Thực tiễn về hoạt động tham gia đấu thầu củacông ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng Vinaust

Hợp đồng sản xuất - xây lắp được ký kết bởi hai hay nhiều bên. Trong đó, một (hau nhiều bên) yêu cầu một (hay nhiều bên) kia sản xuất, lắp ráp những sản phẩm công trình theo thiết kế mà hai phía đã thỏa thuận trước. Từ hợp đồng sản xuất - xây lắp đã làm hình thành lên hai loại chủ thể: thứ nhất là người yêu cầu cần thực hiện các công việc liên quan tới hoạt động sản xuất - xây lắp và thứ hai là người thực hiện công việc sản xuất - xây lắp theo sự thoả thuận. Nếu mỗi loại chủ thể bao gồm nhiều đơn vị tham gia thì giữa các đơn vị này phải có sự thoả thuận thống nhất về trách nhệm, quyền lợi, để cùng tạo ra một chủ thể hơn nhất trong quan hệ hợp đồng. Hợp đồng sản xuất - xây lắp là sự thoả thuận thống nhất giữa hai bên, không bên nào được ép bên nào, trong đó phía chủ đầu tư cung cấp tiền, vật tư thiết bị . theo thoả thuận cho người sản xuất - xây lắp để tạo ra hay gia công, lắp ráp công trình theo yêu cầu của chủ đầu tư.

doc75 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1442 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực tiễn về hoạt động tham gia đấu thầu củacông ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng Vinaust, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ếu là cán bộ khung . Chủ tịch hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc giữ vai trò lãnh đạo chung trong toàn bộ công ty, chỉ đạo trực tiếp đến từng công trình, chịu trách nhiệm trước hội đống quản trị về mọi mặt hoạt động trong sản xuất , kinh doanh của công ty đồng thời cũng đại diện cho quyền lợi của toàn cán bộ công nhân viên trong toàn bộ công ty - Hội đồng quản trị gồm có : 4 thành viên - Ban giám đốc gồm có : Tổng giám đốc: Phụ trách chung Phó tổng giám đốc thứ nhất phụ trách về kỹ thuật Phó tổng giám đốc thứ 2 phụ trách về tài chính - Dưới ban giám đốc là các bộ phận Phòng tài chính kế toán Phòng thiết kế kết cấu dân dụng Phòng giám sát thi công Phòng đảm bảo kiểm tra chất lượng công trình Phòng kế hoạch Phòng lập dự toán Phòng kinh doanh và phát triển Phòng mua nhập nguyên vật liệu Việc tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý ở Công ty TNHH XD Vinaust được thể hiện qua sơ đồ sau: Sơ đồ tổ chức Công ty TNHH XD Vinaust Hội đồng quản trị Tổng giám đốc Phòng vật tư Phòng Kế toán Phòng K. doanh Phòng Kỹ thuật Phòng Kế hoạch Giám sát thi công Lập dự toán Thiết kế Kiểm tra chất lượng Các phòng gọi là khối cơ quan của công ty hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ đã được qui định trong qui chế tổ chức, hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty . Ngoài các chức năng theo dõi, hướng dẫn đôn đốc công việc thực hiện tiến độ thi công, chất lượng công trình, giúp cho các nhân viên quản lý, nhân viên thống kê ở công trường hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, các phòng này còn phải thực hiện lập kế hoạch nghiên cứu tìm hiểu thị trường, tổ chức lập hồ sơ tham gia đấu thầu công trình cung cấp các thông tin, số liệu cần thiết, phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của công ty giúp cho ban Giám đốc có biện pháp quản lý lãnh đạo thích hợp. Bộ máy tổ chức và quản lý của công ty chủ yếu là cán bộ khung. Tại các đội thi công cũng chỉ có những cán bộ quản lý kỹ thuật, cán bộ thống kê, công nhân kỹ thuật cốt cán. Khi thi công các công trình cụ thể, Công ty TNHH XD Vinaust sẽ căn cứ vào nhu cầu thực tế mà có kế hoạch tuyển dụng thêm lao động. Công việc của các phòng ban: a. Phòng kỹ thuật : - Chức năng : Giúp giám đốc thực hiện tính toán, kiểm tra; nghiên cứu đưa ra các giải pháp, biện pháp kỹ thuật thiết kế và thi công. - Tổ chức: Có 4 người gồm 1 trưởng phòng và 3 nhân viên đều có trình độ đại học b. Phòng kế hoạch : - Chức năng: Tham mưu cho Tổng giám đốc trong công việc phát triển kinh doanh kế hoạch sản xuất kinh doanh cuả từng bộ phận - Tổ chức: Có 3 người, 1 trưởng phòng 2 nhân viên đều có trình độ đại học c. Phòng giám sát thi công : - Có 3 người có mặt tại các công trình giám sát thi công các hạng mục để chất lượng công trình được đảm bảo đúng kỹ thuật và báo cáo Tổng giám các số liệu về kỹ thuật d. Phòng kinh doanh : - Gồm 2 cán bộ có trình độ đại học có nhiệm vụ triển khai kế hoạch kinh doanh của công ty , tổng hợp tình hình sản xuất của công ty từng gia đoạn e. Phòng kế toán : - Gồm có 5 người 1 trưởng phòng và 4 nhân viên trong đó có 4 người có trình độ đại học ,1 có trình độ trung cấp , thực hiện công việc hạch toán kế toán tính giá thành sản phẩm, phân tích thống kê các số liệu tài chính f. Phòng vật tư : - Gồm 2 người có nhiệm vụ khai các nguồn hàng cung cấp cho công ty đảm bảo về giá và chất lượng. 4.2. Thống kê lao động tại Vinaust Trình độ Đơn vị 1997 1998 1999 Trên đại học Người 2 2 2 Đại học - 15 16 17 công nhân KT - 12 14 27 Trung cấp phục vụ - 5 4 2 Tổng số - 34 36 48 Việc tuyển chọn, đào tạo cán bộ là một công việc được ban giám đốc thường xuyên quan tâm . Ngành xây dựng có đặc thù riêng do vậy cán bộ có trình độ kỹ sư học chuyên ngành về xây dựng mới thật sự phù hợp với công việc của công ty . Lực lượng cán bộ này thường xuyên được gửi ra nước ngoài đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ, công ty TNHH XD Vinaust đã không ngừng trau dồi kiến thức ngành xây dựng, đào tạo kết hợp với tích luỹ kinh nghiệm, trưởng thành trong thực tế dần dần công ty đã đứng vững trong cơ chế thị trường. Với qui mô tổ chức sản xuất , tổ chức quản lý như trên, công ty có điều kiện quản lý chặt chẽ về mặt kinh tế, kỹ thuật tới từng đội sản xuất, từng công trình do đố làm tăng hiệu quả sản xuất thi công tạo uy tín nhất định trong ngành xây dựng. 4.3. Tổ chức bộ máy kế toán Để đáp ứng nhu cầu của công tác quản lý và hạch toán, bộ máy kế toán của Công ty được xắp xếp bố trí gọn nhẹ, kiêm nhiện nhiều nhằm đáp ứng với yêu cầu biên chế gọn nhẹ và quản lý tập trung. Bộ máy tài chính kế toán của công ty bao gồm 5 người và một số nhân viên thống kê tại các công trường thi công. Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán Giám đốc tài chính Kế toán trưởng Kế toán tổng hợp Thủ quỹ Kế toán NH kế toán Ctrình k.toán thanh toán Giám đốc tài chính là người chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và cấp trên về mọi mặt hoạt động kinh tế , là người chịu trách nhiệm hướng dẫn chỉ đạo, kiểm tra các công việc do nhân viên kế toán thực hiện tròn toàn bộ hoạt động tài chính ké toán của Công ty TNHH XD Vinaust . Kế toán trưởng hướng dẫn và kiểm tra các báo cáo trước khi trình giám đốc tài chính, theo dõi tình hình thực hiện công việc của các kế toán viên Kế toán tổng hợp thực hiện công việc tập hợp chi phí sản xuất, tính giá thành thực hiện kết quả và lập biểu báo cáo biểu kế toán hàng quý. 6 tháng và quyết toán năm . Kế toán thanh toán có nhiệm vụ thực hiện kế toán vốn bằng tiền tất cả các khoản thanh toán nội bộ công ty, theo dõi thình hình nhập xuất, nhập kho vật liệu. tính toán phân bổ vật liệu, phân bổ tiền lương , bảo hiểm xã hội... Kế toán ngân hàng kiêm làm kế toán thuế theo dõi tình hình thanh toán qua ngân hàng, hàng ngày theo dõi tình hình thanh toán qua ngân hàng, các khoản phí của ngân hàng, kê khai thuế giá trị gia tăng hàng tháng, lập các báo cáo thuế hàng tháng , quý , quyết toán thuế hàng năm Thủ quỹ tiến hành các công việc thu chi tiền mặt, ngân phiếu trên cơ sở các chứng từ hợp lệ hợp pháp, thực hiện các quan hệ giao dịch với ngân hàng, rút tiền mặt ngân phiếu về quỹ của Công ty để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu hàng ngày của Công ty. Các nhân viên kế toán công trình có nhiệm vụ theo dõi các hoạt động kinh tế phát sinh, là người thu thập số liệu thống kê ban đầu , cung cấp các số liệu và các chứng từ liên quan về phòng kế toán của công ty để phục vụ cho các công tác hạch toán kế toán tập trung tại công ty bao gồm : theo dõi tình hình lao động, lập bảng chấm công theo dõi tiền công theo khối lượng thi công, chi phí nguyên vật liệu, chi phí nguyên liệu, chi phí phục vụ máy thi công . Tại phòng kế toán sau khi nhận được các chứng từ ban đầu, theo sự phân công công việc, kế toán sẽ tiến hành kiểm tra phân loại, xử lý chứng từ . từ đó ghi sổ chi tiết và tổng hợp, cung cấp thông tin cho việc phân tích tình hình tài chính, kinh tế của công ty 5. Kết quả hoạt động của công ty Vinaust trong vài năm gần đây Tóm tắt báo các tình hình tài chính đã được phê duyệt trong 2 năm của Vinaust Đơn vị : 1.000.000.đ Tài sản 1998 1999 Tổng tài sản có 20.994 18.816 TSLĐ và ĐT ngắn hạn 13.390 11.923 Tổng nguồn vốn 20.994 18.816 Nợ phải trả 14.334 10.621 Lãi ròng 2.017 1.795 Vốn kinh doanh 3.820 3.820 Vốn cố định 4.845 2.518 Vốn lưu động -1.025 1.302 Doanh thu và các khoản thu nhập khác 25.300 30.361 Sơ qua về tình hình hoạt động của Công ty TNHH XD Vinaust trong một vài năm gần đây ta thấy Tổng số vốn sản xuất kinh doanh của Công ty TNHH XD Vinaust liên tục giữ vững trong vài năm gần đây. Do đó công ty có điều kiện tích luỹ vốn để đầu tư mua sắm thiết bị, máy móc thi công tiên tiến, hiện đại phục vụ thi công các công trình đòi hỏi cao. Vốn của công ty TNHH XD Vinaust ngoài số vốn công ty tự bổ sung từ lợi nhuận, từ khấu hao cơ bản để lại công ty còn được đầu tư trực tiếp từ công ty mẹ là Công ty Kansun . Ngoài ra do Công ty hầu hết thi công các công trình cao tầng phục vụ cho các văn phòng làm việc , các khách sạn cấp cao do vậy Công ty đã đầu tư những máy móc thiết bị chuyên ngành nhằm đáp ứng được những đòi hỏi kỹ thuật cao trong ngành xây dựng. Điều này thể hiện qua sự tăng trưởng nhanh chóng của vốn cố định trong các năm sau Tuy nhiên trong các hoạt động tài chính nhằm tìm kiếm, cung cấp vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh , Công ty TNHH XD Vinaust chưa tận dụng hết các công cụ tài chính sẵn có : Thiết lập mối quan hệ với ngân hàng EXIMBANK nhưng chưa sử dụng vốn vay các ngân hàng mà mới chỉ dừng lại ở việc mở tài khoản phục vụ cho việc thanh toán chuyển tiền. Bên cạnh số vốn tự có, vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh Công ty còn huy động từ nhiều nguồn đáng kể đó là việc mua nguyên vật liệu trả chậm. II Quá trình hoạt động của công ty Vinaust . 1. Tình hình chung: Việt nam đã mở rộng quan hệ với nhiều nước , nhiều tổ chức chính trị kinh tế trên thế giới và trong khu vực ASEAN . Nền kinh tế của cả nước dần dần hồi phục và tăng trưởng ,đạt nhiều thành tựu ,song tính cạnh tranh trong nền kinh tế thi trường ngày cang gay gắt 2 .Phát triển về tổ chức và xây dựng lực lượng : Cùng với sự tăng trưởng và phát triển trong sản xuất kinh doanh ,Tổng công ty đã không ngừng kiện toàn và phát triển trong tổ chức và xây dựng lực lượng ,cả về chất lẫn lượng . Tiếp tục mở rộng quan hệ với nhiều hãng kinh doanh lớn ở nước ngoài để đẩy mạnh liên doanh – liên kết tìm kiếm bạn hàng . Tăng cường quan hệ với các tổ chức kinh tế ,các cơ sở nghiên cứu khoaa học ở trong nước để tim kiếm bạn hàng ,hợp tác trong đáu thầu xây dựng công trình ,trong đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh . Đẩy mạnh tiếp thị , thông tin , quảng cáo . Nhờ những chủ trương đúng đắn của lanh đạo công ty về tổ chức và xây dựng lực lượng nên sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển , đạt mức tăng trưỏng cao . 3. Về nhận thầu xây lắp: Bắt đầu từ năm 1998 công ty đã tham gia nhiều công trình lớn như: Nhà máy nhựa Hoá chât+ PVC Phú Mỹ ,Nhà thư viện , Xưởng thiết kế ,Trung tâm khoa học và hợp tác quốc tế của trường đại học Kiến Trúc HN ,Ký túc xá học sinh sinh viên trường 7, Chung cư Bình Trung quận 11 – TP Hồ Chí Minh . Các giai đoạn của một quá trình tham gia đấu thầu xây lắp của công ty xây dựng vinaust Khi bên mời thầu có thông báo mời thầu, Công ty Xây dựng Vinaust nếu muốn tham gia đấu thầu thì sẽ cử cán bộ đến để mua hồ sơ mời thầu. Trước khi mua hồ sơ mời thầu, cán bộ của Công ty xem xét, đánh giá yêu cầu của gói thầu có phù hợp với khả năng của Công ty không, nếu thực hiện có lãi không, lợi nhuận là bao nhiêu ... Sau khi xem xét , đánh giá cán bộ của Công ty mới quyết định mua hồ sơ mời thầu. Tuy nhiên, những xem xét, đánh giá này chỉ ở mức độ khái quát tổng quan chứ chưa đi sâu vào các đánh giá chi tiết cụ thể để nhìn nhận một quá trình tham gia đấu thầu xây lắp ở Công ty Xây dựng Vinaust cần đi vào hoạt động tham gia đấu thầu của một gói thầu cụ thể mà Công ty mới tiến hành. Đó là gói thầu: Xây dựng Nhà 9 Tầng - Đại học Kiến trúc Hà nội. Sau khi mua hồ sơ mời thầu, Công ty xem xét chi tiết các điều kiện của gói thầu đối với đơn vị dự thầu. Xây dựng Nhà 9 Tầng - Đại học Kiến trúc Hà nội là một gói thầu được tổ chức đấu thầu hạn chế với những điều kiện đặt ra đối với nhà thầu là: - Có quyết định thành lập doanh nghiệp. - Có đăng lý kinh doanh và chứng chỉ hành nghề xây dựng được cấp có thẩm quyền cấp theo quyết định 500/BXD - CSXD ngày 18/9/1996 của Bộ trưởng Bộ xây dựng và đăng lý hoạt động trên địa bàn Hà nội. - Đơn vị dự thầu phải là đơn vị hoạt động trên 5 năm và đơn phương thực hiện một hợp đồng thi công công trình làm trụ sở, hoặc quy mô tương tự có giá trị 20 tỷ đồng (Việt Nam) điều này phải được thể hiện bằng văn bản xác nhận của chủ đầu tư; một hợp đồng kinh tế hoặc chứng chỉ để tường trình nhà thầu thực hiện tốt. Có khả năng tài chính ứng trước thi công những khối lượng hoàn thành mà chủ đầu tư chưa có khả năng chi trả từ 3 đến 6 tháng kể từ khi nghiệm thu công trình. Để được tham gia dự thầu, bên chủ đầu tư - Trường Đại học Kiến trúc Hà nội yêu cầu về chi phí dự thầu và bảo lãnh dự thầu: Mọi chi phí dự thầu bao gồm chuẩn bị hồ sơ và hồ sơ dự thầu do đơn vị dự thầu chịu, dù kết quả đấu thầu như thế nào đi nữa l người dự thầu phải nộp bảo lãnh dự thầu cho một ngân hàng có uy tín với số tiền bảo lãnh là : 1tỷ đồng. Như là một tài liệu của hồ sơ dự thầu nếu bảo lãnh dự thầu nào không kèm theo bảo lãnh nói trên , người gọi thầu sẽ khước từ vì lý do không hợp lệ. Những điều kiện trên Công ty Vinaust đều có đủ và Công ty quyết định tham gia đấu thầu. Quá trình đấu thầu bao gồm nhiều giai đoạn và được tiến hành tuần tự nhau. Quá trình đấu thầu dự án : Xây dựng Nhà 9 Tầng - Đại học Kiến trúc Hà nội được tiến hành qua 4 giai đoạn. 1. Lập hồ sơ dự thầu bước đầu tiên trong quá trình tham gia đấu thầu là hồ sơ dự thầu. Đây là một công viêc đòi hỏi kiến thức năng lực công sức và thời gian nhiều nhất, nó tác động mạng mẽ và có tình chất quyết định đến kết quả đấu thầu. Nội dung của hồ sơ dự thầu công trình : Xây dựng Nhà 9 Tầng - Đại học Kiến trúc Hà nội gồm những nội dung chủ yếu sau: (1) Thư mời thầu (2) Đơn dự thầu (3) Bảo lãnh dự thầu (4) Các phụlục (5) Cam kết bảo đảm vốn để thi công (6) Các tài liệu về doanh nghiệp: + Quyết định thành lập doanh nghiệp số 1942/GP do Bộ Kế hoạch Đầu tư cấp ngày 28/6/1997 + Giấy phép hành nghề xây dựng số 997/BXD-CSXD ngày 3 /7/1998 của Bộ xây dựng + Bản giời thiệu quá trình hoạt động, năng lực thi công và sản xuất của doanh nghiệp. (7) Bảng tính giá công trình (8) Quy trình thi công công trình (9) Tiến độ thi công (10) Thư giảm giá Đối với các nội dung của hồ sơ dự thầu từ mục (1) đến (6) thì hầu như dự án đấu thầu nào cũng có và nội dùng các mục này tương đối giống nhau: Trên cơ sở thiết kế kỹ thuật và bản vẽ, phòng kỹ thuật của Công ty bóc tách, tính toán, sau đó phòng kế hoạch làm bảng tính giá công trình bao gồm: Bảng tính phí trực tiếp: Bảng tổng hợp khối lượng , bảng tính bù chênh lệch vật liệu. Quy trình thi công. Đối với mỗi dự án công trình khác nhau, do yêu cầu riêng nên sẽ có một quy trình thực hiện khác nhau. Tuy nhiên, phải đảm bảo được những thoả thuận với bên mời thầu, đảm bảo điều kiện kỹ thuật của công trình. Tiến độ thi công công trình phù hợp với tiến độ ghi trong hồ sơ mời thầu. Lập hồ sơ dự thầu cần căn cứ vào thông tin mà bên mời thầu cung cấp. Dựa trên những yêu cầu của bên mời thầu, hồ sơ dự thầu phải thoả mãn các yêu cầu đó thì sẽ có nhiều cơ hội trúng thầu. Những vấn đề cần lưu ý khi lập hồ sơ dự thầu. + Tính pháp lý của hồ sơ dự thầu: Hồ sơ dự thầu phải được lập theo đúng quy định của Pháp luật. Nội dung và hình thức của hồ sơ dự thầu phải tuân theo quy chế đấu thầu và các văn phản pháp quy khác có liên quan. + Tính thống nhất của hồ sơ dự thầu: Điểm này được thể hiện giữa thực tế và nội dung của hồ sơ dự thầu. Nếu giới thiệu về năng lực của Công ty trong hồ sơ dự thầu thì những năng lực đó phải có thật, giới thiệu về những kinh nghiệm của Công ty thì những công trìng dự án đó là có thật do Công ty đảm nhiệm thực hiện. Tính thống nhất của hồ sơ dự thầu còn được thể hiện ở sự thống nhất giữa yêu cầu của bên mời thầu với nội dung hồ sơ dự thầu về bảo lãnh dự thầu, các yêu cầu kỹ thuật, năng lực tài chính, yêu cầu về giá bỏ thầu... Hồ sơ dự thầu càng có tính thống nhất cao thì khả năng trúng thầu của Công ty càng lớn. Với gói thầu Xây dựng Nhà 9 Tầng - Đại học Kiến trúc Hà nội.Thư giảm giá viết và gửi cho Hội đồng xét thầu, là một văn bản chứa một thông tin quan trọng là giá bỏ thầu: “Công ty xin giảm giá thầu của gói thầu : Xây dựng Nhà 9 Tầng - Đại học Kiến trúc Hà nội xuống 2% so với giá trị đã ghi trong đơn dự thầu. Vậy giá dự thầu chính thức của gói thầu sẽ là 10.257.056.000 đồng ” Thư giảm giá cùng các tài liệu trong hồ sơ dự thầu phải được gửi bí mật, nếu có nhà thầu khác biết được giá bỏ thầu của Công ty thì khả năng trúng thầu của Công ty rất thấp. 2. Gửi hồ sơ dự thầu. Hồ sơ dự thầu sau khi được lập xong được gửi tới Hội đồng xét thầu. Hồ sơ đựoc gửi đi ngày 20/3/1998. Tức là trong thời hạn nộp thầu vì vậy hồ sơ dự thầu là hợp lệ về mặt thời gian. Hồ sơ dự thầu được gửi thông qua đường bưu điện. 3. Thời gian đấu thầu: Đến thời điểm mà bên mời thầu đã công bố trong hồ sơ mời thầu tức 14h30’ ngày 28/03/1998, hội đồng xét thầu tổ chức mời thầu đại diện của Công ty Xây dựng Vinaust cùng đại diện của các đơn vị tham giá đấu thầu khác có mặt để dự xét thấu, làm rõ một số thắc mắc của Hội đồng xét thầu. Hội đồng xét thầu sau khi xem xét các tiêu chuẩn kỹ thuật tiến bộ ước tính, tiêu chuẩn tài chính các hồ sơ dự thầu để nhất trí ra quyết định Công ty Xây dựng Vinaust là nhà thầu được chọn. 4. Ký kết hợp đồng sau khi trúng thầu. Ngày 30/03/1998, đại diện của Công ty xây dựng Vinaust cùng với chủ đầu tư ký kết hợp đồng kinh tế giao nhận thầu thi công, nội dung của hợp đồng phản ánh đúng những cam kết của hai bên trong quá trình đấu thâu. Nội dung chủ yếu của hợp đồng bao gồm: - Các tài liệu kèm theo (là một phần) bản hợp đồng kinh tế. - Đối tượng của hợp đồng . - Yêu cầu về số lượng, chất lượng, chủng loại, quy cách, mỹ thuật công trình. - Thời gian và thực hiện hoàn thành công trình. - Nghiệm thu công trình. - Phương thức và điều kiện thanh toán. - Bảo hành công trình. Ngoài ra nội dung của hợp đồng còn có điều khoản trách nhiệm và cam kết của các bên ký kết hợp đồng : Biện pháp đảm bảo việc ký kết hợp đồng ; vi phạm hợp đồng ; xử lý có tranh chấp; những bổ sung điều chỉnh hợp đồng, huỷ bỏ hợp đồng, cam kết của chủ đầu tư. Nội dung của hợp đồng được ký kết phải phù hợp với hồ sơ đấu thầu , nếu có thay đổi, điều chỉnh gì so với hồ sơ đấu thầu thì phải tìm người có thẩm quyền quyết định đầu tư và phải được chấp nhận. Không được sưả chữa những yếu tố cơ bản làm ảnh hưởng đến nội dung của hồ sơ đấu thầu và kết quả đấu thầu . 1. Thực hiện tham gia đấu thầu xây lắp ở Công ty Xây dựng Vinaust Những dự án công trình nhà máy tham gia đấu thầu với tư cách là một doanh nghiệp độc lập. Công ty Xây dựng Vinaust là một doanh nghiệp liên doanh, hạch toán độc lập có khả năng tham gia đấu thầu các công trình, dự án thuộc lĩnh vực và ngành nghề kinh doanh của mình. Công ty đã từng tham gia đấu thầu nhiều dự án đầu tư và đã trúng thầu khá nhiều gói thầu thuộc nhiều chủng loại, lĩnh vực. Công ty tham gia đấu thầu với tư cách là một pháp nhân độc lập hoặc với tư cách là một nhà thầu được thiết lập bởi quan hệ liên doanh với một đơn vị khác. Những gói thầu Công ty trúng thầu có đối tượng là các loại Công trình xây dựng dân dụng. Quy chế đấu thầu đựoc áp dụng ở Công ty bởi vì tính hiệu quả của nó và theo quy định pháp luật. Những dự án có giá trị trên 500 triệu đồng mà Công ty muốn được thực hiện thì phải tham gia đấu thầu. Mặt khác đối với những bạn hàng chưa quen biết, đấu thầu là cầu nối quan hệ làm ăn của đôi bên. Đấu thầu đem lại uy tín cho Công ty, giúp Công ty đổi mới công nghệ thiết bị và thông qua đấu thầu,Công ty có thể ký được những hợp đồng có giá trị lớn. Mặc dù, công việc sản xuất - xây lắp của Công ty được chia làm hai loại đó là những công việc có được từ hoạt động tham gia đấu thầu và những công việc có được không từ hoạt động đấu thầu mà có thể thông qua ký kết hợp đồng trực tiếp hay thông qua việc. Tuy nhiên, hình thức đấu thầu cũng tốn nhiều chi phí như: Khi tham gia đấu thầu, Công ty phải tốn nhiều thời gian cho việc chuẩn bị hồ sơ dự thầu, tham gia đấu thầu ..., đồng thời cũng tốn kém các khoản chi phí dự thầu, mua hồ sơ dự thầu, bảo lãnh dự thầu... Mấy năm gần đây, từ khi Công ty thực hiện quy chế đấu thầu thì số lượng các hợp đồng có nguồn gốc từ hoạt động tham gia đấu thầu mỗi năm lại tăng nhiều hơn, đồng thời tổng giá trị các gói thầu Công ty trúng thầu mỗi năm cũng tăng lên. Khi Công ty tham gia đấu thầu, có nghĩa là cạnh tranh với các nhà thầu khác. Sự cạnh tranh này ảnh hưởng tới uy tín của Công ty cũng như tác động đến các chiến lược sản xuất kinh doanh. Nếu Công ty thắng thầu, uy tín Công ty sẽ nâng cao, bố trí được việc làm cho người lao động, đồng thời làm tăng lợi nhuận. Để tăng cường năng lực thiết bị kỹ thuật nhằm phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh và năng lực đấu thầu, Công ty không ngừng đổi mới máy móc công nghệ. Mặt khác, cạnh tranh cũng gây ra khó khăn cho hoạt động tìm kiếm công việc của Công ty, Công ty sẽ phải đối đầu với các nhà thầu khác và có rất nhiều nhà thầu có năng lực và có khả năng cạnh tranh mạnh. Vì vậy việc trúng thầu một gói thầu là rất khó khăn. Nếu nhà tham gia đấu thầu rộng rãi thì chỉ cần nộp hồ sơ dự thầu hợp lệ, đầy đủ đúng thời hạn nộp thầu. Nhưng đối với đầu thầu hạn chế thì phải có thông báo mời thầu kèm theo hồ sơ dự thầu. Với tư cách là một doanh nghiệp tư nhân hạch toán độc lập trên Công ty tham gia đấu thầu với tư cách là một nhà thầu độc lập, không phụ thuộc vào các cơ quan cấp trên, hay cơ quan quản lý. Công ty căn cứ vào khả năng của mình, căn cứ vào tư cách, uy tín của mình, tham giá vào hoạt động đấu thầu trong quá trình tham gia vào hoạt động đấu thầu, Công ty gặp nhiều gói thầu mà chủ đầu tư yêu cầu nhà thầu phải là một doanh nghiệp độc lập có khả năng thực hiện các công việc của gói thầu một cách độc lập và chịu trách nhiệm một mình Khi lập hồ sơ dự thầu, căn cứ để lập hồ sơ dự thầu đó là hệ thống văn bản pháp quy điều chỉnh chế độ đấu thầu với các yêu cầu của biên bản mời thầu . Các văn bản pháp quy được áp dụng đối với tất cả các gói thầu là quy định chung để các bên thực hiện theo. Tuy nhiên các yêu cầu của bên mời thầu đôi khi thể hiện ý trí chủ quan của bên mời thầu và được thể hiện thông qua hồ sơ mời thầu, các mẫu văn bản. Trong hồ sơ mời thầu dự án Xây dựng Nhà 9 tầng - ĐHKT có ghi sẵn một mẫu hợp đồng bao gồm các điều khoản đầy đủ. Nếu mẫu hợp đồng này chỉ cần theo một số thông tin nữa thì sẽ trở thành một hợp đồng hoàn chỉnh. Điều này thể hiện tính áp đặt của bên mời thầu đối với nội dung hợp đồng. Mà theo nguyên tắc chung, hợp đồng là bản thoả thuận giữa các bên tham gia trong quan hệ hợp đồng về thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh về quan hệ hợp đồng. Trong hợp đồng kinh tế về Xây dựng Nhà 9 tầng - ĐHKT có quy định trách nhiệm pháp lý của các bên có phần “Nếu trong qúa trình thi công xây dựng công trình mà có thiệt hại do thiên tai, gió, bão, lụt... mà không phải do lỗi của nhà thầu thì thiệt hại của công trình sẽ đựoc phân chia cho bên giao thâù và bên nhận thầu mỗi bên 50%...” Như vậy nếu tham gia đấu thầu thì Công ty coi như đã chấp nhận điều khoản mẫu này trong mẫu hợp đồng. Mà điều khoản này là bất hợp lý khi buộc nhà thầu chịu trách nhiệm mà không phải là do lỗi của mình gây ra. Quá trình lập hồ sơ dự thầu phải chuẩn bị đủ các tài liệu do bên mời thầu công trình Xây dựng Nhà 9 tầng - ĐHKT yêu cầu. Những nội dung đó là: 1. Đơn vị dự thầu được thủ trưởng đơn vị ký tên, đóng dấu 2. Bản sao các chứng chỉ xác định tư cách hành nghề của đơn vị. 3. Bảng tiền lương đã điền giá cụ thể. Tổng dự toán phải giống như tổng giá dự thầu ghi trong đơn dự thầu. 4. Bản thuyết minh biện pháp thi công có kèm theo bản vẽ tổ chức thi công. 5. Biều đồ tiến độ thi công. 6. Thuyết minh biện pháp quản lý và chất lượng công trình 7. Các bản khai năng lực của đơn vị (theo mẫu trong hồ sơ mời thầu). 8. Bảo lãnh dự thầu (theo mẫu trong hồ sơ mời thầu) 9. Nhà thầu nước ngoài phải nộp kèm theo đơn dự thầu bản thoả thuận hợp tác dự thầu với các nhà thầu phụ Việt nam, kèm theo các bản khai về tư cách hành nghề của các nhà thầu phụ. Các quy định về nộp thầu về hồ sơ dự thầu của công trình Xây dựng Nhà 9 tầng - ĐHKT có những quy định chung theo quy chế đấu thầu nhưng cũng có những quy định riêng của bên mời thầu. 1. Hồ sơ dự thầu phải được làm thành 3 bản, 1 bản gốc và 2 bản sao, được niêm phong vào các phong bì riêng và ngoài có ghi (bản gốc, bản sao) sau đó các phong bì sẽ được niêm phong trong phong bì chung. Ngoài phong bì phải ghi rõ tên địa chỉa của nhà thầu, tên địa chỉ của bên mời thầu và tên gói thầu. Ngoài ra còn phải ghi rõ chữ “không được mở trước” cùng ngày và giờ quy định của thư mời thầu. 2. Nếu phong bì ngoài không được niêm phong và đánh dấu như trên thì bên mời thầu sẽ không chịu trách nhiệm về sự lầm lẫn hoặc mở sớm hồ sơ. 3. Các bản gốc và bản sao của hồ sơ dự thầu được soạn bằng mực không nhoè và phải có người đại diện chính thức của nhà thầu ký để giàng buộc nhà thầu với hợp đồng. Bất kỳ sự tẩy xoá nào hoặc viết thêm và chỉ có giá trị nếu được ký hồ sơ dự thầu ký tắt. 4. Thời hạn nộp hồ sơ dự thầu. Hồ sơ dự thầu phải được nộp cho bên mời thầu trên địa chủ quy định không chậm quá ngày và giờ quy định trong thông báo mời thầu. bên mời thầu có thể chủ động mở rộng thời gian nộp