Thứ hai, cần tăng cường các hoạt
động hỗ trợ và tư vấn về ĐTRNN cho
nhà đầu tư. Cục Đầu tư nước ngoài cần
phát huy hơn nữa vai trò của mình trong
việc hỗ trợ các nhà đầu tư tìm hiểu cơ hội
ĐTRNN. Việt Nam có thể tham khảo kinh
nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc trong
việc hình thành một hệ thống các công cụ
hỗ trợ nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu
tư ra nước ngoài về việc xúc tiến tìm kiếm
thị trường, hỗ trợ tài chính để triển khai
các dự án đầu tư, hỗ trợ bảo vệ quyền lợi
của nhà đầu tư******.
Bên cạnh đó, cơ quan đại diện ngoại
giao và thương vụ Việt Nam ở nước ngoài
phải kết hợp với các hiệp hội giúp các nhà
đầu tư Việt Nam tìm hiểu thông tin thị
trường, đối tác, hướng dẫn các quy định
pháp luật về đầu tư của nước tiếp nhận đầu
tư Các cơ quan này cần hỗ trợ các nhà đầu
tư Việt Nam trong suốt quá trình thực hiện
hoạt động đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 385 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
33Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
THỰC TIỄN THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI
ENFORCEMENT OF LEGAL REGULATIONS
ON FOREIGN DIRECT INVESTMENT
Lê Ngọc Anh*
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 5/12/2019
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 5/6/2020
Ngày bài báo được duyệt đăng: 29/6/2020
Tóm tắt: Trong những năm gần đây, các nhà đầu tư Việt Nam ngày càng chú trọng đến
hoạt động đầu tư ra nước ngoài và hoạt động này đã đạt được những kết quả tích cực. Tuy
nhiên, qua thực tiễn thực hiện các quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đã nảy sinh
những khó khăn, vướng mắc, gây ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả thực thi pháp luật. Bài
viết tập trung làm rõ những bất cập, hạn chế nảy sinh trong quá trình áp dụng các quy định
pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện
và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về vấn đề này.
Từ khoá: đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, khó khăn, thủ tục, thực thi pháp luật.
Abstract: In recent years, Vietnamese investors have increasingly focused on outward
investment activities and these activities have achieved positive results. However, through
the implementation of the regulations on foreign direct investment, diffi culties and problems
have arisen which greatly aff ected the eff ectiveness of law enforcement. The paper focuses on
clarifying the shortcomings and limitations arising in the process of applying the provisions
of law on foreign direct investment, thereby off ering some solutions to improve the eff ective
law enforcement on this issue.
Keywords: Foreign direct investment, diffi culties, procedures, law enforcement.
* Trường Đại học Luật Hà Nội
Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Mở Hà Nội 68 (6/2020) 33-44
Đặt vấn đề
Trong thời đại toàn cầu hóa hiện
nay, bên cạnh việc tích cực thu hút vốn
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, đầu tư
ra nước ngoài (ĐTRNN) cũng là phương
thức đầu tư được Nhà nước chú trọng bởi
những lợi ích mà hoạt động này đem lại
cho nền kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt
động ĐTRNN, trong thời gian qua, Nhà
nước Việt Nam đã ban hành một loạt văn
bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về
hoạt động ĐTRNN nhằm quản lý và thúc
đẩy hoạt động này phát triển. Đặc biệt,
34 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Luật Đầu tư năm 2014 được ban hành với
mục tiêu tạo cơ sở pháp lý vững chắc, bảo
đảm cho hoạt động ĐTRNN đạt hiệu quả.
Bên cạnh Luật Đầu tư năm 2014, Chính
phủ đã ban hành hai nghị định hướng dẫn
về ĐTRNN đó là Nghị định 83/2015/
NĐ-CP ngày 25/9/2015 quy định về đầu
tư ra nước ngoài (Nghị định 83/2015/NĐ-
CP) và Nghị định 135/2015/NĐ-CP ngày
31/12/2015 quy định về đầu tư gián tiếp
ra nước ngoài. Luật Đầu tư năm 2014 chỉ
quy định về các hình thức ĐTRNN mà
phân chia thành đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài (OFDI) và đầu tư gián tiếp ra nước
ngoài. Tuy nhiên, thông qua các quy định
của hai Nghị định hướng dẫn có thể thấy
hoạt động ĐTRNN hiện nay gồm có hoạt
động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và
hoạt động đầu tư gián tiếp ra nước ngoài.
Trong phạm vi bài viết, tác giả tập trung
nghiên cứu các quy định về hoạt động đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài.
Thực tế cho thấy, xu hướng
ĐTRNN của các nhà đầu tư tại Việt Nam
ngày càng gia tăng. Qua từng giai đoạn,
số lượng dự án đầu tư cũng như quy mô
vốn đầu tư ngày càng tăng. Trong giai
đoạn 1989-1998, trước khi ban hành Nghị
định 22/1999/NĐ-CP ngày 14/4/1999 về
ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam thì
† Tổng cục Thống kê, Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được cấp giấy phép thời kỳ 1989-2017, https://www.
gso.gov.vn/SLTK/Selection.aspx?rxid=1fcd9551-176f-46c5-b0fb-9dcc84666777&px_db=04.+%c4%90%e1
%ba%a7u+t%c6%b0&px_type=PX&px_language=vi&px_tableid=04.+%c4%90%e1%ba%a7u+t%c6%b0%5
cV04.18.px, truy cập ngày 10/3/2020
‡ Hàn Ni - Kim Huyền, Năm 2018: có 432 triệu USD của doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước, https://www.
