhịp thở. Theo tài liệu của bộ môn sinh lý gia súc, Trường Đại học Nông nghiệp I - Hà Nội thì tần số hô hấp của lợn là 20 - 30 lần/phút. Theo Vũ Khắc Hùng (1999), tần số hô hấp của lợn con và lợn sau cai sữa là 15 - 40 lần/phút, lợn trưởng thành là 25-35 lần/phút, lợn nái mang thai là 15 - 20 lần/phút.
+ Phương thức hô hấp: Có 3 phương thức hô hấp chính:
- Phương thức hô hấp ngực - bụng: Có sự tham gia của cả hoành và cơ gian sườn. Phương thức này biểu hiện ở gia súc khoẻ mạnh bình thường.
- Phương thức hô hấp bụng: Do tác dụng của cơ hoành là chủ yếu, là phương thức hô hấp khi gia súc mắc bệnh về tim, phổi, hoặc khi xoang ngực bị tổn thương.
- Phương thức hô hấp ngực: Động tác hít vào chủ yếu do tác dụng của cơ gian sườn ngoài, là trường hợp khi gia súc chửa và khi gia súc bị viêm ruột, viêm dạ dày.
+ Sinh lượng phổi: Là tổng dung tích khí tối đa mà phổi có thể chứa được.
Sinh lượng phổi = Khí lưu thông + Khí dự trữ hít vào + Khí thở ra thêm.
Sinh lượng phổi là một chỉ tiêu đánh giá khả năng hô hấp của động vật.
+ Điều hoà hoạt động hô hấp:
Hoạt động hô hấp được điều hoà nhờ hai yếu tố: Thần kinh và thể dịch.
- Điều hoà của hệ thần kinh: Cơ trơn phế quản, nhánh phế quản nhỏ chịu sự điều hoà của hệ thần kinh thực vật. Thần kinh phó giao cảm tiết Axetylcholin làm co phế quản. Thần kinh giao cảm tiết Adrenalin và Noradrenalin làm giãn phế quản. Vì thế, lúc khó thở, tiêm Adrenalin hoặc uống Ephedrin có tác dụng tốt hoặc tiêm Atropin để ức chế thần kinh phó giao cảm cũng có hiệu quả.
- Điều hoà thể dịch: Nhân tố ảnh hưởng đến hô hấp yếu là nồng độ CO2 trong máu. Nếu CO2 tăng, O2 giảm sẽ gây hưng phấn trung khu hô hấp, dẫn đến làm tăng tần số hô hấp và ngược lại (Nguyễn Xuân Tịnh và cộng sự, 1996).
* Một số vi khuẩn thường gặp ở đường hô hấp của lợn
- Vi khuẩn Streptococcus
Vi khuẩn Streptococcus thường gây bệnh thể bại huyết dẫn đến chết hoặc gây nhiễm trùng tại chỗ như viêm màng não, viêm khớp, viêm nội tâm mạc ở lợn con 7 – 10 ngày tuổi. Bệnh viêm màng não do vi khuẩn Streptococcus gây ra ở lợn cai sữa và lợn vỗ béo sau khi chúng được nhốt, nuôi chung với lợn bệnh. Bệnh gây chết lợn đột ngột với biểu hiện sốt, có triệu chứng thần kinh, viêm khớp. Ở lợn con, bệnh viêm khí quản và phổi thường do Streptococcus suis dung huyết yếu gây ra.
Ở Việt Nam, [Nguyên Ngọc Nhiên]. đã điều tra hệ vi khuẩn đường hô hấp của 162 lợn bị bệnh ho thở truyền nhiễm và thấy rằng tỷ lệ nhiễm Streptococcus chiếm 74%.
Ở Việt Nam, theo các Báo cáo từ Cục Thú y và kết quả nghiên cứu của Viên Thú Y từ những năm 90 cho tới nay vẫn chưa có ổ dịch trên lợn nào mà nguyên nhân do Streptococcus suis gây ra. Tuy nhiên, từng trường hợp lẻ tẻ ở người có thể bị nhiễm vi khuẩn này thì vẫn chưa được nghiên cứu [Dẫn theo Trần Đình Trúc, 2007 ].
- Vi khuẩn Pasteurella multocida:
Pasteurella multocida được biết đến là nguyên nhân gây tụ huyết trùng cho các loài gia súc, gia cầm, trong đó có lợn. Tuy nhiên, Pasteurella multocida còn là một trong những nguyên nhân gây bệnh viêm phổi lợn.
