Kết quả trình bày trong bài báo này có ý nghĩa có
thực tiễn trong việc lập trình thành phần mềm cài
đặt vào thiết bị nhằm tự động hóa khoan lỗ, nổ mìn
trong việc thiết kế robot mới cũng như có thể cài
đặt cho các robot bán tự động mà Việt Nam đã
nhập ngoại nhằm nâng cao độ chính xác, hiệu quả
trong công tác khoan lỗ, nổ mìn. Ngoài ra, kết quả
này cũng là tiền đề để phát triển các loại tay máy
robot tự hành có tích hợp định vị vệ tinh để thể tự
động hóa quá trình khoan lỗ nổ mìn có giám sát từ
xa theo một quy trình đã được thiết kế, đây là một
trong những vấn đề nhóm tác giả tiếp tục nghiên
cứu trong thời gian tới.
10 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 583 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thuật toán điều khiển động học tay máy khoan lỗ nổ mìn trong thi công các công trình ngầm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 20, số K5-2017
13
Tóm tắt—Ngày nay trong thi công các đường
hầm ở những nơi có địa hình phức tạp phương
pháp sử dụng phổ biến vẫn là khoan lỗ nổ mìn.
Để nâng cao hiệu quả của công tác thi công, hiện
nay ở Việt Nam và một số nước đã đưa các tay
máy robot thủy lực tự hành với bảy bậc tự do,
có điều khiển bằng tay nhằm hiện đại hóa công
đoạn khoan lỗ, nổ mìn và nâng cao độ chính xác
thi công. Để có thể điều khiển tay máy robot tự
động khoan lỗ theo hộ chiếu nổ mìn đã được
thiết kế bởi chuyên gia địa chất và công trình
ngầm thì cần phải có một thuật toán điểu khiển
cài đặt vào bộ điều khiển của robot. Đây chính
là nội dung mà các tác giả sẽ trình bày trong bài
báo này.
Từ khoá—Tay máy robot, khoan lỗ nổ mìn, thi
công đường hầm, tay máy robot tự hành, công trình
ngầm.
1 GIỚI THIỆU
rong quá trình phát triển hơn sáu mươi năm
qua công nghệ khoan lỗ, nổ mìn trong thi
công đường hầm đã có những bước phát triển đáng
kể. Công nghệ khoan lỗ nổ mìn được biết đến từ
những năm 1940, với việc sử dụng các tay khoan
khí nén [1] thì một người có thể khoan 10m lỗ
trong vòng một giờ. Sau đó để tăng năng suất,
người ta đã đưa những giàn khoan gắn trên giàn
giáo gồm nhiều tay khoan khí nén được biết đến ở
trên. Bắt đầu những năm 1970, các cánh tay robot
thuỷ lực gắn trên xe tự hành được đưa vào thi công
đường hầm đã làm tăng năng suất thi công lên đáng
kể cụ thể một người vận hành thiết bị khoan được
125 m lỗ/một giờ.
Từ năm 1990 trở lại đây, với sự phát triển của
khoa học và công nghệ, các loại xe tự hành đã được
Bài báo này được gửi vào ngày 5 tháng 06 năm 2017 và
được chấp nhận đăng vào ngày 20 tháng 09 năm 2017.
Nguyễn Hồng Thái, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
(e-mail: thai.nguyenhong@hust.edu.vn)
Nguyễn Quang Thái, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
(e-mail: nguyenhongthai.vn@gmail.com)
nâng cấp với hai, ba cánh tay robot làm tăng năng
suất lên 275 m lỗ/một giờ, cho tới hiện nay là
500 m lỗ/một giờ. Quá trình phát triển của thiết bị
khoan lỗ, nổ mìn trong thi công đường hầm được
mô tả trong hình 1 dưới đây.
Cũng theo tài liệu [1] đã chỉ ra rằng để thi công
hiệu quả thì: xe tự hành một tay máy thi công
đường hầm có diện tích mặt cắt ngang là 20 m2
(chiều cao hầm 4,7 m và chiều rộng hầm 4,2 m).
