MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 3
Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 4
1.1. Tầm quan trọng xuất khẩu đồ gỗ ở Việt Nam 4
1.1.1 Khái niệm và các hình thức xuất khẩu hàng hóa 4
1.1.1.1 Khái niệm 4
1.1.1.2 Các hình thức xuất khẩu hàng hóa. 4
1.1.2 Sự cần thiết xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam 6
1.1.3. Vai trò của xuất khẩu đồ gỗ ở Việt Nam 7
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đễn xuất khẩu đồ gỗ ở Việt Nam 8
1.2.1 Các nhân tố thuộc môi trường trong nước 8
1.2.1.1 Nguồn nguyên liệu đầu vào phụ thuộc vào nhập khẩu 8
1.2.1.2 Vấn đề tài chính 10
1.2.1.3 Lực lượng lao động của ngành công nghiệp đồ gỗ 11
1.2.1.4 Công nghệ chế biến gỗ còn lạc hậu 12
1.2.2. Các nhân tố ngoài nước 13
1.3. Thị trường đồ gỗ Mỹ 15
1.3.1 Tổng quan về thị trường Mỹ 15
1.3.1.1 Mỹ là thị trường lớn nhất toàn cầu. 15
1.3.1.2 Tiêu chuẩn đối với hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ 17
1.3.2. Thị trường đồ gỗ Mỹ 18
1.3.2.1 Đặc điểm thị trường đồ gỗ Mỹ 18
1.3.2.2 Nhu cầu và thị hiếu sản phẩm đồ gỗ Mỹ 19
1.3.2.3. Những nhà cung cấp của thị trường đồ gỗ Mỹ. 20
1.3.2.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam vào thị trường Mỹ. 20
1.4. Kinh nghiệm thúc đẩy xuất khẩu đồ gỗ của một số nước vào thị trường Mỹ 23
1.4.1 Trung quốc 23
1.4.2. Malaysia 23
Chương II : THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ 25
2.1. Tổng quan về xuất khẩu đồ gỗ trong giai đoạn hiện nay. 25
2.1.1 Ngành công nghiệp đồ gỗ trong giai đoạn hiện nay. 25
2.1.1.1 Quy mô của ngành đồ gỗ 25
2.1.1.2 Chất lượng, mẫu mã, giá cả. 26
2.1.1.3 Các lỗ lực thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm 27
2.1.2 Thực trạng xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam 29
2.2 Phân tích thực trạng xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam sang thị trường Mỹ. 33
2.2.1 Kim ngạch xuất khẩu. 33
2.2.2 Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu. 36
2.3 Chính sách hỗ trợ xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam 37
2.4 Đánh giá về thực trạng xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam sang
thị trường 39
2.4.1 Những kết quả 39
2.4.2 Những hạn chế và nguyên nhân. 41
Chương III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 44
3.1 Dự báo về thị trường đồ gỗ Mỹ 44
3.1.1 Số lượng 44
3.1.2 Xu hướng, thị hiếu và kiểu cách mẫu mã . 45
3.2. Mục tiêu và phương hướng phát triển xuất khẩu đồ gỗ
trong giai đoạn 2005-2010 và 2010-2020 46
3.2.1 Mục tiêu chung 46
3.2.2 Mục tiêu và định hướng phát triển xuất khẩu trong
giai đoạn 2005-2010 và 2010- 2020 47
3.3. Biện pháp thức đẩy xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam sang
thị trường Mỹ 48
3.3.1. Từ phía nhà nước 48
3.3.2. Từ phía doanh nghiệp 51
KẾT LUẬN 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 58
LỜI NÓI ĐẦU
Sản phẩm đồ gỗ là mặt hàng xuất khẩu phát triển tương đối mạnh trong khoảng 10 năm trở lại đây.Tuy mới phát triển xong đồ gỗ Việt Nam đã thể hiện là mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu lớn và đóng góp góp quan trọng vào sự tăng trưởng xuất khẩu của cả nước.Liên tục trong các năm từ 2000 đến nay,kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ đã chiếm vị trí trong top 5 các mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam,trong đó thị trường chủ lực của mặt hàng này hiện nay là Hoa Kỳ.Tuy nhiên sự tăng trưởng này chưa phải là bền vững,giá trị gia tăng của mặt hàng này còn thấp.Thị trường đồ gỗ Việt Nam ở Hoa Kỳ còn được coi là rất trẻ, và xuất khẩu có xu hướng chậm lại do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế khiến các doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng này trong nước gặp nhiều khó khăn.Trước những phân tích như trên em thấy cần thiết lựa chọn đề tài “Thúc đẩy xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam sang thị trường Mỹ” để nghiên cứu. ài viết gồm có ba chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về xuất khẩu đồ gỗ sang thị trường Mỹ
Chương II: Thực trạng xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam sang thị trường Mỹ
Chương III: Phương hướng và biện pháp thúc đẩy đồ gỗ Việt Nam sang thị trường Mỹ.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của GS.TS Hoàng Đức Thân đã hướng dẫn tận tình giúp em hoàn thành đề án này.
58 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2487 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thúc đẩy xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thị trường hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, góp phần mang lại kim ngạch xuất khẩu hàng trăm triệu USD/năm.
Nhìn chung quy mô của các xí nghiệp sản xuất đồ gỗ xuất khẩu là các xí nghiệp vừa và nhỏ, sản xuất kết hợp giữa thủ công và cơ khí. Các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng đồ gỗ công nghiệp thường có sự đầu tư mới về các trang thiết bị và công nghệ tiên tiến phục vụ sản xuất, trong khi đó đại bộ phận các doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ có hệ thống thiết bị khá lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu của các đơn hàng lớn hay các thị trường yêu cầu chất lượng cao.
2.1.1.2 Chất lượng, mẫu mã, giá cả.
Đa số sản phẩm gỗ của Việt Nam là sản phẩm có chất lượng trung bình,hướng tới nhóm sản phẩm bình dân giá thấp. Tuy nhiên theo nhiều doanh nghiệp xuất khẩu gỗ tính toán, do chi phí đầu vào quá cao đã đẩy giá hàng đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam cao hơn các nước khác (thậm chí, một số mặt hàng còn có giá cao hơn hàng sản xuất tại Mỹ) nên khó cạnh tranh để giành đơn hàng. Giá các sản phẩm của Việt Nam cao hơn của Trung Quốc khoảng 20%,do đó sản phẩm gỗ Việt Nam đang gặp khó khăn trong cạnh tranh về giá với đối thủ của lớn nhất là Trung Quốc.
Bên cạnh những mặt hàng giá thấp,đồ gỗ Việt Nam cũng đã quam tâm phát triển đến mặt hàng có giá trị cao hơn. Ông Trần Quốc Mạnh, Tổng Giám đốc Công ty Sadaco cho biết, việc sản xuất đồ gỗ của VN hiện nay đã bắt đầu đi theo hướng sản xuất những mặt hàng có giá trị cao. Nếu những năm trước, một bộ bàn ghế có giá trị từ 500 - 600 USD thì hiện nay VN đã sản xuất những bộ bàn ghế có giá từ 1.100 - 1.800 USD
Sản phẩm gỗ Việt Nam có xu hướng nhấn mạnh đến tính dân tộc hoặc văn hóa của sản phẩm, tuy nhiên cần xem xét những đặc tính này trong việc xuất khẩu vì nõ có thể có giá trị đối với dân tộc hoặc nền văn hóa này song lại chẳng có ý nghĩa gì đối với một dân tộc hoặc một nền văn hóa khác
Thực tế điểm yếu chung của các doanh nghiệp chế biến, kinh doanh đồ gỗ cũng như các làng nghề Việt Nam là sự nghèo nàn về kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm. Nghĩa là sự sáng tạo của các DN không theo kịp với những thay đổi nhanh chóng về thị hiếu tiêu dùng. Hiện tại, 90% mẫu mã hàng dựa trên mẫu đặt hàng từ người mua.Tuy nhiên sản phẩm đồ gỗ Việt Nam ở các làng nghề chủ yếu là do tinh chế, tận dụng được trình độ lành nghế của lao động, đặc biệt là các nghệ nhân được đánh giá là tỷ mỉ, sâu sắc và phong cách nghiêng về châu Âu( ảnh hưởng từ Pháp) .
2.1.1.3 Các lỗ lực thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm
Sự phát triển mạnh của ngành đồ gỗ trong những năm gần đây một phần nhờ những điều kiện thuận lợi khách quan nhưng chủ yếu phải ghi nhận sự nỗ lực mở rộng sản xuất, phát triển sản phẩm, chủ động tìm kiếm thị trường của các doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ cũng như sự hỗ trợ, liên kết của các Hiệp hội đồ gỗ và các chương trình xúc tiến xuất khẩu đồ gỗ do Nhà nước hỗ trợ.
Năm 2004 là năm khởi đầu cho các hoạt động xúc tiến xuất khẩu đồ gỗ mang tính hệ thống, liên tục và khá chuyên nghiệp và được đưa vào chương trình Xúc tiến Thương mại quốc gia. Các hội chợ triển lãm, hội thảo, tập huấn khảo sát thị trường chuyên ngành đỗ gỗ được tổ chức liên tiếp.
