KẾT LUẬN VÀ SUY NGẪM DƯỚI GÓC
NHÌN XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT
Từ thực tiễn khách quan cho thấy không chỉ riêng Việt
Nam, mà hệ thống xét xử của nhiều nước trên thế giới
cũng không tránh khỏi những hạn chế bất cập khi tổ
chức các phiên tòa nói chung và các phiên tòa XXLĐ
nói riêng, hầu như mỗi hình thức xét xử đều có những
hạn chế bất cập nhất định, chỉ là mức độ hạn chế bất
cập đó nhiều hay ít mà thôi.
Hiện tại Việt Nam đang đẩy mạnh thực hiện cải cách
tư pháp, công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục
pháp luật nhằm tăng cường hiểu biết pháp luật cho
người dân được xác định là một việc làm cần thiết.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai các phiên tòa
XXLĐ xuất hiện những luồng ý kiến trái chiều của dư
luận xã hội nghi ngờ về tính hiệu quả và tính nhân văn
của hình thức xét xử này chưa cao, các quan điểm này
cho rằng cần hạn chế và thậm chí là tiến tới bỏ hẳn các
phiên tòa XXLĐ. Song, theo quan điểm riêng của tác
giả thì XXLĐ xét về mục đích, bản chất và hàm ý khi
tổ chức phiên tòa này không hề xấu hay tệ như mọi
người vẫn nghĩ; theo tác giả cần tiếp tục duy trì hình
thức này, song cần phải có sự điều chỉnh về mọi mặt,
nhằm khắc phục các hạn chế bất cập trong thực tiễn
triển khai.
Chúng ta hãy khách quan nhìn vào những kết quả
mà công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đã đạt
được từ việc giáo dục trực quan (xét xử lưu động) này,
những gì mắt thấy tai nghe theo tôi là những thứ khiến
con người ta dễ hiểu, dễ thẩm thấu, nhận thức và rút
kinh nghiệm nhanh nhất. Theo đánh giá của riêng
tác giả, hiện tại các phiên tòa XXLĐ mà chúng ta đang
thực hiện chỉ có một phần hoặc một mặt nào đó chúng
ta thực hiện chưa tốt, nguyên nhân của vấn đề này là
do chúng ta chưa xây dựng được một bộ tiêu chí rõ
ràng cụ thể cho hình thức xét xử này, chỉ khi có được
bộ tiêu chí cụ thể cho phiên tòa XXLĐ thì nó sẽ định
hướng cho hệ giá trị và vấn đề cốt lõi hướng tới của
phiên tòa. Nhưng ngược lại, nếu chúng ta không tổ
chức nỗi một phiên tòa lưu động theo tinh thần dân
chủ, tiến bộ cùng với sự công tâm, liêm chính, có trách
nhiệm của những người làm công tác xét xử và bảo vệ
pháp luật (thẩm phán, hội thẩm, kiểm sát viên), thì
hệ lụy xấu từ XXLĐ sẽ nảy sinh và tác động ngược trở
lại lên toàn hệ thống xét xử chứ không riêng gì bị cáo
phải hứng chịu.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 25/01/2022 | Lượt xem: 378 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực tiễn xét xử lưu động tại Việt Nam: Dưới góc nhìn xã hội học pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(1):516-525
Open Access Full Text Article Bài Tổng quan
Văn phòng Luật sư Chính Pháp (Hà Nội)
Liên hệ
Nguyễn Văn Đồng, Văn phòng Luật sư
Chính Pháp (Hà Nội)
Email: nguyendong.sw@gmail.com
Lịch sử
Ngày nhận: 27/08/2019
Ngày chấp nhận: 12/11/2019
Ngày đăng: 30/3/2020
DOI : 10.32508/stdjelm.v4i1.599
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Thực tiễn xét xử lưu động tại Việt Nam: Dưới góc nhìn xã hội học
pháp luật
Đặng Văn Cường, Nguyễn Văn Đồng*
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
TÓM TẮT
Việc tiếp tục tăng cường các phiên tòa xét xử lưu động hay giảm bớt, thậm chí là dừng hẳn việc
tổ chức các phiên tòa này đang là vấn đề đặt ra trong tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam, vấn
đề này đang nhận được sự quan tâm đặc biệt của các chuyên gia lập pháp, các nhà hoạt động xã
hội. Phiên tòa xét xử lưu động được xem nhưmột công cụ phục vụ đắc lực cho công tác phổ biến
và giáo dục kiến thức pháp luật cho cộng đồng, song nó cũng đang bộc lộ không ít những tồn tại
và hạn chế cần được khắc phục. Có thể hiểu xét xử lưu động là việc tổ chức phiên toà công khai
để xét xử bị cáo trong vụ án hình sự tại một địa điểm ngoài trụ sở của Tòa án, dưới góc độ phòng
ngừa tội phạm một thời gian dài chúng ta coi đây là một biện pháp nhằm góp phần hạn chế các
nguyên nhân nảy sinh tội phạm thông qua việc tác động vào ý chí của các chủ thể mà trước tiên
là bị cáo bị đưa ra xét xử, hoạt động này có có ý nghĩa giáo dục, phòng ngừa chung trong xã hội.
Bài viết tập trung phân tích, luận giải sâu sắc về thực tiễn hoạt động xét xử lưu động ở Việt Nam;
những tác động của nó đối với bị cáo, gia đình bị cáo và đối với toàn xã hội, bài viết được phân tích
tập trung chủ yếu dưới góc độ xã hội học pháp luật, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp về mặt
chính sách và hành động đối với việc tổ chức các phiên tòa xét xử lưu động ở Việt Nam hiện nay.
Từ khoá: Cải cách tư pháp, phiên tòa lưu động, xét xử lưu động, xã hội học pháp luật
GIỚI THIỆU
Từ các quy định củaHiến pháp và pháp luật Việt Nam
cho thấy, hiện vẫn chưa có quy định cụ thể về việc xét
xử lưu động (XXLĐ) hay việc tổ chức các phiên tòa
lưu động, chưa rõ tiêu chí để đưa một vụ án ra XXLĐ
cũng như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong quá trình XXLĐmột vụ án. Chỉ duy nhất,
tại khoản 1, Điều 16 của Luật Phổ biến, Giáo dục pháp
luật (2012) có quy định: “Tòa án nhân dân các cấp
thông qua công tác xét xử tại trụ sở, lựa chọn các vụ án
thích hợp có tính giáo dục cao để tổ chức XXLĐ nhằm
phổ biến giáo dục pháp luật cho người tham dự phiên
tòa và nhân dân”1.
Pháp luật tố tụng hình sự hay kể cả dân sự và hành
chính đều không quy định về việc XXLĐ. Tuy nhiên,
để góp phần phổ biến, giáo dục pháp luật, trong thời
gian qua ngành Tòa án ở nước ta đã tăng cường đưa
các vụ án hình sự ra XXLĐ. Với cách tiếp cận và nhìn
nhận từ nhiều góc độ khác nhau, một số chuyên gia
pháp lý cho rằng không nên tăng cường XXLĐ các vụ
án hình sự bởi những hệ lụy và những tác động tiêu
cực của nó tới bị cáo, gia đình bị cáo và cộng đồng rất
lớn, trực tiếp và nặng nề nhất là bị cáo với “bản án
khắc nghiệt của dư luận” 2.
Trước yêu cầu cùng những đòi hỏi thực tiễn của công
tác cải cách tư pháp ở Việt Nam trong tình hình mới,
rất cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, nhận diện, đánh
giá thực trạng, những tác động tích cực và tiêu cực của
các phiên tòa XXLĐ, để có biện pháp thúc đẩy và nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác XXLĐ các vụ án nói
chung, đặc biệt là các vụ án hình sự. Trong đó có việc
nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò, ý nghĩa và sự cần
thiết phải tăng cường các phiên tòa XXLĐ nhằm đẩy
mạnh công tác phổ biến và giáo dục pháp luật cũng
như tiếp tục nghiên cứu, tổng kết, tham mưu nhằm
hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến
XXLĐ.
Theo quan điểm của tác giả, việc tổ chức các phiên
tòa XXLĐ nói chung, đặc biệt là các vụ án hình sự sẽ
có những giá trị, hiệu quả và tác động về mặt pháp lý
nhất định đối với xã hội. Bên cạnh đó, khi triển khai
thực hiện XXLĐ trong thực tiễn thì không thể tránh
khỏi nhữngmặt trái mà hình thức xét xử này đưa đến,
trong giai đoạn trước mắt để đảm bảo áp dụng thống
nhất, chặt chẽ, phát huy những ưu điểm, giảm thiểu
những hạn chế bất cập khi đưa vụ án ra XXLĐ, thì hệ
thống Tòa án các cấp cần có hướng dẫn thống nhất
về căn cứ, tiêu chí để lựa chọn, xác định các vụ án có
thể đưa ra XXLĐ. Cũng từ kết quả sau hơn 7 năm
triển khai thi hành Luật Phổ biến, Giáo dục pháp luật
(2012) cho thấy, hoạt động XXLĐ đã được các địa
phương quan tâm tổ chức thực hiện, được áp dụng
Trích dẫn bài báo này: Cường D V, Đồng N V. Thực tiễn xét xử lưu động tại Việt Nam: Dưới góc nhìn
xã hội học pháp luật. Sci. Tech. Dev. J. - Eco. LawManag.; 4(1):516-525.
516
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(1):516-525
phố biến và có xu hướng tăng dần về số lượng cũng
như chất lượng của phiên tòa, trong đó chủ yếu là các
vụ án hình sự. Đa phần các địa phương đều khẳng
định XXLĐ là một hình thức tuyên truyền trực quan,
sinh động và mang lại nhiều hiệu quả nhất trong việc
phổ biến giáo dục pháp luật, giáo dục ý thức tôn trọng,
tuân thủ và chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân.
THỰC TIỄN XÉT XỬ LƯUĐỘNG TẠI
VIỆT NAMDƯỚI GÓC NHÌN XÃ HỘI
HỌC PHÁP LUẬT
Xét xử lưu động - nhìn từ góc độ Pháp lý
Có thể nói, việc đưa các vụ án ra xét xử lưu động nơi
xảy ra vụ án đã phục vụ đắc lực cho công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật, nhằm nâng cao ý thức “Sống và
làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” cho cán bộ và
quần chúng nhân dân theo tinh thần thượng tôn pháp
luật. Tại mỗi phiên tòa XXLĐ, có đông đảo người
dân được nghe thông tin về các vụ án đang được xét
xử và theo dõi trực tiếp toàn bộ diễn biến của phiên
tòa. Qua việc nghe thông tin về xét xử, các văn bản
pháp luật liên quan và quyết định của Hội đồng xét
xử, thì người dân có thể tự nâng cao nhận thức của
mình về pháp luật và có những biện pháp đấu tranh
với các hành vi sai phạm trong cộng đồng. Trong quá
trình xét xử, thông qua từng vụ án cụ thể, Tòa án tạo
điều kiện thuận lợi để những người thamdự phiên tòa
cũng như nhân dân tiếp cận với chính sách pháp luật,
nhằmnâng cao trình độnhận thức về chính sách pháp
luật trong quần chúng nhân dân, để củng cố nhiềm tin
của người dân vào đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước.
Đối với những phiên tòa XXLĐ tại các địa phương,
nơi xảy ra vụ án, nơi thường trú của các bị can, bị cáo,
thường thu hút rất đông cán bộ và các tầng lớp nhân
dân đến theo dõi trực tiếp phiên tòa. Bằng thái độ và
trách nhiệm làm việc khách quan, công minh trong
quá trình xét hỏi hay trong việc đảm bảo quyền bình
đẳng của các bên trong tranh tụng, mục đích cuối
cùng của phiên tòa là tìm ra sự thật của vụ án cũng
như đảm bảo đầy đủ, đúng các nguyên tắc của quá
trình xét xử. Từ đó, làm cho người tham gia tố tụng
và đông đảo quần chúng tham dự phiên tòa có thái độ
đúng đắn với những hành vi vi phạm pháp luật, giáo
dục cho họ ý thức tuân thủ các quy định pháp luật mà
Nhà nước đã đề ra, mọi hành vi vi phạmpháp luật đều
bị xử lý theo các chương, điều luật định. Cuối cùng đi
đến phán quyết củaHội đồng xét xử đưa ra thống nhất
và ra được quyết định cho bản án đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, được người đến dự phiên tòa và
các cơ quan công luận đồng tình ủng hộ.
Giáo dục pháp luật qua hoạt động xét xử là hình
thức giáo dục đặc thù và có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng của ngành Tòa án. Để những phiên tòa XXLĐ
diễn ra thuận lợi, ngành Tòa án luôn đề ra kế hoạch
XXLĐ hàng năm, với sự phối hợp chặt chẽ của các
cấp, các ngành, các địa phương trong công tác XXLĐ
nhằm răn đe và đặc biệt để nâng cao được kiến thức
hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật cho cộng đồng.
Không thể phủ nhận khi XXLĐTòa án không chỉ thực
hiện được chức năng xét xử mà còn còn đem đến cho
người dân cơ hội để hiểu biết pháp luật, từ đó đạt được
mục đích giáo dục phòng ngừa chung. Ở mức độ nào
đó, XXLĐ còn thể hiện tính công khaiminh bạch, dân
chủ của hoạt động tư pháp trong một nhà nước văn
minh, tiến bộ.
Nguyên tắc xét xử của Tòa án nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là xét xử công khai; những người
đủ 16 tuổi trở lên được quyền tham dự, chứng kiến
hoạt động xét xử. Trong trường hợp cần thiết, để bảo
vệ bí mật nhà nước, của đương sự hoặc vì lý do thuần
phong mỹ tục thì Tòa án có thể xử kín nhưng tuyên
án phải công khai. Tại Khoản 3, Điều 103 của Hiến
pháp (2013) quy định: “Tòa án nhân dân xét xử công
khai, trong trường hợp đặc biệt cần giữ bímật nhànước,
thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa
thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính
đáng của đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử
kín”3. Bộ luật Tố tụng hình sự (2015) tại điều 25 quy
địnhTòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai:“Tòa
án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, bảo đảm
công bằng; Tòa án xét xử công khai, mọi người đều có
quyền thamdự phiên tòa, trừ trường hợp do Bộ luật này
quy định. Trường hợp đặc biệt cần giữ bímật nhà nước,
thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người dưới 18
tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng
của đương sự thì Tòa án có thể xét xử kín nhưng phải
tuyên án công khai”4,5.
Hiện nay, Tòa án vẫn tiến hành xét xử các vụ án tại 2
nơi: trụ sở Tòa án và nơi công cộng (xét xử lưu động),
nơi có vị trí đủ đáp ứng yêu cầu xét xử (ví dụ sân trại
giam) trên địa bàn theo thẩm quyền. Việc xét xử nơi
công cộng cũng là hoạt động xét xử công khai của Tòa
án được tiến hành đối với những vụ án có số đương
sự đông mà cơ sở vật chất của cơ quan Tòa án không
đáp ứng được hoặc khi cần sử dụng phiên tòa vàomục
đích giáo dục pháp luật cho cộng đồng tránh xa hành
vi phạm tội. Việc xét xử ngoài trụ sở Tòa án (xét xử
lưu động) thường được áp dụng chủ yếu đối với các vụ
án hình sự, những vụ án trọng điểm, các vụ án về các
tội xâm phạm an ninh quốc gia, kinh tế và trật tự an
toàn xã hội đã cản trở việc thực hiện chính sách của
Đảng và Nhà nước hoặc gây ảnh hưởng chính trị, có
tác động xấu trong quần chúng nhân dân và dư luận
517
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(1):516-525
xã hội, đòi hỏi phải đưa ra xét xử kịp thời, nghiêm
minh nhằm đáp ứng yêu cầu chính trị, ngăn chặn tội
phạm phát triển, góp phần giải quyết một tình trạng
tiêu cực nhất định trong xã hội6.
Nhìn từ góc độ lợi ích chung thì phiên tòa lưu động
là cơ hội để trực tiếp truyền tải các quy định của pháp
luật đến với người dân; ngoài tác dụng phổ biến giáo
dục pháp luật còn có tác dụng cảnh báo, răn đe giáo
dục chung đối với mọi người. Đặc biệt, ở những vùng
sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số khó khăn, người
dân cũng ít có điều kiện tiếp cận và tìm hiểu pháp luật.
Tuy nhiên, đối với bị cáo thì hầu như không ai mong
muốn bị đưa ra xét xử tại nơi cư trú, nơi làm việc điều
này sẽ gây bất lợi lớn cho họ sau này khi chấp hành
xong bản bán trở về tái hòa nhập xã hội. Bởi, cuộc
sống của người dân có tính cộng đồng rất cao, nhất
là ở khu vực nông thôn, những cá nhân nào bị cộng
đồng xa lánh, kỳ thị cũng chính là phải chịu một hậu
quả rất nặng nề. Việc bị cáo bị đưa đi XXLĐ, ngoài
phải chịu hình phạt theo quy định của Bộ luật hình
sự thì họ còn phải chịu một sức ép nặng nề trước bà
con họ hàng, bạn bè, người dân lối xóm và cộng đồng
khu vực sinh sống - đó là sự miệt thị, lên án, hắt hủi;
không chỉmộtmình bị cáomàngay cả chamẹ, vợ con,
anh em của bị cáo cũng sẽ bị liên lụy bởi “hình phạt
từ phía cộng đồng dân cư”.
Thông thưởng ở nước ta, việc XXLĐ thường được
thực hiện với những vụ án trọng điểm. Các vụ án
trọng điểm là các vụ án về các tội xâm phạm an ninh
quốc gia, kinh tế và trật tự an toàn xã hội đã cản trở
việc thực hiện chính sách củaĐảng vàNhà nước hoặc
gây ảnh hưởng chính trị, có tác động xấu trong quần
chúng nhân dân và dư luận xã hội, đòi hỏi phải đưa ra
xét xử kịp thời, nghiêm minh nhằm đáp ứng yêu cầu
chính trị, ngăn chặn tội phạm phát triển, góp phần
giải quyết một tình trạng tiêu cực nhất định trong xã
hội; địa điểm xét xử không có nhiều ý nghĩa để xem
xét, bởi nếumột vụ ánmà người bị buộc tội thực hiện
hành vi dã man, tàn ác, gây bức xúc, hiếu kỳ cho dư
luận thì việc Tòa án tổ chức xét xử ở đâu thì vẫn thu
hút được sự thamdự của đông đảo người dân, cơ quan
truyền thông7.
Có thể thấy, mục đích của hình phạt bao gồm hai
thuộc tính, đó là trừng trị và cải tạo, giáo dục và cảm
hóa người phạm tội; mặt khác còn giáo dục ý thức
pháp luật cho những người xung quanh giúp phòng
ngừa và giảm thiểu tội phạm mới phát sinh. Ở đây,
mức độ trừng trị được thể hiện ở loại hình phạt và
mức hình phạt được áp dụng, hai yếu tố đó luôn có
quan hệ mật thiết với nhau: trừng trị để giáo dục và
giáo dục thông qua việc trừng trị. Tuy nhiên, không
phải trong mọi trường hợp hình phạt nặng, sự lên án
gay gắt thì tác dụng cải tạo, giáo dục đạt hiệu quả cao,
mà hình phạt phải tương xứng với tính chất và mức
độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, có sự thông cảm,
tha thứ từ cộng đồngmới phát huy được tác dụng giáo
dục. Tùy thuộc vào từng giai đoạn lịch sử mà yếu tố
trừng trị hay giáo dục được coi trọng, phát huy ở mức
độ khác nhau. Trong xã hội tiến bộ ngày nay, việc
xử lý hình sự, áp dụng hình phạt chủ yếu nhằm mục
đích cải tạo, cảm hóa, giáo dục người phạm tội trở
thành người có ích cho xã hội và tạo điều kiện để họ
tái hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong bản
án, thậm chí có những trường hợp do bị cáo cải tạo
tốt thì được mãn hạn tù sớm hơn, đó là chính sách
khoan hồng mang tính nhân văn trong nền tư pháp
nước ta. Trong thực tế, việc bị cáo phạm tội xảy ra
ở một trong hai trường hợp: thứ nhất, phạm tội do
bồng bột, nóng nảy, thiếu thận trọng, thiếu hiểu biết
(là một sự lầm lỡ) thì đối với những trường hợp phạm
tội này nếu bị cáo bị đưa ra XXLĐ sẽ gây thêm mặc
cảm cho bản thân bị cáo và gia đình bị cáo, là rào cản
lớn trong việc tái hòa nhập cộng đồng sau này của bị
cáo; thứ hai, phạm tội có tính toán, có tổ chức, phạm
tội nhiều lần, có tính chuyên nghiệp, tái phạm (người
phạm tội có ý thức và bản tính coi thường pháp luật)
thì đối với những trường hợpphạm tội này việcXXLĐ
sẽ làm tăng thêm tính lì lợm, ngông cuồng, với tâm lý
không còn gì đểmất người phạm tội rất có thể sẽ càng
trở nên nguy hiểm hơn; thực tế cũng đã có không ít
trường hợp có tác động ngược, tiêu cực khi XXLĐ8.
Thực tế cho thấy, đa phần chính quyền địa phương
hiện nay khá đồng tình với việc tuyên truyền, phổ
biến và giáo dục pháp luật thông qua các phiên tòa
XXLĐ, nhất là với những tội danh xảy ra nhiều, có
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, bởi hơn
ai hết chỉ có người dân, chính quyền địa phương họ
mới thấu hiểu hết được những hậu quả họ phải hứng
chịu khi một hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng
gây ra; hơn thế XXLĐ các vụ án hình sự còn là “kênh
tuyên truyền pháp luật” để hoạt động tư pháp được
gần dân, nhằm tạo niềm tin về an ninh trật tự, đưa
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
đi sâu vào thực tiễn đời sống. Hiện nay các phương
tiện thông tin đại chúng phát triển khámạnh, nên các
phiên tòa XXLĐ cần kết hợp với các kênh thông tin
đại chúng nhằm hướng đến việc khai thác lợi thế của
các phương tiện này cho công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật, chỉ mở các phiên tòa XXLĐ đối với những
vụ án phù hợp và trường hợp thực sự thấy cần thiết để
nâng cao hiệu quả tuyên truyên, giáo dục ý thức pháp
luật. Thực tế, chương trình “Tòa tuyên án” phát sóng
trên kênh VTV3 và VTV6 là một kênh tuyên truyền
rất có tác dụng và ngànhTòa án cần có sự phối kết hợp
để XXLĐ đạt được hiệu quả ở cao hơn, gắn những
tình huống xét xử thực tế vào chương này.