Loại hai tay máy thường thi công đường hầm có
diện tich mặt cắt ngang 104 m2 (chiều cao hầm
9,7 m và chiều rộng hầm 13 m) và loại ba tay máy
thi công đường hầm 179 m2 (chiều cao hầm 10,6 m,
chiều rộng hầm 18 m). Ngày nay, với sự phát triển
của khoa học và công nghệ, để nâng cao hiệu quả
công tác khoan lỗ, nổ mìn trong thi công đường
hầm các nhà khoa học đã và đang nghiên cứu
chuyên sâu về từng công đoạn của thi công đường
hầm, trong đó phải kể đến:
- Nghiên cứu về cơ học đất đá: Trên cơ sở thực
tiễn quá trình thi công đường hầm Vouli ở Phần
Lan có đặc điểm địa chất tự nhiên với nhiều lớp
trầm tích, đá cứng được hình thành từ 1750÷1990
triệu năm về trước [3]. Nhóm tác giả A. Petko,
R. Ziman đã nghiên cứu đưa ra quy trình thi công
Thuật toán điều khiển động học tay máy khoan
lỗ nổ mìn trong thi công các công trình ngầm
Nguyễn Hồng Thái, Nguyễn Quang Thái
T
Hình 1. Lịch sử phát triển của khoan nổ mìn qua từng giai
đoạn [2]
14 Science and Technology Development Journal, vol 20, No.K5-2017
theo phương pháp khoan lỗ nổ mìn trong điều kiện
địa chất phức tạp. Để giải quyết được vấn đề này
nhóm tác giả đã tiến hành nghiên cứu đặc điểm cơ
học của đất đá, từ đó đưa ra quy trình thi công bao
gồm: hộ chiếu nổ mìn, kỹ thuật khoan, liều lượng
và loại thuốc nổ, kỹ thuât nổ để thi công đường
hầm này. Ngoài ra, nhóm tác giả cũng đưa ra bộ số
liệu thực nghiệm khi thi công đó là với hầm có diện
tích tiết diện cắt ngang 90 m2 thì cần phải khoan
163.471 m lỗ nổ, 157.333 kg thuốc nổ và 31.839
kíp nổ (trong đó 28.495 kíp của hãng Nonel LP và
3.344 kíp của hãng Firex VA-T ).
- Về hệ thống gia cố đường hầm khi thi công:
Trong quá trình thi công đường hầm các mỏ có đặc
điểm địa chất phức tạp như mỏ than Xiajing
(Quảng Tây) với độ sâu 600 m gồm đá thạch anh,
sa thạch, đá bùn hay mỏ than G. Zhibiao ở độ sâu
659 m có đặc điểm địa chất là đất cát thô, đá cuội
kết cán [4, 5] nhóm tác giả L. Xuefeng và
G. Zhibiao đã chỉ ra rằng: khi độ sâu của các mỏ
dưới lòng đất càng tăng thì vấn đề về gia cố các
vùng đất đá yếu rất cần được quan tâm bởi các
công cụ hỗ trợ thông thường chưa kiểm soát được
biến dạng, sụt lún dẫn đến mất an toàn trong quá
trình thi công, khai thác. Từ đó, nhóm tác giả đã
đưa ra giải pháp neo bu lông lưới neo thông qua
việc nghiên cứu các vấn đề của cơ học đất đá như:
độ dày đặc, cường độ chịu nén, độ bền kéo, độ đàn
hồi, hệ số biến dạng ngang của đất đá ở hai mỏ này.
Cùng về vấn đề này có tác giả P. K. Kaiser và
M. Cai [6] cũng đã chỉ ra rằng: khi các đường hầm
dân sinh và các mỏ khai thác khoáng sản có độ sâu
ngày càng tăng các dư chấn trong quá trình thi công
bằng phương pháp khoan lỗ, nổ mìn là khó có thể
ngăn chặn được. Hệ thống gia cố cho hầm có đất đá
dễ sạt lở khác với hệ thống gia cố thông thường [4,
5] với chức năng chính là cố định đất đá trước tác
dụng của trọng lực. Hệ thống chống cho hầm có đất
đá dễ sạt lở dùng trong môi trường có tải trọng
động khi đất đá có sự giãn nở sau mỗi lần nổ mìn.
Hệ thống gồm các bộ phận: gia cố đá và kiểm soát
việc phình to, giữ lại khối đá vỡ để ngăn chặn các
vết nứt lan rộng và cố định các vết nứt.
- Nghiên cứu về thiết bị để nâng cao hiệu quả
khoan lỗ nổ mìn trong đó phải kể đến:
+ Về kết cấu: J. Karlinski và các cộng sự [7, 8]
đã phát triển tay máy robot khoan nổ mìn đào hầm
thế hệ mới, bằng việc nghiên cứu, tính toán thiết kế
thông qua hệ thống phần mềm hiện đại để phân tích
tính toán bằng phương pháp phần tử hữu hạn với
điều kiện biên là các điều kiện thực tế trong thi
công đường hầm nhằm giảm chi phí thực nghiệm.
