Thực trạng áp dụng chính sách tiền tệ phi truyền thống ở Việt Nam

Thứ hai, cần nâng cao vai trò của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của thị trường vốn, có chức năng huy động những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ, lẻ trong xã hội tập trung thành nguồn vốn lớn tài trợ cho DN, các tổ chức kinh tế hoặc Chính phủ để phát triển sản xuất và thực hiện các dự án đầu tư. Đây là kênh huy động nguồn vốn dài hạn cho các DN trong nền kinh tế. Kể từ khi ra đời (năm 2000), thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chưa trở thành kênh huy động vốn dài hạn hiệu quả cho các DN. Các nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán vẫn còn thiếu chuyên nghiệp, chủ yếu mua bán theo tâm lý đám đông, những tin đồn trên thị trường thay vì dựa trên cơ sở phân tích năng lực tài chính và năng lực kinh doanh của các công ty có cổ phiếu được niêm yết. Do vậy, hệ thống các NHTM vẫn là kênh cung cấp vốn chính (cả nguồn vốn ngắn hạn và dài hạn) cho nền kinh tế. Việc mở rộng thị trường chứng khoán giúp NHNN có thêm công cụ và kênh truyền dẫn để điều hành CSTT, giảm bớt sự phụ thuộc vào các cơ quan khác. Bài học kinh nghiệm rút ra từ việc áp dụng CSTT phi truyền thống tại các quốc gia phát triển cho thấy, thị trường chứng khoán phát triển sẽ làm tăng tính khả thi của các biện pháp phi truyền thống. Chính vì vậy, muốn CSTT phi truyền thống phát huy hiệu quả, cần phải nâng cao vai trò của thị trường chứng khoán. Thứ ba, tăng cường thu hút nguồn vốn từ bên ngoài như đầu tư trực tiếp (FDI), vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Hiện nay, nguồn vốn cần cho nhu cầu phát triển các lĩnh vực ưu tiên ở Việt Nam là rất lớn, trong khi nguồn lực trong nước có hạn, vì vậy thu hút nguồn vốn thêm từ bên ngoài là giải pháp tối ưu. Xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế đã giúp đẩy nhanh dòng lưu chuyển vốn trên thế giới, đặc biệt là dòng vốn FDI. Với lợi thế về nguồn vốn, về khoa học và công nghệ cũng như kinh nghiệm và trình độ quản lý, dòng vốn FDI được kỳ vọng giúp các nền kinh tế phát triển hơn, đặc biệt là đối với các nước đang và kém phát triển. Ở nước ta, dòng vốn FDI đã tạo được những chuyển biến mạnh mẽ trong nền kinh tế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, dòng vốn FDI vào lĩnh vực ưu tiên còn rất hạn chế. Theo Tổng cục Thống kê, lũy kế đến tháng 8 năm 2018, lượng vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp mới chỉ chiếm khoảng hơn 1%. Bên cạnh vốn FDI là vốn ODA, trong 20 năm (1996-2015) tổng lượng vốn ODA huy động trong ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn chỉ vào khoảng hơn 6 tỷ USD, chiếm 7-8% tổng ODA cả nước (trong đó, nông nghiệp: 21%; phát triển nông thôn: 15% và ít nhất là thủy sản chỉ với 4%). Mặc dù vậy, vốn ODA cũng đã góp phần đáng kể thúc đẩy và thay đổi bộ mặt lĩnh vực NN & NT. Để tăng tỷ trọng vồn FDI và ODA vào các lĩnh vực ưu tiên, cần nâng cao tính minh bạch của hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào các vùng khó khăn, kém hấp dẫn. Bên cạnh đó, cần có các biện pháp sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA để tạo tiền đề thu hút FDI, bởi vì, các dự án ODA sẽ giải quyết các khó khăn về cơ sở hạ tầng và những khó khăn sơ cấp nảy sinh trong quá trình sản xuất, qua đó giúp nhà đầu tư FDI hạn chế được các chi phí giao dịch và tập trung nguồn vốn cho đầu tư kinh doanh.

pdf29 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 392 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng áp dụng chính sách tiền tệ phi truyền thống ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i của biến đổi khí hậu,) nhưng các cơ chế xử lý, phòng ngừa rủi ro như bảo hiểm trong nông nghiệp chưa được triển khai mạnh mẽ (một phần là do chính các tổ chức bảo hiểm không muốn bảo hiểm cho lĩnh vực nông nghiệp vì rủi ro cao) khiến cho hiệu quả đầu tư tín dụng đối với lĩnh vực này còn hạn chế, dẫn đến các TCTD còn quan ngại khi cho vay lĩnh vực NN & NT. Thứ ba, sản xuất nông nghiệp còn manh mún, nhỏ lẻ; sản xuất theo chuỗi giá trị chưa được tổ chức và phát triển hợp lý; trình độ chế biến sâu còn hạn chế nên giá trị gia tăng thấp. Các mô hình liên kết số lượng còn ít, chưa hiệu quả do hợp đồng liên kết thiếu chặt chẽ, hiện tượng vi phạm hợp đồng liên kết của người dân, DN đầu mối còn phổ biến do ý thức chưa cao và chế tài chưa nghiêm, tạo tâm lý e ngại cho các TCTD khi cấp vốn tín dụng và gây khó khăn cho họ 26 Số 126 (2/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế trong việc kiểm soát dòng tiền khi cho vay để thực hiện sản xuất theo chuỗi giá trị. Mặt khác, các món vay cho lĩnh vực NN & NT thường là nhỏ lẻ, chi phí hoạt động tín dụng của TCTD sẽ cao. Do vậy, các TCTD thường không “mặn mà” cấp tín dụng ngay từ giai đoạn đầu, mà chủ yếu chỉ tập trung cho vay vào giai đoạn giữa và cuối của chu kỳ sản xuất kinh doanh (khâu thu mua, chế biến và tiêu thụ sản phẩm). Thứ tư, thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp thiếu ổn định, tình trạng mất cân đối cung cầu trong sản xuất và tiêu dùng, xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp thường xuyên diễn ra, trong khi công tác phân tích, dự báo thị trường cũng như quy hoạch còn bất cập; cùng với đó là các sản phẩm nông sản xuất khẩu phải đối mặt với rào cản thương mại ngày càng phức tạp, khắt khe. Điều đó đã và đang là những khó khăn và tiềm ẩn rủi ro cho việc đầu tư tín dụng vào lĩnh vực NN & NT. 2.2 Chính sách nới lỏng tín dụng hỗ trợ thị trường BĐS 2.2.1 Bối cảnh thực hiện Thị trường BĐS là một trong những thị trường quan trọng của nền kinh tế, tỷ trọng BĐS trong tổng của cải xã hội ở các nước tuy mức độ có khác nhau nhưng thường chiếm trên dưới 40% lượng của cải vật chất của mỗi nước (Nguyễn & Nguyễn, 2012). Sự phát triển của thị trường BĐS có tác động lan tỏa trên nhiều phương diện đối với hoạt động của một quốc gia, vì vậy nhiều nước trên thế giới coi lĩnh vực BĐS là một trong những “đầu kéo” của nền kinh tế. Ở Việt Nam, thị trường BĐS ra đời gắn liền với công cuộc đổi mới mà Đảng và Nhà nước tiến hành từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986. Sau hơn 30 năm hình thành và phát triển, thị trường BĐS đã có nhiều đóng góp quan trọng như: đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu nhà ở của người dân, tạo lập hệ thống các khu công nghiệp, khu chế xuất, các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị, văn phòng, trung tâm thương mại, khách sạn, nhà hàng,một cách quy mô, đồng bộ, hiện đại. Từ đó góp phần quan trọng tạo lập cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ phát triển nền kinh tế, thu hút đầu tư, tạo nhiều việc làm, thu nhập cho người dân, góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương và cả nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy vậy, sự phát triển của thị trường BĐS của Việt Nam thiếu ổn định. Từ khi hình thành cho đến nay, thị trường BĐS đã trải qua ba lần sốt giá và ngay sau đó là các chu kỳ đóng băng. Nếu như hai cơn sốt giá nhà đất vào năm 1993 - 1994 và năm 2001 - 2002 liên quan đến tăng trưởng kinh tế và các kỳ vọng về chính sách mở cửa của Chính phủ, thì cơn sốt giá lần thứ ba vào năm 2007 - 2008 lại có nguyên nhân trực tiếp từ sự bùng phát của dòng tiền. Cùng với gia nhập WTO là mức tăng đột biến dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh mẽ trong năm 2007 - 2008, đồng thời tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ ở các NHTM. Tuy vậy, đến năm 2008 và giai đoạn 2011 - 2012, với những nỗ lực của Chính phủ cũng như NHNN nhằm kiềm chế lạm phát đã khiến thị trường BĐS đóng băng do tín dụng bị siết quá mức khi NHNN thực hiện CSTT thắt chặt (tăng trưởng tín dụng năm 2008, 2011 và 2012 lần lượt chỉ còn là 25,43%, 14,4% và 8,9%). 27Số 126 (2/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế Khi thị trường BĐS đóng băng, tồn kho BĐS tăng cao, các DN kinh doanh BĐS hiện rơi vào tình trạng mất thanh khoản nghiêm trọng, những khoản cho vay kinh doanh BĐS nay trở thành những khoản nợ khó đòi, kéo theo nợ xấu làm ảnh hưởng đến khả năng hoạt động của cả hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, sự đóng băng của thị trường BĐS cũng kéo theo sự suy giảm của ngành sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng cũng như các ngành sản xuất khác. Điều này tác động tiêu cực đến nền kinh tế vĩ mô và làm giảm thu ngân sách nghiêm trọng. Để tháo gỡ khó khăn, Chính phủ đã có chỉ thị yêu cầu NHNN đưa ra các biện pháp nới lỏng tín dụng để hỗ trợ thị trường BĐS. Hình 3. Các thời kỳ biến động của thị trường BĐS Việt Nam Nguồn: FPT Securities (2015) 2.2.2 Các chính sách hỗ trợ Nhận thức được sự khó khăn của thị trường BĐS, ngày 06/12/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 2196/CT-TTg yêu cầu NHNN chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng và các địa phương rà soát, tiếp tục cho vay đối với các dự án BĐS sẽ hoàn thành và có khả năng bán thu hồi vốn trong năm 2012. Theo đó, ngày 10/04/2012, NHNN ra công văn số 2056/NHNN-CSTT nhằm nới lỏng tín dụng BĐS, đưa một số nhóm tín dụng BĐS ra khỏi nhóm tín dụng không khuyến khích như: xây dựng, sửa chữa, mua nhà để bán, cho thuê, xây dựng các công trình dự án phát triển trong các khu đô thị, Kết quả là dư nợ BĐS đã tăng trở lại từ mức 204 nghìn tỷ đồng năm 2011 lên 229 nghìn tỷ đồng năm 2012 (FPT Securities, 2015). Tuy vậy, thị trường BĐS vẫn chưa có nhiều dấu hiệu tích cực, nên ngày 07/01/2013 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 02/NQ-CP chỉ đạo các NHTM nhà nước dành một lượng vốn hợp lý (tối thiểu khoảng 3% tổng dư nợ) để cho các đối tượng thu nhập thấp, cán bộ công chức, viên chức, lực lượng vũ trang vay để thuê, mua nhà ở xã hội và thuê, mua nhà ở thương mại 28 Số 126 (2/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế có diện tích nhỏ hơn 70 m2, giá bán dưới 15 triệu đồng/m2 với lãi suất thấp, kỳ hạn trả nợ phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng và cho vay đối với các DN xây dựng nhà ở xã hội, DN chuyển đổi công năng của dự án đầu tư sang dự án nhà ở xã hội với lãi suất hợp lý và kỳ hạn trả nợ phù hợp với kỳ hạn của nguồn vốn và khả năng trả nợ của khách hàng. Trên cơ sở Nghị quyết số 02/NQ-CP, ngày 15/05/2013, NHNN đã ban hành Thông tư số 11/2013/TT-NHNN, quy định về cho vay hỗ trợ nhà ở từ nguồn tái cấp vốn của NHNN. Theo đó, 5 NHTM Nhà nước và NHTM cổ phần do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ sẽ tiến hành cho vay theo quy định. Mức lãi suất cho vay hỗ trợ nhà ở của ngân hàng đối với khách hàng được NHNN công bố hàng năm và áp dụng cho các khoản vay có dư nợ trong năm. Định kì vào tháng 12 hàng năm, NHNN xác định và công bố mức lãi suất áp dụng cho năm tiếp theo, bằng khoảng 50% lãi suất cho vay bình quân của các ngân hàng trên thị trường nhưng không vượt quá 6%/năm. Thời gian tối đa áp dụng mức lãi suất cho vay được quy định là 10 năm với khách hàng thuê, mua nhà ở xã hội và thuê, mua nhà ở thương mại và 5 năm đối với khách hàng là DN. Bên cạnh đó, NHNN thực hiện giải ngân khoản cho vay tái cấp vốn khoảng 30.000 tỷ đồng đối với ngân hàng trên cơ sở dư nợ cho vay của ngân hàng đối với khách hàng, nhưng tối đa là 36 tháng kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành. Lãi suất tái cấp vốn của NHNN thấp hơn lãi suất cho vay của ngân hàng đối với khách hàng là 1,5%/năm tại cùng thời điểm. Lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất tái cấp vốn trong hạn. Tổng mức cho vay của các ngân hàng đối với DN chiếm tối đa 30% nguồn tái cấp vốn hỗ trợ nhà ở. Bước sang năm 2014, để tạo điều kiện thuận lợi về xét duyệt cho vay và mức lãi suất vay với người thu nhập thấp đang có nhu cầu mua nhà trong gói hỗ trợ 30.000 tỷ đồng, NHNN đã ban hành Thông tư số 32/2014/TT-NHNN ngày 18/11/2014 và Quyết định số 2788/QĐ- NHNN ngày 29/12/2014 về các điều kiện xét duyệt và mức lãi suất áp dụng với việc cho vay mua nhà trong gói hỗ trợ nhà ở của Chính phủ. Theo đó, đối tượng dân cư có thể tiếp cận các món vay có trị giá thấp hơn 1,05 tỷ VNĐ trong gói hỗ trợ 30.000 tỷ VNĐ, ở mức lãi suất hàng năm là 5% khi mua nhà và khi sửa chữa nhà cho mục đích định cư hay cho thuê. Các khoản thanh toán sẽ được thực hiện trong vòng từ 10 tới 15 năm. Bên cạnh đó, nhằm góp phần tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy thị trường BĐS, ngày 20/11/2014, NHNN đã ban hành Thông tư số 36/2014/TT-NHNN điều chỉnh hệ số rủi ro đối với các khoản phải đòi cho vay kinh doanh BĐS từ 250% xuống còn 150% (là mức thấp nhất theo thông lệ). Năm 2016, sau khi gói hỗ trợ 30.000 tỷ VNĐ kết thúc, Chính phủ đã quyết định đóng lại gói tín dụng này và chuyển sang thực hiện hỗ trợ phát triển phân khúc nhà ở xã hội và nhà ở thương mại giá rẻ thông qua NHCSXH. Cụ thể, ngày 06/06/2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1013/QĐ-TTg về lãi suất cho vay ưu đãi nhà ở xã hội tại NHCSXH theo quy định tại Nghị định số 100/2015/NĐ-CP của Chính phủ. Theo đó, mức lãi suất cho vay ưu đãi tại NHCSXH đối với các đối tượng mua, thuê mua nhà ở xã hội; xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà để ở theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ về phát triển và quản lý nhà ở xã hội trong năm 2016 là 4,8%/năm (0,4%/tháng). Đối với lãi suất nợ quá hạn được tính bằng 130% lãi suất khi cho vay. 29Số 126 (2/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế Ngày 03/04/2018, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 370/QĐ-TTg sửa đổi Quyết định số 1013/QĐ-TTg ngày 06/06/2016 với điều kiện các đối tượng được vay tối thiểu là 15 năm và tối đa khoảng 25 năm kể từ ngày giải ngân khoản vay đầu tiên. Có thể thấy chương trình cho vay nhà ở xã hội theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP không phải là một gói tín dụng mà là một chương trình dài, nguồn vốn không hạn định. Điều này thể hiện quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước nhằm thực hiện các tiêu chí về nhà ở trong công tác bảo đảm an sinh xã hội. 2.2.3 Kết quả Nhờ các giải pháp hỗ trợ thị trường BĐS được triển khai từ năm 2011, thị trường BĐS nói chung và thị trường nhà ở nói riêng đã có những chuyển biến tích cực, cụ thể: Thứ nhất, dư nợ tín dụng BĐS tăng đều qua các năm. Sau khi dư nợ tín dụng BĐS sụt giảm vào năm 2011 (còn 204 nghìn tỷ đồng từ mức 235 nghìn tỷ đồng của năm 2010) thì từ năm 2012 dư nợ tín dụng BĐS đã tăng trở lại với tốc độ tăng trưởng năm 2012 là 14%, năm 2013 là 14,7%, năm 2014 đạt 15,2%, năm 2015 tăng gần 20%, năm 2016 là 18%, năm 2017 là 12% và 2018 là 5%. Hình 4. Dư nợ và tốc độ tăng trưởng tín dụng BĐS giai đoạn 2010 - 2018 Nguồn: Các tác giả tổng hợp Đặc biệt, kể từ năm 2012, tốc độ tăng trưởng tín dụng BĐS còn cao hơn cả tốc độ tăng tín dụng của toàn nền kinh tế. Thậm chí tính đến tháng 8/2019 tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản tăng tới 14,58% so với cuối năm 2018, cao hơn 1,5 lần tốc độ tăng trưởng tín dụng chung (9,4%). Có thể nói, BĐS vẫn là kênh hấp dẫn nguồn vốn đầu tư của nền kinh tế. 30 Số 126 (2/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế Đơn vị: % Hình 5. Tốc độ tăng trưởng tín dụng nền kinh tế và BĐS Nguồn: Nguyễn (2017) Thứ hai, lượng giao dịch BĐS tăng, lượng tồn kho giảm, cơ cấu hàng hóa BĐS chuyển dịch theo hướng hợp lý (nhiều dự án đăng ký chuyển đổi từ nhà ở thương mại sang nhà ở xã hội và điều chỉnh cơ cấu căn hộ (giảm diện tích) cho phù hợp hơn với nhu cầu của thị trường). Thị trường BĐS đã hướng tới người mua, cung cấp các hàng hóa phù hợp với nhu cầu thực và khả năng thanh toán của thị trường, hạn chế các sản phẩm BĐS đầu cơ. Điều này một mặt giúp tháo gỡ khó khăn và giảm nợ xấu cho các DN, đặc biệt là các DN xây dựng, sản xuất và kinh doanh vật liệu xây dựng. Mặt khác, nó còn giúp người dân đô thị có thu nhập trung bình và thu nhập thấp có nhà ở. Đơn vị: tỷ đồng Hình 6. Lượng tồn kho BĐS giai đoạn 2015 - 2017 Nguồn: Các tác giả tổng hợp 31Số 126 (2/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế Bên cạnh những kết quả tích cực, việc xem xét, cấp tín dụng đối với lĩnh vực BĐS cũng gặp một số khó khăn, vướng mắc sau: Nguồn vốn cho thị trường BĐS còn hạn chế, bởi vì, nguồn từ NSNN còn phải tập trung vào các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trọng yếu khác. Cụ thể như việc thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị định số 100/2015/NĐ-CP về quản lý và phát triển nhà ở xã hội, mặc dù NHNN đã kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn về cho vay, quyết định về lãi suất cho vay, chỉ định 4 NHTM tham gia, chỉ đạo NHCSXH hỗ trợ cho vay nhà ở xã hội, tích cực phối hợp với các bộ, ngành liên quan trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn về cấp bù chênh lệch lãi suất, tuy nhiên, thực tiễn triển khai bị vướng do các NHTM được chỉ định chưa được bố trí nguồn vốn từ NSNN (giai đoạn 2016 - 2020) để cấp bù chênh lệch lãi suất, còn nguồn vốn bố trí cho NHCSXH lại rất thấp. Trong khi đó, nguồn vốn tín dụng của các NHTM bị hạn chế do cho vay lĩnh vực BĐS chủ yếu là vay trung, dài hạn, song nguồn vốn huy động của các ngân hàng phần lớn là ngắn hạn với mức lãi suất thay đổi theo thị trường. Nguồn vốn tín dụng cho lĩnh vực BĐS gặp nhiều rủi ro vì thị trường BĐS ở Việt Nam còn thiếu sự minh bạch, tình trạng giao dịch ngầm, giao dịch ảo chưa được khắc phục triệt để. Hệ thống thông tin, dự báo về thị trường BĐS không thống nhất, độ tin cậy thấp, chưa bảo đảm tính công khai, minh bạch, trong nhiều trường hợp gây bất lợi cho người mua, làm phát sinh tranh chấp, khiếu kiện. Bên cạnh đó, năng lực chuyên môn cũng như năng lực tài chính của nhiều DN tham gia thị trường BĐS còn nhiều hạn chế, vốn chủ sở hữu thấp, hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Tình trạng các DN đầu tư các dự án kinh doanh BĐS ngoài ngành, nghề kinh doanh chủ yếu và không phù hợp với năng lực kinh doanh BĐS còn khá phổ biến, trong đó có không ít DN kinh doanh theo kiểu chộp giật, thậm chí là lừa đảo, làm mất lòng tin của xã hội với thị trường, đồng thời làm gia tăng nợ xấu cho các ngân hàng. Trong khi đó, các quy định và chế tài của hệ thống pháp luật hiện hành còn nhiều bất cập, điển hình như Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh BĐS chưa có điều khoản chế tài xử lý vi phạm, quy định của Luật Kinh doanh BĐS về điều kiện chuyển nhượng dự án BĐS chưa phù hợp với việc xử lý tài sản bảo đảm là dự án BĐS. 2.3 Chính sách nới lỏng tín dụng hỗ trợ ngư dân 2.3.1 Bối cảnh thực hiện Việt Nam là một quốc gia biển lớn trong vùng biển Đông, được đánh giá là một trong 10 trung tâm đa dạng sinh học biển và là một trong 20 vùng biển có nguồn lợi thủy sản giàu nhất toàn cầu. Với bờ biển dài hơn 3.260 km, Việt Nam nằm trong số 10 quốc gia có chỉ số biển cao nhất, khoảng 0,01 (tức là cứ 100km2 diện tích biển tương ứng 1km2 đất liền), cao gấp 6 lần chỉ số trung bình của thế giới. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi và tiềm năng nguồn lợi thủy sản đa dạng, phong phú sẽ là cơ sở cho phát triển các lĩnh vực thủy sản. Thủy sản được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn trong sự nghiệp phát triển của đất nước cũng như góp phần quan trọng vào việc giữ gìn an ninh trật tự và chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thời kỳ 1985 - 2008, ngành thủy sản tăng trưởng liên tục với tốc độ trung bình từ 6 - 10%/năm. Tốc độ tăng trưởng bình 32 Số 126 (2/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế quân của sản lượng thủy sản đạt 6,17%/năm (Báo Nhân dân điện tử, 2019). Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế toàn cầu, ngành thủy sản vẫn giữ được mức tăng đều hằng năm, điều này được minh chứng qua kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng từ 4,25 tỷ USD năm 2009 lên 5,02 tỷ USD năm 2010, tiếp đến 6,11 tỷ USD năm 2011 và 6,09 tỷ USD năm 2012. Thủy sản đã khẳng định thương hiệu của mình trên thị trường quốc tế, sản phẩm thủy sản việt Nam đã có mặt trên 160 nước và vùng lãnh thổ. Tuy vậy, ngành khai thác thủy sản của Việt Nam những năm qua cũng tồn tại một số vấn đề. Nguồn hải sản gần bờ ngư dân đã khai thác gần như cạn kiệt nên phải chuyển hướng sang khai thác xa bờ. Song hoạt động khai thác xa bờ lại gặp nhiều khó khăn do đội tàu khai thác có công suất nhỏ, trình độ sản xuất thấp, lạc hậu. Theo Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam, năm 2012 số lượng tàu thuyền cả nước là 123.125 chiếc, trong đó đến 99% tàu cá đóng từ vật liệu gỗ, 85-90% tàu cá sử dụng động cơ từ các thiết bị cũ hoặc thiết bị giao thông đường bộ, số tàu công suất lớn (trên 90 mã lực - CV) khai thác xa bờ còn ít. Bên cạnh đó, hoạt động khai thác, thu mua, chế biến và tiêu thụ sản phẩm còn phát triển tự phát, chưa được kiểm soát, thiếu bền vững. Năng suất, hiệu quả sản xuất, chất lượng sản phẩm, tổn thất sau thu hoạch và thất thoát về giá trị và nguồn lợi còn cao do trang thiết bị bảo quản thô sơ (dưới 10% tàu có thiết bị bảo quản bằng hộp xốp thổi) nên chủ yếu là bảo quản theo kiểu thủ công (ướp đá xay, với thời gian bảo quản được khoảng 7 ngày và không đảm bảo đủ độ lạnh). Bảng 3. Cơ cấu tàu khai thác thủy sản theo công suất Đơn vị: % Công suất 2001 2010 2011 2012 2013 < 20 CV 39,70 50,40 49,10 49,00 60,17 20 CV - 90 CV 52,20 35,5 31,20 30,30 15,86 > 90 CV 8,10 14,10 19,70 20,70 23,97 Nguồn: Đỗ & cộng sự (2015) Để đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh (đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển, ngăn chặn tình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng,) cần nhanh chóng đưa ngành khai thác hải sản xa bờ từ một ngành còn mang nặng tính chất thủ công, lạc hậu trở thành một ngành khai thác công nghiệp, có trình độ chuyên môn hóa, hợp tác hóa, liên hợp hóa ở trình độ cao. Công nghiệp khai thác gắn với công nghiệp bảo quản, chế biến các sản phẩm khai thác ngay trên tàu nhằm bảo đảm các sản phẩm hải sản khai thác được có tính cạnh tranh cao, có chất lượng và được thị trường chấp nhận. Muốn vậy cần phải đóng mới, nâng cấp và hiện đại hóa đội tàu khai thác hải sản. Đội tàu đóng mới phải đáp ứng các yêu cầu về hầm bảo quản, trang thiết bị trên tàu, trong đó tập trung thay đổi công nghệ khai thác, công nghệ dự báo. Bên cạnh đó, cần đào tạo nguồn nhân lực và phát triển cơ sở dịch vụ nghề cá, phát triển hoạt động khai thác theo hình thức tổ đội, tàu dịch vụ, chợ, sàn đấu giá hải sản. Để thực hiện được nhiệm vụ trên cần có sự định hướng và hỗ trợ nguồn vốn rất lớn từ phía Nhà nước. Nhận thức được điều đó, trong 33Số 126 (2/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế những năm qua, Nhà nước đã có nhiều chính sách khuyến khích phát triển khai thác hải sản xa bờ. 2.3.2 Các chính sách hỗ trợ Kể từ sau khủng hoảng 2008, Nhà nước đã có nhiều giải pháp tài chính hỗ trợ hộ ngư dân phát triển hoạt động khai thác thủy sản như: Quyết định số 289/2008/QĐ-TTg ngày 18/03/2008 về chính sách hỗ trợ dầu, hỗ trợ đóng mới thay máy tàu cá, hỗ trợ bảo hiểm thân tàu và bảo hiểm thuyền viên. Quyết định 459/2008/QĐ-TTg ngày 28/04/2008 về thí điểm trang bị máy thu trực canh cho ngư dân, tạo thuận lợi cho ngư dân nắm bắt ngư trường, dự báo thời tiết nhằm chủ động phòng chống tránh bão lũ, đảm bảo an toàn cho người và tàu thuyền. Quyết định số 48/2010/QĐ-TTg ngày 13/07/2010 (sau đó là Quyết định số 39/2011/ QĐ-TTg ngày 11/7/2011 và Quyết định 38/2013/QĐ-TTg ngày 26/06/2013 sửa đổi Quyết định số 48/2010/QĐ-TTg) về một số chính sách khuyến khích, hỗ trợ khai thác, nuôi trồng hải sản và dịch vụ khai thác hải sản trên các vùng biển xa. Quyết định 63/2010/QĐ-TTg ngày 15/10/2010 (sau đó là Quyết định 65/2011/QĐ-TTg ngày 02/12/2011 và Quyết định 68/2013/ QĐ-TTg ngày 14/11/2013 sửa đổi bổ sung Quyết định 63/2010/QĐ-TTg) về hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch với mục tiêu là giảm từ 25% xuống 15% năm 2015 và 10% năm 2020 trong hoạt động khai thác thủy sản thông qua việc Nhà nước hỗ trợ vay vốn qua hệ thống NH NN & PTNN để mua máy móc, thiết bị sản xuất trong nước. Quyết định 1787/2012/QĐ-TTg ngày 29/11/2012 về việc ban hành chính sách thí điểm hỗ trợ ngư dân đóng tàu vỏ thép khai thác thủy sản xa bờ tại tỉnh Quảng Ngãi (Hồ, 2018). Tuy vậy, các chính sách trên khi thực hiện còn mang tính dàn trải và chưa tạo ra bước phát triển đột phá trong ngành khai thác thủy sản. Với sự vào cuộc quyết liệt của các Bộ, ngành, địa phương, ngày 07/07/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 67/2014/NĐ-CP về một số chính sách phát triển thủy sản. Nghị định này ra đời với điểm mới và quan trọng là quy định đầy đủ, có hệ thống, đồng bộ các chính sách cơ bản nhất nhằm khuyến khích ngư dân đóng tàu công suất lớn, vỏ thép/vỏ vật liệu mới để chuyển dần từ khai thác gần bờ sang khai thác xa bờ có giá trị kinh tế cao hơn, đồng thời góp phần bảo vệ vùng biển của Tổ quốc. Các chính sách đó là chi NSNN cho cơ sở hạ tầng (cảng cá, bến cá), chính sách tín dụng, chính sách cho vay vốn lưu động và chính sách bảo hiểm. Trong đó, chính sách nổi bật nhất là chính sách tín dụng hỗ trợ đóng tàu. Chính sách này hướng tới đối tượng là các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực thủy sản, có nhu cầu đóng mới, nâng cấp tàu. Cụ thể, chính sách tín dụng hỗ trợ đóng tàu được xây dựng trên quan hệ thương mại, không sử dụng tiền từ NSNN cho ngư dân đóng tàu, nhà nước chỉ hỗ trợ mặt lãi suất, ưu đãi hạn mức và thời hạn vay đối với ngư dân vay vốn đóng tàu, nhất là tàu vỏ bọc thép. Nghị định quy định mức lãi suất hết sức ưu đãi từ 1 - 3%/năm, Nhà nước cấp bù từ 4 - 6%/năm cho ngân hàng cho vay vốn, với thời gian cho vay là 11 năm, trong đó có một năm ân hạn (năm đầu tiên chủ tàu được miễn lãi và chưa phải trả nợ gốc, NSNN cấp bù số lãi vay của chủ tàu được miễn năm đầu), hạn mức cho vay từ 70 - 95% giá trị đóng mới, nâng cấp tàu. Các mức hỗ trợ được quy định trong Nghị định số 67/2014/NĐ-CP như sau: 34 Số 126 (2/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế Bảng 4. Tổng hợp mức cho vay và lãi suất cho vay theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP TT Mục đích vay vốn Mức cho vay tối đa (%) Lãi suất cho vay (%/năm) Lãi suất chủ tàu phải trả (%/năm) 2013 (%/năm) 1 Đóng mới tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ: - Vỏ thép 95 7 1 6 - Vỏ gỗ 70 7 3 4 2 Đóng mới tàu khai thác hải sản xa bờ: - Vỏ thép, vỏ vật liệu mới có tổng công suất máy chính từ 400CV - 800CV 90 7 2 5 - Vỏ thép, vỏ vật liệu mới có tổng công suất máy chính từ > 800CV 95 7 1 6 - Vỏ gỗ 70 7 3 4 3 Nâng cấp tàu khai thác hải sản xa bờ: - Nâng cấp tàu vỏ gỗ có tổng công suất máy chính dưới 400CV thành tàu có tổng công suất máy chính từ 400CV trở lên - Nâng cấp công suất máy đối với tàu có tổng công suất máy chính từ 400CV trở lên - Gia cố bọc vỏ thép, bọc vỏ vật liệu mới; mua ngư lưới cụ, trang thiết bị hàng hải, trang thiết bị khai thác, máy móc trang thiết bị bảo quản sản phẩm, trang thiết bị bốc xếp hàng hóa 70 7 3 4 Nguồn: Các tác giả tổng hợp - Đối với đóng mới tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ vỏ thép, chủ tàu được vay vốn NHTM tối đa 95% tổng giá trị đầu tư đóng mới với lãi suất 7%/năm (chủ tàu trả 1%/năm, NSNN cấp bù 6%/năm). Trong trường hợp đóng mới tàu vỏ gỗ, chủ tàu được vay vốn NHTM tối đa 70% tổng giá trị đầu tư đóng mới, với lãi suất 7%/năm (chủ tàu trả 3%/năm, NSNN cấp bù 4%/năm). - Đối với đóng mới tàu khai thác hải sản xa bờ (gồm cả máy móc, trang thiết bị hàng hải; thiết bị phục vụ khai thác; ngư lưới cụ; trang thiết bị bảo quản hải sản), trường hợp đóng mới tàu vỏ thép, vỏ vật liệu mới có tổng công suất máy chính từ 400CV đến dưới 800CV, chủ tàu được vay vốn ngân hàng tối đa 90% tổng giá trị đầu tư đóng mới tàu với lãi suất 7%/năm (chủ tàu trả 2%/năm, NSNN cấp bù 5%/năm). Trường hợp đóng mới tàu vỏ thép, vỏ vật liệu mới có tổng công suất máy chính từ 800CV trở lên, chủ tàu được vay vốn NHTM tối đa 95% tổng 35Số 126 (2/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế giá trị đầu tư đóng mới tàu với lãi suất 7%/năm (chủ tàu trả 1%/năm, NSNN cấp bù 6%). Đối với đóng mới tàu vỏ gỗ, chủ tàu được vay vốn NHTM tối đa 70% tổng giá trị đầu tư đóng mới với lãi suất 7%/năm (chủ tàu trả 3%/năm, NSNN cấp bù 4%/năm). - Đối với việc nâng cấp tàu vỏ gỗ có tổng công suất máy chính dưới 400CV thành tàu có tổng công suất máy chính từ 400CV trở lên và nâng cấp công suất máy đối với tàu có tổng công suất máy chính từ 400CV trở lên (phần máy bổ sung hoặc thay thế phải là máy mới 100%) thì chủ tàu được vay vốn NHTM tối đa 70% tổng giá trị nâng cấp tàu bao gồm cả chi phí gia cố vỏ tàu, chi phí mua trang thiết bị và ngư lưới cụ mới phục vụ cho khai thác hải sản (nếu có) với lãi suất 7%/năm (chủ tàu trả 3%/năm, NSNN cấp bù 4%/năm). - Đối với trường hợp gia cố bọc vỏ thép, bọc vỏ vật liệu mới; mua ngư lưới cụ, trang thiết bị hàng hải, trang thiết bị khai thác, máy móc trang thiết bị bảo quản sản phẩm, trang thiết bị bốc xếp hàng hóa, được vay vốn NHTM tối đa 70% tổng giá trị nâng cấp với lãi suất 7%/năm, trong đó chủ tàu trả 3%/năm, NSNN cấp bù 4%/năm. Ngay sau khi Nghị định 67/2014/NĐ-CP có hiệu lực, NHNN đã chỉ định 5 NHTM nhà nước trích 14.000 tỷ đồng để cho ngư dân vay bao gồm: Agribank 5.000 tỷ đồng, BIDV 3.000 tỷ đồng, Vietinbank 3.000 tỷ đồng, MHB 2.000 tỷ đồng và Vietcombank 1.000 tỷ đồng để cho ngư dân vay đóng mới, nâng cấp tàu. Tuy nhiên, sau một thời gian ra khơi, bám biển, nhiều chủ tàu đã gặp không ít khó khăn khách quan khiến việc thực hiện trả nợ theo hợp đồng tín dụng đã ký kết với NHTM không đúng thời hạn. Đứng trước thực trạng trên, ngày 02/02/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 17/2018/ NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2014/NĐ-CP, trong đó, bổ sung các nguyên nhân khách quan, bất khả kháng phát sinh từ thực tế được hưởng cơ chế xử lý rủi ro theo quy định tại Nghị định số 67/2014/NĐ-CP. Triển khai Nghị định số 17/2018/NĐ-CP, ngày 17/12/2018 Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 123/2018/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định. Theo đó: - Các khoản cho vay trong hạn bị rủi ro do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng được ngân hàng cơ cấu lại thời hạn trả nợ và chủ tàu được tiếp tục hưởng hỗ trợ lãi suất trong thời gian khắc phục hậu quả. Trong đó, nguyên nhân khách quan, bất khả kháng bao gồm: Tàu bị thiên tai làm hư hỏng phải sửa chữa; tàu bị nước ngoài bắt, giam giữ; tàu bị tàu khác đâm, va làm hư hỏng phải sửa chữa (không do lỗi của chủ tàu); tàu đóng mới kém chất lượng, bị hư hỏng phải sửa chữa tàu dẫn đến không thể hoạt động khai thác thủy sản do lỗi của bên đóng tàu; chủ tàu bị bệnh tật, bị tai nạn không có khả năng đi biển (trong trường hợp chủ tàu trực tiếp đi biển); chủ tàu chết, mất tích, - Các khoản cho vay bị quá hạn một phần dư nợ gốc thì khách hàng không được cấp bù lãi suất đối với phần dư nợ gốc bị quá hạn kể từ thời điểm phát sinh. - Đối với trường hợp chuyển đổi chủ tàu theo quy định tại Nghị định số 17/2018/NĐ-CP, trong thời gian làm thủ tục chuyển đổi chủ tàu, trường hợp chủ tàu không trả nợ đúng hạn và được cơ cấu lại thời hạn trả nợ thì dư nợ gốc được cơ cấu lại sẽ được hỗ trợ lãi suất nhưng tối 36 Số 126 (2/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế đa không quá 6 tháng. Sau khi thực hiện chuyển đổi tàu, chủ tàu mới tiếp tục được hưởng hỗ trợ lãi suất khi nhận bàn giao lại tàu và khoản nợ vay từ chủ tàu cũ nếu khoản vay đáp ứng được điều kiện quy định. Sự ra đời của Nghị định số 17/2018/NĐ-CP và Thông tư số 123/2018/TT-BTC đã giải quyết được những khó khăn tồn tại gặp phải trong thời gian qua, tạo điều kiện cho chủ tàu được hưởng cấp bù lãi suất. Các chính sách hỗ trợ đã khuyến khích ngư dân yên tâm bám biển, góp phần phát triển thủy sản, phát triển kinh tế địa phương. 2.3.3 Kết quả Nghị định 67/2014/NĐ-CP (sau đó là Nghị định 17/2018/NĐ-CP) về một số chính sách phát triển thủy sản được đánh giá là hệ thống các chính sách đồng bộ, toàn diện nhất từ trước đến nay để hỗ trợ ngư dân đóng mới, nâng cấp tàu phục vụ khai thác hải sản xa bờ có giá trị kinh tế cao, được kỳ vọng là cú huých đối với ngành thủy sản nước ta trong quá trình “vươn ra biển lớn”. Nhận thức được tầm quan trọng của nghị định, các NHTM đã tham gia tích cực, có trách nhiệm trong việc triển khai chính sách tín dụng theo Nghị định. Kết quả là sau hơn 3 năm triển khai (tính từ tháng 7/2014 đến 31/12/2017 - thời điểm dừng ký kết hợp đồng tín dụng đóng mới, nâng cấp tàu theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP), Nghị định đã được những kết quả bước đầu đáng khích lệ. Các NHTM đã ký hợp đồng tín dụng để đóng mới, nâng cấp 1.177 tàu (1.031 tàu đóng mới và 146 tàu nâng cấp), chiếm 45,2% tổng số tàu cần đóng mới mà Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phân bổ cho các địa phương giai đoạn 2014 - 2020 với tổng số tiền cam kết cho vay đạt trên 11.700 tỷ đồng. Tính đến ngày 30/09/2019 dư nợ cho vay theo Nghị định đạt gần 10.500 tỷ đồng. Việc thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đã nâng cao năng lực khai thác hải sản, giúp nâng cao hiệu quả hoạt động khai thác, góp phần làm tăng thu nhập cho ngư dân. Bình quân một tàu vỏ thép đóng mới 400CV thu lãi trung bình 150 - 250 triệu đồng/tháng, gấp rưỡi so với tàu thuyền công suất nhỏ trước đây (Hồ, 2018). Các con tàu với trang thiết bị mới, hiện đại buộc phải tham gia vào tổ, đội đoàn kết trên biển nên cho phép ngư dân bám biển dài ngày hơn và yên tâm trong mọi tình huống vì họ có thể hỗ trợ được lẫn nhau trên biển. Bên cạnh đó, sự hiện diện liên tục của các con tàu lớn tại các ngư trường như Hoàng Sa, Trường Sa không chỉ giúp ngư dân cùng nhau bảo vệ ngư trường mà còn là cách để ngư dân khẳng định chủ quyền biển đảo, thực hiện sứ mệnh trở thành cột mốc di động trên biển, khẳng định chủ quyền vùng biển của Việt Nam. Với kết quả nêu trên, có thể khẳng định hiệu quả từ Nghị định 67/2014/NĐ-CP là rất lớn. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai nghị định đã xảy ra một số bất cập: Thứ nhất, quá trình xét duyệt hồ sơ vay vốn phức tạp và chậm chạp còn hoạt động cho vay thì đối mặt với rủi ro cao. Lượng vốn cho vay để đóng mới và nâng cấp tàu rất lớn trong khi tín dụng đóng tàu vẫn là lĩnh vực khá mới mẻ với các ngân hàng. Theo quy định, khi thẩm định hồ sơ xin vay thì ngân hàng phải cần thông tin như: định mức vật liệu đóng tàu, định mức ngư lưới cụ cần trang bị tương ứng với công suất loại hình đánh bắt, thời gian hoạt động 37Số 126 (2/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế bình quân, Song, các nguồn thông tin chủ yếu là từ các công ty thẩm định và chính người đi vay, chưa có nguồn tài liệu chính thức do các cơ quan chức năng cung cấp. Điều này gây khó khăn cho ngân hàng trong việc xác định tính hiệu quả của phương án cho vay. Bên cạnh đó, phần lớn ngư dân trình độ hạn chế, không lập được phương án sản xuất kinh doanh nên phải thuê ngoài, song khi ngân hàng thẩm định thì ngư dân không giải thích được, dẫn đến quá trình thẩm định, ký hợp đồng triển khai chậm. Tiếp đến là giá trị hợp đồng đóng tàu do ngư dân và công ty đóng tàu thỏa thuận, nên khi thẩm định giá trị con tàu cũng như giám sát quá trình thực hiện tiềm ẩn nhiều vấn đề về chủ tàu và đơn vị đóng tàu có thể lợi dụng để nâng cao giá trị con tàu nhằm vay vốn, nhận hỗ trợ nhiều hơn. Ngoài ra, khả năng thu hồi vốn cho vay của các ngân hàng khó kiểm soát do nguồn thu từ hải sản phụ thuộc nhiều vào yếu tố khách quan. Mặt khác, do đánh bắt ở ngư trường xa, ngư dân phải neo đậu ngoài khơi trong khoảng thời gian dài, đồng thời, hoạt động mua bán thủy sản hầu hết được thanh toán bằng tiền mặt khiến cho ngân hàng gặp khó khăn trong việc kiểm tra, giám sát nguồn thu để trả nợ của họ. Thứ hai, công tác giám sát đóng tàu và đăng kiểm còn sai sót, sự giám sát của các bên liên quan thiếu sâu sát vì thế chất lượng tàu đóng kém (vỏ thép bị rỉ sét nặng, máy tàu thường xuyên hư hỏng,...) gây thiệt hại cho ngư dân và ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vốn vay của ngư dân cũng như hiệu quả chính sách của Nhà nước. Thứ ba, do nhận thức sai trong việc vay vốn và ý thức trả nợ của ngư dân chưa cao nên dư nợ cho vay chuyển sang nợ xấu ngày càng tăng. Báo cáo của NHNN cho thấy nợ xấu bắt đầu phát sinh từ năm 2017 tại 11 tỉnh, thành phố với tỷ lệ 3%, sau tăng lên 17% vào cuối năm 2018 và tính đến 30/09/2019 đã lên tới 33%. Bên cạnh một số nguyên nhân khách quan, bất khả kháng dẫn đến việc ngư dân không trả được nợ vay thì còn do một số ngư dân có tư tưởng cho rằng đây là chính sách hỗ trợ bằng nguồn vốn của Nhà nước mà chưa hiểu là nguồn vốn ngư dân vay của NHTM và phải chịu trách nhiệm về khoản vay này, nên phát sinh hiện tượng một số ngư dân viện nhiều lý do trả nợ ngân hàng không đúng hạn. 3. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng CSTT phi truyền thống của Việt Nam 3.1 Triển khai kịp thời và đồng bộ các chủ trương, chính sách đã được ban hành Các chính sách nới lỏng tín dụng Nhà nước thực hiện thời gian qua hầu hết đều tập trung vào các lĩnh vực và đối tượng cần được quan tâm và tạo điều kiện phát triển như: lĩnh vực nông nghiệp, ngư nghiệp; người dân ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa gặp nhiều khó khăn, người lao động có thu nhập thấp,Hầu hết các đối tượng hưởng lợi có trình độ hiểu biết hạn chế nên nếu không có sự hướng dẫn chi tiết và cụ thể từ các cơ quan ban hành chính sách sẽ khó có thể nắm bắt cơ hội và triển khai chính sách. Thực tiễn thi hành các chính sách thời gian qua cho thấy ngay sau khi Chính phủ ban hành các Nghị định và Quyết định, NHNN, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính đã kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện. Tuy nhiên, các chính sách ban hành vẫn còn nhiều điểm chưa đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất. Ví dụ, đối với chính sách tín dụng trong lĩnh vực NN & NT, theo quy định của 38 Số 126 (2/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế Nghị định 41/2010/NĐ-CP các khách hàng lĩnh vực NN & NT có thể được vay vốn tại các TCTD không cần tài sản đảm bảo, nhưng lại quy định thêm các đối tượng này cần phải nộp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi làm thủ tục vay vốn, nghĩa là đối tượng khách hàng muốn được vay vốn vẫn phải có tài sản đảm bảo. