Kết luận
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
đang phát triển rất nhanh cho nên cần thúc
đẩy khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam kết
nối trực tiếp với các doanh nghiệp thuộc
khu vực này thông qua loại bỏ rào cản. Kết
nối xuôi diễn ra hiệu quả do doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài coi tư nhân là
thị trường tiêu thụ song kết nối ngược để
doanh nghiệp Việt Nam có thể làm chủ
công nghệ và bí quyết, tham gia sâu vào
chuỗi cung ứng còn hạn chế. Từ góc độ
doanh nghiệp, các rào cản kết nối chủ yếu
ở tài chính, công nghệ, quản lý, pháp luật
và văn hóa. Để giảm thiểu rào cản cần có
giải pháp đồng bộ từ chủ thể khu vực kinh
tế tư nhân Việt Nam, sự đồng hành của
Chính phủ và sự hỗ trợ của các đối tượng
hữu quan khác như các trường đại học và
cơ sở nghiên cứu
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 287 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam trong hội nhập thông qua giảm thiểu rào cản kết nối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thúc đẩy phát triển kinh tế 15
Thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam
trong hội nhập thông qua giảm thiểu rào cản kết nối
với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Nguyễn Thường Lạng(*)
Tóm tắt: Trên cơ sở phân tích, đánh giá rào cản kết nối kinh tế tư nhân Việt Nam với
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (gồm: hạn chế năng lực công nghệ, tài chính,
quản trị, nhân lực và các yếu tố khác so với yêu cầu của doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài), bài viết đề xuất giải pháp giảm thiểu rào cản để thúc đẩy phát triển kinh tế
tư nhân Việt Nam dựa vào sự dẫn dắt của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuộc
khu vực kinh tế có tốc độ phát triển cao trong hội nhập của nền kinh tế Việt Nam nhiều
thành phần.
Từ khóa: Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Hội nhập, Kinh tế tư nhân, Rào cản
Abstract: The paper analyzes and evaluates the barriers to the connection of Vietnam’s
private sector with foreign invested enterprises. These limitations are fi nance,
management, technology, human resources and other factors in comparison with the
requirements of the foreign invested enterprises. It thence suggests some mitigation
solutions to promote the private sector under the guidance of the foreign invested
enterprises which enjoy a high growth rate in the integration process of Vietnam’s
multi-sector eonomy.
Keywords: Foreign Invested Enterprises, Integration, Private Sector, Barriers
1. Giới thiệu(*)
Chủ trương phát triển kinh tế tư nhân
và hội nhập quốc tế từ năm 1986 bắt đầu
bằng quan điểm đa dạng hóa sở hữu, phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần, theo đó,
nền kinh tế Việt Nam xuất hiện thành phần
mới là kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài. Trải qua hơn 30 năm đổi
(*) PGS.TS., Trường Đại học Kinh tế quốc dân;
Email: langnguyen3300@gmail.com
mới, vị trí và vai trò từng thành phần (khu
vực) kinh tế có sự thay đổi đáng kể. Theo
Hiến pháp năm 2013, khu vực kinh tế nhà
nước đóng vai trò chủ đạo và là trụ cột để
bảo đảm định hướng XHCN. Khu vực này
hiện nay đang trong quá trình cổ phần hóa,
thu hẹp tỷ trọng và giảm thiểu tình trạng
kém hiệu quả. Phát triển khu vực kinh tế
tư nhân trở thành động lực quan trọng để
huy động và phát huy tối đa tiềm năng của
thành phần kinh tế này. Khu vực kinh tế có
Thông tin Khoa học xã hội, số 6.201816
vốn đầu tư nước ngoài có vị trí bình đẳng
như các thành phần kinh tế khác.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế theo
chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng, bên cạnh
việc đẩy mạnh phát triển khu vực kinh tế nhà
nước, để khu vực kinh tế tư nhân phát triển
và trở thành động lực thì cần có phương
thức kết nối phù hợp, nhất là kết nối để hình
thành chuỗi giá trị mở rộng, lấy mạng lưới