+ Xác định thông số công nghệ khi khoan: Để
xác định thông số kỹ thuật và chiều sâu khoan của
búa khoan “Jack Hammer” khi thi công đường hầm
trong điều kiện địa chất là các loại đá cứng, tác giả
V. Raghavan [9] đã tiến hành thí nghiệm trong hai
trường hợp đó là: Trường hợp thứ nhất sử dụng
búa khoan “Jack Hammer” thông thường còn
trường hợp thứ hai nối đầu búa khoan này với một
xi lanh khí nén để thí nghiệm khoan vào các loại đá
xanh, Syenite, Limestone với tốc độ khoan
1,5 m/phút và loại đá Biotie ở độ sâu 2,5 m/phút
với áp lực khí 4 kg/cm2. Từ các thí nghiệm này tác
giả đưa ra kết luận khi nối thêm xi lanh khí nén tốc
độ khoan cắt ăn sâu đất đá cao hơn. Cùng với
hướng nghiên cứu này còn có tác giả R. Phillips và
các cộng sự [10] đã đưa ra giải pháp dùng động cơ
điện một chiều để thay thế cho khoan khí nén và
thuỷ lực. Kết quả đã được thử nghiệm trên robot
ExoMars của dự án hợp tác giữa cơ quan vũ trụ
Nga (Roscosmos) và cơ quan vũ trụ châu Âu (ESA)
trong việc khoan lấy mẫu đất đá ở hành tinh đỏ nhằm
tìm kiếm dấu hiệu của sự sống trên hành tinh này.
+ Ngoài những nghiên cứu về phần cứng thì
phần mềm cũng được quan tâm nghiên cứu trong
đó phải kể đến M.Torrngren [11] đã ứng dụng hệ
điều khiển phân tán để điều khiển các thiết bị thi
công thuỷ lực trong thi công dự án “Noddator” năm
1989. Ngoài ra khi thi công đường hầm (Boliden ở
Thuỵ Sỹ và Kemi ở Phần Lan) các tác giả G.Nord,
J. Appelgren và Casper Swart [12, 13] đã đưa ra
thuật toán ABC để điều khiển một cách tích hợp hệ
thống máy tính, bộ điều khiển để có thể khoan một
cách tự động trong quá trình thi công. Ngoài ra hệ
thống này cũng có chế độ điều khiển bằng tay như
các hệ thống khác khi cần thiết.
Về lĩnh vực thiết bị thi công các công trình ngầm
ở trong nước chưa được quan tâm nghiên cứu mà
hầu như chỉ tập trung vào khai thác, vận hành, bảo
dưỡng các thiết bị nhập khẩu ví dụ như công ty
Lũng Lô đã nhập khẩu các xe tự hành hai tay máy
của hãng AtlasCopco để thi công, các công trình cỡ
lớn như: thuỷ điện A Vương (Quảng Nam), thủy
Xe hai thân
Giá khoan
đập xoay
Giá đỡ thao tác
nạp nổ mìn
Cabin điều
khiển
Hình 2. Xe tự hành ba tay máy của hãng AtlasCopco
Tay máy Robot 7 bậc
tự do
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 20, số K5-2017
15
điện Đa Mi (Hàm Thuận).v.v
Ngoài ra, còn một số công ty khai thác than cũng
đã nhập khẩu xe tự hành (Sandvik Tamrock) hay
BFRK1 (Deilmann - Haniel Mining Systems) để đào
các đường hầm khai thác than cỡ trung và cỡ lớn.
Mặt khác, các hãng sản xuất trên thế giới thường sản
xuất các thiết bị thi công đường hầm cỡ lớn. Trong
khi một vấn đề thực tiễn hiện nay ở các thuỷ điện cỡ
nhỏ và vừa các đường hầm dẫn dòng thường được
thi công bằng khoan lỗ nổ mìn một cách thủ công
với các búa khoan khí nén cầm tay ví dụ như: PP-
30, PP-24, PP-54, PP-63 của Nga, YT-25, YT-27,
YL-18, YL-24 của Trung Quốc, PLB-241K của
Thụy Sỹ... dẫn đến chất lượng nổ mìn không cao do
lỗ khoan thường bị sai lệch nhiều so với hộ chiếu
thiết kế và năng suất thấp làm hiệu quả kinh tế
không cao. Ngoài ra trong lĩnh vực an ninh quốc
phòng cũng có nhu cầu lớn về xây các đường hầm
công binh cỡ nhỏ nằm trong các khu vực có địa
hình hiểm trở. Do đó, việc nghiên cứu, thiết kế
các xe tự hành tay máy robot trong việc khoan lỗ
nổ mìn phục vụ thi công các đường hầm nhỏ ở
Việt Nam là cần thiết.