Bệnh viêm phổi lơn do Pasteurella multocida gây ra là kết quả của sự lây nhiễm vi khuẩn vào phổi. Bệnh thường thấy ở giai đoạn cuối của bệnh viêm phổi cục bộ hay ở những bệnh ghép ở đường hô hấp của lợn. Hội chứng viêm phổi rất thường thấy ở lợn. Những số liệu gần đây của Mỹ cho thấy trong 6634 mẫu lấy từ lợn để kiểm tra thì (74 %) lợn bị viêm phổi và (13 %) bị viêm màng phổi.
- Vi khuẩn Bordetella bronchiseptica
Bordetella bronchiseptica được coi là nguyên nhân chính gây ra bệnh teo xương xoăn. Sau khi gây bệnh bằng cách nhỏ vài giọt canh trùng Bordetella bronchiseptica vào trong tai của những con lợn sữa một vài ngày tuổi, người ta có thể thấy lợn mắc bệnh với những triệu chứng bệnh tích điển hình.
- Viêm mũi: Dấu hiệu ban đầu của bệnh là chảy nước mũi và sổ mũi ở lợn con. Lợn giảm ăn uống.
- Viêm phế quản: thường gặp ở lợn mắc bệnh trong mùa đông, biểu hiện ra ngoài là ho, khó thở, sốt. Trong đó sốt là biểu hiện không thường xuyên. [Switzer và Frrington, (1975)].
- Vi khuẩn Actinobacillus pleuropneumoniae
Vi khuẩn Actinobacillus pleuropneumoniae là nguyên nhân gây viêm phổi - màng phổi ở lợn. Actinobacillus pleuropneumoniae trước đây đã được gọi tên là Haemophilus parahaemolyticus hay H. pleuropneumoniae, nhưng sau này đã được xếp vào họ Actinobacillus và đặt tên là A. pleuropneumoniae do đã xác định được chúng có sự tương đồng về DNA giữa H. pleuropneumoniae và A.ligrieressi (Pohl và cộng sự, 1983).
Viêm phổi màng phổi là một bệnh nhiễm trùng quan trọng ở đường hô hấp của lợn và xảy ra ở hầu hết các nước có nền công nghiệp chăn nuôi tiên tiến. Bệnh đã gây nhiều thiệt hại cho ngành chăn nuôi vì ngoài việc gây chết còn làm giảm tăng trọng, gầy yếu và tốn kém do chi phí thuốc men. A. pleuropneumoniae là nguyên nhân gây viêm phổi – màng phổi ở lợn.
PHẦN III: ĐỐI TƯỢNG - NỘI DUNG - VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đàn lợn con sau cai sữa 10 ngày đến xuất chuồng của công ty TNHH Thiên Phúc – Nghĩa Hưng – Nam Định.
3.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
- Điều tra tình hình chăn nuôi và một số bệnh thường gặp trên đàn lợn nái và lợn con tại trại lợn công ty TNHH Thiên Phúc - Nghĩa Hưng - Nam Định.
- Bước đầu thử nghiêm chế phẩm khoáng Zeolite trong chăn nuôi lợn nhằm tăng hiệu quả sử dụng thức ăn, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao phẩm chất và chất lượng thịt.
3.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.3.1. Phương pháp thu thập số liệu
- Số liệu được chúng tôi thu thập qua sổ sách của công ty
- Thông qua kết quả điều tra trong thời gian từ tháng 7/2009 – 11/2009.
3.3.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm
- Thí nghiệm được chúng tôi bố trí theo phương pháp phân lô: TN và ĐC
Lô đối chứng và lô thí nghiệm cho ăn khẩu phần giống nhau
Lô thí nghiêm (TN): Được bổ sung 3% Zeolite vào khẩu phần ăn.
Tiến hành cân trọng lượng 15 ngày/1lần.
Thí nghiệm được tiến hành đến khi xuất chuồng (khi lợn được 4 – 4.5 tháng tuổi).
Các lô lợn được cho ăn ở máng ăn bán tự động, ăn theo hình thức tự do, có máng núm uống tự động.
3..3.3. Phương pháp lấy mẫu
- Lấy mẫu nước: mẫu nước được lấy là nước rửa chuồng của cả 2 lô TN và ĐC
- Lấy mẫu phân: mẫu phân được lấy ở các vị trí khác nhau trong cả 2 lô TN và ĐC.
3.3.4. Phương pháp phân tích mẫu
Các mẫu nước thải và mẫu chất thải được phân tích tại trung tâm kiểm tra vệ sinh thú y TƯ1: ISO 6222:1999; AOAC 2000; ISO4832:2006/ TCVN 6848:2006; SenION1-HACH; ISO 16649:2001; DR/2010-HACH; DR/2010-HACH; ISO 4833:2003/TCVN 6884:2000; DR/2010-HACH
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tran_123_1__3729.doc