Hydroxyapatit dạng bột có kích thước
nanomet có thể được tách thành công từ
xương cá bằng phương pháp xử lý nhiệt. Đối
với xương cá chẽm, điều kiện xử lý thích hợp
nhất bao gồm 2 bước: (i) đun sôi trong 2 giờ
và (ii) nung ở 700ºC trong 2 giờ. Sản phẩm
thu được có kích thước nhỏ (30 – 50nm), khá
đồng đều, độ xốp và độ tinh khiết cao. Các
tính chất tốt của sản phẩm cho thấy các tiềm
năng ứng dụng lớn trong xử lý môi trường,
thực phẩm và y dược. Tuy nhiên, đây mới chỉ
là các kết quả nghiên cứu bước đầu. Để có thể
tiến gần đến sản xuất và ứng dụng trong thực
tế thì cần tiến hành các nghiên cứu tiếp theo
đầy đủ hơn như đánh giá tính chất tương thích
sinh học của HA, tiến hành thiết kế và sản
xuất HA ở qui mô pilot. Ngoài ra, các đánh
giá về hiệu quả kinh tế của quá trình cũng rất
cần thiết.
8 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 494 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thu nhận và tính chất của hydroxyapatit có kích thước nano từ xương cá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 53
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
THU NHẬN VÀ TÍNH CHẤT CỦA HYDROXYAPATIT CÓ KÍCH THƯỚC NANO
TỪ XƯƠNG CÁ
PREPARATION AND PROPERTIES OF NANOHYDROXYAPATITE FROM FISH BONES
Nguyễn Lê Bá Quảng¹, Phạm Viết Nam², Phạm Anh Đạt³, Nguyễn Văn Hòa¹
Ngày nhận bài: 7/5/2018; Ngày phản biện thông qua: 10/9/2018; Ngày duyệt đăng: 28/9/2018
TÓM TẮT
Xương cá là nguồn nguyên liệu rất phong phú để thu nhận hydroxyapatit (HA), một hợp chất cũng được
tìm thấy trong xương và răng của con người. Trong nghiên cứu này, HA có kích thước nanomet được tách từ
xương cá chẽm (Lates calcarifer), cá diêu hồng (Oreochromis sp.) và cá rô phi (Oreochoromis niloticus) qua
hai bước xử lý nhiệt. Ban đầu, phế liệu cá được đun sôi với nước trong 2 giờ để loại bỏ các phần hữu cơ thu
được xương cá thô. Sau đó, xương cá thô được nung tại nhiệt độ 500 – 900ºC trong thời gian 1 – 3 giờ để thu
nhận HA kích thước nanomet. Các sản phẩm HA thu được từ các loại xương cá khác nhau đều có độ kết tinh
và độ xốp cao dựa trên phân tích phổ nhiễu xạ tia X (XRD) và kính hiển vi quét điện tử (SEM). Đối với xương
cá chẽm, HA có kích thước trong khoảng 30 – 50 nm khi nung xương cá thô ở 700ºC trong 2 giờ. Qui trình thu
nhận HA khá đơn giản và dễ dàng triển khai ở qui mô lớn. Hơn nữa, sản phẩm HA kích thước nanomet với
nguồn gốc tự nhiên có tiềm năng ứng dụng trong nhiều lĩnh như thực phẩm và y dược.
Từ khóa: Phế liệu thủy sản, hydroxyapatit kích thước nano, xương cá, phương pháp xử lý nhiệt
ABSTRACT
Fish bones are reported to be abundent raw materials for production of hydroxyapatite (HA), which is
also found as a main component of human bones and teeth. In this study, hydroxyapatite nanoparticles were
prepared from three fi sh bones including Barramundi (Lates calcarifer), Red Tilapia (Oreochromis sp.) and
Tilapia (Oreochoromis niloticus) by a two-step thermal treatment. Firstly, fi sh by-products were boiled with
water for 2h to remove organic components and obtained raw bones. Secondly, these bones were calcinated at
a range of 500 – 900ºC for 1 – 3h to recover HA nanoparticles. From XRD and FTIR spectra and SEM images,
all HA nanoparticles have a high purity and porousity. For Barramundi bones, HA with a size of 30 – 50 nm
was obtained by calcinated at 700ºC for 2 h. This recovery method is facile and effi cient and can be scale-up
easily. Moreover, these biological HA nanoparticles have many potential applications in food, medicine and
pharmacy.
