Điều 310. Hỏi bị hại, đương sự hoặc
người đại diện của họ;
Chủ tọa phiên tòa yêu cầu bị hại, đương
sự hoặc người đại diện của họ trình bày
những tình tiết của vụ án có liên quan
đến họ. Sau đó, Kiểm sát viên, người bào
chữa và người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bị hại, đương sự hỏi thêm
về những điểm mà họ trình bày chưa đầy
đủ hoặc có mâu thuẫn. Hội đồng xét xử
có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của người
tham gia tố tụng hỏi thêm bị hại, người đại
diện của bị hại về những tình tiết cần thiết
mà họ trình bày chưa rõ ràng, đầy đủ hoặc có
mâu thuẫn.
Khi được Chủ tọa phiên tòa đồng ý,
bị cáo có thể hỏi bị hại, đương sự hoặc
người đại diện của họ về các vấn đề có
liên quan đến bị cáo.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 244 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thủ tục phiên tòa xét xử sơ thẩm và việc bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
37Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2019
VŨ GIA LÂM
1.Vị trí của phiên tòa xét xử sơ thẩm
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
Điều 26 BLTTHS năm 2015 quy định
nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được
bảo đảm” không chỉ là việc thể chế hóa
quy định của Hiến pháp năm 2013 (khoản
5 Điều 103)1 mà còn xuất phát từ vị trí
quan trọng có tính quyết định của giai
đoạn xét xử trong quá trình giải quyết
các vụ án hình sự, đặc biệt là vị trí có tính
quyết định của phiên tòa xét xử về hình
sự ở nước ta, nhất là phiên tòa xét xử sơ
thẩm. Tính chất quyết định của phiên
tòa xét xử sơ thẩm thể hiện trên những
phương diện sau:
1 Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013: Nguyên
tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm.
Thứ nhất, phiên tòa xét xử sơ thẩm là
nơi Tòa án thực hiện quyền tư pháp của
Nhà nước để đưa ra các phán quyết giải
quyết vụ án về nội dung. Đây là nơi Tòa
án (Hội đồng xét xử - HĐXX) bằng hoạt
động công khai, trực tiếp thẩm tra các
chứng cứ đã được các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng trước đó thu thập
để làm rõ các tình tiết của vụ án. Đồng
thời, phiên tòa xét xử sơ thẩm cũng là nơi
tiếp tục thu thập chứng cứ mới qua việc
điều tra, xét hỏi trực tiếp, công khai tại
phiên toà. Phiên toà xét xử sơ thẩm cũng
là nơi thể hiện rõ nhất vai trò trọng tài
của Tòa án. Trên cơ sở kết quả thẩm tra,
đánh giá chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ
án và các chứng cứ mới thu thập tại phiên
THỦ TỤC PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VÀ VIỆC BẢO ĐẢM
TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
VŨ GIA LÂM *
* Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội
Bài viết đề cập vị trí của phiên tòa xét xử sơ thẩm, những yêu cầu của
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử trên phương diện lập pháp tố tụng để xây
dựng chế định về thủ tục phiên tòa xét xử sơ thẩm của Bộ luật tố tụng hình sự
(BLTTHS) năm 2015. Từ thực trạng quy định về thủ tục phiên tòa sơ thẩm, tác
giả đề xuất việc tổ chức thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử cũng như
tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thủ tục phiên tòa sơ thẩm nhằm thực hiện tốt
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Từ khóa: Tranh tụng, bảo đảm tranh tụng, xét xử vụ án hình sự, xét xử sơ
thẩm, thủ tục phiên tòa xét xử, nguyên tắc tranh tụng.
The article mentions first-instance trial’s position and requirements of
the trial litigation principles in term of judicial proceedings so as to build
institutions on procedures of first-instance trial prescribed in the Criminal
Procedure Code of 2015. From reality of regulations on first-instance trial, the
author proposes the implementations of trial litigation principles; at the same
time, continuance to perfect legal provisions on procedure of first-instance trial
so that litigation principles in criminal first-instance trial are well performed.
Keywords: Ligitation, litigation assurance, criminal trial, first-instance
trial, trial procedures, ligitation principles.
38
THỦ TỤC PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VÀ VIỆC BẢO ĐẢM TRANH TỤNG...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2019
toà, HĐXX ra bản án, quyết định theo
quy định của pháp luật để giải quyết vụ
án khách quan, toàn diện, đầy đủ;
Thứ hai, phiên toà xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự là nơi đảm bảo tốt nhất và đầy
đủ nhất các quyền và nghĩa vụ tố tụng
của các bên tranh tụng bằng các thủ tục
tố tụng trực tiếp, công khai. Tại phiên
toà, các chủ thể tranh tụng như “bên
buộc tội” và “bên gỡ tội” đều được bình
đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đề đạt
yêu cầu và tranh luận dân chủ, công khai,
sòng phẳng trước Toà án (HĐXX);
Thứ ba, phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự phần lớn được diễn ra công
khai (do thực hiện nguyên tắc xét xử công
khai) sẽ đảm bảo tối đa sự kiểm tra, giám
sát xã hội đối với hoạt động xét xử; tăng
cường trách nhiệm của các thành viên
HĐXX, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng khác. Đồng thời, với việc công khai
quá trình xét xử cũng như kết quả xét xử
vụ án, phiên tòa sơ thẩm góp phần quan
trọng nâng cao ý thức pháp luật, hình
thành thói quen sống và làm việc theo
pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc
sống xã hội, giúp hạn chế tình trạng vi
phạm pháp luật và tình trạng phạm tội.