518
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(1):516-525
Theo nguyên tắc, sau khi tuyên án, tuỳ từng trường
hợp cụ thể chủ toạ phiên toà hoặc thành viên trong
Hội đồng xét xử có thể giải thích cho bị cáo, những
người tham gia tố tụng rõ hơn về quyền kháng cáo,
quyền xin ân giảm án tử hình (nếu bị cáo bị áp dụng
hình phạt tử hình). Nếu bị cáo được hưởng án treo
hoặc cải tạo không giam giữ thì Toà án cũng cần giải
thích cho bị cáo biết rõ về vấn đề này, quy định trong
Bộ luật Hình sự (2015) tại khoản 4 và khoản 5 Điều
65 về án treo hoặc tại khoản 2Điều 36 về cải tại không
giam giữ... Đây cũng là việc cần làm nhất là đối với vụ
án xét xử lưu động. Việc giải thích cho bị cáo đồng
thời cũng là việc giải thích, hướng dẫn, giáo dục pháp
luật cho những người tham dự phiên toà. Trường hợp
phải bắt giam hoặc trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên
toà thì chủ toạ phiên toà phải công bố và cho thi hành
ngay các quyết định này6.
Xét xử lưu động - nhìn từ góc độ Xã hội học,
góc độ Nhân văn
Việcmởphiên tòa lưu động tạo rất nhiều áp lực cho cả
bị cáo lẫn Hội đồng xét xử, viện kiểm sát và lực lượng
công an. Đối với bị cáo, ngoài việc phải nhận bản án
tù, họ còn phải chịu bản án đến từ công luận, người
xưa từng có câu: “trăm năm bia đá cũng mòn, nghìn
năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”, người phạm tội phải
chịu sự trừng trị của pháp luật và người thân trong gia
đình họ cũng vô tình phải gánh chịu những hệ lụy tác
động nhất định.
Đối với các bị cáo khi bị đưa ra xử tại các phiên tòa
lưu động, khác hẳn với thái độ hùng hổ, côn đồ khi
gây án, tại phiên toà sơ thẩm, các bị cáo luôn cúi
đầu trước vành móng ngựa và thừa nhận hành vi của
mình là sai trái. Cách không xa vành móng ngựa,
là những người cha, người mẹ thân nhân của các bị
cáo với ánh nhìn chất chứa sự buồn rầu, đau đớn.
Còn người dân đến chứng kiến phiên toà có nhiều
ý kiến cho rằng: “ háp luật phải trừng trị nghiêm
minh những đối tượng coi thường pháp luật, coi thường
sinh mạng người khác”1.Luật pháp phải bình đẳng, xử
đúng người, đúng tội, không thể chỉ vì bị chi phối bởi
những thời điểm xảy ra vụ án hay nhu cầu giáo dục
răn đe của địa phương.
Các phiên tòa tổ chức xét xử tại trụ sở Tòa án là hình
thức truyền thống, trong khi hình thức XXLĐ lại tiến
hành ở những nơi công cộng, ở những nơi đặc thù
như: trường học haymột bãi đất trống nào đó... chính
điều này sẽ ít nhiều ảnh hưởng tới không khí tôn
nghiêm của không gian xử án, thậm chí làm giảm đi
sự nghiêm minh của pháp luật do tác động của ngoại
cảnh (thời tiết thất thường, trật tự của đámđông tham
dự phiên tòa, thành phần đối tượng tham dự phiên
tòa). Có thể liên hệ thực tiễn với phiên tòa xét xử vụ
án thảm sát ở Bình Phước (2016), xử ngay tại bãi đất
trống nhưng thời lượng phiên tòa kéo dài đến tận 20
giờ tối cùng ngày, chủ tọa khi tuyên án phải đọc bản
án dưới ánh đèn để bàn do thiếu ánh sáng, rồi phía
dưới vành móng ngựa mặt bị cáo liên tục có những
ánh đèn lóe lên do phóng viên ghi hình.
Thực tế khi XXLĐ, đôi khi Tòa án chỉ mới quan tâm
đến mục đích răn đe, cảnh báo chung mà chưa quan
tâm đến danh dự, uy tín của bị cáo và thân nhân gia
đình họ. Xét xử là hoạt động của Tòa án và việc xét xử
luôn phải tuân theo thủ tục, quy trình và nguyên tắc
theo luật định. Song, việc XXLĐ cũng đặt ra nhiều
băn khoăn, khi mà trước cộng đồng người bị buộc tội
(bị cáo) khó có thể được bảo vệ nhân phẩm, danh dự
của một con người. Ngoài ra, việc XXLĐ cũng không
công bằng đối với người bị hại, có những trường hợp
người bị hại khôngmuốn chuyện của họ hay trong gia
đình phô bày giữa đám đông, nhất là lại ở nơi cư trú
của họ.
Nhìn từ góc độ lợi ích chung, XXLĐ là biện pháp để
trực tiếp truyền tải các quy định của pháp luật hình
sự đến với nhân dân và răn đe giáo dục chung. Tuy
nhiên, có thể dễ dàng nhận thấy XXLĐ đôi khi còn
làm khuấy thêm nỗi đau, làm tăng thêm mâu thuẫn
giữa gia đình, họ hàng bị cáo và người bị hại, làmmất
niềm tin của người dân về tính tôn nghiêm của công
đường, hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật giảm
đi đáng kể. Bên cạnh đó, nếu xử tại “công đường”
Hội đồng xét xử có các điều kiện đảm bảo cho tính
uy nghiêm của người điều khiển phiên tòa, thì ngược
lại các phiên tòa XXLĐ cơ sở vật chất lại khá tạm bợ.
Khi những người tham dự phiên tòa đồng ý với quan
điểm xét hỏi của tòa thì vỗ tay, còn không thì phản
đối và la ó gây mất trật tự điều này ảnh hưởng lớn
đến sự tôn nghiêm và an ninh của phiên tòa.
Dưới góc độ xã hội học, rất cần lưu tâmđến việc thông
tin của cơ quan truyền thông về các phiên tòa XXLĐ,
tuy cùng mục đích với Tòa án trong việc đưa vụ án
ra XXLĐ, nhưng nếu không thực hiện một cách khéo
léo và có suy nghĩ, nhìn nhậnmột cách thấu đáo và kỹ
lưỡng, thì các cơ quan truyền thông sẽ phát tán thông
tin không tốt gây hoangmang, bức xúc trong dư luận,
sẽ vượt xa rất nhiều so với phạm vi địa phương xử
lưu động. Ngoài ra, khi tiến hành XXLĐ người của
cơ quan truyền thông nếu thiếu khả năng đánh giá
khách quan thì dễ dẫn đến tác hại hai chiều cho cả dư
luận và người bị buộc tội.
Xét xử lưu động - nhìn từ góc độ Nhân quyền
Trong các phiên tòa lưu động, việc đưa bị cáo ra xét
xử trước hàng trăm, hàng nghìn người dân nếu xét từ
519
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(1):516-525
khía cạnh phẩm giá con người và vấn đề nhân quyền
có thể sẽ không được đảm bảo, bởi một người chỉ bị
coi là có tội, bị mất một số quyền công dân khi có
phán quyết kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Nguyên tắc này được quy định rõ tại Bộ luật Tố tụng
hình sự (2015), tại Điều 8 quy định rõ: “Khi tiến hành
tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải
tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp
pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng,
kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu
xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết”
và cũng tại Điều 11 của Bộ luật này quy định:“Công
dân có quyền được bảo hộ về danh sự, nhân phẩm
mọi hành vi xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm đều
bị xử lý theo pháp luật”5. Như vậy, tính đến thời điểm
sau khi tuyên án sơ thẩm thì bị cáo vẫn được xem là
chưa có tội, do đó các quyền công dân của bị cáo phải
được tôn trọng và đảm bảo, trong đó có quyền được
tôn trọng về danh dự và nhân phẩm. Thực tế, khi xét
xử lưu động, đôi khi Tòa án chỉ mới quan tâm đến
mục đích răn đe, cảnh báo chung mà chưa quan tâm
đến danh dự, uy tín của bị cáo và thân nhân gia đình
họ.