sggp.org.vn/nam-2018-co-432-trieu-usd-cua-doanh-nghiep-viet-nam-dau-tu-ra-nuoc-ngoai-568294.html, truy
cập ngày 10/3/2020
§ Cục Đầu tư nước ngoài, Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài 11 tháng năm 2019, https://dautunuocngoai.gov.
vn/tinbai/6246/Tinh-hinh-thu-hut-Dau-tu-nuoc-ngoai-11-thang-nam-2019, truy cập ngày 10/3/2020
nước ta chỉ có 18 dự án đầu tư với tổng
vốn đăng ký trên 13,6 triệu USD, quy mô
vốn đầu tư bình quân đạt 0,76 triệu USD/
dự án†. Đến nay, kể từ khi Luật Đầu tư
năm 2014 có hiệu lực, tổng số dự án và
số vốn đầu tư đăng ký của các nhà đầu
tư tại Việt Nam tăng mạnh. Trong năm
2018, cả nước có 149 dự án được cấp
mới Giấy chứng nhận đăng ký ĐTRNN,
với tổng vốn đầu tư là 376,1 triệu USD;
có 35 lượt dự án điều chỉnh vốn với tổng
vốn đầu tư tăng thêm 56 triệu USD‡. Tính
chung trong 11 tháng đầu năm 2019,
tổng vốn đầu tư Việt Nam ra nước ngoài
cấp mới và tăng thêm đạt 458,82 triệu
USD. Trong đó, có 148 dự án được cấp
giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới, với
tổng vốn đầu tư đạt 353,83 triệu USD;
có 29 lượt dự án điều chỉnh vốn đầu tư
với vốn đầu tư Việt Nam tăng thêm gần
105 triệu USD§. Tuy nhiên, thực tế khi
tiến hành hoạt động ĐTRNN các nhà
đầu tư Việt Nam vẫn còn gặp không ít
khó khăn, khung pháp lý cho hoạt động
ĐTRNN nói chung và hoạt động đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài nói riêng còn bộc
lộ một số hạn chế, bất cập, chưa thực sự
tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động đầu
tư này có thể phát triển mạnh mẽ. Chính
vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá các quy
định pháp luật về OFDI trong quá trình
35Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
thực thi, từ đó đưa ra một số giải pháp
nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về vấn đề này là điều
rất cần thiết.
1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về
hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
1.1. Quy định về chủ thể thực hiện
hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Chủ thể thực hiện hoạt động OFDI
được quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị
định 83/2015/NĐ-CP. Theo đó, chủ thể
thực hiện hoạt động OFDI bao gồm các
nhà đầu tư tại Việt Nam, có thể là cá nhân
hoặc tổ chức thuộc mọi thành phần kinh
tế, không phân biệt nhà đầu tư là doanh
nghiệp hay không phải doanh nghiệp. Có
thể thấy pháp luật hiện hành quy định chủ
thể thực hiện hoạt động OFDI rất đa dạng
nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh của
các nhà đầu tư cũng như đảm bảo sự bình
đẳng giữa các nhà đầu tư tại Việt Nam.
Thực tế hiện nay đã có nhiều tổ
chức, cá nhân thực hiện hoạt động OFDI.
Tính đến ngày 31/12/2018, Việt Nam có 19
doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp
mà Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều
lệ đầu tư tại 114 dự án ĐTRNN chủ yếu
tập trung trong lĩnh vực viễn thông, thăm
dò và khai thác dầu khí, trồng cây cao su,
khai thác khoáng sản và tài chính ngân
hàng¶. Trong những năm gần đây, xu hướng
¶ Hà Vũ, Tổng vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam đạt gần 12 tỷ USD,
von-dang-ky-dau-tu-ra-nuoc-ngoai-cua-viet-nam-dat-gan-12-ty-usd-20191017154538213.htm, truy cập ngày
12/3/2020
** Anh Mai, Năm 2017 hầu hết các dự án đầu tư ra nước ngoài không sử dụng vốn nhà nước,
https://nhadautu.vn/nam-2017-hau-het-cac-du-an-dau-tu-ra-nuoc-ngoai-khong-su-dung-von-nha-
nuoc-d10163.html, truy cập ngày 12/3/2020
ĐTRNN không chỉ đến từ các doanh nghiệp
có vốn nhà nước mà các doanh nghiệp có
nguồn vốn từ tư nhân và các cá nhân cũng
đã chú trọng đến hoạt động này. Ví dụ như
trong năm 2017, theo số liệu từ Cục Đầu
tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã
cấp Giấy chứng nhận đăng ký ĐTRNN
cho 130 dự án; cấp điều chỉnh Giấy chứng
nhận đăng ký ĐTRNN để thay đổi vốn
cho 25 dự án. Tuy nhiên, hầu hết các dự
án đều không sử dụng vốn nhà nước (chỉ
có 01 doanh nghiệp nhà nước là Tập đoàn
Viễn thông Quân đội - Viettel đầu tư sang
Nga, 02 doanh nghiệp có vốn nhà nước là
Tổng công ty Cổ phần Bưu chính Viettel
và Tổng công ty Cổ phần Dịch vụ kỹ thuật
dầu khí tham gia ĐTRNN), còn lại là các
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn, doanh nghiệp FDI. Số lượng các dự
án có nhà đầu tư là cá nhân cũng khá lớn,
chiếm khoảng 1/3 số dự án cấp mới**.
1.2. Quy định về lĩnh vực đầu tư ra
nước ngoài
So với Luật Đầu tư năm 2005, Luật
Đầu tư năm 2014 đã có sự thay đổi trong
quy định về vấn đề này. Thay vì liệt kê
những dự án bị cấm ĐTRNN như trước
đây thì pháp luật hiện hành đã quy định
nguyên tắc thực hiện hoạt động ĐTRNN.