Phiên toà xét xử sơ thẩm có vị trí quan
trọng trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự nên việc bảo đảm tranh tụng tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm sao cho: “Nâng
cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên
tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân
chủ với luật sư, người bào chữa và những
người tham gia tố tụng khác Khi xét xử,
Toà án phải đảm bảo cho mọi công dân
đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự
dân chủ, khách quan; Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật; việc xét xử của Toà án phải
căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại
phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn
diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát
viên, của người bào chữa, bị cáo”2; là
yêu cầu cấp bách, là nhiệm vụ trọng tâm
của cải cách tư pháp hiện nay. Yêu cầu này
phải được thể hiện rõ ràng, đầy đủ và cụ
thể trong quy định về xét xử của BLTTHS
nhất là trong quy định về thủ tục phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo hướng
“Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tư pháp
theo hướng dân chủ, bình đẳng, công
khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận
tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của
nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo
đảm chất lượng tranh tụng tại phiên tòa
xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm
căn cứ quan trọng để phán quyết bản án,
coi đây là bước đột phá để nâng cao chất
lượng hoạt động tư pháp”3
2. Yêu cầu của nguyên tắc tranh tụng
với việc bảo đảm tranh tụng tại phiên
tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Theo yêu cầu của nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử, tranh tụng trong xét
xử tại phiên tòa sơ thẩm được bảo đảm
trên một số phương diện cụ thể sau:
Thứ nhất, tranh tụng trong xét xử
được bảo đảm bằng việc quy định và tạo
ra cơ chế khả thi để thực hiện quyền bình
đẳng của các chủ thể tố tụng (bên buộc
tội và gỡ tội) trong việc đưa ra chứng cứ,
đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu trong
quá trình tố tụng (đặc biệt là ở phiên tòa
xét xử, trước người trọng tài công minh
là Tòa án - HĐXX, có vai trò trung lập
và độc lập với hai bên). Khi nghiên cứu
2 Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác
tư pháp trong thời gian tới”
3 Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 26-5-2005 “về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020”
39Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2019
VŨ GIA LÂM
về tranh tụng, nhà khoa học Liên Xô
cũ, Viện sĩ hàn lâm M.X. Strogovich đã
có quan điểm: “tranh tụng là cách thức
tiến hành xét xử vụ án hình sự mà ở đó
chức năng buộc tội tách khỏi Tòa án là cơ
quan có thẩm quyền xét xử vụ án; chức
năng buộc tội và bào chữa do các bên có
quyền bình đẳng với nhau thực hiện để
bảo vệ các lập luận của mình, bác bỏ các
lập luận của bên đối phương; bị cáo là
một bên tham gia tố tụng có quyền bào
chữa; Hội đồng xét xử điều khiển phiên
tòa, tích cực nghiên cứu các tình tiết của
vụ án và tự phán xử vụ án. Tranh tụng
gồm các yếu tố sau: 1. Việc buộc tội tách
khỏi Tòa án; 2. Địa vị tố tụng của Cống tố
viên và bị cáo là các bên tham gia tố tụng
và các bên có quyền bình đẳng; 3. Tòa án
có vị trí độc lập, tích cực trong mối quan
hệ với hai bên”.4
Trước hết, nguyên tắc tranh tụng đòi
hỏi pháp luật tố tụng hình sự phải đảm
bảo cho các bên tranh tụng có đầy đủ
các phương tiện cần thiết để thực hiện
được chức năng (buộc tội và gỡ tội) của
mình. Cụ thể, để tranh tụng có hiệu quả,
các chủ thể tố tụng phải được bình đẳng
với nhau trong việc tìm kiếm, thu thập
các tài liệu, đồ vật (chứng cứ) liên quan
đến vụ án cũng như cung cấp các tài liệu,
đồ vật (chứng cứ) đó cho cơ quan, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng đưa vào
hồ sơ vụ án để Tòa án khi xét xử có cơ
sở thực hiện chức năng xét xử của mình.
“Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên,
người khác có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, người bị buộc tội, người bào chữa
và người tham gia tố tụng khác đều có
quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng
4 M.X. Strogovich, Giáo trình tố tụng hình sự Xô
viết, Matxcova, 1968, tr. 149-150, tiếng Nga..
cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để
làm rõ sự thật khách quan của vụ án5”.
BLTTHS hiện hành đã tạo ra cơ chế để
thực hiện nội dung này bằng việc quy
định cho cả bên buộc tội và bên gỡ tội
quyền thu thập chứng cứ, đồ vật, tài liệu
phục vụ cho việc buộc tội và bào chữa.
Thứ hai, tranh tụng trong xét xử được
bảo đảm bằng việc quy định trách nhiệm
của Tòa án trong việc tạo điều kiện cho
các chủ thể tranh tụng thực hiện đầy đủ
quyền, nghĩa vụ. Bản chất của tranh tụng
là sự cọ sát các quan điểm khác nhau giữa
các chủ thể có quyền và nghĩa vụ đối lập
nhau nhằm xác định chân lý, xác định sự
thật với sự trọng tài của một chủ thể thứ
ba, hoàn toàn trung lập với các bên tranh
tụng. Trong tố tụng hình sự, hoạt động
của bên “buộc tội” và bên “gỡ tội” được
thực hiện trước Tòa án là cơ quan xét
xử. Vì vậy, muốn có tranh tụng thì phải
phân định rõ chức năng của các bên tranh
tụng và Tòa án trong tố tụng hình sự.
Trong đó, để bảo đảm tranh tụng được
thực hiện thì chức năng xét xử của Tòa
án phải tách khỏi chức năng buộc tội và
chức năng bào chữa. Tòa án phải thực sự
là người trọng tài công minh khi phân xử.
Tại phiên tòa, HĐXX không bị ràng buộc
bởi yêu cầu, đề nghị của các bên. Nguyên
tắc tranh tụng một mặt bảo đảm quyền
bình đẳng giữa bên “buộc tội” và “gỡ tội”
tại phiên tòa, mặt khác khẳng định vai trò
quan trọng của Tòa án (HĐXX) trong việc
bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của
các bên tham gia tranh tụng, cụ thể:
Một là, Tòa án phải bảo đảm sao cho tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm phải có mặt đầy
đủ những chủ thể tham gia tranh tụng.