Để góp phần vào giải quyết vấn đề này trong bài
báo này chúng tôi trình bày một số vấn đề sau:
- Trình bày một cách tóm tắt về quy trình đào
hầm theo phương pháp khoan lỗ, nổ mìn để từ đó
đưa ra yêu cầu cho bài toán thiết kế robot. Vấn đề
này sẽ được trình bày ở mục 2 của bài báo.
- Từ công đoạn khoan lỗ theo hộ chiếu nổ mìn và
khoan lỗ gia cố đường hầm được trình bày ở mục 2,
bài báo tiến hành mô hình hoá và thiết lập phương
trình động học của robot trong mục 3.
- Mục 4 của bài báo trình bày quy trình thiết kế
quỹ đạo điều khiển chuyển động tay máy trong công
tác khoan lỗ mìn theo mặt gương.
2 QUY TRÌNH THI CÔNG ĐƯỜNG HẦM
THEO PHƯƠNG PHÁP KHOAN LỖ NỔ
MÌN
Hình 3 mô tả quy trình đào hầm bằng phương
pháp khoan lỗ nổ mìn, trong đó:
Công tác xác định hộ chiếu nổ mìn: Ở công
đoạn này người kĩ sư địa chất xác định toạ độ từ lỗ
khoan dựa vào cấu tạo và kích thước hầm cần đào
để thiết lập vị trí khoan nổ mìn.
Công đoạn khoan nổ mìn: Trong thực tế sử
dụng các tay máy để khoan các lỗ nạp mìn có chiều
sâu từ 2 m ÷ 4 m đối với hầm cỡ lớn còn hầm cỡ
nhỏ là 1,2 m ÷ 1,8 m. Trên thế giới, các hầm có
diện tích từ 7 m2 đến 12 m2 sử dụng xe tay khoan
tự hành một tay máy robot khoan đào hầm còn từ
12 m2 sử dụng loại 2, 3 hay 4 tay máy.
Công tác nạp mìn: Thông thường người công
nhân đào hầm sẽ nạp mìn thủ công vào các lỗ
khoan mìn, vì vậy trên xe tự hành còn tích hợp
thêm các giàn thao tác để phục vụ công tác nạp mìn
được nhanh chóng (Xem hình 2).
Công tác nổ mìn: Nổ lần lượt từ vị trí nổ phá
đến nổ biên dạng hầm (Xem hình 4)
- Nhóm lỗ khoan trống: được khoan vuông góc
với mặt gương hầm. Nhóm lỗ khoan trống có
nhiệm vụ làm làm yếu khối đá trên gương, rút ngắn
đường kháng nổ nhỏ nhất của khối đá kẹp giữa
chúng và các lỗ mìn lân cận, tạo điều kiện thuận lợi
cho quá trình nổ mìn phá vỡ khối đá kẹp giữa đó.
- Nhóm lỗ mìn đột phá: được khoan vuông góc
với mặt gương hầm. Nhóm lỗ mìn đột phá được điều
khiển nổ đầu tiên trên toàn mặt gương nhằm đột phá
khối đá xung quanh, tạo ra không gian tự do phụ,
giảm đường kháng nổ nhỏ nhất của khối đá còn lại
đối với nhóm lỗ mìn phá phụ lân cận, nổ vi sai tiếp
sau, tạo ra sự cộng hưởng các ứng suất sinh ra bởi
chúng, làm tăng hiệu quả nổ phá đá của chúng lên.
- Nhóm lỗ phá phụ (thường bố trí lân cận các lỗ
khoan trống và các lỗ mìn đột phá): được khoan
vuông góc với mặt gương hầm. Nhóm lỗ phá phụ
được nổ vi sai sau nhóm lỗ mìn đột phá, nhưng vi
sai trước nhóm lỗ mìn nổ tạo biên. Nhóm lỗ mìn
này được điều khiển nổ để phá vỡ khối đá cận kề,
kẹp giữa chúng với không gian tự do phụ, hình
Nhóm lỗ tạo biên Nhóm lỗ phá phụ
Lỗ
khoan trống
Nhóm lỗ mìn đột phá
Hình 4. Hộ chiếu nổ mìn trong một mặt gương
Hình 3. Mô tả quy trình khoan lỗ nổ mìn trong thi công
đường hầm
3
2
1
8
7
6
5
4
16 Science and Technology Development Journal, vol 20, No.K5-2017
thành sau khi nổ đột phá và tạo thuận lợi cho quá
trình phá vỡ đá của nhóm lỗ mìn biên nổ vi sai tiếp sau.