Theo đó, nhà đầu tư thực hiện hoạt động
ĐTRNN không chỉ phải tuân thủ quy định
của pháp luật Việt Nam mà còn phải tuân
36 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
thủ pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư
và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên. Trong đó, lĩnh vực ĐTRNN cũng là
một nội dung mà nhà đầu tư phải tuân thủ
thực hiện. Có thể thấy, sự thay đổi này là
phù hợp bởi lẽ dự án ĐTRNN được thực
hiện tại quốc gia, vùng lãnh thổ khác. Bên
cạnh đó, tương tự như Luật Đầu tư năm
2005, Luật Đầu tư năm 2014 cũng có quy
định về các lĩnh vực khuyến khích đầu tư.
Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào từng giai đoạn
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
mà Nhà nước khuyến khích phát triển các
lĩnh vực khác nhau. Theo pháp luật hiện
hành, Nhà nước khuyến khích nhà đầu tư
thực hiện hoạt động ĐTRNN nhằm khai
thác, phát triển, mở rộng thị trường; tăng
khả năng xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, thu
ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng
cao năng lực quản lý và bổ sung nguồn lực
phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Thực tế hiện nay cơ cấu về lĩnh
vực và ngành, nghề đầu tư kinh doanh
của các nhà đầu tư Việt Nam ngày càng
đa dạng và phong phú. Những năm đầu
thực hiện hoạt động ĐTRNN, các doanh
nghiệp Việt Nam chủ yếu tập trung đầu
tư vào những lĩnh vực thế mạnh của Việt
Nam như trồng rừng, khai thác và phát
triển thuỷ điện thì trong những năm
gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam còn
đầu tư sang nhiều lĩnh vực, ngành nghề
có giá trị gia tăng. Đến nay, hoạt động
†† Cục Đầu tư nước ngoài, Báo cáo tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2018,
Pages/tinbai.aspx?idTin=41920&idcm=208, truy cập ngày 12/3/2020
‡‡ Cục Đầu tư nước ngoài, Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài 11 tháng năm 2019, https://dautunuocngoai.
gov.vn/tinbai/6246/Tinh-hinh-thu-hut-Dau-tu-nuoc-ngoai-11-thang-nam-2019, truy cập ngày 10/3/2020
§§ Xem điểm a, b, c và đ khoản 1 Điều 52 Luật Đầu tư năm 2014
ĐTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam
đã trải khắp trên các lĩnh vực như công
nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, thông
tin truyền thông, tài chính ngân hàng, bất
động sản Theo báo cáo của Cục Đầu tư
nước ngoài, trong năm 2018, lĩnh vực tài
chính ngân hàng dẫn đầu về vốn đầu tư
của Việt Nam ra nước ngoài với tổng vốn
đăng ký mới và tăng thêm là 105,7 triệu
USD, chiếm 24,4% tổng vốn đầu tư; lĩnh
vực bán buôn, bán lẻ đứng thứ hai vớ i 82,9
triệ u USD và chiếm 19,1% tổng vốn đầu
tư; nông, lâm nghiệp, thủy sản đứng thứ
ba với 52,3 triệu USD, chiếm 12,1% tổng
vốn đầu tư. Cò n lạ i là cá c dự á n thuộ c các
lĩnh vực khác††. Trong 11 tháng đầu năm
2019, lĩnh vực bán buôn, bán lẻ dẫn đầu
về vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài
với tổng vốn đăng ký mới và tăng thêm là
118,2 triệu USD, chiếm 25,8% tổng vốn
đầu tư; lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy
sản đứng thứ hai vớ i 65,57 triệ u USD và
chiếm 14,3% tổng vốn đầu tư; lĩnh vực
hoạt động chuyên môn khoa học công
nghệ đứng thứ 3 với 60 triệu USD, chiếm
13,1% tổng vốn đầu tư. Cò n lạ i là cá c dự
á n thuộ c các lĩnh vực khác‡‡.
1.3. Quy định về hình thức đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài
Khác với Luật Đầu tư năm 2005,
Luật Đầu tư năm 2014 đã quy định cụ thể
về các hình thức OFDI§§. Các hình thức
đầu tư được Luật Đầu tư năm 2014 quy
37Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
định đều là những hình thức đầu tư phổ
biến trên thế giới và mỗi hình thức đều có
những ưu điểm cũng như hạn chế. Đối với
hình thức đầu tư thành lập tổ chức kinh tế,
khi ĐTRNN nhà đầu tư có thể thành lập
tổ chức kinh tế liên doanh giữa nhà đầu
tư Việt Nam và nhà đầu tư tại nước tiếp
nhận đầu tư hoặc tổ chức kinh tế 100%
vốn của nhà đầu tư Việt Nam. Thông qua
hoạt động hợp tác với nhà đầu tư của nước
sở tại, nhà đầu tư Việt Nam có thể dễ dàng
thâm nhập vào thị trường mới mà không
bị quá bỡ ngỡ. Đối với hình thức đầu tư
thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của
nhà đầu tư Việt Nam, nhà đầu tư sẽ có
toàn quyền trong việc quản lý, điều hành
doanh nghiệp; lựa chọn giải pháp, chiến
lược kinh doanh; tuyển chọn đội ngũ lao
động nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu phát
triển của doanh nghiệp. Đối với hình thức
đầu tư mua lại toàn bộ vốn điều lệ của tổ
chức kinh tế ở nước ngoài, ưu điểm nổi
trội đó là nhà đầu tư có thể nhanh chóng
tiếp cận được với công nghệ mới, kế thừa
thị trường truyền thống, đội ngũ lao động
chuyên nghiệp cũng như mối quan hệ
sẵn có của tổ chức kinh tế nước ngoài và
không bị quá bỡ ngỡ khi tiến hành hoạt
động kinh doanh ở một môi trường xa lạ.