hay chuỗi giá trị đang vận hành hiệu quả
mang tính toàn cầu của các công ty xuyên
quốc gia làm chỗ dựa hay phương tiện để
bắt kịp và đồng hành phát triển. Động lực hỗ
trợ phát triển khu vực kinh tế tư nhân cộng
hưởng với kết nối hợp lý doanh nghiệp với
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài sẽ tạo giá
trị gia tăng cao cho nền kinh tế. Vấn đề là
cần xác định rõ các loại rào cản kết nối này
để giảm thiểu, thậm chí loại bỏ, nhằm thúc
đẩy quá trình kết nối. Theo cách nhìn nhận
đó, trên cơ sở sử dụng phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh dựa vào dữ liệu của
Tổng cục Thống kê, Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam (VCCI), ý kiến của
các chuyên gia và các tình huống thực tế, bài
viết tập trung: i) Nhận dạng vai trò kết nối
khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam với doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; ii) Đánh
giá năng lực vượt rào cản kết nối doanh
nghiệp tư nhân với doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài; iii) Đề xuất giải pháp khắc
phục rào cản để tăng cường kết nối doanh
nghiệp tư nhân trong nước với doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài nhằm thực hiện
đúng chủ trương phát triển khu vực kinh tế
tư nhân trở thành động lực quan trọng của
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
2. Nhận dạng vai trò kết nối khu vực kinh
tế tư nhân Việt Nam với doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài
Trước hết, nội hàm khái niệm kinh
tế tư nhân cần được nhận thức cụ thể và
thống nhất. Thuật ngữ “thành phần kinh tế
tư nhân” xuất hiện từ khi bắt đầu công cuộc
đổi mới (1986) nhưng thuật ngữ “kinh tế
tư nhân” được sử dụng chính thức khoảng
15 năm gần đây. Về giá trị, đây là phần
giá trị còn lại của Tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) sau khi trừ đi phần giá trị tạo ra bởi
khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài theo phân loại
của Tổng cục Thống kê khi tính toán cơ
cấu vốn đầu tư toàn xã hội theo thành phần
kinh tế. Do đó, theo nghĩa rộng, kinh tế tư
nhân là kinh tế ngoài nhà nước. Theo nghĩa
hẹp, cũng theo cách xác định GDP theo
thành phần kinh tế của Tổng cục Thống
kê, các thành phần kinh tế lại được thống
kê theo kinh tế nhà nước, kinh tế ngoài
nhà nước (gồm kinh tế tập thể, kinh tế tư
nhân, kinh tế cá thể) và khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài, theo đó, kinh tế tư nhân
chỉ còn là một phần thuộc khu vực kinh tế
ngoài nhà nước cho nên quy mô nhỏ hơn
đáng kể. Theo tác giả, thuật ngữ kinh tế
tư nhân nên được hiểu theo nghĩa rộng vì
theo Luật Doanh nghiệp 2014 quy định,
doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp
có 100% vốn nhà nước, còn doanh nghiệp
hay tổ chức có vốn đầu tư nước ngoài là
doanh nghiệp hoặc tổ chức có vốn góp
của nhà đầu tư nước ngoài. Những chủ thể
trực tiếp là doanh nghiệp và tổ chức không
thuộc hai đối tượng này đóng vai trò nhất
định trong nền kinh tế thuộc nội hàm kinh
tế tư nhân.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam với nòng cốt là các doanh nghiệp
hay dự án có vốn đầu tư nước ngoài bao
gồm doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước
ngoài, doanh nghiệp liên doanh và các hợp
đồng. Tính đến hết ngày 20/4/2018, cả
nước có 25.524 dự án có vốn đầu tư nước
ngoài với tổng số vốn đăng ký khoảng 321
Thúc đẩy phát triển kinh tế 17
tỷ USD và với khoảng 160 tỷ USD vốn thực
hiện. Những đối tác đầu tư có quy mô lớn
nhất vào Việt Nam gồm Hàn Quốc, Nhật
Bản, Singapore và Đài Loan (Dẫn theo:
Cục Đầu tư nước ngoài, 2018). Nhiều dự
án đầu tư trực tiếp đã đạt được những thành
công đáng kể trong việc thúc đẩy xuất khẩu
và tạo việc làm cho lao động trong nước
như: dự án của Tập đoàn Samsung (Hàn
Quốc) đã tạo việc làm cho 140 nghìn lao
động, xuất khẩu khoảng 50 tỷ USD và quy
mô kinh doanh đang tiếp tục mở rộng (J.