“Phiên tòa xét xử vụ án hình sự phải có
mặt đầy đủ những người theo quy định
5 Đoạn 1 Điều 26 BLTTHS năm 2015.
40
THỦ TỤC PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VÀ VIỆC BẢO ĐẢM TRANH TỤNG...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2019
của Bộ luật này, trường hợp vắng mặt
phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở
ngại khách quan hoặc trường hợp khác
do Bộ luật này quy định”6. Ngoài sự có
mặt bắt buộc của chủ thể “buộc tội”, Tòa
án chỉ xét xử vắng mặt những chủ thể
tranh tụng (thuộc diện người tham gia tố
tụng) trong trường hợp họ vắng mặt vì lý
do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách
quan. Tuy nhiên, cần hạn chế bớt những
trường hợp xét xử vắng mặt bị cáo, bị hại
như quy định hiện nay tại các Điều 290;
292 của BLTTHS7. Muốn vậy, trước mắt,
khi chuẩn bị xét xử Tòa án phải giao các
quyết định tố tụng cần thiết cho những
người tham gia tố tụng được Tòa án triệu
tập đến phiên tòa đúng thời hạn luật
định. Những trường hợp người tham gia
tố tụng vắng mặt tại phiên tòa vì lý do bất
khả kháng hoặc do trở ngại khách quan
thì phải hoãn phiên tòa; trường hợp họ
vắng mặt do lỗi của Tòa án như không
giao các quyết định cần thiết như quyết
định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập
đến phiên tòa hoặc giao không đúng thời
hạn khiến họ không có thời gian chuẩn
bị đến tòa hoặc chuẩn bị các tài liệu cần
thiết cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ thì kiên quyết không xét xử
vắng mặt họ.
Hai là, Tòa án có trách nhiệm tạo điều
kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào
chữa, những người tham gia tố tụng khác
thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của
mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng
trước Tòa án. Trong giai đoạn xét xử, chủ
thể thực hiện chức năng xét xử là Tòa án
có vai trò trọng tài đứng giữa các bên
6 Đoạn 2 Điều 26 BLTTHS năm 2015.
7 Xem Điều 290. Sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa;
Điều 292. Sự có mặt của bị hại, đương sự hoặc đại
diện của họ
tranh tụng để phân xử. Tòa án có trách
nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị
cáo, người bào chữa, những người tham
gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền,
nghĩa vụ của mình tại phiên tòa xét xử.
Tòa án có trách nhiệm bảo đảm sao cho
mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ
xác định vô tội; chứng cứ xác định tình
tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự; chứng cứ giúp áp dụng
điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để
xác định tội danh, quyết định hình phạt,
mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo,
xử lý vật chứng và những tình tiết khác
có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án
đều phải được xét hỏi, trình bày, tranh
luận, làm rõ tại phiên tòa. Tại phiên tòa,
HĐXX không chỉ điều khiển thủ tục bắt
đầu phiên tòa, xét hỏi, tranh luận làm rõ
chứng cứ đã thu thập trong các giai đoạn
tố tụng trước đó mà còn thu thập, xem
xét, đánh giá một cách bình đẳng, đầy đủ,
không thiên vị cả chứng cứ mới được các
bên đưa ra tại phiên tòa.
Tòa án tuyệt đối không được hạn chế
thời gian và số lần phát biểu khi bên gỡ
tội thực hiện quyền đưa chứng cứ, quan
điểm và tranh luận với Kiểm sát viên tại
phiên tòa vì bất cứ lý do gì. Đồng thời,
Tòa án cũng phải bảo đảm cho bên buộc
tội (Kiểm sát viên) thực hiện đầy đủ trách
nhiệm của mình trong quá trình tranh
tụng sao cho mọi ý kiến tranh luận mà
bên gỡ tội đưa ra trái quan điểm của bên
“buộc tội” đều phải được phản hồi, tránh
việc Kiểm sát viên từ chối đối đáp khi
tranh luận với bị cáo, người bào chữa vì
lý do giữ nguyên quan điểm truy tố và
luận tội.
Thứ ba, tranh tụng trong xét xử được
bảo đảm bằng quy định nguyên tắc ra
bản án, quyết định của Tòa án căn cứ chủ
yếu vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng
41Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2019
VŨ GIA LÂM
cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
Bản án, quyết định của Tòa án (HĐXX) là
kết quả của hoạt động xét xử công khai
tại phiên tòa nên phải bảo đảm được mục
đích của tố tụng hình sự là đúng người,
đúng tội, áp dụng đúng pháp luật. Muốn
vậy, việc ra bản án, quyết định phải căn
cứ vào kết quả thẩm tra chứng cứ đã thu
thập thể hiện trong hồ sơ vụ án và chứng
cứ mới được các bên đưa ra tại phiên tòa
cũng như kết quả tranh tụng giữa các chủ
thể tố tụng tại phiên tòa. Quy định như
vậy một mặt giúp HĐXX thật sự độc lập
khi xét xử, không lệ thuộc quá nhiều vào
hồ sơ vụ án, đề nghị hay kết luận của Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, giúp tránh
tình trạng “án tại hồ sơ”, “án bỏ túi”, mặt
khác, sẽ giúp xác định sự thật vụ án khách
quan, toàn diện, đầy đủ do HĐXX được
trực tiếp chứng kiến việc cọ sát công khai
và công bằng các quan điểm của hai bên
buộc tội và gỡ tội tại phiên tòa.
3. Thủ tục phiên tòa sơ thẩm vụ án
hình sự theo quy định hiện hành và
việc đổi mới quy định về thủ tục tố tụng
của phiên tòa sơ thẩm nhằm bảo đảm
tranh tụng
Thủ tục phiên tòa sơ thẩm vụ án hình
sự được quy định tại các mục từ Mục 4 đến
Mục 6 của Chương 21 “Xét xử sơ thẩm”
của BLTTHS. Theo đó, về cách thức tiến
hành xét xử sơ thẩm, phiên tòa sơ thẩm
được tiến hành theo trình tự ba bước là:
thủ tục bắt đầu phiên tòa; thủ tục tranh
tụng tại phiên tòa; nghị án và tuyên án.
Khi nghiên cứu các quy định của BLTTHS
về thủ tục phiên tòa sơ thẩm trên phương
diện bảo đảm tranh tụng, chúng tôi thấy
cách quy định của Bộ luật này chưa thể
hiện rõ tư tưởng đề cao tranh tụng và
tranh tụng chưa được bảo đảm thực hiện
đầy đủ và triệt dể theo đúng nghĩa tranh
tụng tại các thủ tục tiếp theo của phiên
tòa. Có chăng, sự thể hiện rõ nhất tư tưởng
này là việc quy định gộp hai bước “xét
hỏi tại phiên tòa” và “tranh luận tại phiên
tòa” của trình tự tố tụng tại phiên tòa sơ
thẩm quy định tại BLTTHS năm 2003 làm
một và đặt tên cho nó là “thủ tục tranh
tụng tại phiên tòa”. Tuy nhiên, khi đi sâu
nghiên cứu nội dung quy định của thủ tục
này, chúng tôi thấy các quy định trong đó
dù đã có những thay đổi nhất định so với
quy định tại BLTTHS năm 2003 theo chiều
hướng tích cực, nhưng thực sự còn ít có
thay đổi theo hướng đề cao và bảo đảm
tranh tụng như yêu cầu của nguyên tắc
bảo đảm tranh tụng đã quy định. Các quy
định về thủ tục bắt đầu phiên tòa cơ bản
vẫn là phần độc diễn của Chủ tọa phiên
tòa, hầu như ít có quy định tạo điều kiện
cho sự cọ sát lẫn nhau khi có quan điểm
đối lập giữa các bên tranh tụng về những
vấn đề cần giải quyết có liên quan đến
điều kiện bảo đảm tranh tụng về nội dung
vụ án. Đặc biệt, quy định về xét hỏi là một
bước quan trọng của quá trình tranh tụng
tại phiên tòa về cơ bản vẫn đặt nặng trách
nhiệm xét hỏi lên vai Tòa án (HĐXX). Cụ
thể, trong các quy định về xét hỏi bị cáo,
bị hại, đương sự, người làm chứng vẫn
quy định chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau
đó chủ tọa quyết định để Thẩm phán, Hội
thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa
xét hỏi8. Những vấn đề mà Kiểm sát viên,
người bào chữa hỏi nhưng người được
xét hỏi trả lời chưa đầy đủ hoặc có mâu
thuẫn, lẽ ra phải để cho những người đặt
câu hỏi yêu cầu người đã trả lời tiếp tục
trình bày làm rõ thì đa phần lại quy định
việc đó thuộc trách nhiệm của HĐXX.
Như vậy, tại phiên tòa, thực chất HĐXX
vẫn là người xét hỏi chính; trong khi để
bảo đảm tranh tụng đúng nghĩa, Tòa án
8 Khoản 2 Điều 307; các Điều 309, 310, 311
BLTTHS.
42
THỦ TỤC PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VÀ VIỆC BẢO ĐẢM TRANH TỤNG...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2019
(HĐXX) phải là trọng tài đứng giữa hai
bên tranh tụng tại phiên tòa, lắng nghe
các câu hỏi và trình bày của người bị xét
hỏi để thẩm tra chứng cứ, xác định sự thật
của vụ án. Hội đồng xét xử căn cứ vào
kết quả xét hỏi, tranh luận của bên buộc
tội và gỡ tội để đưa ra kết luận về những
vấn đề thuộc nội dung vụ án chứ không
phải là chủ thể tranh tụng tại phiên tòa.
Việc lắp ghép như vậy nếu xem xét dưới
góc độ bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa
xét xử vẫn còn mang nặng tính hình thức
mà chưa đi vào thực chất của tranh tụng,
chưa thấy rõ vai trò, vị trí của các chủ thể
tranh tụng cũng như vai trò trọng tài của
Tòa án (HĐXX).
Theo chúng tôi, để bảo đảm tranh
tụng được thực hiện, trước hết cần xác
định: tại phiên tòa sơ thẩm, tranh tụng
được bắt đầu từ khi nào; để từ đó có
những quy định về thủ tục tố tụng phù
hợp với yêu cầu bảo đảm tranh tụng.
Xác định thời điểm bắt đầu của tranh
tụng tại phiên tòa sơ thẩm sẽ xác lập được
cơ chế bảo đảm tranh tụng và ngược lại
cơ chế bảo đảm tranh tụng sẽ giúp cho
tranh tụng được thực hiện. Hiện nay, vẫn
còn nhiều quan điểm khác nhau về thời
điểm bắt đầu tranh tụng.
Quan điểm thứ nhất cho rằng “tranh
tụng là tranh luận tại phiên tòa”. Do đó,
bảo đảm và nâng cao tính tranh tụng tại
phiên tòa đồng nghĩa với việc nâng cao
hơn nữa hoạt động tranh luận tại phiên
tòa9. Theo quan điểm này thì tranh tụng
được đồng nhất với tranh luận và vì vậy
chỉ bắt đầu khi tranh luận tại phiên tòa.
Quan điểm thứ hai cho rằng “tranh
9 Học Viện Tư pháp, Tranh tụng tại phiên tòa- Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn, Đề tài cấp cơ sở, Hà
Nội, 2003, tr.122
tụng phải được xác định là từ khi mở phiên
tòa cho đến khi kết thúc phiên tòa”10.
Quan điểm thứ ba “Tranh tụng là
tranh luận trong tố tụng. Tranh tụng trong
tố tụng hình sự diễn ra giữa bên buộc tội
và bên bào chữa, chủ yếu là giữa công tố
và người bào chữa của bị cáo... Nội dung
tranh tụng tại phiên tòa được thực hiện cả
trong giai đoạn bắt đầu, trong xét hỏi và
trong tranh luận”11. Theo quan điểm này
thì tại phiên tòa, tranh tụng bắt đầu ngay
từ thủ tục bắt đầu phiên tòa và xuyên
suốt quá trình tố tụng tại phiên tòa, trừ
phần nghị án và tuyên án.