Tuỳ thuộc vào nhu cầu, mục tiêu phát triển
¶¶ Mai Hoa, Hành trình của dự án sữa lớn nhất Việt Nam tại Liên bang Nga, https://kinhtemoitruong.vn/hanh-
trinh-cua-du-an-sua-lon-nhat-viet-nam-tai-lien-bang-nga-11865.html, ngày truy cập 15/3/2020
*** Hữu Tuấn, Viettel ‘quăng chài’ khắp thế giới, https://dautunuocngoai.gov.vn/tinbai/1909/Viettel-
%E2%80%98quang-chai%E2%80%99-khap-the-gioi, ngày truy cập 15/3/2020
††† Châu Anh, Thủ tướng Việt Nam và Phó Tổng thống Myanmar dự Lễ bàn giao đưa vào sử dụng giai
đoạn 1 Tổ hợp HAGL Myanmar Center, https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/trangchu/ttsk/
ttsk_chitiet?dDocName=SBVWEBAPP01SBV075371&p=3&_afrLoop=35443403625353095#%40%3F_afr-
Loop%3D35443403625353095%26centerWidth%3D80%2525%26dDocName%3DSBVWEBAPP01SBV
075371%26leftWidth%3D20%2525%26p%3D3%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%-
26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3Dqbox2o954_41, ngày truy cập 15/3/2020
kinh doanh và khả năng của nhà đầu tư
mà nhà đầu tư sẽ quyết định lựa chọn hình
thức đầu tư phù hợp.
Hiện nay, các nhà đầu tư tại Việt
Nam thực hiện hoạt động OFDI với nhiều
hình thức khác nhau. Có thể kể đến như
Dự án Tổ hợp chăn nuôi bò sữa và chế biến
sữa tập trung quy mô công nghiệp với mức
vốn đầu tư 2,7 tỷ USD tại Moscow (Liên
bang Nga) của Tập đoàn TH¶¶; Tậ p đoà n
viễ n thông quân độ i Viettel với các dự án
phát triển mạng viễn thông ở Campuchia,
Lào, Mozambique, Haiiti, Tanzania...***;
Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai vớ i dự án
Khu phức hợp HAGL Myanmar Center
(tổ hợp khách sạn văn phòng nhà ở cao
cấp ở Myanmar) có mức vốn đầu tư 440
triệu USD†††
1.4. Quy định về thủ tục đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài
Theo pháp luật hiện hành, thủ tục
OFDI bao gồm: thủ tục quyết định chủ
trương ĐTRNN và thủ tục cấp Giấy chứng
nhận đăng ký ĐTRNN. Thủ tục quyết định
chủ trương ĐTRNN áp dụng đối với một
số dự án tuỳ thuộc vào lĩnh vực và quy mô
vốn đầu tư. Trong khi đó, thủ tục cấp Giấy
chứng nhận đăng ký ĐTRNN thì được áp
dụng đối với mọi dự án ĐTRNN. Hay nói
38 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
cách khác, sẽ có những dự án ĐTRNN
phải thực hiện đồng thời cả hai thủ tục
hoặc có dự án chỉ cần thực hiện thủ tục
cấp Giấy chứng nhận đăng ký ĐTRNN.
1.4.1. Thủ tục quyết định chủ trương
đầu tư ra nước ngoài
Theo quy định của Luật Đầu tư
năm 2014, thủ tục quyết định chủ trương
ĐTRNN thuộc thẩm quyền của Quốc hội
và Thủ tướng Chính phủ‡‡‡. Tuỳ thuộc dự
án đầu tư thuộc thẩm quyền quyết định
chủ trương ĐTRNN của Quốc hội hay
Thủ tướng Chính phủ mà trình tự, thủ tục
thực hiện sẽ khác nhau§§§.
Luật Đầu tư năm 2014 đã có quy
định về hồ sơ, trình tự, thủ tục Quốc hội
quyết định chủ trương ĐTRNN nhưng
có những nội dung chưa được quy định
cụ thể. Bên cạnh đó, Nghị định 83/2015/
NĐ-CP cũng có quy định về thủ tục quyết
định chủ trương ĐTRNN, trong đó có
quy định chi tiết thủ tục quyết định chủ
trương ĐTRNN đối với dự án thuộc diện
Thủ tướng Chính phủ quyết định. Đối
với dự án ĐTRNN thuộc diện Quốc hội
quyết định thì được Nghị định hướng dẫn
thực hiện theo Điều 56 của Luật Đầu tư
năm 2014 và theo Nghị định khác của
Chính phủ¶¶¶. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa
có hướng dẫn chi tiết về hồ sơ, trình tự,
thủ tục Quốc hội quyết định chủ trương
ĐTRNN, có những nội dung chưa được
quy định cụ thể chẳng hạn như số lượng
bộ hồ sơ nhà đầu tư cần phải nộp cho Bộ
‡‡‡ Xem Điều 54 Luật Đầu tư năm 2014
§§§ Xem Điều 55, Điều 56 Luật Đầu tư năm 2014, Điều 10 Nghị định 83/2015/NĐ-CP ngày 25/9/2015
quy định về đầu tư ra nước ngoài
¶¶¶ Xem Điều 13 Nghị định 83/2015/NĐ-CP ngày 25/9/2015 quy định về đầu tư ra nước ngoài
**** Xem Điều 59 Luật Đầu tư năm 2014
Kế hoạch và Đầu tư là bao nhiêu?... Điều
này khiến cho các nhà đầu tư cũng như cơ
quan nhà nước có thẩm quyền gặp không
ít khó khăn khi triển khai thực hiện thủ
tục này.