Lee, 2018). Nói cách khác, chuỗi cung ứng
toàn cầu được hình thành thông qua doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và giá trị
gia tăng được tạo ra. Việt Nam nằm trong
các khâu đầu tiên của chuỗi cung ứng. Vì
thế, doanh nghiệp nội địa cần nhanh chóng
kết nối với chuỗi giá trị nhằm tìm kiếm giá
trị được phân bổ từ sự tham gia vào chuỗi.
Trong giai đoạn đầu (1988) thu hút đầu
tư nước ngoài, các nhà đầu tư nước ngoài
kết nối với các doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế nhà nước ở Việt Nam thông
qua liên doanh như lắp ráp ô tô, sản xuất
máy biến thế, khách sạn Tuy nhiên sau
30 năm, các doanh nghiệp nhà nước được
cổ phần hóa, số lượng và tỷ trọng giảm
xuống đáng kể, từ khoảng 12 nghìn doanh
nghiệp nhà nước năm 1988 xuống còn
khoảng 400 doanh nghiệp vào năm 2018
do hiệu quả kinh doanh hạn chế, có cả thua
lỗ lớn. Điều này làm giảm kết nối doanh
nghiệp nhà nước với doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp tư nhân
Việt Nam, kể cả khởi nghiệp tính đến năm
2018, có khoảng 600 nghìn doanh nghiệp
và số lượng doanh nghiệp đang tăng lên
với tốc độ nhanh, trung bình 120-130 nghìn
doanh nghiệp/năm. Bên cạnh đó, còn có 2
triệu hộ kinh doanh cá thể, hộ gia đình
hoạt động linh hoạt. Vì thế, phát triển khu
vực kinh tế tư nhân nhằm phát huy tối đa
nguồn lực và tận dụng cơ hội.
Trong số các phương thức và giải pháp
phát triển khu vực kinh tế tư nhân như đẩy
mạnh khởi nghiệp thông qua tạo ra hệ sinh
thái khởi nghiệp tốt nhất, mở rộng quy mô
kinh doanh của các cơ sở hiện có, vẫn còn
nhiều cách thức khác để phát triển khu vực
kinh tế tư nhân như liên kết giữa các doanh
nghiệp theo hình thức hợp tác, sáp nhập
và mua lại, đối tác công- tư hoặc doanh
nghiệp tư nhân trong nước kết nối với
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có
lợi thế lớn về tài chính, công nghệ, thương
hiệu và chuỗi cung ứng. Nói cách khác,
tiềm năng phát triển khu vực kinh tế tư
nhân rất lớn và cần chủ động tích cực thực
hiện sự lựa chọn này. Nếu kết nối với doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, phần giá
trị gia tăng của doanh nghiệp tư nhân có
thể bị hạn chế vì chịu sự ràng buộc của cơ
chế phân chia lợi ích trong chuỗi giá trị
từ nhà đầu tư nước ngoài. Nếu không kết
nối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài phù hợp, phần giá trị gia tăng của
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
tạo ra và chuyển giao cho bên Việt Nam có
tỷ trọng rất nhỏ (Nguyễn Mại, 2017). Đổi
lại, doanh nghiệp trong nước có cơ hội học
hỏi, tiếp nhận chuyển giao công nghệ, kinh
nghiệm quản lý từ nhà đầu tư nước ngoài.
Đây là loại tài sản chiến lược để doanh
nghiệp phát triển bền vững trong cạnh
tranh. Từ góc độ doanh nghiệp, yếu tố lan
tỏa từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài có tác động đến doanh nghiệp trong
nước (Nguyễn Bích Ngọc, 2017). Kết nối
khu vực kinh tế tư nhân với đầu tư nước
ngoài sẽ thúc đẩy đổi mới công nghệ, mở
rộng thị trường, tăng năng suất và cải thiện
chất lượng sản phẩm (Nguyễn Đình Luận,
2015). Như vậy, kết nối khu vực kinh tế
Thông tin Khoa học xã hội, số 6.201818
tư nhân trong nước với doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài là kết nối với chuỗi
giá trị toàn cầu, theo đó tiềm năng kinh
tế tư nhân được khai thác hiệu quả so với
kết nối với doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế khác.