Đáng chú ý là Cục Xúc tiến thương mại phối hợp với Sở Công Thương TP. Hồ Chí Minh tổ chức Hội chợ quốc tế đồ gỗ và thủ công mỹ nghệ thành phố Hồ Chí Minh (Hochiminh City Expo) đã thu hút được sự quan tâm của khách quốc tế đối với ngành đồ gỗ Việt Nam. Năm 2008, Hội chợ này được tổ chức với quy mô 824 gian hàng của 319 doanh nghiệp trong và ngoài nước, và đã thu hút số lượng khách tham quan đáng kể, trên 22.500 lượt khách trong nước và khoảng 7.500 khách nước ngoài , trong đó có khoảng 800 nhà nhập khẩu đồ gỗ và thủ công mỹ nghệ đến từ 26 quốc gia như: Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc, Ấn Độ, Hồng Kông, Thái Lan, Singapore, Úc, Nga… đã trực tiếp hoặc gián tiếp đàm phán, ký kết 125 hợp đồng tại Hội chợ có trị giá trên 25,6 triệu USD.
Bên cạnh đó, Cục Xúc tiến thương mại cũng phối hợp với Hiệp hội đồ gỗ thành phố HCM tổ chức đoàn doanh nghiệp tham gia và khảo sát thị trường đồ gỗ tại Hội chợ High Point (New York) 2004-2005 và Hội chợ Las Vegas Market 2006- 2008 nhằm quảng bá sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường Mỹ cũng như khách thăm quan quốc tế. Tại các kỳ hội chợ này, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã thu được những đơn hàng có giá trị cao cũng như học hỏi được mẫu mã, tìm hiểu thị hiếu, nhu cầu đồ gỗ của thị trường.
Hiện nay, việc Cục Xúc tiến thương mại phối hợp với Sở Công Thương TP HCM tổ chức Hội chợ quốc tế đồ gỗ và thủ công mỹ nghệ Thành phố Hồ Chí Minh; phối hợp với Hiệp hội đồ gỗ Thành phố HCM tổ chức đoàn doanh nghiệp tham gia hội chợ chuyên ngành đồ gỗ tại Mỹ đã trở thành hoạt động xúc tiến thương mại quốc gia thường niên do Cục XTTM làm đơn vị chủ trì.
Ngoài ra, Hiệp hội đồ gỗ Việt Nam cũng đã tổ chức các đoàn khảo sát thị trường đồ gỗ, tham gia hội chợ chuyên ngành đồ gỗ ở nước ngoài, các lớp tập huấn nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu đồ gỗ.
Bên cạnh việc tổ chức các sự kiện, hoạt động quảng bá cho đồ gỗ Việt Nam cũng đã bước đầu được thực hiện mang tính chuyên nghiệp và bài bản hơn với sự hỗ trợ kinh phí từ chương trình xúc tiến thương mại quốc gia. Từ năm 2004 đến nay, ngành gỗ Việt Nam được quảng bá thường xuyên trên tạp chí Furniture Today - tạp chí về chuyên ngành đồ gỗ lớn của Mỹ với số lượng xuất bản là 20,000. Sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, giới chuyên môn quốc tế đối với ngành gỗ Việt Nam ngày một tăng.
2.1.2 Thực trạng xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam
Kim ngạch xuất khẩu của đồ gỗ Việt Nam kể từ năm 2000 trở lại đây luôn có mức tăng trưởng cao,nhìn chung có thể chia làm 2 giai đoạn: từ trước năm 2004,và giai đoạn từ năm 2004 trở lại đây.Biểu đồ sau cho thấy kim ngạch xuất khẩu của hai giai đoạn của xuất khẩu đồ gỗ.
Đvt: triệu USD
Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam giai đoạn 2000– 2004
Sau khi nhà nước chủ trương mở của nền kinh tế, xuất nhập khẩu vào nước ta nói chung đều tăng trưởng cao.Đối với ngành đồ gỗ,kể từ 2000 có những mức tăng rất cao. Năm 2004 là năm đánh dấu thành công lớn của ngành chế biến gỗ Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu đạt gần 1,1 tỷ USD, tăng 86% so với năm 2003.Đưa đồ gỗ trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Kể từ năm 2004, tốc độ tăng trưởng của đồ gỗ xuất khẩu tiếp tục tăng nhanh và đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu đồ gỗ đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam Á. Năm 2005 xuất khẩu đồ gỗ tiếp tục tăng tốc, đạt gần 1,6 tỷ USD và chính thức đứng vào tốp 5 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất của cả nước (sau dầu khí, giầy dép, dệt may, thuỷ sản).Tính đến tháng 6 năm 2008 kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của cả nước đạt khoảng 1,36 tỷ USD, tăng 20,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam mới chỉ thực hiện được 45,6% kế hoạch năm.
Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam trong tháng 12/2008 đạt 269,4 triệu USD, tăng 17,1% so với tháng 11 và tăng 3,1% so với cùng kỳy năm 2007. Trong năm 2008, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam đạt 2,8 tỷ USD, tăng 16,6% so với cùng kỳ năm ngoái và chỉ đạt được 93,3% kế hoạch năm.
Về thị trường, tính từ năm 2006 đến nay Mỹ, EU và Nhật Bản là ba thị trường xuất khẩu lớn nhất, chiếm khoảng 77,92% kim ngạch xuất khẩu gỗ của Việt Nam, trong đó Mỹ chiếm 38,36%, EU chiếm 26,23%, Nhật Bản chiếm 13,33%
Nguồn: Thống kê của Tổng cục hải quan, thống kê của bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2008 trên www.agroviet.gov.vn
Biểu đồ cơ cấu kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam sang các quốc gia từ năm 2006 - tháng 8/2008
Hiện nay các sản phẩm xuất khẩu của nước ta bao gồm các nhóm hàng sau:
Nhóm thứ nhất: Nhóm sản phẩm đồ mộc ngoài trời bao gồm các loại bàn ghế, vườn, ghế băng, che nắng, ghế xích đu… làm hoàn toàn từ gỗ hoặc kết hợp với các vậtliệu khác như sắt, nhôm, nhựa. Đây là nhóm hàng chủ lực xuất khẩu hiện nay của nước ta hiện nay chiếm tỷ lệ đến 90%.
Nhóm thứ hai: Nhóm sản phẩm đồ mộc trong nhà bao gồm các loại bàn ghế, giường tủ, giá kê sách, đồ chơi, ván sàn… làm hoàn toàn từ gỗ hay gỗ kết hợp với các vật liệu khác như da, vải… Trong những năm gần đây nhóm hàng này đã có sự tăng trưởng về xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
Nhóm thứ ba: Nhóm đồ mỹ nghệ chủ yếu từ gỗ rừng tự nhiên bao gồm bàn, ghế, tủ… áp dụng các công nghệ chạm, khắc, khảm. Kim ngạch xuất khẩu hàng năm đạt 30 triệu USD
Nhóm thứ tư: Sản phẩm dăm gỗ sản xuất từ gỗ rừng trồng mọc nhanh như các loại gỗ keo tai tượng, keo lai, keo lá tràm, gỗ bạch đàn…. Kim ngạch xuất khẩu dăm gỗ năm 2005 đạt 150 triệu USD, trong đó: Thị trường Nhật bản 55.7%, Hàn Quốc 5.6%, Đài Loan 3.7% và Trung Quốc 35%.
Nguồn: Nguyễn Chí Tân, tình hình xuất nhập khẩu gỗ tháng 6/2008
Theo Vụ Châu Âu, Bộ Công thương
Về doanh nghiệp, trong 2008 có khoảng 973 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu sản phẩm gỗ, tăng 21% so cùng kỳ năm 2007. Những công ty dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu lại là các công ty có vốn đầu tư nước ngoài như Cty TNHH Great Veca Việt Nam ; Cty TNHH Shing MarkVina.
2.2 Phân tích thực trạng xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam sang thị trường Mỹ.
2.2.1 Kim ngạch xuất khẩu.
Đối với đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam, Mỹ là thị trường lớn, tốc độ tăng trưởng nhanh, đặc biệt từ sau thời điểm Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực (ngày 10/12/2001)
Theo một con số thống kê, năm 2001 Việt Nam chỉ mới xuất khẩu vào Hoa Kỳ một lượng rất nhỏ đồ gỗ, 16,1 triệu USD, chiếm 0,06% tỷ trọng nhập khẩu đồ gỗ của nước này. Sang năm 2002, con số này nhảy vọt, đạt 44,7 triệu USD, tăng 178% so với 2001 và vượt qua cả tốc độ tăng trưởng của tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Hoa Kỳ 1,84 lần, đạt tỷ trọng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của cả nước. Những năm tiếp theo đó, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam sang Hoa Kỳ tuy vẫn giữ ở mức độ khá cao, song đã có nhiều dấu hiệu thiếu ổn định.