Keywords: Seafood by-products, nanohydroxyapatite, fi sh bone, thermal treatment
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, quá trình chế biến phi lê cá tại các
nhà máy tạo ra một lượng lớn các phế liệu gồm
xương, thịt sót lại, máu, nội tạng và da (chiếm
khoảng 40-60% so với trọng lượng cá khi đánh
bắt). Các phế liệu này được dùng chủ yếu để
sản xuất bột cá, dầu cá, phân bón, thức ăn cho
gia súc và gia cầm [1-3]. Tuy nhiên, hầu hết
các sản phẩm trên đều có giá trị kinh tế thấp do
đó dẫn tới lãng phí tài nguyên. Bởi vì, theo các
nghiên cứu gần đây, nhiều hoạt chất sinh học
có giá trị cao (peptit, axit béo, enzym, khoáng
và polyme sinh học) có thể được tách chiết từ
phế liệu cá và có thể được ứng dụng trong thực
phẩm, y học và dược phẩm [4]. Trong đó,
xương cá có chứa một lượng lớn một hợp
chất của canxi và phốt-pho có tên gọi là
hydroxyapatit (viết tắt là HA, công thức
phân tử là Ca10(PO4)6(OH)2). Đây cũng là
¹ Trung Tâm Thí nghiệm thực hành, Trường Đại học Nha Trang
² Khoa Thủy sản, Đại học Công nghiệp Thực phẩm Tp Hồ Chí Minh
³ Bộ môn Hóa – Khoa Công nghệ thực phẩm, Trường Đại học Nha Trang
54 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
thành phần chính được tìm thấy trong xương
và răng của cơ thể người và động vật, cụ thể
HA chiếm đến 65 – 70% khối lượng xương và
khoảng 99% khối lượng răng [5-7].
HA có thể được điều chế bằng phương pháp
hóa học nhờ phản ứng của các hợp chất có
chứa canxi và phốt-pho. Sản phẩm tổng hợp
này đã được nghiên cứu và ứng dụng làm vật
liệu thay thế và hàn gắn những hư hỏng của
xương do bệnh lý hoặc tai nạn [8-9]. Ở dạng
bột, HA được phối trộn với một số khoáng chất
khác để dùng trong bào chế thuốc chống loãng
xương và thực phẩm chức năng [10]. HA cũng
được hòa tan trong nước giải khát để bổ sung
canxi cho người sử dụng [10]. Ở dạng màng,
một lớp HA mỏng, siêu mịn có thể tạo nên lớp
men răng, gắn kết các chi tiết nối xương và lớp
phủ bề mặt cho xương nhân tạo [11]. Ngoài
ra, HA dạng xốp được ứng dụng để sửa chữa
các khuyết tật của xương và răng [10,11]. Tuy
nhiên, việc sử dụng các hóa chất khi tổng hợp
HA lại đòi hỏi phải tiến hành các bước tinh chế
và loại bỏ các hợp chất không phản ứng và sản
phẩm phụ [11]. Nếu các chất này không được
loại bỏ hoàn toàn sẽ ảnh hưởng đến chất lượng
của sản phẩm và có thể tác hại với đối tượng sử
dụng. Do đó, việc nghiên cứu thu nhận HA từ
các nguồn tư nhiên là rất cần thiết.