3. Đánh giá năng lực vượt rào cản kết nối
khu vực kinh tế tư nhân với doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài
Ở phạm vi rộng, các rào cản phát triển
đối với kinh tế tư nhân tồn tại khá đa dạng,
gồm: (i) sự thiếu thống nhất tư duy lý
luận và nhận thức; (ii) sự thiếu hoàn thiện
khung khổ pháp luật; (iii) môi trường đầu
tư kinh doanh thiếu hoàn thiện; (iv) chi phí
không chính thức cao; (v) bất bình đẳng
trong quan hệ với kinh tế nhà nước và đầu
tư nước ngoài; (vi) việc thiếu hiệu năng
của bộ máy và những bất cập nội tại; (vii)
những rủi ro cạnh tranh do quy mô nhỏ là
chủ yếu (Nguyễn Hồng Sơn, 2017). Ở góc
độ kết nối, thực tế cho thấy, sự kết nối thấp
giữa khu vực kinh tế tư nhân mà trực tiếp là
doanh nghiệp tư nhân trong nước với doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là do chất
lượng sản phẩm hạn chế, năng suất lao
động thấp và công nghệ lạc hậu(*) (VCCI,
2018). Đây là các rào cản mang tính nội tại
và ảnh hưởng tới năng lực tự vận động của
các chủ thể trong khu vực kinh tế tư nhân
ở Việt Nam.
Các loại rào cản trực tiếp là trình độ
kỹ thuật công nghệ thấp, khó kết nối công
nghệ vì sự lạc hậu công nghệ làm giảm
chất lượng sản phẩm, giảm cạnh tranh.
Cùng với đó, mức độ thích nghi công
nghệ, danh mục sản phẩm đạt tiêu chuẩn
của đối tác chưa được xây dựng. Bên cạnh
(*) Cũng có ý kiến cho rằng, doanh nghiệp Việt Nam
chưa sản xuất được loại linh kiện đơn giản như “ốc
vít và giắc cắm” của điện thoại di động.
đó, loại rào cản về tài chính cho thấy, năng
lực huy động tài chính để mở rộng quy mô
hiệu quả là cần thiết nhưng phần lớn các
doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ và
vừa cùng với thị trường tài chính chưa phát
triển như mong đợi. Loại rào cản quản trị
chỉ ra hoạt động quản trị thiếu tính chuyên
nghiệp, ổn định và bền vững, việc tìm kiếm
lợi ích ngắn hạn và cơ chế xin-cho vẫn còn
khá phổ biến (Nguyễn Hồng Sơn, 2017).
Loại rào cản pháp lý thể hiện ở việc tuân
thủ pháp luật, chế độ kế toán, chứng từ,
nghĩa vụ thuế chưa cao, điều này còn gắn
với mức độ minh bạch của môi trường kinh
doanh, làm giảm tính nghiêm minh trong
tuân thủ. Khả năng bảo vệ bí quyết sản
xuất và kinh doanh của đối tác nước ngoài,
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của doanh
nghiệp còn khá hạn chế. Loại rào cản văn
hóa liên quan đến năng lực giao tiếp, đàm
phán và làm việc với đối tác nước ngoài,
bảo đảm chữ tín kinh doanh chưa được
tôn trọng cũng như chưa tạo dựng được tác
phong chuyên nghiệp, làm giảm lòng tin
của đối tác nước ngoài (Nguyễn Thường
Lạng, 1996).
Có thể nói, sự hiểu biết pháp luật khác
nhau, tình trạng văn bản pháp luật thiếu
chặt chẽ, chồng chéo và những khác biệt về
văn hóa giữa các bên tham gia, nhất là về
tập quán kinh doanh, kỷ luật lao động, trách
nhiệm hợp đồng, ngôn ngữ và khả năng
thích nghi, sự khác biệt về văn hóa tuân thủ
đã tạo ra rào cản kết nối khu vực kinh tế tư
nhân với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài (Hình 1). Do đó, việc phát huy tác
động lan tỏa của doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài rất hạn chế đối với phần còn
lại của nền kinh tế, nhất là khu vực kinh
tế tư nhân trong nước. Nguyên nhân của
mức độ kết nối thấp thể hiện ở nhận thức
thiếu đầy đủ về tiềm năng và thế mạnh giữa
Thúc đẩy phát triển kinh tế 19
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và
khu vực kinh tế tư nhân trong nước. Các
chủ thể hữu quan chưa coi trọng thỏa đáng
việc nhận dạng và khắc phục rào cản, chưa
tận dụng triệt để sự ưu đãi chính sách, sự
đồng hành của Chính phủ cũng như tổng
kết và học tập những kinh nghiệm trong
nước và quốc tế.
Đánh giá về tình hình kết nối và các loại
rào cản kết nối của khu vực kinh tế tư nhân
Việt Nam với doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp
Đầu tư nước ngoài Nguyễn Mại cho rằng,
doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa tham gia
được nhiều vào chuỗi cung ứng của các nhà
đầu tư nước ngoài, khiến tác động lan tỏa
của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài chưa được như kỳ vọng. Theo ông,
Việt Nam trở thành cứ điểm sản xuất điện
thoại di động thông minh, máy tính bảng;
kim ngạch xuất khẩu dệt may năm 2016 đạt
30 tỷ USD, chiếm 4% kim ngạch dệt may
thế giới Tuy nhiên, trong mỗi chuỗi cung
ứng, doanh nghiệp trong nước chỉ tham gia
ở những khâu tạo giá trị thấp (Xem: Ngọc
Khanh, 2017). Theo thống kê của Tổng cục
Hải quan, đối với mặt hàng xuất khẩu chủ
lực như điện thoại và linh kiện, máy móc,
phụ tùng và linh kiện, kim ngạch xuất khẩu
của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
luôn chiếm áp đảo với tỷ lệ hơn 90%; với
hàng dệt may, tuy kim ngạch của doanh
nghiệp trong nước có cao hơn song cũng
chỉ chiếm chưa đầy 40% tổng kim ngạch
xuất khẩu mặt hàng này. Cụ thể là trường
hợp của Samsung Việt Nam, cho dù mỗi
sản phẩm điện tử có tới hàng trăm linh
kiện, nhưng hiện chỉ có 29 doanh nghiệp
Việt Nam trên tổng số
hơn 600 nghìn doanh
nghiệp là nhà cung cấp
trực tiếp cho Samsung.
Có khoảng 87 nhà sản
xuất công nghiệp hỗ
trợ cấp 1 của Hàn Quốc
theo Samsung sang
Việt Nam. Việt Nam
chỉ thu được thuế, tạo
việc làm và bảo hiểm
từ các doanh nghiệp
này. Nếu Việt Nam có công nghiệp hỗ trợ,
phần hưởng lợi của 87 nhà sản xuất này sẽ
được phân bổ cho doanh nghiệp Việt Nam
(Xem: Ngọc Khanh, 2017).
Trên thực tế, đã có không ít bài học
cho Việt Nam về sự thành công trong tiếp
nhận công nghệ từ vốn đầu tư nước ngoài
và tạo sự kết nối, lan tỏa đến khối doanh
nghiệp trong nước. Chẳng hạn, Trung Quốc
có khoảng 100 doanh nghiệp nội địa bứt
ra từ Công ty Canon (Nhật Bản) để sản
xuất và cung cấp trở lại cho chính Canon
ở Trung Quốc. Tương tự, nhờ tiếp cận với
công nghệ sản xuất điện thoại của nhà đầu
tư Mỹ, Trung Quốc cũng đã có sản phẩm
điện thoại thông minh được nội địa hóa,
mang thương hiệu riêng. Từ những kinh
nghiệm đó, Việt Nam có thể thu hút vốn
đầu tư nước ngoài bằng cách khuyến khích
phát triển đội ngũ có kỹ năng, kinh nghiệm
từ chính các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài.
+uQK5jRFҧQNӃWQӕLNLQKWӃWѭQKkQ9LӋW1DP
YӟLGRDQKQJKLӋSFyYӕQÿҫXWѭQѭӟFQJRjL
.LQKWӃWѭQKkQ
GRDQKQJKLӋSWѭ
QKkQGRDQKQJKLӋS
NKӣLQJKLӋSKӝJLD
ÿuQKFiFFKӫWKӇ
QJRjL1KjQѭӟF
NKiF
'RDQK
QJKLӋSFy
YӕQÿҫXWѭ
QѭӟF
QJRjL
7KӏWUѭӡQJ
WKӃJLӟL
5jRFҧQWjLFKtQK
5jRFҧQTXҧQWUӏ
5jRFҧQF{QJQJKӋ
5jRFҧQNKiFYăQKyDSKiSOXұW
Ngu͛n: 9&&,YjWiFJLҧ
.LQKWӃWѭQKkQ
GRDQKQJKLӋSWѭ
QKkQGRD LӋS
NKӣLQJKL LD
ÿuQKFiFFKӫWKӇ
QJRjLQKjQѭӟF
NKiF
'RDQK
QJKLӋSFy
YӕQÿҫX
WѭQѭӟF
Q L
Thông tin Khoa học xã hội, số 6.201820
Ngoài ra, một số đánh giá khác cho thấy,
ở Việt Nam, khu vực kinh tế tư nhân kết
nối khá cao với doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài ở khía cạnh là nhà tiêu thụ sản
phẩm, tham gia vào chuỗi tiêu thụ hàng hóa
lâu dài và với khối lượng lớn, cung cấp lao
động giá rẻ và các nguồn nguyên liệu khác.
Những khâu có giá trị gia tăng cao có sự
tham gia khó khăn hơn và khá hạn chế, các
loại rào cản bộc lộ ở các khâu này (Lương
Văn Khôi, 2018).
4. Giải pháp giảm thiểu rào cản kết nối
khu vực kinh tế tư nhân với doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài
Qua phân tích ở trên có thể thấy, các
rào cản kết nối là hiện hữu nhưng không
quá lớn đối với khu vực kinh tế tư nhân
Việt Nam. Việc nhận dạng đúng rào cản sẽ
tạo cơ sở để xác định nguyên nhân và đề
xuất giải pháp phù hợp. Để giảm thiểu các
rào cản kết nối khu vực kinh tế tư nhân Việt
Nam với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, đồng nghĩa thúc đẩy sự phát triển
khu vực kinh tế tư nhân, cần có các giải
pháp nhất định từ nhiều phía.
Đối với các doanh nghiệp hoặc tác
nhân thuộc khu vực kinh tế tư nhân Việt
Nam, cần hiểu rõ bản chất doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, quy trình sản
xuất, nhu cầu thực sự của đối tác, đặc biệt
những yêu cầu cụ thể về tiêu chuẩn kỹ
thuật, chất lượng sản phẩm, linh kiện với
những ràng buộc khắt khe về công nghệ,
kỹ thuật, pháp lý. Do đó, cần chủ động
đẩy mạnh công tác nghiên cứu đối tác một
cách toàn diện, đồng bộ, triệt để và đối
chiếu với năng lực hiện có của khu vực
kinh tế tư nhân. Lấy việc tham gia chuỗi
cung ứng của doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài làm mục tiêu đầu tư chiến lược
gắn với công tác nghiên cứu và phát triển
để đổi mới, đầu tư hiện đại hóa công nghệ
và quy trình, đa dạng hóa sản phẩm, bảo
đảm chất lượng sản phẩm đúng với yêu
cầu đối tác. Bộ phận nghiên cứu đổi mới
công nghệ và kỹ thuật, đa dạng hóa sản
phẩm theo tiêu chuẩn đối tác cần được tổ
chức có hiệu quả và có khả năng thích ứng
nhanh nhất với yêu cầu của đối tác. Nguồn
nhân lực khoa học và công nghệ, đổi mới
sản phẩm và sản xuất các chi tiết có độ
tinh xảo cao cần được phát triển. Bên cạnh
đó, cần chú ý quan sát xu hướng thị trường
nói chung và chiến lược của đối tác nói
riêng để đón đầu. Mạnh dạn tận dụng các
hỗ trợ của nhà nước về tài chính, thủ tục
và tư vấn để chọn đối tác kết nối hiệu quả
nhất. Các mối quan tâm của doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài theo cách tiếp
cận đơn nguyên là giá cả cạnh tranh và
chất lượng đúng tiêu chuẩn cần trở thành
mục tiêu chiến lược trong kết nối của khu
vực kinh tế tư nhân Việt Nam.
Đối với các cơ sở nghiên cứu và trường
đại học, cần chủ động hơn trong hỗ trợ
doanh nghiệp hoặc các tác nhân trong kết
nối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài như tham vấn chiến lược, hỗ trợ kỹ
thuật, liên kết để cùng phát triển thông qua
các dự án hay chương trình hỗ trợ khu vực
kinh tế tư nhân kết nối với doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài. Có thể cung
ứng dịch vụ tư vấn miễn phí hoặc giá rẻ
cho khu vực kinh tế tư nhân kết nối FDI,
tổng kết các bài học kinh nghiệm quốc tế
để làm bài học cho các chủ thể khu vực
kinh tế tư nhân. Cần chủ động xây dựng
đội ngũ nghiên cứu kinh nghiệm về công
nghệ, quản trị, giải mã bí quyết công nghệ
và làm chủ quy trình quản trị hiện đại. Việc
đào tạo đội ngũ nhân lực đặc biệt này phải
gắn với chiến lược đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao trong công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Thúc đẩy phát triển kinh tế 21
Đối với Chính phủ(*), cần có chính sách
khuyến khích khu vực tư nhân Việt Nam kết
nối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài thông qua truyền thông, công cụ tài
chính và phi tài chính, động viên và hỗ trợ
sáng kiến kết nối. Đặc biệt, cần xây dựng
một hệ sinh thái tinh gọn kết nối hiệu quả
giữa khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam với
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như
là một phần của chiến lược phát triển khu
vực kinh tế tư nhân Việt Nam đồng bộ trong
hệ thống kinh tế thống nhất. Trong đàm
phán cấp Chính phủ, để tăng cường thu hút
vốn đầu tư nước ngoài, nhất là các đối tác
đầu tư mới, cần đề xuất hoặc đưa ra gợi ý
kết nối các tập đoàn xuyên quốc gia với khu
vực kinh tế tư nhân Việt Nam như là điều
kiện và sự thể hiện thiện chí hợp tác lâu dài
của các doanh nghiệp này với Việt Nam.
5. Kết luận
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
đang phát triển rất nhanh cho nên cần thúc
đẩy khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam kết
nối trực tiếp với các doanh nghiệp thuộc
khu vực này thông qua loại bỏ rào cản. Kết
nối xuôi diễn ra hiệu quả do doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài coi tư nhân là
thị trường tiêu thụ song kết nối ngược để
doanh nghiệp Việt Nam có thể làm chủ
công nghệ và bí quyết, tham gia sâu vào
chuỗi cung ứng còn hạn chế. Từ góc độ
doanh nghiệp, các rào cản kết nối chủ yếu
ở tài chính, công nghệ, quản lý, pháp luật
và văn hóa. Để giảm thiểu rào cản cần có
giải pháp đồng bộ từ chủ thể khu vực kinh
tế tư nhân Việt Nam, sự đồng hành của
(*) Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về phát triển
kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng
của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cần
được hướng làm trọng tâm hành động.
Chính phủ và sự hỗ trợ của các đối tượng
hữu quan khác như các trường đại học và
cơ sở nghiên cứu
Tài liệu tham khảo
1. Cục Đầu tư nước ngoài (2018),
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam lũy kế đến 20/4/2018, https://
drive.google.com/file/JQxZcyqml
A4GuFvQaheztWd_P_VnpLW/view.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Nghị
quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XII phát triển kinh tế tư nhân trở thành
một động lực quan trọng của nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN.
3. J. Lee (2018), Bài nói chuyện với sinh
viên Trường Đại học Kinh tế quốc dân
về đầu tư Hàn Quốc tại Việt Nam ngày
3/4/2018 tại Trường Đại học Kinh tế
quốc dân.
4. Ngọc Khanh (2017), Thắt lại sợi dây
liên kết FDI,
vn/that-lai-soi-day-lien-ket-fdi-71146.
html
5. Lương Văn Khôi (2018), Bài trả lời
phỏng vấn trên Đài tiếng nói Việt Nam
về khu vực đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam,
6. Nguyễn Thường Lạng (1996), Giải
pháp hoàn thiện thành lập doanh nghiệp
liện doanh trong công nghiệp Việt Nam,
Luận án tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học
Kinh tế quốc dân.
7. Nguyễn Đình Luận (2015), “Vai trò
của kinh tế tư nhân với tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam”, Tạp chí Phát
triển & Hội nhập, 25(35), tháng
11-12, https://www.uef.edu.vn/newsimg
/tap-chi-uef/2015-11-12-25/3.pdf.
(xem tiếp trang 59)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_day_phat_trien_kinh_te_tu_nhan_viet_nam_trong_hoi_nhap.pdf