Ví dụ, năm 2003 đạt 116 triệu USD, tăng 160% và đây là mức tăng cao nhất trong số 25 nước xuất khẩu đồ gỗ hàng đầu sang Mỹ, tăng gần gấp 6 lần tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ (98%) và chiếm 20% thị phần đồ gỗ của Việt Nam.
Đến năm 2004, con số này là 388 triệu USD, tăng 235% và là mức tăng kỷ lục do năm đầu Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực. Trong số 3 thị trường nhập khẩu đồ gỗ chủ yếu của Việt Nam là Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU, kể từ năm 2005, Hoa Kỳ đã vươn lên vị trí cao nhất, chiếm 44%, trong cơ cấu thị trường của đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam.
Nguồn: Thống kê của Tổng cục hải quan, thống kê của bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2008 trên www.agroviet.gov.vn
Biểu đồ kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam sang các quốc gia từ năm 2006 - tháng 8/2008.
Theo số liệu thống kê, năm 2008, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 1,11 tỉ USD, tăng 18,87% so với năm 2007. Hiện tại, Hoa Kỳ vẫn là thị trường chủ lực cho hoạt động xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam. Hơn 70% tỷ trọng kim ngạch XK sản phẩm gỗ vào Mỹ là đồ nội thất, ngoài ra còn có đồ gỗ dùng trong xây dựng, trang trí và gỗ xẻ, gỗ tấm.
Năm 2008, xuất khẩu đồ gỗ nội thất sang Hoa Kỳ tiếp tục là mặt hàng đứng đầu trong các mặt hàng Nông Lâm Thủy sản xuất sang thị trường này. Với kim ngạch xuất khẩu đạt 960,2 triệu USD, tăng khoảng 22,06% so với năm 2007. Tuy nhiên ngoài đồ gỗ nội thất ra, xuất khẩu nhiều sản phẩm gỗ khác đang có xu thế giảm (gỗ cây giảm 88,63%, hòm gỗ, hộp kệ gỗ giảm 33,62%, các sản phẩm gỗ khác giảm 43,37%)
Kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ nội thất sang Hoa kỳ các tháng năm 2008
Đơn vị: Triệu USD
Tháng 1
89,51
Tháng 2
37,49
Tháng 3
75,75
Tháng 4
79,82
Tháng 5
83,00
Tháng 6
81,01
Tháng 7
88,59
Tháng 8
87,31
Tháng 9
86,18
Tháng 10
91,07
Tháng 11
76,67
Tháng 12
82,25
Tuy vẫn là thị trường chủ lực xong trong khoảng 3 năm gần đây xuất khẩu đồ gỗ vào Mỹ có xu hướng giảm về tốc độ tăng trưởng. Dự báo, ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang thị trường Hoa Kỳ năm 2009 có nhiều khả năng sẽ giảm mạnh (khoảng 22,19% so với năm 2008). M
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang Hoa Kỳ giai đoạn 2006-2008 và dự báo 2009
Đơn vị: %
2006
28,13%
2007
27,18%
2008
18,8%
2009 (Dự báo)
-22,19%
2.2.2 Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu.
Các mặt hàng xuất khẩu chính vào Mỹ là đồ nội thất dùng trong phòng ngủ, đồ nội thất dùng trong phòng khách và phòng ăn, ghế khung gỗ, đồ nội thất dùng trong văn phòng... Hơn 70% tỷ trọng kim ngạch XK sản phẩm gỗ vào Mỹ là đồ nội thất, ngoài ra còn có đồ gỗ dùng trong xây dựng, trang trí và gỗ xẻ, gỗ tấm.Trong đó cơ cấu xuất khẩu năm 2008 là đồ nội thất dùng trong phòng ngủ, chiếm đến 55% tỷ trọng, đồ nội thất phòng khách, phòng ăn, chiếm 24%; đồ nội thất văn phòng, chiếm khoảng 10%... Tuy nhiên các mặt hàng này đang có xu hướng bị giảm dần.Dự báo, ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang thị trường Hoa Kỳ năm 2009 có nhiều khả năng sẽ giảm mạnh (khoảng 22,19% so với năm 2008). Mặt hàng đồ gỗ nội thất vẫn sẽ tiếp tục là mặt hàng đứng đầu về xuất khẩu nhưng kim ngạch sẽ giảm xuống còn khoảng 752 triệu USD (giảm 22,2%). Các mặt hàng gỗ khác (gỗ ván chưa lắp ghép, gỗ cây, hộp kệ gỗ...) kim ngạch xuất khẩu cũng sẽ giảm trung bình khoảng 21%.
Kim ngạch xuất khẩu một số sản phẩm gỗ sang Hoa Kỳ năm 2008
Đơn vị: nghìn USD
Đồ nội thất trong ngành Y
383
Sản phẩm bằng gỗ khác
3.928
Đồ ăn và đồ bếp bằng gỗ
1.997
Đồ gỗ dùng trong xây dựng
3.851
Các loại thùng gỗ
680
Hòm, hộp, kệ, giá gỗ
1.628
Gô dán, gỗ dán ván lạng
3.822
Ván sợi bằng gỗ
286
Tà vẹt, thanh ngang bằng gỗ
434
Một thực trạng nữa là các doanh nghiệp chủ yếu vẫn bán hàng qua khâu trung gian (chiếm 90% lượng sản phẩm và việc nhận làm gia công theo mẫu mã thiết kế, hợp đồng đặt hàng của nước ngoài ngày càng nhiều đã biến các doanh nghiệp của chúng ta thành người làm thuê cho thương hiệu nước ngoài. Tất cả những điều này đang làm ảnh hưởng đến thương hiệu gỗ Việt Nam trên thị trường thế giới.
2.3 Chính sách hỗ trợ xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam
Với chủ trương tạo mọi điều kiện để phát triển ngành công ngiệp chế biến gỗ xuất khẩu,chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp quy liên quan đến rất nhiều lĩnh vực như phát triển vùng nguyên liệu, giao đất giao rừng,khai thác,chế biến,lưu thông gỗ…như:
Quyết định số 65/1998/QĐ-TTg ngày 24/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc xuất khẩu sản phẩm gỗ, lâm sản và nhập khẩu nguyên liệu gỗ, lâm sản và Thông tư số 01/1998/TT/BNN-PTLN ngày 10/1/1998 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn hướng dẫn Quyết định số 1124/1997/QĐ-TTg ngaỳ 25/12/1997 về việc xuất khẩu sản phẩm gỗ, lâm sản và nhập khẩu gỗ nguyên liệu.
Quyết định số 02/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 2/1/2003 của Bộ thương mại về chính sách thưởng xuất khẩu.
Năm 2004 ban hành chỉ thị số 19 về một số giải pháp phát triển ngành chế biến gỗ và xuất khẩu sản phẩm gỗ. Theo đó, Bộ Thương mại và Hiệp hội Gỗ & lâm sản Việt Nam hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thị trường nhập khẩu, tạo điều kiện nhập khẩu thuận lợi nhất là gỗ rừng tự nhiên cho sản xuất sản phẩm gỗ.
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 147/2007/QĐ-TTg ngày 10 tháng 9 năm 2007, quyết định một số chính sách phát triển rừng sản xuất giai đoạn 2007-2015 nhằm khuyến khích các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế đầu tư trồng rừng và chế biến lâm sản theo quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng và phát triển rừng sản xuất phải gắn với công nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm lâm sản để tạo được nghề rừng ổn định và phát triển bền vững.
Về nhập khẩu, trừ gỗ nhập khẩu từ Campuchia phải có giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu của Bộ Thương mại hai nước, các doanh nghiệp được nhập khẩu theo nhu cầu, không phải xin giấy phép của các cơ quan quản lý và được hưởng mức thuế suất nhập khẩu thấp nhất hiện hành (0%) từ 1/12/2008.
Tuy nhiên do năm 2008, Chính phủ tập trung nỗ lực kìm chế lạm phát và giảm nhập siêu nên xuất khẩu đồ gồ cũng giảm đi. Với đầu ra của sản phẩm sản xuất luôn không thay đổi, trong khi đầu vào (chi phí) là những con số biến đổi theo chiều hướng tăng. Lợi nhuận của sản phẩm gỗ xuất khẩu tối đa cũng chỉ được 10%, trong khi các yếu tố đầu vào tác động đến giá thành từ 18% - 20% là một gánh nặng đối với doanh nghiệp.
Nhà nước đã có những chính sách ưu tiên sau khi Việt nam gia nhập WTO, ngành chế biến gỗ xuất khẩu được giảm thuế nhập khẩu gỗ nguyên liệu cũng như giảm thuế xuất khẩu sản phẩm hàng hóa vào thị trường các nước.
Nhà nước ta đã có định hướng chiến lược phát triển Lâm nghiệp Việt nam đến năm 2020 về việc phát triển vùng nguyên liệu gỗ phục vụ cho ngành công nghiệp chế biến gỗ.