- Nhóm lỗ mìn tạo biên: có góc nghiêng khoảng
85°87° so với mặt gương và có hướng cắm vào
biên. Nhóm lỗ mìn tạo biên được điều khiển nổ sau
cùng, nhằm mở rộng không gian đã nổ vỡ trong
lòng hầm lò đến biên cần thiết.
Công tác hút khí độc sau nổ mìn: Sau khi nổ
mìn, tạo ra rất nhiều khí độc và bụi, để con người
có thể tiến hành thao tác và vận chuyển đất đá trong
hầm cần có hệ thống cấp khí và hút khí độc cũng
như bụi ra khỏi hầm.
Vận chuyển đất đá ra khỏi hầm: Để tạo thành
đường hầm sau khi nổ mìn cần phải đưa đất đá ra
khỏi đường hầm bằng các thiết bị chuyên dụng như
xe xúc lật, xe ben để vận chuyển toàn bộ đất đá ra
khỏi hầm.
Công tác sửa hầm: Trong quá trình thao tác
trước khi thu hồi đất đá tạo đường hầm cũng như
lặp lại chu trình tiếp theo cần phải sửa đường hầm,
tạo biên dạng hầm, phá vỡ đất đá yếu, gia cố tạm
(phun vẩy bê tông, gắn gông chữ C) để đảm bảo an
toàn.
Công tác gia cố tạo đường hầm: Trong quá
trình đào hầm, để đảm bảo an toàn thi công, chống
sụt lún, phải gia cố đường hầm bằng cách khoan
neo và gắn các gông hình móng ngựa để đỡ tạm
đường hầm bằng các tay máy khoan nổ mìn.
3 THIẾT LẬP HỆ PHƯƠNG TRÌNH ĐỘNG
HỌC TAY MÁY THỦY LỰC
Để đáp ứng yêu cầu trong thi công đường hầm
theo mặt gương như đã trình bày ở mục 2 robot
phải đáp ứng:
- Khoan lỗ nổ mìn ở mặt gương với chiều sâu từ
1,2 m đến 1,8 m, góc nghiêng 85° so với mặt
gương.
- Khoan neo gia cố đường hầm.
Từ nhiệm vụ đặt ra như trên mà các robot này
thường có từ 5 đến 7 bậc tự do. Hình 5 dưới đây là
một tay máy robot thuỷ lực thực hiện thi công
đường hầm.
3.1 Mô tả nguyên lý cấu tay máy
Từ sơ đồ kết cấu tay máy thủy lực được mô tả ở
hình 5 ta có sơ đồ nguyên lý hoạt động được diễn
giải như hình 6 (có các mạch vòng để tăng độ cứng
vứng-cấu trúc này thường thấy trong các tay máy
có tải trọng làm việc lớn) với các khớp chuyển
động chính là các khớp từ 1 đến 7. Trong đó các
khớp quay 1, 2, 4, 5, 7 được điều khiển thông qua
các xi lanh thủy lực như mô tả trên hình 7.
3.2 Thiết lập hệ phương trình động học tay máy
- Thiết lập hệ phương trình biến đổi tọa độ và
hướng từ giá khoan đến hệ quy chiếu gắn trên xe
Để thiết lập hệ phương trình động học từ kết
cấu và nguyên lý phức tạp ở hình 5 và hình 6 (là
cấu trúc lai giữa chuỗi động học kín và chuỗi
động học hở) được đưa về dạng chuỗi động học
hở tương đương thuần túy được mô tả ở hình 7.
Trên cơ sở đó các hệ quy chiếu được đặt theo
Denavit- Hartenberg (D-H) [14] (được mô tả trong
hình 8). Từ đó, ta có bảng thông số D-H được mô
tả ở Bảng 1.