Từ thực tiễn tổ chức các phiên tòaXXLĐ có thể khẳng
định, không bị cáo và thân nhân của bị cáo nào mong
muốn bị đưa ra xét xử tại nơi cư trú, nơi làm việc của
mình. Việc bị đưa đi XXLĐ, ngoài phải chịu hình phạt
theo luật định, thì họ còn phải chịu sức ép nặng nề về
mặt tinh thần trước cộng đồng, dư luận xã hội - đó
là sự miệt thị, sự lên án gay gắt và hắt hủi, chính vấn
đề này vô hình chung tạo ra rào cản lớn khiến cho
con đường hoàn lương, khả năng tái hòa nhập cộng
đồng của họ sau này trở nên khó khăn và đi vào bế
tắc. Chưa bàn đến những vụ án oan, mà chỉ trong
những vụ án xét xử đúng người đúng tội thì việc bị
cáo phạm tội cũng có thể do tâm lý và tính cách nóng
nảy, bồng bột, thiếu hiểu biết, thiếu thận trọng. Trong
trường hợp này, nếu bị đưa ra XXLĐ sẽ gây thêm sự
ác cảm từ cộng đồng và sự mặc cảm từ bản thân bị
cáo, đó là rào cản và thách thức lớn đối với bản thân
bị cáo.
Việc đưa bị cáo ra xét xử trước công chúng ởmột khía
cạnh nhất định nào đó đã vi phạm quyền con người
của bị cáo. Theo quan điểm của trung tướng TrầnVăn
Độ (nguyên phó chánh án Tòa án nhân dân tối cao,
nguyên chánh án Tòa án quân sự trung ương): “Xét
xử lưu động không những ảnh hưởng đến bị cáo mà
còn ảnh hưởng đến gia đình bị cáo, người bị hại, trong
đó có những vấn đề họ không muốn công khai rộng rãi
cho mọi người cùng biết... Những người đến dự vì tò
mò nhiều hơn là để hiểu các quy định của pháp luật
Việc xét xử lưu động sẽ tạo áp lực không đáng có cho
hội đồng xét xử” 2 . Điều đáng chú ý là, đối với bị cáo
khi bị đưa ra XXLĐ, đồng nghĩa với việc chưa được
tòa tuyên án là “có tội” thì bị cáo cùng lúc phải chịu
tới 2 bản án, một bản án trừng phạt theo pháp luật và
một bản án chính là áp lực, tai tiếng từ dư luận xã hội
mà bị cáo và thân nhân gia đình phải hứng chịu, đây
là một hệ lụy nặng nề, ở một khía cạnh nào đó có thể
xem là thiếu công bằng pháp luật.
Hiện nayThông tư liên tịch số 01/2011 của Viện kiểm
sát nhândân tối cao, Tòa ánnhândân tối cao, BộCông
an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao độngThương binh và Xã hội
hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự đối với người tham gia tố tụng là người
chưa thành niên, quy định: “Tòa án có thể quyết định
xét xử kín vụ án do người chưa thành niên phạm tội
gây ra để tạo thuận lợi cho quá trình tái hòa nhập cộng
đồng của họ. Không XXLĐ vụ án do người chưa thành
niên gây ra, trừ trường hợp cần giáo dục, tuyên truyền
pháp luật và phòng ngừa tội phạm” 9 . Vì vậy, hiện
nay nhiều trường hợp Tòa án lấy lý do cần giáo dục,
tuyên truyền pháp luật và phòng ngừa tội phạm ở địa
phương để đưa người chưa thànhniên raXXLĐ. Điều
này dễ gây tác dụng ngược, khiến cho trẻ có tâm lý tiêu
cực, mặc cảm, tự ti, mất phương hướng, rơi vào bế tắc,
mất niềm tin vào sự khoan hồng, nhân đạo của Nhà
nước; thậm chí khiến trẻ trở nên liều lĩnh hơn, khó
cảm hóa và khó giáo dục hơn.
Từ những nội dung mới quy định trong một số văn
bản pháp luật hiện hành (Luật Trẻ em năm 2016, Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015), cùng với sự ra đời
của Tòa Gia đình và người chưa thành niên, thì việc
thay thế quy định trongThông tư liên tịch số 01/2011
như đã nêu trên theo hướng “Không XXLĐ vụ án có
bị cáo là người dưới 18 tuổi”, là việc làm cần thiết và
phù hợp với tình hình thực tiễn.
Hiến pháp (2013) ghi nhận mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật, Bộ luật Tố tụng hình sự (2015) cũng
ghi nhận quyền bình đẳng của mọi công dân trước
pháp luật, việc tôn trọng danh dự, nhân phẩm của con
người được ưu tiên hàng đầu, dù đang là người bị buộc
tội. Mục đích của hình phạt bao gồm cả trừng trị, răn
đe và cả cải tạo giáo dục, cảmhóa người phạm tội giúp
họ trở thành người có ích cho xã hội 10. Tuy nhiên,
việc đưa các vụ án ra xử lưu động sẽ khiến cho việc tái
hòa nhập cộng đồng của người từng lầm lỡ gặp nhiều
khó khăn, trở ngại bởi sự kỳ thị của cộng đồng xã hội.
NHỮNGHẠN CHẾ BẤT CẬP NẢY
SINH TỪ VIỆC XÉT XỬ LƯUĐỘNGỞ
VIỆT NAMDƯỚI GÓC NHÌN XÃ HỘI
HỌC PHÁP LUẬT
520
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(1):516-525
Hạnchếbất cậpdo chưacó tiêu chí cụ thể cho
một phiên tòa lưu động
Hiện nay việc đưa một vụ án ra XXLĐ do chính Tòa
án xét xử vụ án đó quyết định, chứ chưa có văn bản
pháp luật nào quy định cụ thể về tiêu chí để đưa vụ án
ra XXLĐ.
Theo báo cáo của Tòa án nhân dân Tối cao về công
tác xét xử của Tòa án năm 2018, trung bình hàng năm
các Tòa án địa phương đã tổ chức khoảng trên 9.000
phiên tòa XXLĐ. Tuy nhiên, Tòa án ởmỗi địa phương
lại tự đưa ra chỉ tiêu cho hoạt động XXLĐ khác nhau
và thường dựa trên các tiêu chí chung chung như: vụ
án hình sự liên quan đến an ninh trật tự, an toàn xã
hội mà gây bức xúc, phẫn nộ trong dư luận hoặc xâm
phạm kinh tế và trật tự an toàn xã hội đã cản trở việc
thực hiện chính sách củaĐảng vàNhà nước, hoặc gây
ảnh hưởng chính trị mà dư luận xã hội đòi hỏi phải
đưa ra xét xử kịp thời, nghiêm minh nhằm đáp ứng
yêu cầu chính trị, ngăn chặn tội phạm phát triển, góp
phần giải quyết tình trạng tiêu cực nhất định trong xã
hội11.
Ngoài ra, khi xác định các vụ án đưa ra XXLĐ còn căn
cứ vào nhiệm vụ chính trị chung của cả nước, của địa
phương; căn cứ vào khả năng thực tế trong việc giải
quyết các vụ án hình sự của ba ngành công an - viện
kiểm sát - Tòa án. Tuy nhiên, do chưa có quy định
cụ thể về tiêu chí đưa vụ án ra XXLĐ nên các phiên
tòa lưu động đã nhanh chóng bộc lộ một số hạn chế
như: đôi khi Tòa án chỉ mới quan tâm đến việc răn
đe, giáo dục pháp luật chung mà chưa quan tâm đến
danh dự, nhân phẩm, uy tín của bị cáo và thân nhân
gia đình họ, chưa quan tâm đến việc giáo dục họ sống
tốt hơn sau khi chấp hành hình phạt trở lại với cộng
đồng, việc tổ chức phiên tòa XXLĐ thường tốn kém
về kinh phí của Nhà nước, bản án được ban hành bởi
những phiên tòa lưu động thể hiện sự nghiêm minh
hơn; cũng cómột số trường hợp phía Tòa án chọn lựa
những án hình sự có tình tiết đơn giản, bị cáo thành
khẩn khai báo, ít đương sự triệu tập tham gia phiên
toà để đưa ra XXLĐ.