Hội chợ đồ gỗ EXPO 2008 sẽ diễn ra từ ngày 8 đến 12-10, là sự kiện xúc tiến thương mại lớn nhất được tổ chức hàng năm tại TPHCM, hiện đã có khá nhiều nhà nhập khẩu đồ gỗ của Mỹ đăng ký qua mạng của nhà tổ chức là Sở Công Thương TPHCM để đến tham quan hội chợ dịp này.
Bên cạnh đó, Cục Xúc tiến thương mại cũng phối hợp với Hiệp hội đồ gỗ thành phố HCM tổ chức đoàn doanh nghiệp tham gia và khảo sát thị trường đồ gỗ tại Hội chợ High Point (New York) 2004-2005 và Hội chợ Las Vegas Market 2006- 2008 nhằm quảng bá sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường Mỹ cũng như khách thăm quan quốc tế. Tại các kỳ hội chợ này, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã thu được những đơn hàng có giá trị cao cũng như học hỏi được mẫu mã, tìm hiểu thị hiếu, nhu cầu đồ gỗ của thị trường.
Hiện nay, việc Cục Xúc tiến thương mại phối hợp với Sở Công Thương TP HCM tổ chức Hội chợ quốc tế đồ gỗ và thủ công mỹ nghệ Thành phố Hồ Chí Minh; phối hợp với Hiệp hội đồ gỗ Thành phố HCM tổ chức đoàn doanh nghiệp tham gia hội chợ chuyên ngành đồ gỗ tại Mỹ đã trở thành hoạt động xúc tiến thương mại quốc gia thường niên do Cục XTTM làm đơn vị chủ trì.
Ngoài ra, Hiệp hội đồ gỗ Việt Nam cũng đã tổ chức các đoàn khảo sát thị trường đồ gỗ, tham gia hội chợ chuyên ngành đồ gỗ ở nước ngoài, các lớp tập huấn nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu đồ gỗ.
Bên cạnh việc tổ chức các sự kiện, hoạt động quảng bá cho đồ gỗ Việt Nam cũng đã bước đầu được thực hiện mang tính chuyên nghiệp và bài bản hơn với sự hỗ trợ kinh phí từ chương trình xúc tiến thương mại quốc gia. Từ năm 2004 đến nay, ngành gỗ Việt Nam được quảng bá thường xuyên trên tạp chí Furniture Today - tạp chí về chuyên ngành đồ gỗ lớn của Mỹ với số lượng xuất bản là 20,000. Sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, giới chuyên môn quốc tế đối với ngành gỗ Việt Nam ngày một tăng.
2.4 Đánh giá về thực trạng xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam sang thị trường
2.4.1 Những kết quả
Xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam đã đạt được những thành tựu đánh kể,trở thành một trong năm mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, xếp thứ 3 trong những mặt hàng xuất khẩu sang Mỹ.Mặt hàng đồ gỗ có mặ trên thị trường của 120 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.Là mặt hàng xuất khẩu mang lại kim ngạch trên 2ty USD mỗi năm.
Giá trị sản xuất của công nghiệp chế biến lâm sản (tính theo phương pháp công xưởng) tăng mạnh trong thời kỳ 2000-2005, so với năm 2000, giá trị sản xuất công nghiệp năm 2005 bằng 4,44 lần theo giá trị thực tế và 2,9 lần tính giá so sánh năm 1994. Tổng giá trị thực tế năm 2000 đạt: 13.500 tỷ đồng, năm 2005 đạt: 60.059 tỷ đồng, sấp sỉ 4 tỷ USD (tính giá thực tế). Năm 2006 -2008 bằng 2,5 lần so với thời kỳ năm 2000 – 2005. Năm 2005, 1 đồng vốn đầu tư (TSCD) làm ra 9,67 đồng giá trị sản xuất theo giá thực tế (tính toán trên số liệu của Tổng cục thống kê, 2005). Theo số liệu điều tra điển hình 60 doanh nghiệp trong nước chế biến đồ gỗ xuất khẩu của tỉnh Bình Định cho thấy chỉ tiêu này thấp hơn: năm 2006: 3,18; năm 2007: 3,7 và 2008: 4,0. Nếu tính chỉ tiêu hiệu quả đồng vốn (cố định và lưu động): năm 2006 cần 1,07 đồng vốn để sản xuất ra 1 đồng doanh thu, năm 2007: 0,97 và năm 2008 ước tình là 0,91. Chỉ tiêu doanh thu thuần/vốn (1 đồng vốn làm ra được bao nhiêu đồng doanh số) bình quân thời kỳ 2000 – 2006 đạt 1,259 tăng dần từ năm 2001 đến 2006, chỉ tiêu này năm 2006 đạt 1,267. Nhìn chung hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến gỗ không cao. Tỷ suất lợi nhuận (trước thuế)/vốn bình quân của cả nước đạt 2,5%; các DN miền Nam đạt 5,48%, cao hơn các doanh nghiệp Miền Bắc gấp gần 14 lần, Miền Bắc chỉ đạt 0,04%, đại bộ phận doanh nghiệp lỗ, lớn nhất doanh nghiệp vùng tây Bắc đến – 6,8%. Doanh nghiệp vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ có tỷ suất lợi nhuận cao nhất 9,24%, thứ đến là vùng Đông Nam Bộ 3,28%, các doanh nghiệp vùng Tây Nguyên cũng lỗ, tỷ suất lợi nhuận đạt - 0,35%. Năng suất lao động tính theo chỉ tiêu doanh thu/lao động bình quân các doanh nghiệp cả nước thời kỳ 2000- 2006 đạt: 65,689 triệu đồng/lao động, tăng đều hàng năm. Năm 2006 dạt 123,265 triệu đồng bằng 176% năm 2000, tốc độ tăng bình quân 10,85%/năm. Chỉ tiêu này của 60 doanh nghiệp tình Bình Định là: năm 2006 đạt 102 triệu đồng/LD/năm (6180 USD); 130 triệu đồng (2007) và 154 triệu đồng (2008). Thu nhập bình quân của người lao động là 12 triệu đồng/năm năm 2006; 13 triệu đồng/năm năm 2007 và 16 triệu đồng (2008).
Trước đây, ít ai nghĩ rằng đồ gỗ Việt Nam có thể chen chân vào các siêu thị lớn trên thế giới thì nay, hầu hết các siêu thị lớn trên thế giới đều có bán đồ gỗ chế biến tại Việt Nam. Việc có nhiều nhà nhập khẩu đồ gỗ quốc tế tới tham dự hội chợ EXPO đồ gỗ hàng năm vào tháng 10 tại TPHCM trong 4 năm qua, để tìm hiểu và ký kết hợp đồng đã phần nào khẳng định vị thế của công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam trên thị trường thế giới.
2.4.2 Những hạn chế và nguyên nhân.
Chất lượng tăng trưởng thấp:
Ngành chế biến gỗ Việt Nam trung bình chỉ tạo ra giá trị xuất khẩu dưới 10.000 USD/công nhân/năm, trong khi tại Trung quốc là 16.000 USD/công nhân/năm, tại Malaysia là 17.500 USD/công nhân/năm, tại Đức khoảng 70.000 USD/công nhân/ năm. Tăng trưởng của ngành chế biến gỗ Việt Nam (chủ yếu dựa vào xuất khẩu) phát sinh không hoàn toàn từ đổi mới công nghệ trong sản xuất, mà chủ yếu là gia công và phụ thuộc nhiều vào sự đặt hàng và thiết kế mẫu mã từ khách hàng nước ngoài. Chỉ một số ít doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chủ động đầu tư công nghệ, thiết bị và có khả năng tự sản xuất theo thiết kế và có thể tìm kiếm thị trường tiêu thụ, nâng cao giá trị gia tăng.
Sức cạnh tranh yếu:
Số lượng và chất lượng đội ngũ công nhân chế biến gỗ của Việt Nam chưa đáp ứng yêu cầu của ngành, hiện còn thiếu nhiều kỹ năng, trong đó chưa biết hoặc chưa được đào tạo về khả năng tận dụng thời gian thao tác, đứng máy, chưa có ý thức tiết kiệm năng lượng và nguyên liệu gỗ.
Nhập khẩu 80% nguyên liệu nên bị động về nguồn nguyên liệu gỗ. Mặt khác, nhiều doanh nghiệp trong nước có quy mô nhỏ nhưng sản xuất kinh doanh khép kín từ khâu cung ứng nguyên liệu và thực hiện hầu hết các công đoạn của quá trình chế biến gỗ. Các doanh nghiệp này khó khăn về vốn và phải vay thương mại để kinh doanh, phân bổ chi phí quản lý cho nhiều quá trình nên hiệu quả thấp hơn nhiều so với các nhà máy quy mô lớn.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, những hỗ trợ trực tiếp từ nhà nước đã và đang bị cắt giảm, như: hỗ trợ tín dụng đầu tư, thưởng kim ngạch xuất khẩu, các chính sách trợ cước, trợ giá… Trong khi đó, các rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT), yêu cầu chứng chỉ nguồn gốc nguyên liệu gỗ… buộc các doanh nghiệp chế biến gỗ phải nỗ lực nhiều hơn nữa để thích nghi. Chứng nhận FSC, CoC đang trở thành áp lực từ phía người tiêu dùng tại các thị trường có trách nhiệm cao về xã hội, môi trường. Các doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam đã phải nỗ lực rất nhiều để đáp ứng. Đến đầu năm 2008, có khoảng 148 doanh nghiệp có chứng nhận FSC-CoC, 01 doanh nghiệp có chứng nhận FSC.