hồ sơ dự thầu trong trường hợp này, mọi quyền lợi và nghĩa vụ của bên mời thầu và nhà thầu trước đây bị phụ thuộc vào thời gian cũ hay sẽ theo thời gian được gia hạn. Những hồ sơ dự thầu nộp cho bên mời thầu sau thời hạn quy định sẽ bị loại và được gửi lại cho nhà thầu mà không mở. Để được tham gia đấu thầu, ngoài việc nộp hồ sơ dự thầu ra Công ty còn phải nộp lệ phí dự thầu, mua hồ sơ dự thầu và làm thủ tục bảo lãnh dự thầu trong quá trình tham gia đấu thầu Xây dựng Nhà 9 tầng - ĐHKT, Công ty phải nộ lệ phí dự thầu là 200.000.000 đồng và mua bộ hồ sơ mời thầu với giá 5.000.000 đồng. Những loại chi phí nói trên nhằm mục đích bù đắp chi phí tổ chức đấu thầu cho bên mời thầu và do bên mời thầu tính toán và quyết định chi phí đó là bao nhiêu, khi tham gia đấu thầu, các nhà đấu thầu không có cơ hội để thoả thuận các loại chi phí trên, trong hồ sơ mời thầu công trình Xây dựng Nhà 9 tầng - ĐHKT có điều kiện “chi phí dự thầu” quy định “Mọi chi phí về việc chuẩn bị và nộp hồ sơ dự thầu là đơn vị dự thầu” quy định. “Mọi chi phí về việc chuẩn bị và nộp hồ sơ dự thầu là đơn vị dự thầu chịu, dù kết quả đấu thầu như thế nào đi nữa”. Như vậy, khi tham gia đấu thầu, cho dù thắng thầu hay không trúng thầu các chi phí cho việc dự thầu đều không được trả lại và khi tính toán, Công ty tính đó là một khoản chi phí cho sản xuất - kinh doanh. Nếu ngân hàng đứng ra bảo lãnh thầu thì sau khi thời hạn có hiệu lực của bảo lãnh dự thầu hết, ngân hàng không phải chịu trách nhiệm gì. Đối với trường hợp nộp tiền bảo lãnh dự thầu cho bên mời thầu hay vào tài khoản phong toả, nếu có vi phạm các quy định về dự thầu thì số tiền số tiền đó sẽ không được trả lại. Nêu có giấy bảo lãnh dự thầu ngân hàng mà Công ty vi phạm thì ngân hàng sẽ phải trả số tiền đã cam kết trong giấy bảo lãnh dự thầu cho chủ đầu tư và sau đó ngân hàng sẽ đòi lại từ Công ty. Đối với những gói thầu mà một phần vượt ra ngoài phạm vi hoạt động của Công ty thì để tham gia đấu thầu, Công ty phải liên doanh với một đơn vị khác. Ví dụ như gói thầu sản xuất - vận chuyển cọc ống vách do tổng công ty xây dựng công trình 8 mở thầu yêu cầu hai hạng mục cụ thể sản xuất vận chuyển cọc ống vách. Nhà máylà một doanh nghiệp có chức năng sản xuất nhưng không được phép vận chuyển vì vậy để thao gia đấu thầu gói thầu này nhà máu phải liên doanh với một đơn vị khác có giấy phép hành nghề vận chuyển chuyên nghiệp, hai bên sẽ tạo thành một nhát thầu mới đáp ứng được yêu cầu của gói thầu. Trong hồ sơ mời thầu của gói thầu sản xuất vận chuyển cọc ống vách quy định (nếu nhà thầu là liện doanh của hai hay nhiều đơn vị thì chỉ nộp một đơn vị dự thầu chung cho một đơn vị được uỷ quyền ký tên và đóng dấu, và phải có văn bản thoả thuận hợp tác liên doanh dự thầu, trong đó nêu rõ trách nhiệm của từng bên trong liên doanh, có kèm theo chứng chỉ hành nghề và các văn bản khai năng lực của các thành viên). Sau khi xem xét, các nhà máy đã lựa chọn đối tác trong quan hệ liên doanh là Xí nghiệp vận tải Thăng Long. Vì từng có quan hệ làm ăn từ trước nên nhà máy nắm được quá trình hoạt động của đối tác và năng lực, uy tín hiện tại. Hai bên thoả thuận và ký với nhau một bản hợp đồng liên doanh, trong đó quy định đầy đủ nghĩa vụ, quyền lợi và giới hạn trách nhiệm của mỗi bên. Thông qua bản hợp đồng liên doanh này, cả Công ty Xây dựng Vinaust và Xí nghiệp vận tải Thăng Long đã tạo nên một nhà thầu mới vừa có khả năng sản xuất cọc ống vách có khả năng vận chuyển cọc ống vách. Về nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên trong quan hệ được phân chia như sau: Công ty Xây dựng Vinaust thực hiện phần sản xuất cọc ống vách, sẽ chịu trách nhiệm từ khi khởi công cho tới khi đưa ra bãi để vận chuyện và chịu trách nhiệm về chất lượng của sản phẩm trong thời gian bảo hành, xí nghiệp vận tải Thăng Long có nghĩa vụ vận chuyển sản phẩm từ Công ty Xây dựng Vinaust đến nơi mà bên mời thầu quy định và sẽ chịu trách nhiệm đối với lỗi của mình gây ra trong qúa trình vận chuyển về quyền lợi; Công ty Xây dựng Vinaust sẽ đứng ra thanh toán với dự đầu tư theo như phương thức thanh toán trong hồ sơ mời thầu quy định, Xí nghiệp vận tải Thăng Long sẽ được Công ty Xây dựng Vinaust thanh toán chi phí vận chuyển hai bên đã thoả thuận trong hợp đồng liên doanh sau khi thực hiện xong phần công việc của mình. Mặc dù hiện nay quy chế đấu thầu đã được áp dụng và có hiệu lực đã lâu, nhưng do đó vẫn tồn tại một số thủ tục hành chính rườm rà, tốn nhiều thời gian chi phí, làm giảm tiến độ thực hiện dự án ... Các đơn vị có quan hệ làm ăn từ trước, có thể tin tưởng lẫn nhau thì họ không muốn đấu thầu mà chọn ngay một đối tác tin cậy. Công ty Xây dựng Vinaust có nhiều bạn hàng tin cậy, có quan hệ làm ăn từ trước và có khả năng tương trợ lẫn nhau. Do đó có nhiều hợp đồng được ký trực tiếp giữa Công ty và bạn hàng. Ngoài ra, do uy tín của Công ty mà có nhiều bạn hàng mới cũ đến ký hợp đồng trực tiếp. Doanh thu từ các hợp đồng được ký kết trực tiếp này là rất lớn nó chiếm khoảng 60 - 70% tổng doanh thu. chương iii Đánh giá về hoạt động đấu thầu I Đánh giá về những quy định pháp luật về quy chế đấu thầu Những thuận lợi của hệ thống pháp luật do đấu thầu mang lại Trước khi Quy chế đấu thầu được ban hành mặc dù đã có một số hệ thống văn bản điều chỉnh hoạt động quản lý đầu tư, xây dựng và hoạt động đấu thầu, nhưng những văn bản này chưa hoàn thiện nên thực sự chưa phát huy tác dụng, hoạt động đấu thầu diễn ra lẻ tẻ mờ nhạt. Cho tới ngày 16/7/1996, Chính phủ ban hành quy chế đấu thầu là một thành công rất to lớn tạo ra tính năng động, hiệu quả để đưa nước ta từng bước hoà nhập chung với tiến trình phát triển củathế giới. Quy chế đấu thầu tạo ra hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động dấu thầu. Đối với các chủ đầu tư còn chưa quen với hoạt động đấu thầu thì họ sẽ dựa vào quy chế đấu thầu để tổ chức đấu thầu thuận lợi hơn. Khi tổ chức đấu thầu, bên mời thuầ sẽ thuận lợi hơn khi có các sự cạnh tranh của các nhà thầu, Quy chế đấu thầu sẽ là cở sở đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể tham gia hoạt động đấu thầu. Thông qua quy chế đấu thầu và Điều lệ Quản lý đầu tư xây dựng nhà nước có thể quản lý chặt chẽ hoạt động đấu thầu, hoạt động đầu tư kiểm soát được vốn đầu tư, từ đó có chính sách đầu tư và cân đối ngành nghề, lĩnh vực được đầu tư. Quy chế đấu thàu quy định rõ cách thứctiến hành từng khâu, từng bước, quy định rõ của hai bên là mời thầu và bên dự thầu, đồng thời quy định rõ các bên quản lý có liên quan. Như vậy hoạt động kiểm tra kiểm soát được tiến