Trong nghiên cứu này, các hạt HA kích
thước nano thu được từ xương một số loài cá
bằng phương pháp xử lý nhiệt. Mục tiêu của
nghiên cứu này là đánh giá thành phần và tính
chất của phế liệu cá và xương cá thô thu được
sau quá trình tiền xử lý. Sau đó, khảo sát ảnh
hưởng của nhiệt độ và thời gian nung đến kích
thước và độ kết tinh của sản phẩm HA thu
được. Đây là nghiên cứu bước đầu nhằm chế
tạo ra hạt HA kích thước nanomet và độ xốp
cao từ nguồn tự nhiên thông qua một phương
pháp dễ dàng, hiệu quả và có thể ứng dụng để
sản xuất ở qui mô lớn. Đồng thời, nghiên cứu
cũng mong muốn tiến tới tạo ra một sản phẩm
có giá trị cao từ nguồn phế liệu trong quá trình
chế biến cá tại Việt Nam.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Vật liệu
Các mẫu phế liệu cá (chẽm, rô phi và diêu
hồng) được thu nhận từ Khu phi-lê cá, gần
quầy bán thủy sản tại Siêu thị Lotte Nha Trang.
Địa chỉ: Số 58 Đường 23 Tháng 10, Phương
sơn, Nha Trang. Các mẫu được đóng trong
túi PA, bảo quản lạnh khi vận chuyển và cấp
đông -20ºC cho đến khi được xử lý ở phòng thí
nghiệm. Hóa chất dùng nghiên cứu đều thuộc
loại tinh khiết phân tích.
2. Phương pháp nghiên cứu
Sơ đồ bố trí thí nghiệm tổng quát nghiên cứu
thu nhận HA kích thước nanomet bằng phương
pháp nhiệt được trình bày trong Hình 1. Theo
đó, quá trình thu nhận gồm 2 bước xử lý nhiệt
và cuối cùng sản phẩm được phân tích, đánh giá.
2.1. Tiền xử lý nguyên liệu
Phế liệu cá được đun sôi trong 2 giờ để tách
phần hữu cơ tan và phần vô cơ không tan. Phần
xương không tan được lọc tách và rửa sạch
bằng nước nóng 3 lần. Sau đó, sấy khô ở 70ºC
trong 12 giờ thu được xương cá thô.
2.2. Thu nhận HA
Quy trình thu nhận HA bằng phương pháp
nung được dựa trên các công bố trước đây có
điều chỉnh [8, 12,13]. Xương cá thô được nung
ở các nhiệt độ 500, 600, 700 và 900ºC trong
khoảng thời gian 2 giờ để khảo sát ảnh hưởng
của nhiệt độ. Nung xương cá thô ở 700ºC trong
khoảng thời gian 1, 2 và 3 giờ để khảo sát ảnh
hưởng của thời gian. Tốc độ gia nhiệt là 5ºC/
phút đối với tất cả các thí nghiệm.
2.3. Đánh giá tính chất nguyên liệu và sản
phẩm
Hàm lượng khoáng, ẩm của nguyên liệu
được xác định theo phương pháp chuẩn của
AOAC (2000) ở 105 và 550ºC. Hàm lượng
lipid được phân tích theo phương pháp Folch.
Hàm lượng protein thô xác định bằng phương
pháp Kjeldahl.
Hình dạng và kích thước của HA được chụp
bằng kính hiển vi quét điện tử S-4800 của hãng
Hitachi. Độ kết tinh của HA được đánh giá trên
phổ nhiễu xạ tia X với nhiễu xạ kế X'Pert-PRO
MPD của hãng PANalytical sử dụng tia chiếu
xạ Cu Kα (λ = 1,54 Å) với hiệu điện thế 40 kV
và cường độ 40 mA, góc quét 4º<2θ<44º, bước
quét 0,05º, tốc độ quét 1º/min, ở nhiệt độ 25ºC.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 55
Cấu trúc hóa học của HA được phân tích bằng
phổ hấp phụ hồng ngoại Nicolet iS10 của hãng
Thermo Scientifi c trong khoảng 548–4000
cm-¹ với độ phân giải 16 cm-¹ trong 32 lần quét
sử dụng chất nền KBr.
3. Xử lý số liệu
Các thí nghiệm trên được lặp lại 3 lần và
số liệu được xử lý và vẽ đồ thị trên phần mềm
Origin 10.0.
Hình 1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm nghiên cứu thu nhận HA bằng phương pháp nhiệt.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1. Thành phần phế liệu cá
Trong qui trình phi-lê cá, tùy theo loại cá
nguyên liệu ban đầu mà phế liệu thu được sẽ
có sự khác nhau về độ ẩm, hàm lượng protein,
lipid và tro. Kết quả phân tích các chỉ tiêu hóa
học cơ bản của các loại phế liệu cá sau phi-lê
trong nghiên cứu này được trình bày ở Bảng 1.
Bảng 1. Thành phần hóa học cơ bản của một số phế liệu cá
56 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
Kết quả cho thấy, thành phần hóa học chủ
yếu của các phế liệu cá là protein, khoáng và
lipid. Tỷ lệ các hàm lượng trên khác nhau phụ
thuộc rất nhiều vào các loại cá. Đối với tất cả
các loại phế liệu cá khảo sát trong nghiên cứu
này, hàm lượng protein khoảng 30-35 wt.%.
Trong khi đó, hàm lượng khoáng chiếm 10-15
wt.%. Hàm lượng lipid có sự khác nhau khá
lớn giữa cá chẽm (10,4 wt.%), cá diêu hồng
(8,9 wt.%) so với cá rô phi (2,4wt.%). Từ kết
quả phân tích ở trên cho thấy, chúng ta có thể
thu nhận protein, khoáng chất và lipid từ phế
liệu cá cho các ứng dụng khác nhau. Trong
đó, lượng khoáng chất chủ yếu trong xương
cá chính là HA, một khoáng chất rất tốt và đã
được nghiên cứu ứng dụng trong các ngành
như thực phẩm và y dược [4,10,11].
2. Tiền xử lý phế liệu cá
Quá trình tiền xử lý nhằm tách riêng phần
hữu cơ chứa chủ yếu là protein từ lượng thịt
còn lại sau phi-lê và phần nội tạng của cá.
Trong thực tế, có một số cách khác nhau để
tách riêng phần hữu cơ và vô cơ này nhưng phổ
biến nhất là phương pháp đun sôi bằng nước và
phương pháp thủy phân protein sử dụng kiềm
hoặc enzym. Trong nghiên cứu này, chúng tôi
sử dụng phương pháp đun sôi vì đây là phương
pháp đơn giản, dễ triển khai, không sử dụng
hóa chất nên giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Mẫu cá phế liệu được cho vào nồi chứa
nước cất với tỷ lệ 1/10 (w/v), sau đó đun sôi
trong 2 giờ. Sau đó, xương cá được lọc tách,
rửa bằng nước nóng 3 lần và sấy khô sẽ thu
được xương cá dạng thô. Hình 2 là hình ảnh
phế liệu cá và xương cá thô thu được sau khi
đung sôi trong 2 giờ, rửa sạch và sấy khô. Kết
quả cho thấy xương cá diêu hồng thô thu được
sau khi tách phần hữu cơ có hơi vàng (Hình
2a), còn xương cá chẽm (Hình 2b) và xương
cá rô phi (Hình 2c) có màu trắng. Màu vàng có
thể là do phần hữu cơ còn lại bám chặt trên bề
mặt của xương.
Hình 2. (a) Xương cá diêu hồng, (b) cá chẽm và (c) cá rô phi ở dạng thô sau quá trình tiền xử lý.
Thành phần cơ bản của các mẫu xương thô
được phân tích và trình bày trong Bảng 2. Theo
đó, các thành phần phi khoáng đã giảm đi nhiều
so với nguyên liệu ban đầu. Thành phần xương
thô có chứa trên 50% về khối lượng là khoáng
chất. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng
khoáng chất này chính là hydroxyapatite [4-6].
Do đó, đây chính là nguồn nguyên liệu tốt tiềm
năng để sản xuất HA có độ tinh khiết cao và có
nguồn gốc từ tự nhiên.
Bảng 2. Thành phần nguyên liệu xương cá thô khi xử lý nguyên liệu bằng cách đun sôi
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 57
3. Ảnh hưởng của nhiệt độ nung
Quá trình nung xương cá thô ở nhiệt độ cao
(500 – 900ºC) sẽ loại bỏ hoàn toàn phần hữu
cơ liên kết chặt chẽ trong xương cá để thu nhận
HA. Do đó, nhiệt độ nung có ảnh hưởng rất lớn
đến hình dạng và kích thước của hạt HA. Hình
ảnh SEM của HA thu được khi nung xương cá
chẽm ở các nhiệt độ khác nhau được trình bày
trong Hình 4. Rõ ràng, khi nung xương cá ở
500ºC thì sản phẩm HA thu được có sự kết dính
với nhau, không tách thành các hạt kích thước
nanomet. Nhưng khi tiến hành nung xương cá
ở các nhiệt độ cao hơn (600 và 700ºC) thì các
hạt HA thu được tách rời nhau khá rõ rệt với
kích thước khoảng 30 – 50 nm. Kết quả này
tương đương với kết quả thu nhận HA trong
điều kiện tương tự từ xương cá ngừ (~ 50 nm)
[12] và nhỏ hơn nhiều so với HA từ xương
cá tuyết (300 – 500 nm) [13]. Tuy nhiên, tại
900ºC thì các hạt HA lại có xu hương kết dính
lại với nhau và kích thước hạt lớn hơn (50 – 70
nm). Như vậy, tại nhiệt độ nung 700ºC, các hạt
HA có kích thước nhỏ và đồng đều nhất. Hiện
tượng kết dính của các hạt ở nhiệt độ cao có thể
được giải thích dưới đây.
Hình 3. Ảnh SEM của HA từ xương cá chẽm khi nung ở các nhiệt độ khác nhau:
(a) 500ºC, (b) 600ºC, (c) 700ºC, (d) 900ºC trong cùng khoảng thời gian 2 giờ.
Quá trình nung thu nhận HA từ xương cá
thô có thể xảy ra theo 3 giai đoạn: (i) đốt cháy
các hợp chất hữu cơ, (ii) tách loại nước, (iii)
phân hủy HA. Giai đoạn thứ nhất xảy ra trong
khoảng nhiệt độ 350 – 550ºC, do đó sản phẩm
HA thu được ở 500ºC vẫn còn một lượng nhỏ
chất hữu cơ chưa bị đốt cháy. Vì vậy các hạt
HA có sự kết dính với nhau (Hình 3a). Khi
nung ở nhiệt độ cao hơn (600 và 700ºC) thì
các hợp chất hưu cơ đã được loại bỏ hoàn toàn
do đó sản phẩm HA thu được gồm các hạt kích
thước nhỏ, đồng đều và không kết dính với
58 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
nhau (Hình 3b và 3c). Tuy nhiên, khi tiến hành
nung ở nhiệt độ 900ºC thì các hạt HA lại dính
với nhau nhiều hơn (Hình 3d). Điều này có thể
giải thích do xảy ra quá trình tách nước và phân
hủy HA tại nhiệt độ cao 850 – 900ºC theo các
phương trình phản ứng sau [13]:
Như vậy, để thu nhận HA có kích thước
nano nhỏ nhất và đồng đều nhất thì cần tiến
hành nung xương cá thô ở nhiệt độ 700ºC trong
thời gian 2 giờ. Điều kiện nung này cũng sẽ
giảm thiểu khả năng mất nước và tránh sự phân
hủy HA.
4. Ảnh hưởng của thời gian nung và cấu trúc
hóa học của HA
Thời gian nung có ảnh hưởng đến tính chất
kết tinh của sản phẩm. Từ kết quả của ảnh
hưởng bởi nhiệt độ đến tính chất sản phẩm
trong mục 3.3, chúng tôi lựa chọn cố định nhiệt
độ 700ºC và xương cá chẽm thô để đánh giá
ảnh hưởng của thời gian nung khác nhau (1, 2
và 3 giờ). Độ kết tinh của sản phẩm được đánh
giá thông qua phổ nhiễu xạ tia X.
Hình 4. Phổ XRD của sản phẩm HA từ xương cá chẽm thu được khi nung ở 700oC
với thời gian khác nhau (a) 1 giờ, (b) 2 giờ, (c) 3 giờ.
Hình 4 trình bày phổ XRD của HA thu được
từ xương cá chẽm khi nung ở 700ºC với thời
gian khác nhau. Kết quả cho thấy, tất cả các
phổ điều xuất hiện các đỉnh phù hợp với phổ
chuẩn của HA có ký hiệu JCPDS-09-0432 [4-
5]. Các đỉnh đều sắc nhọn chứng tỏ HA có độ
kết tinh cao. Tuy nhiên, khi nung ở các thời
gian khác nhau thì cường độ các đỉnh có thay
đổi ở vị trí 2θ bằng 28º và 31º. Chứng tỏ thời
gian nung 1 giờ thu được các hat HA có độ kết
tinh thấp hơn 2 và 3 giờ. Trong khi, cường độ
các đỉnh khi nung 2 và 3 giờ không khác nhau.
Như vậy, thời gian nung đạt độ kết tinh cao
và tốn ít năng lượng nên chọn là 2 giờ. Ngoài
ra, không có xuất hiện các đỉnh lạ so với mẫu
chuẩn chứng tỏ HA thu được có độ tính khiết
cao.
Để đánh giá cấu trúc hóa học và độ tinh
khiết, sản phẩm được phân tích trên phổ hồng
ngoại (FT-IR). Hình 5 cho biết cấu trúc hóa học
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 59
của HA từ xương cá rô phi (Hình 5a), cá diêu
hồng (Hình 5b) và cá chẽm (Hình 5c) thu được
khi nung ở 700ºC với thời gian 2 giờ. Đỉnh lớn
tại bước sóng khoảng 3570 cmˉ¹ đặc trưng cho
nhóm hydroxyl (-OH) của HA và nước hấp thụ.
Hình 5. Phổ FT-IR của HA từ xương cá rô phi (a), cá diêu hồng (b) và (c) cá chẽm thu được
khi nung ở 700oC với thời gian 2 giờ.
Các đỉnh tại vị trí 560 và 1092 cmˉ¹ đặc trưng
cho nhóm phot-phat (PO4³ˉ). Các đỉnh hấp thụ
tại các vị trí 1460 và 1610 cmˉ¹ là do nhóm
cacbonat (CO3²ˉ) [16].
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Hydroxyapatit dạng bột có kích thước
nanomet có thể được tách thành công từ
xương cá bằng phương pháp xử lý nhiệt. Đối
với xương cá chẽm, điều kiện xử lý thích hợp
nhất bao gồm 2 bước: (i) đun sôi trong 2 giờ
và (ii) nung ở 700ºC trong 2 giờ. Sản phẩm
thu được có kích thước nhỏ (30 – 50nm), khá
đồng đều, độ xốp và độ tinh khiết cao. Các
tính chất tốt của sản phẩm cho thấy các tiềm
năng ứng dụng lớn trong xử lý môi trường,
thực phẩm và y dược. Tuy nhiên, đây mới chỉ
là các kết quả nghiên cứu bước đầu. Để có thể
tiến gần đến sản xuất và ứng dụng trong thực
tế thì cần tiến hành các nghiên cứu tiếp theo
đầy đủ hơn như đánh giá tính chất tương thích
sinh học của HA, tiến hành thiết kế và sản
xuất HA ở qui mô pilot. Ngoài ra, các đánh
giá về hiệu quả kinh tế của quá trình cũng rất
cần thiết.
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Đại học
Nha Trang trong đề tài mã số TR2017-13-02.
60 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Choudhury, G. S., Gogoi, B. K., 1995. Extrusion Processing of Fish Muscle: A Review. Journal of Aquatic
Food Product Technology, 4, 37–67.