Chưa xây dựng được thương hiệu “Gỗ Việt”. Khoảng hơn 90% sản phẩm gỗ của Việt Nam phải bán qua các thị trường trung gian và còn bị động, phụ thuộc vào các kênh phân phối này.
Chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường
Dự luật nông nghiệp Farm Bill được quốc hội Hoa Kỳ thông qua áp dụng sẽ có khả năng ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ năm 2009 trong hoạt động xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ khi thắt chặt hơn việc quản lý nguồn gốc của sản phẩm. Ngoài ra Hoa Kỳ cũng đòi hỏi các nhà xuất khẩu phải có chứng nhận FSC, một tiêu chuẩn khắt khe và không dễ áp dụng đối với thực trạng trồng rừng tại Việt Nam. Trong năm 2009, việc đáp ứng tất cả các yêu cầu và tiêu chuẩn mới do Hoa Kỳ đưa ra đối với gỗ và sản phẩm sẽ gây cản trở lớn cho hoạt động xuất khẩu.
Nhưng một cản trở tăng trưởng xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam vào Mỹ, đó là thiếu tiền. Với 4,5 triệu m3 gỗ nhập khẩu, năm 2007 các doanh nghiệp đã phải vay khoảng 800 triệu USD. Để đạt được mục tiêu đề ra của năm 2008, số tiền doanh nghiệp phải vay từ các ngân hàng sẽ khoảng 1 tỷ USD.Ngoài các doanh nghiệp FDI có nguồn vay từ nước ngoài, doanh nghiệp trong nước chỉ còn biết trông chờ vào các ngân hàng thương mại cổ phần. Một sự án vay vốn ngân hàng, thời gian xét duyệt mất khoảng từ 2 đến 3 tháng. Điều này rất bất lợi cho các doanh nghiệp.
Chủng loại hàng hoá còn nghèo nàn.
Mẫu mã, kiểu dáng chưa hợp thị hiếu người tiêu dùng ở Mỹ. Thế ngồi của người Mỹ khác với của Việt Nam nên phải thiết kế cho phù hợp. Cần có đầu tư nghiên cứu cho khâu này.
Do quy mô sản xuất nhỏ, công nghệ còn hạn chế, chính sách thương mại và các yếu tố khác làm đẩy giá thành cao, không cạnh tranh được với Trung Quốc. Các công ty của Mỹ nhập khẩu hàng phần lớn của Trung Quốc vì giá rẻ hơn, chất lượng tốt hơn và quy mô sản xuất lớn hơn. Trung Quốc đã chiếm gần 40% thị phần đồ gỗ và nội thất của Mỹ và gần 30% của EU.
Chương III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ
3.1 Dự báo về thị trường đồ gỗ Mỹ
3.1.1 Số lượng
Mỹ là thị trường tiêu thụ mạnh đồ gỗ. Hàng năm, người tiêu dùng Mỹ tiêu thụ khoảng 75 tỷ USD cho đồ gỗ. Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu Công nghiệp đồ nội thất (Furniture Industry Research Institute) sức tiêu thụ đồ nội thất ở Mỹ sẽ tăng 25,5% trong giai đoạn 2000 – 2010, đạt mức 80,04 tỷ USD năm 2010. Chi tiêu cho đồ gỗ và nội thất tăng một cách đáng kể ở khắp các bang trên toàn nước Mỹ, trong đó các bang miền Tây luôn giữ vị trí hàng đầu. Hiện tại bang California, Washinton là thị trường hàng gỗ và nội thất quan trọng nhất của Mỹ, Texas và Florida cũng là các thị trường rất lớn cho các nhà xuất khẩu hàng gỗ và nội thất trên toàn thế giới. Các bang được dự đoán có tiềm năng tăng trưởng cao nhất trong tương lai là Nevada, Utah, Arizona và Colorado
Tuy nhiên dự báo,kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ năm 2009 có nhiều khả năng sẽ giảm mạnh (khoảng 22,19% so với năm 2008). Mặt hàng đồ gỗ nội thất vẫn sẽ tiếp tục là mặt hàng đứng đầu về xuất khẩu nhưng kim ngạch sẽ giảm xuống còn khoảng 752 triệu USD (giảm 22,2%). Các mặt hàng gỗ khác (gỗ ván chưa lắp ghép, gỗ cây, hộp kệ gỗ...) kim ngạch xuất khẩu cũng sẽ giảm trung bình khoảng 21%. Năm 2009, tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ sẽ tiếp tục giảm bởi sự suy giảm trong xây dựng địa ốc, lãi suất thị trường dài hạn cao hơn kèm theo thất nghiệp tăng. Nền kinh tế tăng trưởng thấp, hoạt động kinh doanh bất động sản đóng băng sẽ làm giảm nhu cầu nhập khẩu gỗ trong xây dựng và nội thất trang trí .
3.1.2 Xu hướng, thị hiếu và kiểu cách mẫu mã .
Người Mỹ thường rất ưa chuộng những sản phẩm có tính cách và có sự thiết kế riêng biệt.
Tuy nhiên, họ cũng đòi hỏi những đồ dùng như bàn, ghế, giường, tủ... phải gần gũi với thiên nhiên, trong đó chứa đựng cả yếu tố bảo vệ môi trường.. Nó đòi hỏi những nhà cung cấp sản phẩm phải chứng minh được rõ nguồn gốc, xuất xứ của nguyên liệu làm nên sản phẩm. Bên cạnh đó, hình thức chứng minh nguồn gốc này phải tiện dụng thì mới hấp dẫn được người tiêu dùng Hoa Kỳ.
Các tạp chí về thời trang cũng góp phần định hướng tiêu dùng cho người dân Mỹ, vì thế doanh nghiệp Việt Nam cần tìm hiểu kỹ các tạp chí này để đoán sản phẩm, kiểu dáng nào sẽ được ưa chuộng, thịnh hành trong tương lai.
Theo nhiên cứu các khách hàng thuộc vùng đông - bắc nước Mỹ có xu hướng mua đồ gỗ cao nhất, vì điều kiện khí hậu ở đây khá khắc nghiệt, đòi hỏi phải thay đồ gỗ thường xuyên hơn. Về lứa tuổi, thông thường người Mỹ ở độ tuổi 35-45 là những người mua nhà lần đầu, cuộc sống bắt đầu ổn định nên có nhu cầu sử dụng bàn ghế đồ gỗ; nhóm tuổi 45-54 thì giàu có hơn, thường muốn mua thêm bộ ĐGNT thứ 2, hoặc trang bị cho ngôi nhà thứ 2 của mình. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần quan tâm đến các nhóm khách hàng đồ gỗ ở Mỹ, như: nhóm "Truyền thống cấp tiến", nhóm "Truyền thống thực dụng", nhóm "Cố gắng duy trì địa vị xã hội", nhóm "Đam mê đồ gỗ"… Chẳng hạn, nhóm "Cố gắng duy trì địa vị xã hội" là những khách hàng có thu nhập thấp nhưng muốn tỏ ra giàu có, thường tìm mua hàng hiệu có giá thấp. Nhóm "Truyền thống cấp tiến" thường quan tâm đến hàng hóa có giá trị cao, hay tìm kiếm đồ gỗ chất lượng cao ở những cửa hàng chuyên dùng, nhưng không sẵn sàng trả mức giá cao tương ứng. Nhóm "Truyền thống thực dụng" thì không quan tâm đến hình ảnh sản phẩm. Nhóm "Đam mê đồ gỗ" lại đánh giá cao những sản phẩm có thiết kế độc đáo, giá có cao cũng mua…
Người tiêu dùng đồ gỗ Mỹ được chia làm 5 loại theo tuổi tác: từ 19-28 tuổi (có sức mua lớn trong tương lai, hiện nhu cầu mua sắm đồ gỗ chưa nhiều), từ 29-39 tuổi (khoảng 47 triệu người, vừa trưởng thành, thích sản phẩm tiện dụng, gọn nhẹ, giá vừa phải), từ 40-48 tuổi (khoảng 78 triệu người, đã đóng góp nhiều cho xã hội, bắt đầu nghiêng về mẫu mã, kiểu dáng, có thể chấp nhận giá cao), từ 48-57 tuổi (đang tính đến việc về hưu, song vừa chăm lo con cái, vừa lo cho cha mẹ, nên ít mua sắm), từ 58-67 tuổi (thường sống một mình, có mức chi tiêu cao nhất vì con cái đã lớn, cha mẹ đã qua đời, thích sản phẩm độc đáo, giá trị cao), từ 68 trở lên (thích mua sản phẩm gỗ có diện tích nhỏ, sắc sảo).