hành sát sao, dễ dàng với hoạt động đấu thầu. Đối với các nguồng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt nam yêu cầu phải đáu thầu ( đặc biệt là nguồn vốn ODA ), việc sử dụng quy chế đấu thầu tạo điều kiện thuận lợi và tạo ra những cơ hội cho các nhà thầu quốc tế xâm nhập vào Việt nam. Thông qua hoạt động đầu tư vốn vào Việt nam, các nhà thầu quốc tế còn đem theo các công nghệ hiện đại và máy móc thiết bị tiên tiến vào và như vậy sẽ nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ của Việt nam. Nguồn vốn nước ngoài phần lớn nhằm hỗ trợ phát triển. Nhà đầu tư vốn hỗ trợ phát triển muốn nguồn vốn họ bỏ ra dầu tư phải đạt mục đích và hiệu quả cao, vì vậy khi có quy chế đấu thầu thì các nhà đầu tư sẽ rất yên tâm và sẵn đầu tư thêm vốn. Những tồn tại của phưng pháp đấu thầu Bên cạnh những thuận lợi mà quy ché đáu thầu mang lại, còn có những hạn chế mà quy chế mắc phải. Một vấn đề nổi cộm hiện nay là việc áp dụng nguồn luật sau khi nghị định 43/CP được ban hành ngày 16/7/1996 diều chỉnh hoạt động đấu thầu, luật thương mại ra đời có hiệu lực ngày 01/01/1998 thì vấn đề đặt ra là nguồn luật điều chỉnh hàng hoá cũng là vật tư thiết bị? Luật thương mại hay nghị định 43/CP hay 93/CP điều chỉnh? Trước đây hoạt động đấu thầu quốc tế tại Việt Nam được áp dụng Nghị định 43/CP sau đó sửa đỏi trong nghị định 93/CP. Như vậy từ khi luật thương mại ra đời là văn bản có giá trị pháp lý cao hơn cả Nghị định. Luật thương mại có quy định về hoạt động đấu thầu mua săm hàng hoá. Và như vậy, cả Nghị định 43/CP , 93/CP và Bộ Luật thương mại cùng điều chỉnh hoạt động đấu thầu mà đồi tượng chung của chúng đều là hoạt động mua bán hàng hoá thông qua đấu thầu. Vậy quy định trong bộ luât thương mại và nghị định 43/CP và Nghị định 93/CP có gì mâu thuẫn không. Sau khi xem xét và tìm hiểu các văn bẳn trên ta thấy giữa hai nguồn luật điều chỉnh này có một số điểm khác biệt nhau, nhưng nội dung chủ yếu thì không có gì mâu thuẫn, xung đột. Những điểmkhác biệt đó là trong Nghị định 43/CP có quy định có ba hình thức đấu thầu là đấu thầu rộng rãi, đấu thuầ hạn chế và chỉ định thầu , còn trong luật thương mại quy định chỉ có hai hình thức là đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn chế. Nghị định 43/CP quy định hình thức đấu thầu cụ thể còn luật thương mại không quy định phương thức đấu thầu. Còn đối với trình tự đấu thầu thì Nghị định 43/CP quy định chặt chẽ cụ thể các bước, các yêu cầu của trình tự đấu thầu và được cụ thể trong văn bản hướng dẫn cụ thể (thông tư Liên bộ số 02 ngày 5/7/1997) . Còn luật thương mại quy định rất sơ sài trình tự đấu thầu. Trong Nghị định 43/CP quy định về biện pháp đảm bảo dự thầu và thực hiện hợp đồng bằng biện pháp ký quỹ dự thầu và ký quỹ đảm bảo thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên nếu giả sử hai nguồn luật trên không có gì mâu thuẫn xung đột với nhau thì theo cấp độ pháp lý của văn bản pháp quy, luật thương mại có gí trị pháp lý cao hơn, vậy tất nhiên nó sẽ là nguồn luật điều chỉnh đấu thầu hàng hoá (hay thiết bị, vật tư dưới dang hàng hoá). Mặc dầu vậy thực tế hiện nay Nghị định 43/CP và 93/CP vẫn là nguồn luật chủ yếu điều chỉnh hoạt động mua sắm hàng hoá và thiết bị vật tư, Luật thương mại vẫn chưa phát huy được tác dụng của nó? Để trả lời được câu hỏi này phải cho xem các văn bản hướng hẫn chi tiết luật thương mại. Mặc dù có hiệu lực pháp lý từ ngày 01/01/1998 nhưng thực tế chưa đi sâu vào hoạt động thương mại của nước ta. Do đó cần ban hành một văn bản hướng dẫn cụ thể đầy đủ chi tiết Luật thương mại. Vấn đề thứ hai là trong quy chế đấu thầu có phân ra làm 4 loại đấu thầu : Đầu thầu tuyển chọ tư vấn, đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị, đấu thầu xây lắp và đấu thầu dự án. Như vậy theo quy định chỉ có một đối tượng phù hợp với một loại đấuthầu ở trên. Tuy nhiên trong thực tế bên mở thầu tổ chức mở thầu để lựa chọn nhà thầu làm nhiều công việc trong cùng một gói thầu: vừa có thể cung cấp thiết bị vừa có thể lắp đặt và tư vấn trong đào tạo vận hành. Trong quy định đấu thầu chỉ có quy định đấu thầu của từng loại: Đấu thầu tuyển chọn tư vấn, mua sắm vật tư thiết bị, xây lắp và dự án. Nhưng chưa có một quy trình đấu thầu tổng hợp nào. Vì vậy đây sẽ là một khó khăn trong các gói thầu bao gồm nhiều đối tượng đấu thầu. Vấn đề thứ ba là việc phân chia trách nhiệm pháp lý. Hệ thống văn bản pháp luật còn thiếu một số quy định về trách nhiệm pháp lý của bên mời thầu, trách nhiệm bảo mật, về trách nhiệm của các vi phạm quy chế đấu thầu. Khi nhà đầu tư uỷ thác cho một tổ chức đứng ra tổ chức đấu thầu, các nhà thầu muốn tham gia thầu thì phải nộp lệ pí tham gia dự thầu và mua hồ sơ thầu, đồng thời trong quá trình tham gia đấu thầu nhà thầu phải tốn kém đến các chi phí khác liên quan đến việc đi lại, nghiên cứu gói thầu, lập hồ sơ dự thầu... Nhưng nếu có một lý do nào đó bên mở thầu không muốn tổ chức thầu, không muốn tiếp tục quá trình đầu tư (có thể do thiếu vốn, trục trặc về công nghệ...) bên mở thầu sẽ đánh trượt tất cả và họ đạt được mục đích. Tuy nhiên tổn thất về các nhà thầu không ít về tài chính cũng như uy tín. Vì lý do này, Nhà nước cần quy định chặt chẽ về vấn đề này, có như vậy mới đảm bảo quyền lợi cho các nhà thầu và người mở thầu. Sau khi nhận được hồ sơ dự thầu, bên mời thầu có trách nhiệm pháp lý bảo mật hồ sơ này. Sự bảo mật hồ sơ có tình quyết định đến sự công bằng và kết quả. Nhưng câu hỏi đặt ra là liệu có một chế độ bảo mật chặt chẽ chưa, các cụ thể trong hoạt động đấu thầu liệu có thông đồng với nhau để tiết lộ thông tin hay không? Khi có vi phạm về thông tin bí mật, tính cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu không còn ý nghĩa nữa, thay vào đó là những kẻ cơ hộ, thủ đoạn. Vậyđã có văn bản nào quy định cụ thể trách nhiệm pháp lý của kẻ vi phạm chưa? Khi trả lời các câu hỏi trên thì hiệu quả của hoạt động đấu thầu nói chung sẽ được nâng lên rõ rệt. Vấn đề thứ tư là tính bất hợp lý trong việc phân cấp giữa người xét thầu với người có thẩm quyền quyết định đầu tư. Hội đồng xét thầu được lập ra chuẩn bị cho quá trình đấu thầu và tiến hành xem xét hồ sơ dự thầu, lựa chọn nhà thầu tiêu biểu. Hội đồng xét thầu bao gồm nhiều thành viên ở nhiều vị trí khác nhau. Khi đưa ra một quyết định nào đó, họ sẽ chịu trách nhiệm tập thể về quyết định đó. Tuy nhiên, sau khi quyết định xong, hội đồng xét thầu sẽ giải tán và các thành viên trở về vị trí cũ. Do vậy, rất khó quy kết trách nhiệm khi có biến cố xảy ra. Mà người có thẩm quyền quyết định đầu tư lại chủ yếu dựa vào