Bảng 1. Thông số D-H của tay máy khoan lỗ nổ mìn
Khớp i di ai αi
1 1 D1 a1 π/2
2 2 0 0 π/2
3 π/2 d3 0 π/2
4 4 0 a4 -π/2
5 5 0 a5 -π/2
6 6 D6 0 π/2
7 7 D7 a7 0
Trong đó: d3, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 là các biến khớp, còn
a1, a4, a5, a7, D1, D4, D6, D7 là các thông số kích thước các
khâu
Hình 5. Kết cấu tay máy thủy lực
Hình 6. Sơ đồ nguyên lý hoạt động của tay máy
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 20, số K5-2017
17
Hình 7. Chuỗi động học hở tương đương của tay máy
Theo tài liệu [14, 15, 16] ta có các ma trận biến
đổi toạ độ từ hệ quy chiếu i-1{Oi- xi-1 yi-1 zi-1} sang
hệ quy chiếu i{Oi xi yi zi} được cho bởi:
1000
cossin0
sinsincoscoscossin
cossinsinsinsincos
1
i
d
ii
ii
a
iiiii
ii
a
iiiii
i
A
i
(1)
Như vậy, ma trận biển đổi từ giá khoan của robot
về khâu cố định gắn trên xe:
6
0
17
0
i
i
A
i
A với 61i (2)
- Phương trình xác định vị trí và hướng của lỗ
khoan trên mặt gương
Nếu gọi:
+ Ej là tọa độ tâm các lỗ cần khoan trên mặt
gương (xem hình 8) so với hệ quy chiếu
0{O0y0 x0} gắn trên robot ta có:
TEjzEjyEjxEjr (3)
+ ER
0
là ma trận cosin chỉ hướng giữa hệ quy
chiếu Ej{Ejujvjwj} (gắn trên mặt gương) và
0{O0y0 x0} (gắn trên xe) ta có:
zwzvzu
ywyvyu
xwxvxu
ER
0
(4)
Từ (3), (4) ta có ma trận biến đồi từ mặt gương
về hệ quy chiếu 0{O0y0 x0} trên robot được cho
bởi:
Từ (3), (4) ta có ma trận biến đồi từ mặt gương
về hệ quy chiếu 0{O0y0 x0} trên robot được cho
bởi:
1O
ErRC với TO 000 (5)
Cân bằng hai phương trình (2) và (5) ta có hệ
phương trình (6):
Với a là khoảng cách từ hệ quy chiếu 0{O0 x0 y0
z0} đến mặt gương.
Nhận xét: Hệ phương trình (6) với 7 ẩn 6
phương trình là bài toán dư dẫn động vì vậy ta cần
phải có thuật toán để giải bài toán này. Vấn đề này
được trình bày trong mục 4 dưới đây.
18 Science and Technology Development Journal, vol 20, No.K5-2017
Hình 8. Đặt hệ quy chiếu theo D-H cho tay máy khoan lỗ nổ mìn 7 bậc tự do
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 20, số K5-2017
19
Hình 9. Vị trí tương quan giữa hệ quy chiếu điểm chuẩn “0”
trên mặt gương và hệ quy chiếu gắn trên xe
Hình 10 Quy luật di chuyển của giá khoan theo mặt gương hộ
chiếu nổ mìn
4 XÁC ĐỊNH CÁC THÔNG SỐ ĐIỀU KHIỂN
ĐỘNG HỌC ROBOT
Với các bậc tự do từ 1÷6 là robot có thể vươn tới
mọi vị trí và hướng trong miền làm việc. Tuy
nhiên, do đặc thù không gian đường hầm chật hẹp
[3] do đó robot cần thêm bậc tự do thứ 7 để tăng
tính linh hoạt và phục vụ khoan neo trong công tác
gia cố đường hầm trình bày ở phần mục 2 của
bài báo này.
4.1 Xác định thông số biến khớp điều khiển tay
máy robot thủy lực thi công mặt gương
Với hộ chiếu nổ mìn mà người kỹ sư địa chất đã
thiết kế ta hoàn toàn xác định được tọa độ và hướng
của các lỗ khoan. Trên cơ sở đó bài báo đưa ra quy
luật lập trình cho robot để đưa giá khoan đến vị trí
các lỗ như mô tả trên hình 10. Trong trường hợp
này khớp quay thứ 7 được mặc định 7 = π/2, hệ
phương trình (6) chỉ có 6 phương trình 6 ẩn giải
bằng phương pháp số (cụ thể là phương pháp
Newton Raphson) ta tìm được các nghiệm 1, 2,
d3, 4, 5, 6. Trong đó 1, 2, 4, 5 là các biến
trung gian mà chưa phải là các thông số điều khiển
động học của tay máy robot, dưới đây trình bày
phương pháp xác định các nghiệm xác điều khiển
các xi lanh thủy lực.
Xác định d3.1, d3.2 điều khiển hai xi lanh thủy
lực khớp vai theo góc 1, 2
Xét khớp vai được cho trên hình 10. Nếu gọi
A3.1, A3.1 là hai tâm khớp quay nối khớp trên của xi
lanh với cẳng tay khi đó ta có:
nAnA
rzRxRr .3
'3
12.3
0
),(),( (7)
Trong đó: ),(),,( 12 zRxR là các ma trận quay
quanh trục x và z của hệ quy chiếu 0{O0x0y0z0} ,
còn n = 1 và 2 (tương ứng với từng xi lanh của
khớp vai). Tách từng xi lanh về dạng chuỗi động
học hở và giải theo phương pháp D-H tương tự mục
3.2 ở trên ta có:
Bảng 2. Thông số D-H xi lanh truyền động cụm khớp vai
Khớp ai αi di i
1 a1.1 π/2 d1.1 1.n
2 0 π/2 0 2.n
3 0 0 d3.n 0
Trong đó: d3.n, 1.n , 2.n là các biến khớp, a1.1, d1.1 là các
thông số kích thước các khâu với n = 12.
n
Azd
nd
.2cos
3
1.1
.3
(8)
Trong đó:
3
1.1
1.1
.2
2
3
2
3
Azd
dyx
n
AA
còn d1.1 là thông số
kích thước khâu.
Xác định d3.3, d3.4 điều khiển hai xi lanh thủy
lực khớp cổ tay theo góc 4, 5
Với cách giải tương tự trên, ta có:
m
BB
zd
md
.2cos
4/31.2
.
(9)
Trong đó:
3
2
3
2
3
1.2
1.2
.2
B
BB
zd
dyx
n
; B3, B4 là tọa độ của
các khớp quay trên trong hệ quy chiếu O3{O3xO3
yO3 zO3} gắn trên phần trượt thứ 2 của cẳng tay
robot, d2.1 là thông số kích thước khâu.
20 Science and Technology Development Journal, vol 20, No.K5-2017
4.2 Ví dụ áp dụng cho trường hợp thi công mặt gương
+ Thông số kích thước thiết kế robot
D1 = 500 mm; D4 = 35 mm; D6 = 620 mm;
D7 = 670 mm; a1 = 120 mm; a4 = 70 mm;
a5 = 155 mm; a7 = 800 mm; b1 = 1130 mm;
b2 = 720 mm
Như vậy điểm chia quỹ đạo dịch chuyển của một
tay máy robot là N = 2774 điểm.
+ Thông số kỹ thuật hộ chiếu nổ mìn
Nhóm lỗ Bán kính [mm] Số lỗ Góc nghiêng
Tạo biên R1 = 2000 21
85 º so với
đường tâm hầm
Phá phụ R2 = 1500 10 0
o
Khoan trồng R2 = 500 4 0
o
Đột phá (0, 3500, 400) 1 0o
Như vậy, với hộ chiếu nổ mìn đã cho và các
thông số kích thước của tay máy robot ta có các
thông số điều khiển động học tay máy thủy lực theo
vị trí các lỗ khoan trên mặt gương gia công lỗ của
hộ chiếu nổ mìn.
5 PHẦN MỀM MÔ PHỎNG
Hình 11. Giao diện phần mềm mô phỏng quá trình thi công mặt
gương hộ chiếu nổ mìn
Trên cơ sở mô hình toán xác định thông số điều
khiển động học đã được trình bày trong mục 3 và
mục 4 cũng như bản thiết kế kết cấu (được thiết kế
trên SolidWorks) nhóm tác giả đã viết phần mềm
mô phỏng bằng ngôn ngữ C++ để kiểm chứng lý
thuyết. Hình 11 là giao diện phần mềm mô phỏng
kiểm chứng công thức đã thiết lập.
6 KẾT LUẬN
Kết quả trình bày trong bài báo này có ý nghĩa có
thực tiễn trong việc lập trình thành phần mềm cài
đặt vào thiết bị nhằm tự động hóa khoan lỗ, nổ mìn
trong việc thiết kế robot mới cũng như có thể cài
đặt cho các robot bán tự động mà Việt Nam đã
nhập ngoại nhằm nâng cao độ chính xác, hiệu quả
trong công tác khoan lỗ, nổ mìn. Ngoài ra, kết quả
này cũng là tiền đề để phát triển các loại tay máy
robot tự hành có tích hợp định vị vệ tinh để thể tự
động hóa quá trình khoan lỗ nổ mìn có giám sát từ
xa theo một quy trình đã được thiết kế, đây là một
trong những vấn đề nhóm tác giả tiếp tục nghiên
cứu trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] J M Reynolds, Modern drilling equipment for
underground applications, Atles Copco
construction and mining Australia. Source:
https://vi.scribd.com/document/63182918/M
odern-Drilling-Equipment-for-Underground-
Applications.
[2] Dimitrior Kolymbas, Tunelling and Tunel
mechanics, 2nd corrected printing, 2008th
edition, Springer.
[3]
Anton Petko, Richard Ziman; Drill and blast
work on the Vouli tunnels, Finland, (2006)
04-09.