3.2. Mục tiêu và phương hướng phát triển xuất khẩu đồ gỗ trong giai đoạn 2005-2010 và 2010-2020
3.2.1 Mục tiêu chung
Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày 05/02/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020, đặt ra mục tiêu sản xuất các sản phẩm có khả năng cạnh tranh quốc tế chủ yếu dựa vào nguồn gỗ và lâm sản ngoài gỗ nội địa bền vững; áp dụng công nghệ tiên tiến và thân thiện với môi trường nhằm đáp ứng về cơ bản các nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; xây dựng công nghiệp chế biến lâm sản trở thành mũi nhọn kinh tế của ngành Lâm nghiệp.
Nhiệm vụ
Tổ chức lại ngành công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản ngoài gỗ để cân đối giữa năng lực sản xuất và nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định. Tăng cường năng lực sản xuất công nghiệp chế biến lâm sản để đáp ứng cơ bản các nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Đến năm 2020, lâm sản ngoài gỗ trở thành một trong các ngành hàng sản xuất chính, chiếm trên 20% tổng giá trị sản xuất lâm nghiệp, giá trị lâm sản ngoài gỗ xuất khẩu tăng bình quân 15- 20%; thu hút 1,5 triệu lao động và thu nhập từ lâm sản ngoài gỗ chiếm 15 - 20% trong kinh tế hộ gia đình nông thôn.
Đa dạng hoá và không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm chế biến cho phù hợp với thị hiếu khách hàng trong và ngoài nước. Đẩy mạnh xây dựng thương hiệu và cấp chứng chỉ cho các mặt hàng xuất khẩu
3.2.2 Mục tiêu và định hướng phát triển xuất khẩu trong giai đoạn 2005-2010 và 2010- 2020
Theo chiến lược xuất khẩu của bộ Thương mại đề ra,xuất khẩu sản phẩm gỗ đến năm 2010 là 5,56 tỷ USD .Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam dự báo,đến năm 2010, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đồ gỗ vào Mỹ sẽ tăng bình quân 27,7%, Anh 27%, Hà Lan 12%, Hàn Quốc 10% và Trung Quốc 41%,mục tiêu đến năm 2020 là đạt 7 tỷ USD.Theo tính toán, để đầu tư cho ngành công nghiệp gỗ, từ nay đến năm 2020 cần khoảng 100.000 tỷ đồng (khoảng gần 7 tỷ USD) và việc trồng mới rừng cũng cần từ 800 triệu USD đến 1 tỷ USD.
Ước đoán kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ từ năm 2006-2010
Đơn vị (triệu USD)
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Giai đoạn2006-2010
KN
Tăng
KN
Tăng
KN
Tăng
KN
Tăng
KN
Tăng
KN
Tăng
2.164
38,4
2.782
28,6
3.555
27,8
4.482
26,1
5.564
24,1
18.546
28,9
Nguồn:”Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010”của Bộ Thương mại
Theo tổng thư ký Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam, để phát triển, mở rộng thị trường gỗ xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới, trước hết cần phải chủ động được nguồn nguyên liệu và Việt Nam cần phát triểm mạnh công nghiệp chế biến gỗ theo 3 hướng:
Cơ cấu lại nghành chế biến gỗ, tập trung phát triển những mặt hàng trọng điểm, trong tương lai nhu cầu ván nhân tạo sẽ rất lớn, sản xuất mặt hàng này sẽ tận dụng được nguồn nguyên liệu rừng trồng, khuyến khích người dân trồng rừng.
Xây dựng chiến lược mặt hàng trong 5 năm trở lên, ví dụ từ 2006-2010 đồ gỗ nội thất và đồ gỗ ngoại thất chiếm tỷ trọng lớn trong các mặt hàng gỗ xuất khẩu; giai đoạn 2010-2020 thì ván nhân tạo lại là mặt hàng xuất khẩu chủ đạo.
Xã hội hoá đầu tư vào ngành chế biến gỗ.
Đặt mục tiêu đến năm 2020 phát triển 825.000 ha rừng nguyên liệu của ngành gỗ Việt Nam với sự kết hợp giữa các loại cây có chu kỳ kinh doanh ngắn 7-10 năm và chu kỳ kinh doanh dài từ 15 năm trở lên. Sản lượng dự kiến cho khai thác để phục vụ ngành gỗ vào năm 2020 sẽ đạt 20 triệu m3/năm (trong đó có 10 triệu m3 gỗ lớn), mới đáp ứng được khoảng 70% nhu cầu.
3.3. Biện pháp thức đẩy xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam sang thị trường Mỹ
3.3.1. Từ phía nhà nước
Các giải pháp thị trường:Tăng cường cộng tác xúc tiến thương mại, thị trường ngoài nước, đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu, giảm sự phù thuộc vào thị trường truyền thống và phát triển các thị trường mới;
Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại bằng cách tập trung, không dàn đều. Phát triển mạnh hội chợ trong nước, Nhà nước hỗ trợ triển lãm trong nước bằng cách quảng bá thông tin để thu hút khách hàng đến hội chợ. Thu hút khách nước ngoài đến Việt nam vừa xem hàng, vừa phát triển du lịch, giảm chi tăng thu ngoại tệ, góp phần quân bình cán cân nhập siêu.
Các giải pháp đảm bảo nguồn nguyên liệu bền vững, hạn chế nhập siêu:Nguồn nguyên liệu là mạch máu của sản xuất. Tài nguyên gỗ, tuy là tài nguyên tái tạo nhưng cũng may mắn là tái sinh được. Vì vậy, Nhà nước cần có chính sách sử dụng gỗ tiết kiệm, áp dụng công nghệ thân thiện với môi trường và khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư trồng rừng nguyên liệu gỗ.
Tập trung trồng rừng theo phương thức thâm canh để tự túc nguồn nguyên liệu gỗ vào năm 2020, đồng thời đẩy mạnh công nghệ chế biến ván nhân tạo từ gỗ rừng trồng để giảm 50% nhập khẩu ván nhân tạo vào năm 2010.
Khẩn trương thành lập chợ nguyên liệu ở các vùng chế biến gỗ trọng điểm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp chế biến gỗ mua nguyên liệu. Có thể thực hiện dưới hình thức liên doanh giữa doanh nghiệp trong nước với các tập đoàn của nước ngoài chuyên cung cấp gỗ nguyên liệu. Tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều công ty nước ngoài cung cấp gỗ nguyên liệu của Canada, Mỹ và một số nước Bắc Mỹ đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam. Chợ nguyên liệu sẽ cung cấp các thông tin đầy đủ về chất lượng, tư vấn về sử dụng, bảng giá của từng loại gỗ, các thông tin về xu hướng tiêu dùng đồ gỗ trên thế giới
Thứ hai, tạo điều kiện thuận lợi nhất để nhập khẩu và cung ứng nguyên liệu gỗ cho ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu sản phẩm gỗ đáp ứng số lượng, chất lượng và thời gian với giá cả cạnh tranh. Chính phủ cần ký kết với Chính phủ các nước có nguồn nguyên liệu gỗ dồi dào các thỏa thuận về cung cấp gỗ dài hạn cho Việt Nam.
Về chính sách:Nhà nước cần có những cơ chế mạnh hơn và hữu hiệu hơn về quy hoạch và cơ cấu lại ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam. Đặc biệt cần hạn chế tối đa xuất khẩu các sản phẩm thô và làm gia công để nâng cao giá trị gia tăng cho đất nước.
Nhà nước cần sớm cụ thể hóa luật đất đai về lâm nghiệp để các Doanh nghiệp tiếp cận được với đất để trồng rừng đảm bảo ổn định nguồn nguyên liệu phát triển sản xuất một cách bền vững.
Thúc đẩy quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ. Các công ty Mỹ còn ít đầu tư vào Việt Nam vì môi trường đầu tư chưa đáp ứng yêu cầu của họ. Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Mỹ còn có khoảng cách so với quan hệ Mỹ-Trung. Do vậy, phần lớn họ đến Trung Quốc đầu tư và xuất khẩu về Mỹ. Ngay các nước ASEAN cũng bị Trung Quốc thu hút đầu tư từ Mỹ mạnh hơn.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo tính tương thích đối với quy định của luật pháp Mỹ và hiệp định thương mại Việt- Mỹ.
Phát huy vai trò của Hiệp Hội, các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc liên kết với các tổ chức trong nước và ngoài nước về cập nhật và phổ biến thông tin về thị trường ngành gỗ từ nguyên liệu, sản phẩm, thị trường cho doanh nghiệp. Phổ biến, tập huấn cho các doanh nghiệp về các chính sách, luật thời kỳ WTO.
Nhà nước cần xây dựng các Trung tâm thử nghiệm chất lượng gỗ và sản phẩm gỗ cấp Quốc gia và xây dựng các tiêu chuẩn kiểm định chất lượng sản phẩm gỗ xuất khẩu phù hợp với các tiêu chuẩn Quốc tế. Các doanh nghiệp thực hiện việc kiểm định chất lượng và được cấp giấy chứng nhận phù hợp với các tiêu chí về chất lượng sản phẩm theo các tiêu chuẩn quy định.
Xây dựng chiến lược Quốc gia về đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Chế biến lâm sản ở các bậc Công nhân kỹ thuật, Kỹ sư chế biến lâm sản nhằm đáp ứng mục tiêu về xuất khẩu gỗ trong giai đoạn từ nay đến 2020.
Thành lập các Trung tâm đào tạo nghề, cơ sở đào tạo chất lượng cao để thu hút người học và doanh nghiệp.
Ngoài ra còn có một số giải pháp như sau:
Xem xét điều chỉnh hợp lý lãi suất tiền đồng Việt Nam. Đây là biện pháp hữu hiệu để kích cầu và thúc đẩy sản xuất.
Ưu tiên cấp tín dụng và đảm bảo cung ứng đủ vốn cho các doanh nghiệp gỗ thu mua nguyên liệu để sản xuất, xuất khẩu.
Đảm bảo duy trì tỷ giá theo hướng có lợi cho xuất khẩu.
Xem xét giảm thuế tài nguyên và thuế xuất khẩu các mặt hàng gỗ xuất khẩu từ nguồn gỗ nhập khẩu.
Mở rộng định mức vay và giãn thời gian trả nợ vay ngân hàng cho các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu mặt hàng gỗ.
Xem xét giảm mức lãi xuất cho vay tín dụng xuất khẩu đang áp dụng tại Ngân hàng phát triển Việt Nam.
Nghiên cứu đưa ra các biện pháp ứng phó với các hành vi bảo hộ thương mại của Mỹ và EU đối với mặt hàng đồ gỗ.
Theo dõi, cập nhật và phân tích thị trường để thông báo thường xuyên cho các doanh nghiệp. Nắm bắt và có phương pháp đối phó kịp thời với các tình huống phát sinh.
Đề nghị các Thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài tăng cường cung cấp thông tin về tình trạng pháp lý và khả năng thanh toán cảu đối tác, nhằm giảm thiểu rủi ro trong giao kết hợp đồng xuất khẩu, nhất là ở các quốc gia, vùng lãnh thổ đang chịu tác động ảnh hưởng mạnh của khủng hoảng tài chính. Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu./
3.3.2. Từ phía doanh nghiệp
Tăng cường đầu tư, tạo năng lực mới cho sản xuất, chế biến sản phẩm gỗ xuất khẩu; tăng cường thu hút FDI. Đẩy mạnh hiện đại hoá công nghiệp chế biến quy mô lớn, từng bước phát triển và hiện đại hoá công nghiệp chế biến quy mô nhỏ ở các vùng nông thôn và làng nghề truyền thống. Đẩy mạnh chế biến ván nhân tạo, giảm dần chế biến dăm giấy xuất khẩu. Các doanh nghiệp trong ngành chế biến gỗ cần liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị sản xuất, chế biến, gỗ xuất khẩu, trong đó, mỗi doanh nghiệp sẽ chuyên môn hoá một khâu để hoàn chỉnh sản phẩm…
Quy hoạch và kế hoạch phát triển nguồn nguyên liệu ổn định cho chế biến gỗ, xúc tiến việc xin cấp chứng chỉ rừng: Tổ chức tốt việc nhập khẩu nguyên liệu lâm sản đáp ứng cho nhu cầu sản xuất phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, đồng thời tăng cường trồng rừng nguyên liệu gỗ lớn để khẩn trương đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho chế biến, giảm dần sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu.
Trong chiến lược sản phẩm, cần hướng tới phát triển các sản phẩm nội thất (indoor), đồng thời tăng tỉ lệ hàng cao cấp trong cơ cấu các mặt hàng gỗ nội thất vì làm hàng cao cấp có lãi suất cao và phát triển gỗ mỹ nghệ xuất khẩu để tận dụng được lợi thế cạnh tranh của ta là tay nghề khéo léo của công nhân.
Tiếp cận thị trường Mỹ
Tiếp thị mạnh và đi đúng hướng, có chiến lược thị trường và có chương trình xúc tiến thương mại cho mặt hàng này vào Mỹ. Thiết kế kiểu dáng phù hợp với thị trường hơn và lựa chọn mặt hàng thích hợp để tiếp thị. Cần phát huy vai trò của Hiệp hội trong việc tiếp thị và định hướng thị trường. Cần thiết có thể thuê các công ty tư vấn Mỹ trong khâu phát triển sản phẩm cũng như tiếp thị.
Tìm đối tác lớn để xây dựng quy mô sản xuất cho phù hợp. Để lôi kéo các công ty Mỹ vào đặt hàng Việt Nam mạnh hơn, cần phải có chính sách cạnh tranh trong lĩnh vực này. Phần lớn các công ty Mỹ hiện đầu tư vào Trung Quốc và làm hàng xuất khẩu về Mỹ rất lớn.
Tham gia Hội chợ gỗ lớn của Mỹ ở Higt Point, North Carolina. Đây là Trung tâm đồ gỗ của nước Mỹ được tổ chức hàng năm vào tháng 4 và tháng 10.Thông tin về các công ty Mỹ tham gia hội chợ đồng thời cũng là các nhà nhập khẩu và bán buôn bán lẻ đồ gỗ của Mỹ xem trên website: ww. ihfc.com. Diện tích khu hội chợ rất rộng. Cần chọn đối tác trước khi đến thăm gian hàng của họ.
Hiện nay có nhiều cửa hàng đồ gỗ Việt kiều ở Mỹ nhưng đang bán hàng của Trung Quốc và các nước Châu Á khác. Cần tiếp cận nguồn này để triển khai mạng lưới bán hàng của Việt Nam sang Mỹ. Cần có sự đầu tư kho và cung cấp hàng cho họ bán lẻ. Vấn đề khó nhất ở đây là thuyết phục được họ lấy thêm hàng Việt nam về bán và dần dần sẽ tăng khối lượng và chủng loại hàng cung ứng cho họ.
Chế tài của Mỹ là một hàng rào thương mại rất thông dụng do các nhà sản xuất nội địa của Mỹ sử dụng khi cần thiết đê bảo hộ sản xuất trong nước. Tháng 10/2003 Trung Quốc vừa bị kiện phá giá hàng đồ gỗ dùng trong phòng ngủ. Vì vậy khi xuất khẩu vào Mỹ cần phải chú ý đến chiến lược phát triển thị trường thích hợp, tránh gây ấn tượng cho các nhà bảo hộ sản xuất trong nước và các nhà hoạch định chích sách trong Chính phủ Mỹ
Ông Kevin D.McPherson - Công ty mua hàng Mohr & McPherson (Mỹ) - cho rằng doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường năng lực thiết kế tạo nét riêng cho sản phẩm để có thể cung cấp nhiều mẫu mã đáp ứng thị hiếu thay đổi nhanh của người tiêu dùng Mỹ.
Nhiều công ty Mỹ thường đặt hàng với khối lượng rất lớn và yêu cầu thời gian giao hàng chính xác. Do đó, doanh nghiệp phải có sự chuẩn bị tốt về năng lực sản xuất mới nên nhận đơn hàng. Việc giao hàng chậm trễ, không đúng chất lượng, số lượng theo yêu cầu sẽ ảnh hưởng đến uy tín và dẫn đến mất cơ hội làm ăn lâu dài trên thị trường này.
Thị trường Mỹ vẫn có những phân khúc dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo ông, doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam nên nhắm đến khả năng cung cấp những mặt hàng chuyên biệt. Điều này giúp doanh nghiệp có sự khác biệt so với công ty khác để không phải cạnh tranh về giá. Mặt khác, những mặt hàng chuyên biệt cũng thường có giá tốt hơn.
Những người làm công tác bắc cầu các sản phẩm gỗ vào thị trường Mỹ cho biết, động lực để thực hiện công việc này không chỉ là kiểu dáng, chất lượng mà giá cũng phải rẻ. Đòi hỏi này nghe có vẻ nghịch lý nhưng không phải không có lý bởi họ có nhiều sự lựa chọn.
Doanh nghiệp cần minh bạch trong mua bán, sổ sách kế toán, để sẵn sàng chứng minh mình không bán phá giá hoặc nếu bị áp thuế thì chỉ ở mức thấp nhất để tránh những trường hợp bị kiện bán phá giá. ông Trần Quốc Mạnh, Phó Tổng Thư ký Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP.HCM (Hawa), còn cho rằng, mua nguyên liệu gỗ từ thị trường tiêu thụ sẽ khuyến khích người tiêu dùng ở thị trường đó sử dụng hàng nhập khẩu. "Theo chúng tôi biết người tiêu dùng Mỹ rất thích sử dụng mặt hàng gỗ mà họ tin chắc rằng, chúng được tạo ra từ nguyên liệu của Mỹ", ông Mạnh giải thích thêm. Ngoài ra, để tránh bị kiện bán phá giá, ông Mạnh khẳng định, doanh nghiệp Việt Nam sẽ không đi theo "vết xe đổ" của doanh nghiệp Trung Quốc. Doanh nghiệp Việt Nam chú trọng vào thị trường trung bình và cao, đồng thời áp dụng chính sách giá cả hợp lý, thay vì sản xuất đại trà và giá rẻ như hàng Trung Quốc.
Xuất khẩu đồ gỗ sang Mỹ thường chỉ tăng mạnh vào quý 3 và quý 4. Trong nửa đầu năm, các doanh nghiệp thường tập trung vào việc chuẩn bị nguyên liệu và sản xuất. Và cũng nhiều ý kiến cho rằng đến quý 3, nền kinh tế Mỹ sẽ phục hồi.
Do dân số đông, có thu nhập cao, nên một phân khúc thị trường nhỏ của Mỹ cũng đủ đơn đặt hàng cho nhiều doanh nghiệp lớn Việt Nam sản xuất cả năm. Vì thế doanh nghiệp Việt Nam nên quan tâm vào một phân khúc thị trường nhất định. Thật ra, cũng có nhiều người Mỹ không đủ tiền mua sản phẩm từ các thương hiệu nổi tiếng, chấp nhận mua sản phẩm tương tự, giá rẻ hơn được sản xuất từ các nước khác.
Theo bà Elizabeth Rose Daly, Giám đốc Kinh doanh quốc tế của Văn phòng Thị trưởng New York (Mỹ), doanh nghiệp muốn đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này thì vừa phải vạch ra chiến lược dài hạn, biết lựa chọn sản phẩm phù hợp, số lượng lớn, chất lượng tốt, mẫu mã bao bì đúng quy định, giá cả cạnh tranh, vừa phải biết làm hàng theo thương hiệu nước ngoài và nâng cao năng lực sản xuất...; đồng thời phải làm tốt công tác xúc tiến thương mại. Theo đó, thông tin thương mại có thể thực hiện tốt thông qua việc xây dựng một số website có chất lượng, tham gia hội chợ tiêu biểu và tổ chức thành các gian hàng quốc gia, nhân cơ hội đó quảng bá hình ảnh đất nước Việt Nam...
Tuy nhiên, một vấn đề mà bà Elizabeth lưu ý các doanh nghiệp Việt Nam là phải biết đưa các thương hiệu có uy tín thâm nhập thị trường. Mặt khác, nhà nước cần tăng cường hỗ trợ thông tin và đào tạo chuyên môn khi đối diện với các vụ kiện chống bán phá giá cho doanh nghiệp. Chính phủ cần xây dựng các trung tâm thương mại có văn phòng đại diện và phòng trưng bày mẫu tại một số thành phố lớn của Mỹ. Ngoài ra, các doanh nghiệp có “nội lực” nên xây dựng hệ thống đại lý phân phối. Hình thức này tuy tốn kém nhưng là cách làm phù hợp tại thị trường đầy tiềm năng này.
Với các đối tác nhập khẩu tại Mỹ
Về giá cả, ông Joseph Condra, Giám đốc Phát triển sản phẩm và nguồn cung ứng sản phẩm gỗ thuộc Công ty Cresent Fine Furniture (Mỹ) cho biết, hiện mặt bằng giá cả giữa châu Mỹ và châu á chênh lệnh không bao nhiêu, vì thế để giữ tỷ lệ lợi nhuận như các năm trước, nhà nhập khẩu Mỹ đang có hướng bán giảm giá để tiêu thụ được số lượng lớn. Các cơ quan chức năng Việt Nam nên theo dõi chặt chẽ biến động giá cả và giá các sản phẩm tương tự của Trung Quốc tại thị trường Mỹ, kịp thời thông báo đến các doanh nghiệp nhằm có các biện pháp chủ động phòng tránh việc bán giá quá thấp hoặc quá cao. Nên nhớ, các nhà nhập khẩu Mỹ đều biết nhau và thường xuyên trao đổi thông tin với nhau. Song, giá cả vẫn không là yếu tố quan trọng nhất đối với nhà nhập khẩu Mỹ mà thời gian giao hàng và chất lượng sản phẩm vẫn là tiêu chí hàng đầu. Cũng như doanh nghiệp Việt Nam, nhà nhập khẩu Mỹ sẽ mất khách hàng nếu không giao hàng đúng hẹn và đúng chất lượng.
Ông W.Towne Baker, Giám đốc điều hành Công ty Indochina Wood (Mỹ) cho biết, để xâm nhập thị trường Mỹ, sản phẩm gỗ Việt Nam có hai phương cách là bán trực tiếp cho nhà bán lẻ (như Haverygs, Pottery Barn, Crate and Barrel…) hoặc qua các nhà nhập khẩu. Bán qua các nhà bán lẻ sẽ được giá cao vì không qua môi giới, nhưng số lượng đặt hàng ít và họ không biết nhiều về công nghệ chế biến nên không hỗ trợ được gì cho nhà sản xuất. Còn đối với các nhà nhập khẩu, do hầu hết đều có nhiều kinh nghiệm trong chế biến gỗ nên hiểu những khó khăn của nhà sản xuất, vì thế có thể giúp các nhà sản xuất cải tiến kỹ thuật, chất lượng và do có mạng lưới tiêu thụ rộng nên dễ dàng cung cấp cho nhà sản xuất thị hiếu của thị trường hoặc tiếp thị hiệu quả cho sản phẩm.
Khi có đơn hàng từ đối tác Mỹ, doanh nghiệp cần có nguồn gỗ tốt, hợp lệ, ổn định đáp ứng đòi hỏi của khách hàng để đảm bảo chất lượng sản phẩm. Hình ảnh nhà xưởng ngăn nắp, gọn sạch, đời sống công nhân tốt, thiết bị máy móc đồng bộ… cũng là hình ảnh tốt, nói lên với đối tác sự ổn định sản xuất, đảm bảo tiến độ giao hàng. Nhà nhập khẩu Mỹ cũng lo sợ trước rủi ro của đối tác, vì rủi ro của đối tác cũng sẽ là rủi ro của họ. Khi giới thiệu hay trưng bày sản phẩm ở các hội chợ triển lãm không nên đưa ra sản phẩm có khuyết điểm dù nhỏ, nên chọn trưng bày sản phẩm hoàn hảo 100% để khẳng định chất lượng, tạo ấn tượng tốt ban đầu.
KẾT LUẬN
Từ thực trạng của xuất khẩu đồ gỗ ở Việt Nam cho thấy việc cần thiết phải tìm ra những giải pháp thúc đẩy, nâng cao kim ngạch xuất khẩu cũng như giá trị gia tăng cho mỗi sản phẩm để mang lại nhiều lợi ích kinh tế hơn.Sản phẩm đồ gỗ Việt Nam ngày càng được đánh giá cao trên thị trường thế giới nói riêng và thị trường Hoa Kỳ nói chung, và đang từng bước thâm nhập vào những thị trường tiềm năng mới.Tuy còn rất nhiều khó khăn cũng như hạn chế,nhưng ngành này hứa hẹn mức tăng trưởng cao và đóng góp quan trọng vào thu nhập quốc dân. Do đó, thúc đẩy xuất khẩu đồ gỗ cần phải được sự quan tâm và tạo điều kiện của nhà nước, cũng như lỗ lực phát triển nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu.Nhà nước,các doanh nghiệp và các hiệp hội về đồ gỗ và lâm sản cần liên kết chặt chẽ với nhau để phát triển ngành công nghiệp đồ gỗ cả về chiều rộng và chiều sâu,tăng trưởng bền vững.Đối với thị trường Hoa Kỳ với quy mô vô cùng lớn thì cần có những nghiên cứu cụ thể để có những định hướng cụ thể và biện pháp tiếp cận, xuất khẩu được những mặt hàng phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người Mỹ, tìm hiểu đầy đủ thông tin để việc xuất khẩu thuận lợi tránh những vi phạm đáng tiếc gây thiệt hại về phía doanh nghiệp xuất khẩu.
Với những phân tích trên em hi vọng có thể đóng góp tích cực cho hoạt động xuất khẩu đồ gỗ trong thời gian tới.Tuy nhiên bài làm còn nhiều thiếu sót,rất mong sự nhận xét đánh giá của thầy cô để giúp em hoàn thiện thêm đề án môn học Kinh Tế Thương Mại.Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Sách: Chiến lược thâm nhập thị trường Mỹ- PGS.TS Võ Thanh Thu-Nhà xuất bản Thống Kê.
8. Tham luận: THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ ĐỂ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP HÁT TRIỂN NGÀNH CHẾ BIẾN GỖ XUẤT KHẨU
TS. Vũ Huy Đại, Chủ nhiệm Khoa CBLS, Trường Đại học Lâm nghiệp
Tham luận : “Thực trạng xuất khẩu sản phẩm đồ gỗ sau hai năm gia nhập WTO và một số ý kiến nhằm phát triển thị trường xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam.”
Th.S Lê Ánh Tuyết, giảng viên Bộ môn Chế biến Lâm sản
Khoa Lâm Nghiệp trường Đại học Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh
10. Tham luận tại Hội thảo: "Đánh giá tác động hội nhập sau 2 năm gia nhập WTO đối với ngành chế biến gỗ và thủ công mỹ nghệ"
Lê Duy Phương
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A6129.DOC