báo cáo của hội đồng xét thầu. Khi hội đồng xét thầu không còn tồn tại nữa thì người có thẩm quyền quyết định đầu tư sẽ không an tâm khi ký duyệt. Một hạn chế nữa là thời gian giới hạn của từng giai đoạn đấu thầu. Quy chế đấu thầu chưa quy định giới hạn về thời gian của các bước trong hoạt động đấu thầu. Ta thấy rằng nếu không có quy định chặt chẽ giới hạn của từng bước đấu thầu sẽ tạo ra sự tuỳ tiện, kéo dài thời gian đấu thầu và như vậy có thể đánh mất cơ hội của dự án. Khi cơ hội của dự án qua đi một phần hoặc tất cả sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của dự án đầu tư. II. Đánh giá về hoạt động tham gia đấu thầu ở Công ty TNHH.XD Vinaust. Những thuận lợi của Công ty trong lĩnh vực đấu thầu. Công ty là một doanh nghiệp độc lập có đủ điều kiện tham gia đấu thầu mà không phải chịu sự chỉ đạo trực tiếp của cơ quan cấp trên nào. Điều này tạo ra sự thông thoáng cho việc thiết lập các quan hệ làm ăn với các bạn hàng, taọ ra tính tự chủ, năng động của Công ty. Khi tham gia hoạt động đấu thầu, Công ty có thể tự do điều chỉnh hành vi của mình mà không cần xin phép ai. Công ty có thế mạnh năng lực các loại: Tài chính, kỹ thuật, nhân lực. Hội đồng xét thầu sẽ đánh giá các năng lực tài chính, kỹ thuật và cho điểm... Nếu năng lực càng cao thì khả năng trúng thầu càng lớn. Những năng lực trên cũng tác động mạnh mẽ tới quá trình thực hiện dự án sau khi trúng thầu. Khi Công ty thực hiện tốt phần công việc đã cam kết thì lợi nhuận mà Công ty thu được sẽ lớn hơn và uy tín sẽ tăng lên. Đội ngũ cán bộ đảm nhiện công tác đấu thầu của Công ty, có trình độ và kiến thức vững vàng, có thể nhanh chóng nắm bắt được thông tin từ phía người mời thầu, nhanh chóng nắm bắt được yêu cầu của gói thầu và tính toán ước lượng về các thông số kỹ thuật, các chỉ tiêu tài chính, để từ đó coả thể nhanh chóng lập hồ sơ dự thầu và đưa ra các quyết định đáp ứng được các yêu cầu của hội đồng xét thầu. Những khó khăn trong hoạt động tham gia đấu thầu của Công ty. Bên cạnh những thuận lợi, Công ty cũng gặp phải một số khó khăn trong hoạt động đấu thầu. Thứ nhất là sự cạnh tranh mạnh mẽ từ phía các nhà thầu, đặc bệt là những nhà thầu quốc tế. Để đảy mạnh khả năng cạnh tranh, các Công ty đã không ngừng đổi mới máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ.Vì thế sức ép của các nhà thầu này rất lớn. Hơn nữa họ lại có tiền lực tài chính hùng hậu và họ sẽ sử dụng triệt để tiềm lực này. Có không ít Công ty tham gia đấu thầu và sau khi trúng thầu sẽ bán lại cho các nhà thầu khác, điều này sẽ gây ra khó khăn cho các nhà thầu khác, trong đó có Công ty. Đối với các nhà thầu Quốc tế hoạt động ở Đông Nam á từ trước vì họ đã đầu tư nhiều máy móc thiết bị, có bề dày kinh nghiệp và là nhà thầu chuyên nghiệp nên trong đấu thầu Quốc tế họ là những đối thủ nặng ký nhất, giá bỏ thầu của họ sẽ rất thấp do sử dụng máy móc thiết bị từ các nước Đông Nam á chuyển sang. Điều này thì có lợi cho các nhà đầu tư nhưng lại gây khó khăn cho các nhà thầu trong nước. Thứ hai là, đối với các dự án mời thầu địa phương. Bên mời thầu mặc dù tổ chức đấu thầu rộng rãi nhưng vẫn có một số ưu tiên đối với các nhà thầu ở địa phương họ do các nhà thầu có sự thuận lợi về vị trí địa lý, am hiểu về nguồn vật liệu, có điều kiện xem xét kỹ lưỡng công trình. Sự công bằng đối với nhà thầu địa phương sẽ tạo ra sự không công bằng, gây khó khăn cho các nhà thầu khác. Mặt khác đối với những dự án ở xa trụ sở của Công ty nhưng lại yêu cầu phải nắm thất chắc yêu cầu của dự án, phải nghiên cứu tìm hiểu khi tham gia đấu thầu thì Công ty sẽ rất khó khăn khi tham gia đấu thấu các gói thầu này và sẽ rất tòn kém chi phí cho việc đi lại, nghiên cứu. Thứ ba là đối với việc tính toán kỹ thuật và ước lượng giá thành. Bên mời thầu khi mời thầu sẽ thường chỉ cung cấp cho các nhà thầu bản vẽ thiết ké và các thông tin với yêu cầu của dự án công trình. Vì vậy để có thể tham gia đấu thầu các nhà thầu nói chúng và Công ty nói riêng phải bóc tách bản vẽ, tính toán các chi tiết cấu kiện và từ đó ước lượng giá thành. Các công đoạn trên đòi hỏi phải tốn nhiều công sức, thời gian và đòi hỏi phải có những người có trình độ, có khả năng mới thực hiện được. III. Một số kiến nghị nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại Kiến nghị về pháp luật đấu thầu Trên cơ sở đưa ra một số hạn chế của pháp luật đấu thầu ở phần trên, tôi xin đưa ra vài kiến nghị để khắc phục những khó khăn của chế độ đấu thầu. Kiến nghị thứ nhất là về nguồn luật điều chỉnh: Nhà nước cần quy định rõ phạm vi điều chỉnh của các văn bản pháp luật: Bộ luật Thương mại và Nghị định 43/CP, Nghị định 93/CP. Khi xác định được nguồn luật điều chỉnh đối với hoạt động đấu thầu thì cơ sở pháp lý để áp dụng trong đấu thầu sẽ rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia hoạt động đấu thầu có một khuôn khổ pháp luật để thực hiện theo. Phạm vi điều chỉnh của các văn bản pháp luật đấu thầu có sự trùng nhau. Điều này được thể hiện thông qua phạm vi điều chỉnh trùng nhau của Bộ luật Thương mại và Nghị định 43/CP ngày 16/7/1996 về quy chế đấu thầu và Nghị định 93/CP sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định 43/CP. Để khắc phục hạn chế này Nhà nước cần quy định rõ ràng phạm vi điều chỉnh của từng nguồn luật thoong qua hoạt động ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết Bộ luật Thương mại. Không những thế Bộ luật Thương mại có hiệu lực từ ngày 1/1/1998 nhưng cho tới nay vẫn chưa đi sâu vào các hoạt động thương mại. Vậy yêu cầy cấp bách đặt ra hiện nay là ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện áp dụng luật thương mại. Có như vậy mới cụ thể hoá được phạm vi điều chỉnh của pháp luật đấu thầu hàng hoá, giải quyết được sự trùng lập với các Nghị định 43/CP và Nghị 93/CP, đồng thời đưa Bộ luật Thương mại trở thành cơ sở pháp lý quan trọng để áp dụng và điều chỉnh rộng rãi các hoạt động thương mại. Thứ hai là việc khắc phục khó khăn do những gói thầu tổng hợp nhiều công việc gây ra. Hiện nay, chúng ta chưa có quy định pháp lý về quy trình đầu thầu tổng hợp. Vậy Nhà nước cần yêu cầu các cơ quan chuyên ngành nghiên cứu soạn thảo quy trình đấu thầu tổng hợp, đồng thời đưa ra các mẫu thầu cụ thể, chi tiết và đầy đủ, xuất phát từ lợi ích của các hình thức đấu thầu, các Bộ lên ban hành các mẫu thầu cụ thể, chi tiết để cho các nhà đầu tư có thể tiến hành đấu thầu một cách nhanh chóng và dễ dàng. Các mẫu này dựa trên các mẫu theo quy định của pháp luật và được lập ra đầy đủ các khoản mục và khi tiến hành các hành vi hoạt động đấu thầu, các