Hiện nay, chỉ tiêu của ngành Tòa án bắt buộc hàng
năm tỷ lệ phần trăm vụ án phải đưa ra xử lưu động11,
điều này dẫn tới sự chủ quan, mục đích giáo dục tuyên
truyền có thể đi ngược lại tác dụng, làmnảy sinh thêm
những bất cập như:
Một số bất cập trong thủ tục tố tụng: Trong một số
phiên tòa XXLĐ ý kiến của luật sư bào chữa thường
hay bị bác bỏ. Bên cạnh đó, có những phiên tòa vắng
nhân chứng hoặc những người liên quan... nhưng tòa
vẫn xử, vì phiên tòa đã được chuẩn bị và tổ chức theo
kế hoạch đề ra, điều này ảnh hưởng khá lớn tới quyền
và lợi ích hợp pháp cho bị cáo và những người liên
quan khác.
Tốn kém chi phí: Khi xét xử lưu động phải điều động
rất nhiều lực lượng an ninh, bảo vệ, âm thanh, ánh
sáng để đảm bảo cho công tác xét xử diễn ra thuận
lợi.
Địa điểmdiễn ra phiên tòa chưa thật sự phù hợp: Nhiều
địa điểm xét xử lưu động tạm bợ không đảm bảo tính
nghiêm minh , cụ thể như phiên tòa ở Bình Phước
(2016) vừa qua là một minh chứng sống động nhất
cho vấn đề này.
Vụ án đưa ra xét xử lưu động không có tính thời sự:
Nhiều vụ án đưa raXXLĐngười dân không quan tâm,
như một số tội: trộm cắp, đánh bạc... Trong khi vấn
đề tham nhũng là một vấn đề nóng được dư luận rất
quan tâm và bức xúc, nhưng lâu nay vẫn chưa hề thấy
vụ án thamnhũngnàođược đưa raXXLĐ, điều này đã
tạo nên một sự phân biệt, sự nghi ngờ của người dân
về tính hợp lý của những phiên tòa lưu động được lựa
chọn và tổ chức.
Đối tượng đưa ra xử lưu động chưa hợp lý: Nhiều
trường hợp người chưa thành niên vẫn bị đưa ra xử
lưu động, tại Khoản 3 Điều 16 Thông tư liên tịch
01/2011 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án
nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao
động,Thương binh vàXã hội quy định: “đối với những
tội xâm phạm tình dục bị hại là trẻ em cần thiết phải
xử kín để đảm bảo danh dự nhân phẩm người bị hại”9.
Như vậy, từ thực tiễn về các phiên tòa XXLĐ được
phân tích trên có thể thấy, hiện nay các phiên tòa
XXLĐ ở Việt Nam còn chưa có một bộ tiêu chí cụ
thể để định hướng và tổ chức, dẫn tới nhiều hạn chế
bất cập, thậm chí làm phát sinh những tác động tiêu
cực sau khi xét xử. Công tác cải cách tư pháp ở nước
ta cũng cần hướng tới việc bổ sung các quy định về tổ
chức phiên tòa XXLĐ.
Hạn chếbất cập từ công tác tổ chứcphiên tòa
lưu động
Trên thực tế cho thấy, không ít phiên tòa XXLĐ do
chuẩn bị không tốt nên mục đích tuyên truyền pháp
luật, giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung không đạt
được. Thậm chí, điều này còn gây ảnh hưởng không
tốt đến ý thức pháp luật của nhân dân tại nơi xét xử.
Có phiên tòa, những người tham dự gây mất trật tự,
làm mất đi tính uy nghiêm của việc nhân danh Nhà
nước để xét xử. Trong chừng mực nào đấy, XXLĐ là
định kiến, suy đoán có tội, mâu thuẫn với Hiến pháp
và Bộ luật tố tụng hình sự.
Hạn chế rõ nét nhất từ thực tiễn công tác tổ chức
phiên tòa XXLĐ vụ án Nguyễn Hải Dương và đồng
phạm về tội giết 6 người và cướp tài sản ở Bình Phước
năm20168, ước tính có đến 4.000 người dân thamdự.
Cơ quan chức năng đã phải điều động hơn 300 cán bộ
521
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(1):516-525
chiến sĩ gồm nhiều lực lượng như: cảnh sát cơ động,
cảnh sát giao thông để bảo vệ và giữ gìn trật tự cho
phiên tòa, ngay trước đó vài ngày diễn ra phiên tòa thì
cơ quan chức năng đã phải huy động hàng chục lượt
người tổ chức khảo sát, dọn dẹp và che rạp ở khu đất
trống; lực lượng an ninh cũng đã tổ chức rà bom,mìn;
lên phương án bảo vệ phiên tòa. Ngay từ sáng sớm
ngày diễn ra phiên tòa XXLĐ, lực lượng chức năng
đã phải liên tục phát đi những cảnh báo để người dân
đề phòng móc túi, mất cắp tài sản do có nhiều kẻ xấu
lợi dụng đám đông để thực hiện hành vi. Khi các bị
cáo được dẫn đến, người dân bức xúc chửi mắng gây
huyên náo, mất trật tự. Phiên tòa diễn ra trong thời
tiết nắng gay gắt và cát bụi mùmịt, kéo dài đến tận 20
giờ tối cùng ngày, không gian phiên tòa lúc này đã tối
om, do không có đèn chiếu sáng nên người dân đứng
trong bóng tối nghe tòa tuyên án.
Hạn chế bất cập về không gian, thời gian khi
tổ chức phiên tòa lưu động
Về không gian, việc tổ chức xét xử giữa trời nắng
chang chang, giữa bãi đất trống, bụi bặm thì tính uy
nghiêm phiên tòa không cao, gây ra tâm lý ảnh hưởng
đến nhân dân, bị can; trẻ em dưới 16 tuổi không được
vào nhưng phiên tòa lưu động trẻ em lại vào rất đông
do không gian rộng khó quản lý, kiểm soát.
Việc tổ chức các phiên tòa lưu động rất vất vả và tốn
kém, nhất là ở những địa phương còn khó khăn về
giao thông đi lại, ví dụ như ở tỉnh Hòa Bình, tòa cấp
huyện không có ô tô nên các phiên tòa lưu động phải
thuê xe máy chở vành móng ngựa, rồi lại thuê xe đưa
Hội đồng xét xử lên các xã, thậm chí có nơi chỉ còn
cách đi bộ cả chục cây số vào để tổ chức phiên tòa
lưu động. Ngoài ra, ở một số địa phương do hạn chế
về thông tin liên lạc, nên người dân không nắm được
thông tin về phiên tòa sắp diễn ra.
Xét xử lưu động được thực hiện ngoài trời, không phải
tại không gian phòng xử án chuyên nghiệp vì vậy điều
kiện về thời tiết có tác động khá lớn tới phiên tòa,
có những phiên tòa được tổ chức dưới thời tiết nắng
nóng, đông người tham gia, không gian xét xử trở nên
ngột ngạt; có những phiên tòa lại kéo dài tới khi trời
tối khiến cho quang cảnh của phiên tòa không còn giữ
được không khí tôn nghiêm, ổn định từ đầu tới cuối.
Hạnchếbất cậpvềkếtquảxét xử trongphiên
tòa lưu động
Mặt trái của hình thức XXLĐ đó là chưa thật sự thực
hiện được nguyên tắc xét xử công bằng, vì thế nhiều
bị cáo có tâm lý tại sao người này được xét xử trong
phòng nhưng họ lại bị đưa ra xét xử bên ngoài địa
phương nơi họ sinh sống, khu vực có số lượng lớn
người tham gia, lại có cả người quen của họ và của gia
đình họ2.
Ở một khía cạnh khác, việc XXLĐ không công bằng
cả đối với bị cáo cũng như thân nhân của họ, điều này
cũng lý giải tại sao một số vụ án khi đưa ra XXLĐ ở
một số địa phương thời gian vừa qua, người thân của
các bị cáo không đến tham dự phiên tòa.
Bên cạnh đó, các phiên tòa XXLĐ sẽ gây khó khăn
trong việc xét hỏi, ảnh hưởng rất lớn tới kết quả phiên
tòa bởi áp lực số đông có thể tác động đến quá trình
luận tội.
Hạn chế bất cập trong nhận thức, nhìn nhận
của người dân về phiên tòa lưu động
Hoạt động XXLĐ trong thời gian qua cũng đã bộc
lộ nhiều tiêu cực, trong đó không loại trừ “tác dụng
ngược” như: phương thức thủ đoạn phạm tội trong
vụ án được các đối tượng khác “học tập” hay vụ án
có nhiều yếu tố bạo lực, rùng rợn, liên quan đến giết
người, xâmhại tình dục sẽ là không phù hợp với đối
tượng người theo dõi phiên tòa XXLĐ là trẻ em. Việc
xét xử tất nhiên là phải mô tả lại các hành vi phạm
tội, mô tả càng cụ thể càng tốt, thậm chí có thể phải
“dựng” lại hiện trường, đây là điều cực kỳ nguy hiểm
bởi việc phản ánh quá chi tiết các tình tiết về tội ác thì
sẽ gây nên những tâm lý khác nhau. Có thể là sự căm
giận đối với tội ác nhưng cũng có thể nó sẽ là “bài học
thực tế”, nhất là lớp trẻ sẽ “bắt chước” và “nhân bản”
hành vi đó. Trong khi theo quy định của luật pháp,
trẻ em dưới 16 tuổi không được vào phòng xử án, trừ
trường hợp được triệu tập. Nhưng thực tế cho thấy,
tại những phiên tòa XXLĐ, số lượng trẻ em dưới 16
tuổi không ít.
Theo quy định pháp luật hiện hành thì việc xét xử tội
phạm hình sự là công khai, đồng nghĩa với việc xử
ngay tại trụ sở Tòa án hay địa điểm lưu động thì vẫn
bảo đảm tính công khai. Vì xử công khai nên mọi
công dân đều có quyền tham dự, chứng kiến toàn bộ
quá trình xét xử; song cách tiếp nhận, cách hiểu và
nhìn nhận vấn đề của mỗi tầng lớp nhân dân là khác
nhau, nhiều người vẫn chưa hiểu hết được quy định
và nguyên tắc khi tham gia một phiên tòa. Chính vì
vậy, việc nói tự do, la hét, thể hiện thái độmột cách thô
lỗ đối với bị cáo và gia đình bị cáo của một bộ phận
người dân khi tham gia phiên tòa XXLĐ là hoàn toàn
không phù hợp.
Một bất cập hạn chế nữa trong nhận thức của người
dân địa phương, khi tổ chức phiên tòa lưu động cần
lưu ý đến đó là, không phải địa phương nào trình độ
dân trí và hiểu biết của người dân cũng cao, mà có
những vùng trình độ dân trí thấp nên khi tham gia
các phiên tòa XXLĐ hầu như người dân thể hiện ngay
522
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(1):516-525
ra bên ngoài những thái độ, cảm xúc, hành vi đối với
những gì vừa quan sát được, còn giá trị ẩn chứa về giáo
dục pháp luật đối với họ vẫn không được thẩm thấu
và lắng đọng trong nhận thức, tư tưởng của họ. Để
khắc phục hạn chế này cần kết hợp nhịp nhàng biện
pháp tuyên truyền thông qua các kênh truyền thông
phù hợp cùng với hoạt động XXLĐ nhằm tác động
sâu vào nhận thức, tư tưởng của người dân.
KIẾN NGHỊ VỀMẶT CHÍNH SÁCH VÀ
HÀNHĐỘNG, ĐỐI VỚI VIỆC TỔ
CHỨC CÁC PHIÊN TÒA XÉT XỬ LƯU
ĐỘNG TẠI VIỆT NAM
Từ thực tiễn công tác xét xử nói chung và hoạt động
xét xử từ các phiên tòa lưu động tại Việt Nam, cùng
với những kết quả tích cực đạt được và những hạn chế
bất cập còn gặp phải khi tổ chức các phiên tòa XXLĐ,
tác giả đề xuất một số vấn đề cần chú trọng thực hiện
như:
Thứ nhất, cần sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống
các văn bản pháp luật trong lĩnh vực xét xử nói chung
và trong XXLĐ các vụ án nói riêng.
Thứ hai, cần có quy định cụ thể về phương thức và
quy trình tổ chức phiên tòa XXLĐ, như:
- Chỉ xét xử lưu động với vụ án hình sự mà nhận thức
pháp luật của cộng đồng và nhận thức pháp luật của bị
cáo, người bị hại trong vụ án còn hạn chế, với mục đích
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
- Chỉ XXLĐ với vụ án hình sự mà loại tội đó có xu
hướng phổ biến, gia tăng do thiếu hiểu biết pháp luật
của người dân.
- Không XXLĐ vụ án hình sự với những địa phương
còn mang nặng những thành kiến, định kiến về người
phạm tội để đảm bảo quyền lợi của bị cáo khi tái hòa
nhập cộng đồng.
- Phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng
hình sự khi tổ chức các phiên tòa XXLĐ, trong đó có
các nguyên tắc công bằng, bình đẳng, nguyên tắc suy
đoán vô tội.
- Phải đảm bảo tiết kiệm nhưng vẫn thể hiện sự uy
nghiêm cho cơ quan tiến hành tố tụng, sự nghiêmminh
và tinh thần thượng tôn pháp luật trong phiên tòa
XXLĐ.
Thứ ba, để bảo đảm công bằng, hiệu quả thì những
thẩm phán, hội thẩm nhân dân và kiểm sát viên được
lựa chọn tham gia phiên tòa XXLĐ phải là người hội
đủ phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm chuyênmôn; có
bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng, có sự phối hợp chặt
chẽ với nhau cũng như phối hợp tốt với chính quyền
địa phương nơi tổ chức phiên tòa XXLĐ để công tác
xét xử diễn ra công bằng, đúng pháp luật. Đồng thời,
tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ luật sư tham gia
trực tiếp vào tiến trình tố tụng.
Thứ tư, về khâu tổ chức cần lựa chọn, cân nhắc kỹ
lưỡng từng vụ án, nhằm lựa chọn các vụ án phù hợp
với bối cảnh địa phương, mục đích hướng tới, chứ
không phải bất cứ vụ án nào cũng có thể lựa chọn để
đưa ra XXLĐ.
Thứ năm, nếu duy trì phiên tòa XXLĐ thì phải đảm
bảo và thực hiện chặt chẽ các nguyên tắc, thủ tục tố
tụng, nhằm tôn trọng quyền con người, quyền công
dân, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự.
Thứ sáu, để xác định nên hay không nên tổ chức các
phiên tòa lưu động thì cần có các nghiên cứu, đánh
giá từ thực tiễn, lấy ý kiến về hiệu quả của phiên tòa
XXLĐ từ cán bộ và đông đảo người dân địa phương
nhằm xây dựng một định hướng phù hợp cho công
tác XXLĐ. Trên cơ sở đánh giá mặt được, chưa được
của các phiên tòa lưu động để quyết định có nên tăng
cường hay giảm bớt XXLĐ hay không.