2. Choudhury, G. S., Bublitz, C. G., 1996. in G. S. Mittal (Ed.). Computerized control systems in the food
industry New York: Marcel Dekker Inc, 513–538.
3. Gosmez-Guillén, M. C., Turnay, J., Fernádez-Díaz, M. D., Ulmo, N., Lizarbe, M. A., Montero, P., 2002.
Structural and physical properties of gelatin extracted from different marine species: a comparative study. Food
Hydrocolloids, 16, 25-34.
4. Pham, T. D. P., Nguyen, C. M., Hoang, N. C., Nguyen, V. M., Nguyen, T. H., Nguyen, V. H., Ha, T. H. Y.,
Trang, S. T., 2016. Recovery of protein hydrolysate and chitosan from black tiger shrimp (Penaeus monodon)
heads: approaching a zero waste process. Journal of Food Science and Technology, 54,1850-1856
5. Cao, L. Y, Zhang, C. B., Huang, J. F., 2005. Synthesis of hydroxyapatite nanoparticles in ultrasonic precipita-
tion. Ceramics International, 31, 1041–1044.
6. Guo, G., Sun, Y., Wang, Z., Guo, H., 2005. Preparation of hydroxyapatite nanoparticles by reverse micro-
emulsion. Ceramics International, 31, 869–872.
7. Huang, Y. C., Hsiao, P. C., Chai, H. J., 2011. Hydroxyapatite extracted from fi sh scale: Effects on MG63
osteoblast-like cells. Ceramics International, 37, 1825–1831.
8. Barakat, N. A. M., Khil, M. S., Omran, A. M., Sheikh, F. A., Kim, H. Y., 2009. Extraction of pure natural
hydroxyapatite from the bovine bones bio waste by three different methods. Journal of Materials Processing
Technology, 209, 3408–4315.
9. Sadat-Shojai, M., Khorasani, M. T., Dinpanah-Khoshdargi, E., Jamshidi, A., 2013. Synthesis methods for
nanosized hydroxyapatite with diverse structures. Acta Biomaterialia, 9, 7591–7621.
10. Akram, M., Ahmed, R., Shakir, I., Ibrahim, W.A.W., Hussain, R., 2014. Extracting hydroxyapatite and its
precursors from natural resources. Journal of Materials Sciences, 49, 1461–1475.
11. Sobczak-Kupiec, A., Pluta, K., Drabczyk, A., Włoś, M., Tyliszczak, B., 2018. Synthesis and characteriza-
tion of ceramic – polymer composites containing bioactive synthetic hydroxyapatite for biomedical applica-
tions. Ceramics International, 44, 13630-13638.
12. Boutinguiza M., Pou J., Comesaña R., Lusquiños F., de Carlos A., León B., 2012. Biological hydroxyapa-
tite obtained from fi sh bones. Materials Science and Engineering C 32, 478–486.
13. Piccirillo C., Silva M.F., Pullar R.C., Braga da Cruz I., Jorge R., Pintado M.M.E., Castro P.M.L., 2013.
Extraction and characterisation of apatite- and tricalcium phosphate-based materials from cod fi sh bones. Ma-
terials Science and Engineering C 33, 103–110.
14. Nguyen, T.M.H., 2014. Nutritional composition of hydrolysates from Barramundi (Lates calcarifer) heads
and frame by enzyme Flavourzyme. Journal of Science - Can Tho University, 1, 49-53.
15. Nguyen, T.M.H., Sylla, K.S.B., Randriamahatody, Z., Donnay-Moreno, C., Moreau, J., Tran, L.T., Bergé,
J.P., 2011. Enzymatic hydrolysis of yellowfi n tuna (Thunnus albacares) by-products using Protamex protease.
Food Technology and Biotechnology, 49, 48 - 55.
16. Kumar, R., Prakash, K.H., Cheang, P., Khor, K.A., 2004. Temperature driven morphological changes of
chemically precipitated hydroxyapatite nanoparticles. Langmuir, 20, 5196–5200.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thu_nhan_va_tinh_chat_cua_hydroxyapatit_co_kich_thuoc_nano_t.pdf