[4] Li Xuefeng, Cheng Guihai, Li Xiaoquan,
Zhang Ruichong; A Study of soft rock
coupling support in Xiangjing coal mine;
International symposium on safety science
and technology, (2014) 812 – 817.
[5] Guo Zhibiao, Yang Xiaoje, Bai Yunpeng,
Zhou Feng, Li Erquiang; A study of support
strategies in deep soft rock: The horsehead
crossing roadway in Daquiang coal mine;
International journal of mining Science and
Technology 22 (2012) 665-667.
[6] Peter K. Kaiser, Ming Cai; Design of rock
support system under rockburst condition;
Journal of rock mechanics and geotechnical
engineering 2012, 4(3), 215-227.
[7] Jacek Karlinski, Eugeniusz Rusinski,
Tadeusz Lewandowski; New generation
automated drilling machine for tunnelling and
underground mining work; Automation in
Construction 17 (2008) 224-231.
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 20, số K5-2017
21
[8] Damian Derlukiewicz, Jacek Karlinski; Static
and dynamic analysis of telescopic boom of
self-propelled tunnelling machine; Journal of
theoretical and applied mechanics 50, (2012)
47-59.
[9] Vijaya Ranghavan, Assistant Professor;
Analysis of performance of Jack hammer to
determine the penetration rate on different
rocks; The International Journal of
Engineering and Science (IJES), (2014) 08-17.
[10] Robin Phillips, Massio Palladino, Camille
Courtois; Development of brushed and
brushless DC motors for use in the ExoMars
and sampling mechanism, Proceedings of the
41st Aerospace Mechanisms Symposium.
2012.
[11] Richard W. Uuswarvi, Martin E. Torngren;
Introducing distributed control in mobile
machine based on hydraulic actuators;
Mechatronics Vol.4 1994, No 2, 139-157.
[12] G. Nord, J. Appelgren; The next Atlas Copco
generation of tunnel-rigs and some
experience; 17th International mining
congress and exhibition of Turkey-IMCET,
2001, 289-295.
[13] Casper Swart; Modern trends in drill
navigation and system integration case
studies from studies from Boliden and Kemi
underground mines, The South African
Institute of Mining and Metallurgy: Rise Of
The Machines - The 'State Of The Art' In
Mining Mechanisation, Automation,
Hydraulic Transportation And
Communications, (2006), 1-14.
[14] Bruno Siciliano, Oussama Khalib; Handbook
of Robotics; 2nd corrected printing; 2008th
edition; Springer.
[15] Mikell P.Groover, M.Weiss, R.Nagel;
Industrial Robotics; 1986th edition; McGraw
– Hill.
[16] Bruno Siciliano, Lorenzo Sciavicco, Luigi
Villani, Giuseppe Oriolo; Robotics:
Modelling, planning and Control; 2010th
edition; Springer.
Nguyễn Hồng Thái, kỹ sư chuyên
ngành Cơ tin kỹ thuật năm 1999 tại
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội,
nhận bằng Thạc sỹ chuyên ngành
Cơ học máy năm 2002, nhận bằng
Tiến sĩ chuyên ngành Máy và Thiết
bị tự động năm 2010 tại Trường
Đại học Bách khoa Hà Nội. Hướng
nghiên cứu chính robot công
nghiệp, lý thuyết bánh răng.
Nguyễn Quang Thái nhận bằng cử
nhân Cơ Điện tử (2016) Trường
Đại học Bách khoa Hà Nội. Từ
năm 2016 đến nay là học viên cao
học tại trường Trường Đại học
Bách khoa Hà Nội.
22 Science and Technology Development Journal, vol 20, No.K5-2017
Abstract—The most typical method of
tunneling in complicated geographical
conditions is still blasthole drilling. To improve
the efficiency of the work, Vietnam and several
other countries have used drilling devices fitted
with self-propelled hydraulic seven-link robotic
arms which can also be manually controlled to
modernize the drilling and blasting processes
and improve the accuracy of the work. The task
of controlling the robotic arm to automatically
drill the holes exactly as specified in the passport
of blasting prepared by geotechnical and
underground construction engineers requires a
control algorithm for the controller of the robot.
The matter will be clearly presented in this
article.
Keywords—robotic arm, blasthole drilling,
tunneling, self-propelled robotic arm, underground
construction.
A kinematic control algorithm for blasthole
drilling robotic arm in tunneling
Nguyen Hong Thai, Nguyen Quang Thai
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuat_toan_dieu_khien_dong_hoc_tay_may_khoan_lo_no_min_trong.pdf