Thứ bảy, cần trao đổi và tiếp thu những kinh nghiệm
của các nước phát triển về hoạt động xét xử công khai,
nhằm xây dựng hệ thống xét xử phù hợp với điều kiện
trong nước, hội nhập với khu vực và thế giới.
KẾT LUẬN VÀ SUY NGẪMDƯỚI GÓC
NHÌN XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT
Từ thực tiễn khách quan cho thấy không chỉ riêngViệt
Nam, mà hệ thống xét xử của nhiều nước trên thế giới
cũng không tránh khỏi những hạn chế bất cập khi tổ
chức các phiên tòa nói chung và các phiên tòa XXLĐ
nói riêng, hầu nhưmỗi hình thức xét xử đều có những
hạn chế bất cập nhất định, chỉ là mức độ hạn chế bất
cập đó nhiều hay ít mà thôi.
Hiện tại Việt Nam đang đẩy mạnh thực hiện cải cách
tư pháp, công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục
pháp luật nhằm tăng cường hiểu biết pháp luật cho
người dân được xác định là một việc làm cần thiết.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai các phiên tòa
XXLĐ xuất hiện những luồng ý kiến trái chiều của dư
luận xã hội nghi ngờ về tính hiệu quả và tính nhân văn
của hình thức xét xử này chưa cao, các quan điểm này
cho rằng cần hạn chế và thậm chí là tiến tới bỏ hẳn các
phiên tòa XXLĐ. Song, theo quan điểm riêng của tác
giả thì XXLĐ xét về mục đích, bản chất và hàm ý khi
tổ chức phiên tòa này không hề xấu hay tệ như mọi
người vẫn nghĩ; theo tác giả cần tiếp tục duy trì hình
thức này, song cần phải có sự điều chỉnh về mọi mặt,
nhằm khắc phục các hạn chế bất cập trong thực tiễn
triển khai.
Chúng ta hãy khách quan nhìn vào những kết quả
mà công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đã đạt
523
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(1):516-525
được từ việc giáo dục trực quan (xét xử lưu động) này,
những gìmắt thấy tai nghe theo tôi là những thứ khiến
con người ta dễ hiểu, dễ thẩm thấu, nhận thức và rút
kinh nghiệm nhanh nhất. Theo đánh giá của riêng
tác giả, hiện tại các phiên tòa XXLĐmà chúng ta đang
thực hiện chỉ cómột phầnhoặcmộtmặt nào đó chúng
ta thực hiện chưa tốt, nguyên nhân của vấn đề này là
do chúng ta chưa xây dựng được một bộ tiêu chí rõ
ràng cụ thể cho hình thức xét xử này, chỉ khi có được
bộ tiêu chí cụ thể cho phiên tòa XXLĐ thì nó sẽ định
hướng cho hệ giá trị và vấn đề cốt lõi hướng tới của
phiên tòa. Nhưng ngược lại, nếu chúng ta không tổ
chức nỗi một phiên tòa lưu động theo tinh thần dân
chủ, tiến bộ cùng với sự công tâm, liêm chính, có trách
nhiệm của những người làm công tác xét xử và bảo vệ
pháp luật (thẩm phán, hội thẩm, kiểm sát viên), thì
hệ lụy xấu từ XXLĐ sẽ nảy sinh và tác động ngược trở
lại lên toàn hệ thống xét xử chứ không riêng gì bị cáo
phải hứng chịu.
DANHMỤC TỪ VIẾT TẮT
XXLĐ: Xét xử lưu động
LĐ-TB&XH: Lao động - Thương binh và Xã hội
XUNGĐỘT LỢI ÍCH
Nhóm tác giả xin cam đoan rằng không có bất kì xung
đột lợi ích nào trong công bố bài báo.
ĐÓNGGÓP CỦA CÁC TÁC GIẢ
Bài viết này duy nhất do hai tác giả viết, trong đó tác
giả Đặng Văn Cường đóng góp phần thực tiễn, tác giả
Nguyễn Văn Đồng đóng góp phần lý luận.
TÀI LIỆU THAMKHẢO
1. Quốc hội. Luật phổ biến, Giáo dục pháp luật. Hà Nội. NXB
Chính trị Quốc gia. 2012;.
2. ĐồngNV, KhuyênHT. Những yếu tố tác động tới phiên tòa xét
xử lưu động. Tạp chí Pháp luật và Phát triển. 2017;(5-6):48–55.
3. Quốc hội. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam. Hà Nội. NXB Tư Pháp. 2013;.
4. Quốc hội. Bộ luật Hình sự. Hà Nội. NXB Chính trị Quốc gia.
2015;.
5. Quốc hội. Bộ luật tố tụng Hình sự. Hà Nội. NXB Chính trị Quốc
gia. 2015;.
6. N.Q. Lộc. Một số vấn đề cần chú ý khi tổ chức xét xử lưu động
vụ án hình sự sơ thẩm. Tạp chí Tòa án Nhân dân. 2015;(8):33.
7. Đ H Giang. Xét xử lưu động hay show diễn công lý. Tạp chí
Luật khoa . 2016;(9):11–19.
8. Đ V Cường. Tác động của xét xử lưu động vụ án hình sự đối
với bị cáo và cộng đồng xã hội. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.
2017;299:50–55.
9. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ
Công an, Bộ Tư pháp, Bộ LĐ-TB&XH. Thông tư liên tịch Hướng
dẫn thi hành một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự đối
với người tham gia tố tụng là người chưa thành niên. Hà Nội.
NXB Tư pháp. 2011;.
10. Đồng NV, Khuyên HT. Hoạt động tranh tụng trong tố tụng
hình sự ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí Khoa học Xã hội Việt
Nam . 2017;(115):62–70.
11. Tòa án nhân dân Tối cao. Báo cáo về công tác xét xử của Tòa
án. Báo cáo công tác trước Quốc hội ngày 23/11/2018; Hà Nội.
2018;.
524
Science & Technology Development Journal – Economics - Law andManagement, 4(1):516-525
Open Access Full Text Article Review
Legal Lawyer Office, Hanoi
Correspondence
Nguyen Van Dong, Legal Lawyer Office,
Hanoi
Email: nguyendong.sw@gmail.com
History
Received: 27/08/2019
Accepted: 12/11/2019
Published: 30/3/2020
DOI : 10.32508/stdjelm.v4i1.599
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Public trials in Viet Nam: perspective in the sociology of law
Dang Van Cuong, Nguyen Van Dong*
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
ABSTRACT
The increase, decrease, or even suspension of public trials is a controversial issue and has captured
special attention from lawmakers and social activists. This is also an issue that needs addressing in
the process of judicial reform in Vietnam. Although public trails are considered as an effective tool
for educating and disseminating legal knowledge to the public, they havemany shortcomings and
disadvantages that need to be remedied. It can be understood that public trial or open trial is a
trial open to the public at a location out of a court, from the perspective of crime prevention for
a long time, we consider this as a measure to contribute to limit the causes of the crime through
influencing thewill of objectives, first of all, the prosecuted. This paper focuses on reviewing and an-
alyzing the practice of public trails in Vietnam and their impact on the family of the prosecuted and
the society, and this paper is mainly analyzed in the perspective of law sociology, as well, thereby
proposing some solutions for the policies and conduct of public trials in Vietnam.
Key words: Judicial reform, public trails, open trials, sociology of law
Cite this article : Van Cuong D, Van Dong N. Public trials in Viet Nam: perspective in the sociology of
law. Sci. Tech. Dev. J. - Eco. LawManag.; 4(1):516-525.
525
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_tien_xet_xu_luu_dong_tai_viet_nam_duoi_goc_nhin_xa_hoi.pdf