Quan điểm thứ tư: “tranh tụng trong
tố tụng hình sự không chỉ đơn thuần là
tranh luận giữa các bên có ý kiến, quan
điểm đối lập nhau và hoạt động tranh
tụng không chỉ diễn ra tại phiên tòa.
Tranh tụng phải được bắt đầu ngay từ
khi có hoạt động đầu tiên của bên buộc
tội (khởi tố bị can, lấy lời khai của người
bị tình nghi,) và tương ứng với đó là
hoạt động của bên bị buộc tội (thu thập
chứng cứ để gỡ tội, đưa chứng cứ, yêu
cầu,). Vì vậy tranh tụng được tiến hành
trong tất cả các giai đoạn của tố tụng hình
sự, từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố
đến giai đoạn xét xử. Trong giai đoạn xét
xử tại phiên tòa, tranh tụng được thể hiện
rõ nét nhất, tập trung nhất”12. Quan điểm
này đưa đến cách hiểu về tranh tụng quá
rộng, chưa đúng với bản chất của tranh
tụng, khó có điều kiện bảo đảm thực hiện
trong mô hình tố tụng nước ta.
10 Ngô Hồng Phúc (2003), “Vấn đề nâng cao chất
lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự”, Tòa án
nhân dân, (2).
11 Trần Văn Độ, Bản chất của tranh tụng tại phiên
tòa, Tạp chí KHPL số 4/2004, tr.18; 22);
12 Nguyễn Văn Trượng, Bàn về tranh tụng và các yếu
tố tranh tụng trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân số 10/5/2008, tr.22.
43Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2019
VŨ GIA LÂM
Nghiên cứu các quan điểm này, chúng
tôi thấy mỗi quan điểm đều xuất phát từ
những lập luận cụ thể và đều chứa đựng
những yếu tố hợp lý và chưa hợp lý nhất
định. Tuy nhiên, về cơ bản chúng tôi nhất
trí với quan điểm thứ ba: tranh tụng phải
được thực hiện trong giai đoạn bắt đầu
phiên tòa, trong xét hỏi và trong tranh
luận mà không thực hiện trong giai đoạn
nghị án và tuyên án như quan điểm thứ
hai. Bởi vì, ngay từ thời điểm này, các bên
tham gia tranh tụng tại phiên toà đã được
bày tỏ ý kiến của mình về những vấn đề
có liên quan đến việc xét xử và có thể đã
xuất hiện sự cọ xát giữa các quan điểm
khác nhau về cùng một vấn đề. Ví dụ: khi
bị cáo đề nghị thay đổi Kiểm sát viên tại
tòa, ngoài việc quy định Chủ tọa phiên
tòa yêu cầu bị cáo trình bày lý do đưa ra
đề nghị ấy, Kiểm sát viên trình bày quan
điểm của mình về những lý do mà bị cáo
đưa ra, nên quy định Tòa án phải hỏi ý
kiến của những người tham gia tố tụng
có liên quan khác, những người này có
thể đưa ra lý do bác bỏ hay đồng tình với
yêu cầu của bị cáo về việc thay đổi Kiểm
sát viên, các bên có thể đối đáp với nhau
về vấn đề này ngay tại thủ tục bắt đầu
phiên tòa; khi có người tham gia tố tụng
vắng mặt tại phiên tòa ngoài việc hỏi ý
kiến của Kiểm sát viên, những người
tham gia tố tụng có quyền và lợi ích pháp
lý liên quan xem có cần hoãn phiên tòa
để triệu tập người vắng mặt hay không,
nên quy định Chủ tọa phiên tòa để họ
tranh luận với nhau nếu có ý kiến bất
đồng trước khi HĐXX giải quyết. Vì vậy,
pháp luật tố tụng quy định các bên tham
gia tố tụng có quyền yêu cầu triệu tập
thêm người làm chứng, quyền đưa ra các
chứng cứ mới hoặc yêu cầu đưa thêm vật
chứng ra xem xét tại phiên tòa. Nhiệm vụ
của Tòa án là đảm bảo để các bên thực
hiện đầy đủ các quyền tố tụng này, tránh
trường hợp với tâm lý sợ phiền phức, sợ
mất thời gian, không hoàn thành chỉ tiêu,
kế hoạch xét xử hay sợ phiên tòa không
đi theo hướng đã định sẵn hoặc sẽ phải
kéo dài, nên không chú trọng thủ tục này
tại phần thủ tục bắt đầu phiên tòa.
Chúng tôi cho rằng, bảo đảm tranh
tụng trong xét xử được thực hiện trong
suốt quá trình tố tụng nhưng hoạt động
tranh tụng thực sự chỉ bắt đầu tại phiên
tòa xét xử và được thể hiện tập trung nhất
trên hai phương diện: quy định của pháp
luật và thi hành các quy định này. Trước
hết, các quy định về thủ tục tố tụng tại
phiên tòa phải được quy định sao cho sự
vận hành quá trình tố tụng tại phiên tòa
phản ánh đầy đủ yêu cầu của nguyên tắc
tranh tụng đã nêu ở phần trên. Đồng thời,
cần quy định tranh tụng không chỉ là sự
cọ sát quan điểm giữa bên buộc tội và gỡ
tội về những vấn đề liên quan đến buộc
tội, gỡ tội, đến trách nhiệm hình sự mà
cả sự cọ sát quan điểm về những vấn đề
khác là điều kiện bảo đảm thuận lợi cho
việc tranh tụng của các bên tại phiên tòa
có hiệu quả như vấn đề cung cấp chứng
cứ, triệu tập người tham gia tố tụng, thay
đổi người tiến hành tố tụng, hoãn phiên
tòa để triệu tập người vắng mặt Do đó,
tranh tụng cần phải được thực hiện ngay
từ phần “Thủ tục bắt đầu phiên tòa”. Qua
nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng quy định
của BLTTHS hiện hành về thủ tục phiên
tòa sơ thẩm chưa thể hiện hết các yêu cầu
của nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong
xét xử. Hiện tại, mặc dù BLTTHS đã có
hiệu lực thi hành được hơn một năm
nhưng việc ban hành các văn bản hướng
dẫn áp dụng các quy định của Bộ luật này
còn chậm, các chế định lớn, quan trọng
có nhiều sửa đổi, bổ sung so với BLTTHS
năm 2003 như biện pháp ngăn chặn, biện
pháp cưỡng chế; xét xử sơ thẩm; xét xử
44
THỦ TỤC PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VÀ VIỆC BẢO ĐẢM TRANH TỤNG...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2019
phúc thẩm chưa có văn bản hướng dẫn
thi hành. Tuy nhiên, vì BLTTHS vừa mới
có hiệu lực thi hành, chưa có đủ thời gian
để tổng kết thực tiễn, đánh giá, rút kinh
nghiệm nên theo chúng tôi trong thời
gian trước mắt, để bảo đảm tính ổn định
và thống nhất của BLTTHS đồng thời
cũng giúp thực hiện đúng nội dung, yêu
cầu của nguyên tắc tranh tụng thể hiện
tại Điều 26 Bộ luật này cần kịp thời triển
khai thực hiện một số công việc sau:
Thứ nhất, tổ chức thực hiện tốt quy
định của BLTTHS hiện hành vốn đã có
những sửa đổi, bổ sung theo hướng tích
cực hơn nhiều so với BLTTHS năm 2003
thông qua công tác tuyền truyền, phổ
biến giáo dục pháp luật trong nhân dân,
tổ chức các lớp tập huấn trong các cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng về
những nội dung mới của BLTTHS và các
văn bản pháp luật khác có liên quan;
Thứ hai, khẩn trương ban hành
những văn bản hướng dẫn các quy định
của BLTTHS, nhất là những quy định có
nhiều sự sửa đổi, bổ sung mới về địa vị
pháp lý của các chủ thể tố tụng, chứng cứ
và chứng minh, về bào chữa và đặc biệt
về thủ tục tranh tụng tại phiên tòa theo
hướng đề cao vai trò của Kiểm sát viên,
người bào chữa, người tham gia tố tụng
có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án;
Thứ ba, cần tiếp tục nghiên cứu để
trong thời gian tới, trên cơ sở tổng kết thực
tiễn thi hành BLTTHS có thể sửa đổi, bổ
sung một số điều luật quy định của Bộ luật
này về thủ tục tố tụng chưa thể hiện rõ và
đầy đủ nội dung và yêu cầu xuyên suốt
của nguyên tắc này tại phiên tòa xét xử.
Chúng tôi đề xuất, trong tương lai
khi hội đủ các điều kiện để sửa đổi, bổ
sung quy định của BLTTHS, nên bỏ việc
gộp hai bước của thủ tục phiên tòa xét
xử để gọi đó là “thủ tục tranh tụng tại
phiên tòa” như quy định hiện nay của
BLTTHS, giữ nguyên trình tự phiên tòa
theo bốn bước như quy định của BLTTHS
năm 2003, đồng thời cần sửa đổi, bổ sung
một số điều của BLTTHS trong ba bước
của trình tự này phù hợp với yêu cầu của
nguyên tắc tranh tụng (thủ tục bắt đầu
phiên tòa; xét hỏi tại phiên tòa; tranh luận
tại phiên tòa. Trước tiên là quy định tại
phần thủ tục bắt đầu phiên tòa như sau:
Điều 302. Giải quyết việc đề nghị thay
đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên,
Thư ký Tòa án, người giám định, người
định giá tài sản, người phiên dịch, người
dịch thuật
Chủ tọa phiên tòa phải hỏi Kiểm sát
viên và những người tham gia tố tụng có
mặt tại phiên tòa xem họ có đề nghị thay
đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên,
Thư ký Tòa án, người giám định, người
định giá tài sản, người phiên dịch, người
dịch thuật hay không, lý do của việc đề
nghị thay đổi. Nếu có người đề nghị thì Hội
đồng xét xử phải hỏi những người khác để biết
quan điểm của họ về việc đề nghị đó trước khi
xem xét và quyết định. Người đưa ra yêu cầu có
quyền đáp lại các ý kiến này nếu không đồng ý.
Điều 305. Giải quyết yêu cầu về xem
xét chứng cứ và hoãn phiên tòa khi có
người vắng mặt
Chủ tọa phiên tòa phải hỏi Kiểm sát
viên và những người tham gia tố tụng
xem ai có yêu cầu triệu tập thêm người
làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật
chứng và tài liệu ra xem xét hay không.
Nếu có người tham gia tố tụng vắng mặt
hoặc tuy có mặt tại phiên tòa nhưng vì lý
do sức khỏe không thể tham gia tố tụng
thì Chủ tọa phiên tòa phải hỏi xem có ai
yêu cầu hoãn phiên tòa hay không. Nếu
có người yêu cầu thì Hội đồng xét xử phải
45Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2019
VŨ GIA LÂM
hỏi những người khác để biết quan điểm của
họ về yêu cầu đó trước khi xem xét và quyết
định. Người đưa ra yêu cầu có quyền đáp lại
các ý kiến này nếu không đồng ý.