1.4.2. Thủ tục cấp Giấy chứng nhận
đăng ký đầu tư ra nước ngoài
Cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy
chứng nhận đăng ký ĐTRNN: Theo quy
định của Luật Đầu tư năm 2014, cơ quan
có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng
ký ĐTRNN là Bộ Kế hoạch và Đầu tư****.
Hiện nay, việc cấp Giấy chứng nhận đăng
ký ĐTRNN chưa được phân cấp dẫn đến
nhiều dự án đầu tư thời gian thực hiện thủ
tục bị kéo dài. Theo quy định hiện hành,
tất cả các dự án ĐTRNN đều phải thực
hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng
ký ĐTRNN, trong khi đó Bộ Kế hoạch và
Đầu tư là cơ quan duy nhất thực hiện việc
cấp Giấy chứng nhận đăng ký ĐTRNN.
Quy định này gây khó khăn không chỉ
cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư mà còn đối
với nhà đầu tư. Đối với Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, cơ quan này gặp khó khăn trong
khâu kiểm tra, xem xét và cấp Giấy chứng
nhận đăng ký ĐTRNN. Những số liệu trên
cho thấy các dự án ĐTRNN đang có xu
hướng gia tăng, năm sau thường cao hơn
năm trước. Trong khi đó, chỉ có một cơ
quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận
đăng ký ĐTRNN. Vì vậy, thực tế không
tránh khỏi sự quá tải công việc, dẫn đến
39Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
sự ùn tắc, chậm trễ trong việc giải quyết.
Đối với nhà đầu tư, đặc biệt là các doanh
nghiệp trên địa bàn các tỉnh miền Nam,
miền Trung sẽ tốn kém thời gian, công sức
cũng như tiền bạc để có được Giấy chứng
nhận đăng ký ĐTRNN.
Thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng
ký đầu tư ra nước ngoài đối với dự án
thuộc diện phải có quyết định chủ trương
đầu tư ra nước ngoài
Đối với các dự án đầu tư thuộc diện
phải quyết định chủ trương ĐTRNN, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng nhận
đăng ký ĐTRNN cho nhà đầu tư trong
thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày
nhận được văn bản quyết định chủ trương
đầu tư.
Thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng
ký đầu tư ra nước ngoài đối với dự án
không thuộc diện phải có quyết định chủ
trương đầu tư ra nước ngoài
Theo quy định hiện hành, nhà đầu
tư có thể thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng
nhận đăng ký ĐTRNN theo một trong hai
cách: đăng ký trực tuyến trên Hệ thống
thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam và đầu tư của Việt Nam ra
nước ngoài†††† hoặc thực hiện trực tiếp tại
Bộ Kế hoạch và Đầu tư‡‡‡‡. Trong trường
hợp thực hiện trực tiếp thì hồ sơ đề nghị
cấp Giấy chứng nhận đăng ký ĐTRNN
†††† Xem Điều 18 Nghị định 83/2015/NĐ-CP ngày 25/9/2015 quy định về đầu tư ra nước ngoài
‡‡‡‡ Xem khoản 2 Điều 59 Luật Đầu tư năm 2014, Điều 14 Nghị định 83/2015/NĐ-CP ngày 25/9/2015
quy định về đầu tư ra nước ngoài
§§§§ Xem khoản 2 Điều 15 Nghị định 83/2015/NĐ-CP ngày 25/9/2015 quy định về đầu tư ra nước
ngoài
¶¶¶¶ Xem Điều 77 và Điều 78 Luật Đầu tư năm 2005
chỉ được tiếp nhận khi đã được đăng ký
trên Hệ thống thông tin quốc gia về đầu
tư nước ngoài vào Việt Nam và đầu tư của
Việt Nam ra nước ngoài§§§§. Tuy nhiên,
Cổng thông tin quốc gia về đầu tư nước
ngoài (https://dautunuocngoai.gov.vn/
fdi) hoạt động còn chưa ổn định, tài liệu
hướng dẫn sử dụng hệ thống thông tin
quốc gia về đầu tư nước ngoài không thể
truy cập, còn tình trạng nghẽn mạng, xử lý
thông tin chậm gây mất thời gian cho nhà
đầu tư trong việc kê khai hồ sơ cũng như
tra cứu thông tin.
1.5. Quy định về quyền và nghĩa vụ
của nhà đầu tư khi tiến hành đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài
So với Luật Đầu tư năm 2005, Luật
Đầu tư năm 2014 có sự thay đổi trong cách
quy định về quyền và nghĩa vụ của nhà
đầu tư khi thực hiện hoạt động ĐTRNN.
Nếu như trước đây Luật Đầu tư năm 2005
có điều luật quy định về quyền và nghĩa
vụ riêng biệt dành cho các nhà đầu tư
thực hiện hoạt động ĐTRNN¶¶¶¶ thì hiện
nay quy định về quyền và nghĩa vụ của
nhà đầu tư được quy định tại nhiều điều
luật trong Mục 4 Chương 5 Luật Đầu tư
năm 2014 về triển khai hoạt động đầu tư ở
nước ngoài và Nghị định 83/2015/NĐ-CP.
Có thể thấy rằng pháp luật hiện hành
không có điều luật quy định trực tiếp về
quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư khi thực
40 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
hiện hoạt động OFDI mà được quy định
rải rác trong nhiều điều luật là chưa hợp
lý. Điều này sẽ gây không ít khó khăn cho
nhà đầu tư trong việc tìm hiểu cũng như
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ.
Bên cạnh đó còn có quy định chưa phù
hợp với thực tiễn hiện nay. Chẳng hạn
như quy định về hạn mức chuyển ngoại
tệ khi nhà đầu tư thực hiện chuyển ngoại
tệ ra nước ngoài trước khi được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký ĐTRNN để đáp ứng
các chi phí cho hoạt động hình thành dự án
đầu tư. Theo quy định hiện hành, hạn mức
chuyển ngoại tệ không vượt quá 5% tổng
vốn ĐTRNN và không quá 300.000 đô la
Mỹ, được tính vào tổng vốn ĐTRNN*****.
Quy định này đang dần trở thành rào cản
đối với hoạt động OFDI bởi dòng vốn
OFDI của các nhà đầu tư Việt Nam có xu
hướng ngày càng tăng.
1.6. Quy định về quản lý nhà nước
đối với hoạt động đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài
Trách nhiệm quản lý nhà nước về
OFDI được quy định cụ thể tại chương V
Nghị định 83/2015/NĐ-CP, thuộc về các
chủ thể đó là Chính phủ thống nhất quản
lý nhà nước về ĐTRNN trong phạm vi cả
nước; Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách
nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản
lý nhà nước về ĐTRNN; Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại
giao, Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và
***** Xem khoản 4 Điều 19 Nghị định 83/2015/NĐ-CP ngày 25/9/2015 quy định về đầu tư ra nước
ngoài
††††† Bộ Công Thương, Đầu tư Việt Nam ra nước ngoài và công tác thương vụ,
chi-tiet/-/chi-tiet/%C4%91au-tu-viet-nam-ra-nuoc-ngoai-va-cong-tac-thuong-vu-102586-401.html, ngày truy
cập 18/3/2020
Phát triển nông thôn, Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội, các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà
nước về ĐTRNN trong lĩnh vực được phân
công. Có thể thấy quy định trách nhiệm của
các cơ quan thực hiện quản lý nhà nước
về OFDI là cần thiết. Với những quy định
cụ thể về trách nhiệm của mỗi cơ quan sẽ
giúp cho các cơ quan chủ động trong việc
thực hiện nhiệm vụ cũng như tránh được sự
chồng chéo trong quản lý.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay nhà đầu
tư Việt Nam khi OFDI chưa nhận được
nhiều sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. Nhà
nước vẫn chưa có những biện pháp hỗ trợ
cụ thể, thiết thực cho sự phát triển của
hoạt động OFDI. Việc thu thập các thông
tin về môi trường đầu tư ở nước ngoài
chưa được coi trọng, đặc biệt công tác
xúc tiến ĐTRNN chưa được quan tâm
đúng mức†††††. Theo quy định hiện hành,
Cục Đầu tư nước ngoài là đơn vị thuộc
Bộ Kế hoạch và Đầu tư giúp Bộ trưởng
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
hoạt động đầu tư trực tiếp của Việt Nam
ra nước ngoài; xây dựng chiến lược, kế
hoạch, cơ chế, chính sách về đầu tư ra
nước ngoài; tổ chức hoạt động xúc tiến
đầu tư, hướng dẫn thủ tục đầu tư. Một
41Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
trong những nhiệm vụ của Cục Đầu tư
nước ngoài là hỗ trợ các nhà đầu tư tìm
hiểu cơ hội đầu tư‡‡‡‡‡. Trên thực tế, sự hỗ
trợ này vẫn chưa thực sự phát huy hiệu
quả, chưa đưa ra được danh mục các cơ
hội đầu tư ở nước ngoài với những thông
tin về môi trường đầu tư, cơ chế pháp lý,
đặc điểm môi trường đầu tư
Bên cạnh đó, mối liên hệ giữa cơ
quan đại diện ngoại giao và thương vụ
Việt Nam ở nước ngoài với các nhà đầu tư
Việt Nam còn lỏng lẻo. Do đó, khi gặp khó
khăn trong quá trình triển khai dự án đầu
tư các nhà đầu tư Việt Nam không tranh
thủ được tối đa sự hỗ trợ của các cơ quan
này. Tại buổi hội thảo do Phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ
chức, đại diện của một doanh nghiệp chia
sẻ “Trong quá trình đầu tư ra nước ngoài,
các doanh nghiệp Việt gặp khá nhiều khó
khăn liên quan đến môi trường đầu tư,
sự khác biệt về pháp luật, phong tục, tập
quán, văn hóa”§§§§§. Trong khi đó, cơ
quan thương vụ chưa giúp được nhiều cho
các doanh nghiệp trong việc hướng dẫn
các thủ tục về đầu tư của nước tiếp nhận
đầu tư, tư vấn thông tin liên quan đến môi
trường luật pháp, đối tác đầu tư, lĩnh vực
đầu tư, giải quyết các tranh chấp¶¶¶¶¶. Do
đó, các nhà đầu tư Việt Nam thường bị lạ
lẫm, thiếu thông tin về thị trường đầu tư
dẫn đến đầu tư chưa hiệu quả.
‡‡‡‡‡ Xem Quyết định 1895/QĐ-BKHĐT ngày 22/12/2017 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Cục Đầu tư nước ngoài
§§§§§ Trần Ngọc Tùng, Doanh nghiệp Việt gặp khó khi đầu tư ra nước ngoài vì rủi ro pháp lý, https://ndh.
vn/vi-mo/doanh-nghiep-viet-gap-kho-khi-au-tu-ra-nuoc-ngoai-vi-rui-ro-phap-ly-1250221.html, ngày truy cập
18/3/2020
¶¶¶¶¶ Phạm Quang Trung, Bùi Huy Nhượng (2015), Hai mươi lăm năm đầu tư ra nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 873, tr.99.
2. Một số giải pháp nhằm hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về hoạt động đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài
2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện các quy định pháp luật về đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài
Thứ nhất, hoàn thiện các quy định
pháp luật về thủ tục ĐTRNN. Cụ thể:
Một là, cần có quy định hướng dẫn
cụ thể về hồ sơ, trình tự, thủ tục Quốc hội
quyết định chủ trương ĐTRNN đối với
những dự án thuộc diện phải thực hiện thủ
tục này. Trên cơ sở đó, cơ quan có thẩm
quyền cũng như nhà đầu tư có thể thực
hiện thống nhất thủ tục này.
Hai là, cần quy định thêm cơ quan
có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng
ký ĐTRNN. Cụ thể là quy định Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh cũng có thẩm quyền
cấp Giấy chứng nhận đăng ký ĐTRNN và
phải phân định rõ thẩm quyền cấp Giấy
chứng nhận đăng ký ĐTRNN của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư và Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh. Quy định như vậy sẽ giải quyết được
vấn đề ùn tắc, quá tải, chậm trễ trong việc
cấp Giấy chứng nhận đăng ký ĐTRNN,
đồng thời giảm một số lượng công việc
đáng kể cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Qua
đó giúp các nhà đầu tư Việt Nam nhanh
chóng được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
42 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
ĐTRNN để có thể tiến hành hoạt động đầu
tư kinh doanh.
Thứ hai, cần có điều luật quy định
cụ thể về các quyền và nghĩa vụ của nhà
đầu tư tham gia hoạt động OFDI. Quy
định như vậy sẽ giúp nhà đầu tư nắm rõ
được quyền và nghĩa vụ của mình, từ đó
các nhà đầu tư sẽ chủ động trong việc
thực hiện hoạt động OFDI. Bên cạnh đó,
cũng cần sửa đổi một số quy định về các
quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư sao cho
phù hợp với thực tiễn hiện nay. Chẳng
hạn như quy định về hạn mức chuyển
ngoại tệ khi nhà đầu tư thực hiện chuyển
ngoại tệ ra nước ngoài trước khi được cấp
Giấy chứng nhận đăng ký ĐTRNN để
đáp ứng các chi phí cho hoạt động hình
thành dự án đầu tư. Cần nâng hạn mức
chuyển ngoại tệ lên hơn mức 5% tổng
vốn ĐTRNN và không quy định số tiền
cụ thể nhằm đảm bảo quyền tự do cho
nhà đầu tư cũng như đảm bảo cho hoạt
động OFDI đạt hiệu quả.
2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật về đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài
Thứ nhất, cần nâng cấp hệ thống
cổng thông tin quốc gia về ĐTRNN. Bởi
đây không chỉ là công cụ tiện lợi hỗ trợ
việc khai hồ sơ đăng ký ĐTRNN mà còn là
kênh thông tin hữu ích về ĐTRNN đối với
các nhà đầu tư. Việc thường xuyên kiểm
tra, nâng cấp, cập nhật hệ thống sao cho
hoạt động thông suốt là điều rất cần thiết.
****** Trần Thanh Hải (2018), Kinh nghiệm pháp luật về quản lý dòng vốn đầu tư ra nước ngoài
của Nhật Bản, Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc quản lý doanh nghiệp đầu
tư ra nước ngoài, Tạp chí Nghề luật, số 2, tr.77,78.
Thứ hai, cần tăng cường các hoạt
động hỗ trợ và tư vấn về ĐTRNN cho
nhà đầu tư. Cục Đầu tư nước ngoài cần
phát huy hơn nữa vai trò của mình trong
việc hỗ trợ các nhà đầu tư tìm hiểu cơ hội
ĐTRNN. Việt Nam có thể tham khảo kinh
nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc trong
việc hình thành một hệ thống các công cụ
hỗ trợ nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu
tư ra nước ngoài về việc xúc tiến tìm kiếm
thị trường, hỗ trợ tài chính để triển khai
các dự án đầu tư, hỗ trợ bảo vệ quyền lợi
của nhà đầu tư******.
Bên cạnh đó, cơ quan đại diện ngoại
giao và thương vụ Việt Nam ở nước ngoài
phải kết hợp với các hiệp hội giúp các nhà
đầu tư Việt Nam tìm hiểu thông tin thị
trường, đối tác, hướng dẫn các quy định
pháp luật về đầu tư của nước tiếp nhận đầu
tư Các cơ quan này cần hỗ trợ các nhà đầu
tư Việt Nam trong suốt quá trình thực hiện
hoạt động đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư.
Thứ ba, Nhà nước cần có cơ chế
khuyến khích thành lập các Hiệp hội đầu
tư ở nước ngoài.
Để hoạt động ĐTRNN của các nhà
đầu tư Việt Nam đạt hiệu quả thì các nhà
đầu tư Việt Nam cũng nên thành lập Hiệp
hội đầu tư ở nước ngoài. Nhà nước cần
có cơ chế để khuyến khích thành lập các
hiệp hội nhằm hỗ trợ cho các nhà đầu tư
Việt Nam khi thực hiện hoạt động đầu tư
ở nước ngoài. Thông qua các hội này, các
nhà đầu tư Việt Nam sẽ có cơ hội liên kết
43Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
với nhau chặt chẽ hơn, hỗ trợ lẫn nhau tìm
hiểu và tháo gỡ những khó khăn, vướng
mắc có liên quan đến hoạt động đầu tư ở
nước ngoài.
Nhìn lại hơn 20 năm ĐTRNN, có
thể thấy hoạt động này đã đạt được những
kết quả tích cực và mở ra một triển vọng
nhiều hứa hẹn. Tuy nhiên, bên cạnh những
kết quả đạt được, trong quá trình triển khai
thực hiện các quy định pháp luật về hoạt
động OFDI đã nảy sinh một số vướng
mắc, bất cập, gây không ít khó khăn cho
các nhà đầu tư Việt Nam. Vì vậy, việc làm
cần thiết hiện nay đó là tìm ra các giải
pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật về OFDI. Qua đó,
góp phần thúc đẩy hoạt động OFDI nói
riêng và hoạt động ĐTRNN nói chung
phát triển mạnh mẽ.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Châu Anh, Thủ tướng Việt Nam và Phó
Tổng thống Myanmar dự Lễ bàn giao đưa
vào sử dụng giai đoạn 1 Tổ hợp HAGL
Myanmar Center, https://www.sbv.gov.
vn/webcenter/portal/vi/menu/trangchu/
ttsk/ttsk_chit iet?dDocName=SBVWEBA
P P 0 1 S B V 0 7 5 3 7 1 & p = 3 & _
afrLoop=35443403625 353095#%40%3F_
afrL oop%3 D3544 3403625353095%26c
enterWidth%3D80 %2525%26dDocNa
me%3D SBVWEB APP01SB
V07537 1%26leftW idth%3D20
%2525%26p% 3D3%26rig
htWidth% 3D0%2525% 26showFoot
er%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_
adf.ctrl-state%3Dqbox2o954_41, ngày truy
cập 15/3/2020
[2]. Bộ Công Thương, Đầu tư Việt Nam
ra nước ngoài và công tác thương vụ,
tiet/%C4%91au-tu-viet-nam-ra-nuoc-ngoai-
va-cong-tac-thuong-vu-102586-401.html,
ngày truy cập 18/3/2020
[3]. Cục Đầu tư nước ngoài, Tình hình thu hút
đầu tư nước ngoài 11 tháng năm 2019, https://
dautunuocngoai.gov.vn/tinbai/6246/Tinh-
hinh-thu-hut-Dau-tu-nuoc-ngoai-11-thang-
nam-2019, truy cập ngày 10/3/2020
[4]. Cục Đầu tư nước ngoài, Báo cáo tình
hình đầu tư trực tiếp nước ngoài năm
2018,
aspx?idTin=41920&idcm=208, truy cập ngày
12/3/2020
[5]. Trần Thanh Hải (2018), Kinh nghiệm
pháp luật về quản lý dòng vốn đầu tư ra nước
ngoài của Nhật Bản, Hàn Quốc và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc quản lý
doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài, Tạp chí
Nghề luật, số 2, tr.77,78.
[6]. Mai Hoa, Hành trình của dự án sữa lớn
nhất Việt Nam tại Liên bang Nga, https://
kinhtemoitruong.vn/hanh-trinh-cua-du-
an-sua-lon-nhat-viet-nam-tai-lien-bang-
nga-11865.html, ngày truy cập 15/3/2020
[7]. Anh Mai, Năm 2017 hầu hết các dự án
đầu tư ra nước ngoài không sử dụng vốn nhà
nước, https://nhadautu.vn/nam-2017-hau-het-
cac-du-an-dau-tu-ra-nuoc-ngoai-khong-su-
dung-von-nha-nuoc-d10163.html, truy cập
ngày 12/3/2020
[8]. Hàn Ni - Kim Huyền, Năm 2018: có 432
triệu USD của doanh nghiệp Việt Nam đầu tư
ra nước, https://www.sggp.org.vn/nam-2018-
co-432-trieu-usd-cua-doanh-nghiep-viet-
nam-dau-tu-ra-nuoc-ngoai-568294.html, truy
cập ngày 10/3/2020
[9]. Tổng cục Thống kê, Đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài được cấp giấy phép thời kỳ
1989-2017, https://www.gso.gov.vn/SLTK/
Selection.aspx?rxid=1fcd9551-176f-46c5-
b0fb-9dcc84666777&px_db=04.+%c4%90%
e1%ba%a7u+t%c6%b0&px_type=PX&px_
44 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
language=vi&px_tableid=04.+%c4%90%e1
%ba%a7u+t%c6%b0%5cV04.18.px, truy cập
ngày 10/3/2020
[10]. Phạm Quang Trung, Bùi Huy Nhượng
(2015), Hai mươi lăm năm đầu tư ra nước
ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam, Tạp
chí Cộng sản, số 873, tr.99.
[11]. Hữu Tuấn, Viettel ‘quăng chài’ khắp
thế giới, https://dautunuocngoai.gov.vn/
tinbai/1909/Viettel-%E2%80%98quang-
chai%E2%80%99-khap-the-gioi, ngày truy
cập 15/3/2020
[12]. Trần Ngọc Tùng, Doanh nghiệp Việt gặp
khó khi đầu tư ra nước ngoài vì rủi ro pháp lý,
https://ndh.vn/vi-mo/doanh-nghiep-viet-gap-
kho-khi-au-tu-ra-nuoc-ngoai-vi-rui-ro-phap-
ly-1250221.html, ngày truy cập 18/3/2020
[13]. Hà Vũ, Tổng vốn đăng ký đầu tư ra nước
ngoài của Việt Nam đạt gần 12 tỷ USD, http://
vneconomy.vn/tong-von-dang-ky-dau-tu-
ra-nuoc-ngoai-cua-viet-nam-dat-gan-12-ty-
usd-20191017154538213.htm, truy cập ngày
12/3/2020
Địa chỉ tác giả: Trường Đại học Luật Hà Nội
Email: lengocanhhlu@gmail .com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_tien_thi_hanh_cac_quy_dinh_phap_luat_ve_dau_tu_truc_tie.pdf