chủ thể chỉ cần điền vào các mẫu đó. Các cơ quan chức năng cần tiến hành nghiên cứu thực tiễn kết hợp với các cán bộ thực hiện trực tiếp hoạt động đấu thầu ở các doanh nghiệp để có thể tạo ra hệ thống các tài liệu mẫu đầy đủ, chính xác và chi tiết. Nếu có được tài liệu hệ thống này, bên mời thầu sẽ rút ngắn được thời gian chuẩn bị hồ sơ, thời gian xét thầu, các công đoạn khác, tiết kiệm được sức lực, chi phí để nghiên cứu soạn thảo hồ sơ mời thầu. Bên dự thầu cũng sẽ tiết kiệm được thời gian chi phí công sức trong việc lập hồ sơ dự thầu, làm các thủ tục tham gia đấu thầu. Về phía Nhà nước thì các cơ quan chức năng sẽ dễ dàng quản lý kiểm tra, giám sát những hành vi trong hoạt động đấu thầu, hoạt động quản lý Nhà nước về đấu thầu sẽ đạt hiệu quả cao. Thứ ba là khắc phục hiện tượng trốn tránh trách nhiệm và trách nhiệm bị phân tán. Sau khi hội đồng xét thầu xong thì thường giải tán do đó khó quy kết trách nhiệm cho các thành viên của Hội đồng đấu thầu. Nhà nước cần ban hành văn bản quy định cụ thể trách nhiệm pháp lý của các thành viên trong Hội đồng xét thầu, quy định cụ thể các hành vi vi phạm chế độ đấu thấu và trách nhiệm pháp lý sẽ phải gánh chịu. Đối với bên tổ chức đấu thầu khi có lỗi làm thiệt hại đến các khoản chi phí của các nhà thầu, pháp luật cần quy định rõ trách nhiệm vật chất đối với bên mở thầu, trách nhiệm hành chính và nghiêm trọng thì phải áp dụng trách nhiệm hình sự . Cần quản lý chặt chẽ các thủ tục xét thầu để tránh tình trạng thông đồng móc ngoặc, tiết lộ thông tin. Cần đưa ra quy định nếu một chủ thể nào vi phạm nghiêm trọng luật đấu thầu do lỗi cố ý thì sẽ bị cấm vĩnh viễn không được tham gia vào lĩnh vực đấu thầu. Thứ tư cần khắc phục tồn tại về thời hạn của các bước trong hoạt động đấu thầu. Nhà nước cần quy định rõ ràng, cụ thể về thời hạn trong các giai đoạn của quá trình đấu thầu. Để tránh tình trạng kéo dài các khâu của quá trình đấu thầu nên quy định các mốc giới hạn cụ thể trong từng khâu, từng giai đoạn, tránh sự trì trệ tốn nhiều thời gian công sức và có thể đánh mất cơ hội của dự án đầu tư. Cần quy định tránh nhiệm của các bên gây ra sự trì trệ trong việc thực hiện các bước của hoạt động đấu thầu và quy định trách nhiệm pháp lý mà bên gây ra trì trệ phải gánh chịu. Khi quy định các mộc giới hạn cho từng khâu của quá trình đấu thầu, nếu bên nào gây ra sự vi phạm làm chậm thời hạn đấu thầu thì có thể dễ dàng nhận thấy vi phạm thuộc về ai. Và khi đó sẽ có các hình thức trách nhiệm vật chất, hanh chính và nếu cần có thể áp dụng cả trách nhiệm hình sự. Việc nghiên cứu xem xét quy định mốc giới hạn thời gian trong các giai đoạn đấu thầu phải đảm bảo được hiệu quả kinh tế và phải đảm bảo được yêu cầu kỹ thuật. Mốc thời gian cần phải không quá ngắn, không quá dài mà phải phù hợp để các bên có đủ thời gian thực hiện được các công việc trong giai đoạn đấu thầu đó và đạt được yêu cầu mong muốn. Kiến nghị nhằm khắc phục một số khó khăn của Công ty TNHH.XD Vinaust Thứ nhất để khắc phục sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các nhà thầu khác Công ty cần tăng cường năng lực của mình, đẩy mạnh khả năng cạnh tranh. Để thực hiện được, Công ty cần hoàn thiện hệ thống máy móc thiết bị để có năng lực, kỹ thuật hiện đại, tiên tiến. Những máy móc thiết bị cũ nếu không còn đảm bảo thì cần thay thế, trang bị lại. Cần bố trí nguồn nhân lực để có thể thực hiện hoạt động tham gia đấu thầu nhanh chóng hiệu quả, sắp xếp vị trí của từng cán bộ phù hợp với năng lực công tác của họ. Công ty cần tạo dựng các mối quan hệ giữa các nhà đầu tư để có thể tận dụng được mối quan hệ nay khi tham gia đấu thầu. Công ty cần tìm những đối tác tin tưởng và phù hợp để thiết lập quan hệ liên danh nhằm tạo nên một nhà thầu có khả năng tham gia các dự án công trình với quy mô lớn hơn hay có những công việc ngoài phạm vi của Công ty với mục đích hai bên cùng có lợi. Thứ hai, để có những tính toán chi tiết, thông số kỹ thuật, giá thành của dự án khi tham gia đấu thầu, Công ty cần nghiên cứu tổng hợp để từ đó lập ra một bảng biểu chuẩn để có thể ước tính nhanh chongs cấu thành bộ phận của cấu kiện, ước tính chính xác đối với giá thành sản phẩm. Khi có bảng biểu chuẩn, các nhân viên kỹ thuật bóc tách bản vẽ thành từng phần tương tự như trong bảng biểu chuẩn, sau đó đối chiếu với bảng biểu chuẩn để có thể nhanh chóng biết được kết quả khấu kiện, tiêu hao nguyên vật liệu, yêu cầu kỹ thuật. Tuy nhiên việc lập một hệ thống bảng biểu chuẩn là tương đối khó khăn bởi hệ thống bảng biểu này phải phù hợp với mặt bằng chung về giá cả, về kỹ thuật, đồng thời phải thoả mãn các yêu cầu chung của các bên mở thầu. Tài liệu tham khảo Những văn bản pháp quy Nghị định số 42/CP của Chính phủ ngày 16/7/1996 về việc Ban hành quản lý đầu tư và xây dựng – Nhà xuất bản Xây dựng 10/1996 (Công báo số 21 – 1996) Nghị định 43/CP của Chính phủ ngày 16/7/1996 về việc Ban hành quy chế đấu thầu – Nhà xuất bản Xây dựng 1996 (Công báo số 21- 1996) Thông tư liên Bộ số 02 Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Xây dựng – Bộ Thương mại hướng dẫn thực hiện quy chế Đấu thầu ngày 25/2/1997 (Công báo số 8/1997). Nghị định 92/CP của Chính phủ ngày 23/8/1997 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều lệ quản lý dầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định 42/CP ngày 16/7/1996 (Công báo số 19/1997). Nghị định 93/CP của Chính phủ ngày 23/8/1997 về việc sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định 43/CP ngày 16/7/1996 (Công báo số 19/1997). Quyết định số 24/BXD – VKT ngày 12/2/1990 của Bộ Xây dựng ban hành quy chế đấu thầu xây dựng (Công báo số 20/1990). Nghị định 117/CP ngày 20/10/1994 ban hành điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng (Công báo số 24/1994). Quyết định số 60/BXD ngày 30/3/1994 ban hành Quy chế Đấu thâu xây lắp (Công báo số 12/1994). Phần các tài liệu khác Bích Liên – Hoàn thiện các quy định đấu thầu - Đòi hỏi bức xúc - Đầu tư số 33 ngày 23/4/1998. Nguyên tắc hướng dẫn về đấu thầu khi sử dụng tiền vay của Ngân hàng Phát triển Châu á (ADB) – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-1995. Báo cáo tổng kết của Công ty TNHH.XD Vinaust năm 1997,1998,1999. Tài liệu giới thiệu năng lực của Công ty TNHH.XD Vinaust. Hồ sơ dự thầu của Công ty TNHH.XD Vinaust. Các hồ sơ mời thầu và hồ sơ dự thầu công trình xây dựng Nhà 9 tầng của Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội. Việt Nam Đầu tư nước ngoài số 6 ngày 26/2/1996.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0099.doc
Tài liệu liên quan