Để có đủ cơ sở cho HĐXX đưa ra các
phán quyết chính xác về các vấn đề thuộc
nội dung vụ án (những vấn đề bắt buộc
phải chứng minh của vụ án), các bên
tham gia tranh tụng cần được tạo điều
kiện thuận lợi nhất để tham gia tích cực
vào việc điều tra, xét hỏi tại phiên toà. Bởi
lẽ, xét hỏi thực chất là cuộc điều tra công
khai, chính thức tại phiên tòa để xác định
sự thật của vụ án. Vì vậy, các bên tranh
tụng có quyền (hoặc nghĩa vụ) tham gia
tích cực vào quá trình điều tra, xét hỏi
dưới sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa
bằng các hình thức khác nhau như: trực
tiếp hỏi người tham gia tố tụng (quyền
này pháp luật tố tụng hình sự hiện hành
nước ta quy định thuộc về Kiểm sát viên,
Thẩm phán, Hội thẩm, người bào chữa, bị
cáo) hoặc hỏi thông qua Chủ toạ phiên
toà (thể hiện trong quy định bị cáo, người
bị hại, nguyên đơn dân sự, có quyền
đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về
các tình tiết của vụ án mà họ quan tâm).
Đồng thời, các bên tham gia tố tụng tại
phiên tòa có quyền xem xét vật chứng,
tài liệu đã thu thập được. Việc điều tra,
xét hỏi chỉ kết thúc khi HĐXX (Chủ tọa
phiên tòa) xét thấy qua xét hỏi, các yếu
tố thuộc đối tượng chứng minh trong vụ
án đã được xác định đầy đủ, các tình tiết
liên quan đến việc giải quyết mọi vấn
đề thuộc nội dung vụ án cụ thể đó đã
được làm rõ13. Mặc dù hiện nay, Điều 307
BLTTHS quy định về xét hỏi tại phiên tòa
đã có một số sửa đổi, bổ sung so với quy
định tương ứng của Điều 207 BLTTHS
13 Xem Điều 85 và Điều 416 BLTTHS về các vấn đề
cần phải chứng minh trong vụ án hình sự.
năm 2003 và phần nào đã khắc phục được
những hạn chế của Bộ luật này như đã
phân tích ở phần trên nhưng theo chúng
tôi việc quy định như vậy chưa thật đầy
đủ, chưa thể hiện rõ tinh thần đề cao, mở
rộng và bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa.
Vì vậy, để xác định đúng bản chất và nội
dung của hoạt động xét hỏi tại phiên toà,
đề cao yếu tố tranh tụng, nên sửa đổi, bổ
sung Điều 307 BLTTHS về trình tự xét
hỏi theo hướng thể hiện rõ nhất các chức
năng tố tụng của các chủ thể tố tụng tại
phiên tòa, nhờ đó sẽ làm cho việc xét hỏi
của HĐXX bớt nặng nề, và HĐXX dần
trở thành trọng tài công tâm đứng giữa
hai bên “buộc tội” và “gỡ tội” tại phiên
tòa, để nhờ đó mà có những phán quyết
khách quan, đúng đắn. Để đề cao yếu tố
tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm, khi xét
hỏi chỉ nên quy định theo hướng Thẩm
phán chỉ hỏi có tính chất nêu vấn đề,
mang tính định hướng cho Kiểm sát viên,
người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi
của đương sự hỏi về những vấn đề thuộc
nội dung vụ án mà họ quan tâm “để
đảm bảo khách quan, Chủ tọa phiên tòa
chỉ nên hỏi có tính chất nêu vấn đề, còn lại
những câu hỏi có tính chất buộc tội hoặc
gỡ tội, dành cho Kiểm sát viên và người
bào chữa”14. Theo chúng tôi, cần sửa đổi,
bổ sung Điều 307 BLTTHS như sau:
Điều 307. Trình tự xét hỏi
1. Hội đồng xét xử phải xác định đầy
đủ các tình tiết về từng sự việc, từng tội
trong vụ án và từng người. Chủ tọa phiên
tòa điều hành việc xét hỏi. Trước khi xét hỏi
từng người, chủ tọa phiên tòa chỉ hỏi những
người này để biết quan điểm của họ về những
vấn đề thuộc nội dung cáo trạng có liên quan
14 Tòa án nhân dân tối cao (2002), Kết luận của Hội
thảo khoa học: Tranh tụng tại phiên tòa hình sự,
Hà Nội.
46
THỦ TỤC PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VÀ VIỆC BẢO ĐẢM TRANH TỤNG...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2019
đến họ. Việc xét hỏi để buộc tội, gỡ tội chủ yếu
dành cho Kiểm sát viên và người bào chữa.
2. Khi xét hỏi từng người, Kiểm sát
viên xét hỏi trước, rồi đến người bào chữa,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bị hại, đương sự. Đối với những vấn đề liên
quan đến nội dung vụ án mà Kiểm sát viên và
người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bị hại,đương sự khi xét hỏi chưa
làm rõ hoặc xét hỏi chưa đầy đủ, Thẩm phán
Chủ tọa phiên tòa đề nghị những người này
tiếp tục xét hỏi hoặc có thể cùng các thành
viên khác của Hội đồng xét xử xét hỏi thêm.
Bị cáo có quyền đề nghị Chủ tọa phiên tòa hỏi
hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa
nếu được chủ tọa đồng ý.
Những người khác tham gia tố tụng tại
phiên tòa cũng có quyền đề nghị với chủ
tọa phiên tòa cho xét hỏi thêm về các tình
tiết cần làm sáng tỏ.
Người giám định, người định giá tài
sản được xét hỏi về những vấn đề có liên
quan đến việc giám định, định giá tài sản.
3. Cùng với việc nghe Kiểm sát viên và
người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của
đương sự xét hỏi và trực tiếp xét hỏi nếu thấy
cần thiết, Hội đồng xét xử kết hợp xem xét các
vật chứng, tài liệu có liên quan trong vụ án.
Theo chúng tôi, để bảo đảm sự thống
nhất với quy định tại Điều 307 BLTTHS
về trình tự xét hỏi đã sửa đổi, bổ sung
trên, cần sửa đổi, bổ sung một số điều
khác quy định về việc xét hỏi những đối
tượng cụ thể như sau:
Điều 309. Xét hỏi bị cáo
1. (giữ nguyên);
2. Trước khi xét hỏi bị cáo, chủ tọa phiên
tòa yêu cầu bị cáo trình bày ý kiến về bản
cáo trạng và những tình tiết của vụ án sau
đó đề nghị Kiểm sát viên, người bào chữa,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị
hại, đương sự xét hỏi.
Kiểm sát viên hỏi bị cáo về những
chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến
việc buộc tội, gỡ tội và những tình tiết
khác của vụ án.
Người bào chữa hỏi bị cáo về những
chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến
việc bào chữa và tình tiết khác của vụ án.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại, đương sự hỏi bị cáo về
những tình tiết liên quan đến việc bảo vệ
quyền và lợi ích của đương sự.
Hội đồng xét xử có thể yêu cầu kiểm sát
viên, người bào chữa tiếp tục xét hỏi hoặc tự
mình hoặc theo đề nghị của bị hại, người bào
chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị hại, đương sự hỏi thêm về những
điểm mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ
hoặc có mâu thuẫn.
Những người tham gia tố tụng tại
phiên tòa có quyền đề nghị Chủ tọa phiên
tòa hỏi thêm về những tình tiết liên quan
đến họ.
3. (giữ nguyên)
Điều 310. Hỏi bị hại, đương sự hoặc
người đại diện của họ;
Chủ tọa phiên tòa yêu cầu bị hại, đương
sự hoặc người đại diện của họ trình bày
những tình tiết của vụ án có liên quan
đến họ. Sau đó, Kiểm sát viên, người bào
chữa và người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bị hại, đương sự hỏi thêm
về những điểm mà họ trình bày chưa đầy
đủ hoặc có mâu thuẫn. Hội đồng xét xử
có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của người
tham gia tố tụng hỏi thêm bị hại, người đại
diện của bị hại về những tình tiết cần thiết
mà họ trình bày chưa rõ ràng, đầy đủ hoặc có
mâu thuẫn.
47Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2019
VŨ GIA LÂM
Khi được Chủ tọa phiên tòa đồng ý,
bị cáo có thể hỏi bị hại, đương sự hoặc
người đại diện của họ về các vấn đề có
liên quan đến bị cáo.
Điều 311. Hỏi người làm chứng
1. (giữ nguyên)
2. Khi hỏi người làm chứng, Hội
đồng xét xử phải hỏi rõ về quan hệ giữa
họ với bị cáo và các đương sự trong vụ
án. Chủ tọa phiên tòa yêu cầu người
làm chứng trình bày rõ những tình tiết
của vụ án mà họ đã biết, sau đó đề nghị
Kiểm sát viên, người bào chữa, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bị hại, đương sự xét hỏi người làm chứng.
Hội đồng xét xử có thể tự mình hoặc theo đề
nghị của người tham gia tố tụng hỏi thêm
về những điểm mà họ khai chưa rõ ràng,
đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.
.
3. (giữ nguyên);
4. (giữ nguyên).
Bên cạnh đó, để đảm bảo quyền bình
đẳng trước Tòa án, các bên tranh tụng
được tạo điều kiện tốt nhất để trình bày
quan điểm của mình, phát biểu ý kiến về
đánh giá chứng cứ của vụ án, phản bác
yêu cầu, đề nghị do các bên đối lập đưa
ra tại phiên toà. Qua việc điều tra chính
thức, công khai tại phiên tòa, các chủ thể
tố tụng có cách nhìn nhận, đánh giá khác
nhau về kết quả việc chứng minh các tình
tiết của vụ án. Để thực hiện chức năng
tố tụng của mình, các bên tham gia tranh
tụng được (hoặc phải) công khai đưa ra ý
kiến đánh giá của mình về sự thật khách
quan của vụ án để giúp HĐXX cân nhắc
khi ra phán quyết. Các ý kiến đánh giá
khác nhau, sự phản biện lẫn nhau của các
bên tranh tụng tại phiên tòa sẽ giúp cho
Tòa án có cái nhìn đa chiều hơn về các tình
tiết của vụ án và có thái độ thận trọng hơn
khi đánh giá chứng cứ, kết luận các vấn
đề thuộc nội dung vụ án để ra phán quyết
khách quan, toàn diện và đầy đủ. Chúng
tôi cho rằng cần tiếp tục hoàn thiện Điều
322 BLTTHS quy định về tranh luận tại
phiên toà nhằm tạo điều kiện tối đa cho
bên buộc tội và gỡ tội đưa ra các lý lẽ,
lập luận để bảo vệ quan điểm của mình
và bác bỏ quan điểm của người khác về
những vấn đề thuộc nội dung vụ án, hạn
chế tình trạng tranh luận qua loa, nặng về
hình thức. Cụ thể, Điều 322 BLTTHS cần
sửa đổi, bổ sung như sau:
Điều 322. Tranh luận tại phiên tòa
1. (giữ nguyên)
2. Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ,
tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng
từng ý kiến và đề nghị của bị cáo, người
bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại
phiên tòa.Người tham gia tranh luận có
quyền đáp lại ý kiến của người khác.
3. Chủ tọa phiên tòa không được hạn
chế thời gian tranh luận và số lần được
phát biểu ý kiến đối đáp giữa những người
tham gia tranh luận, phải tạo điều kiện cho
Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, bị
hại, người tham gia tố tụng khác tranh
luận, trình bày hết ý kiến nhưng có quyền
cắt những ý kiến không liên quan đến vụ
án và ý kiến lặp lại.
Chủ tọa phiên tòa có quyền tự mình hoặc
theo yêu cầu của người tham gia tranh luận
yêu cầu Kiểm sát viên phải đáp lại những
ý kiến, đề nghị của người bào chữa, người
tham gia tố tụng khác mà những ý kiến
đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận.
Trong trường hợp này, Kiểm sát viên phải
thực hiện yêu cầu của Chủ toạ phiên toà.
4. (giữ nguyên)./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thu_tuc_phien_toa_xet_xu_so_tham_va_viec_bao_dam_tranh_tung.pdf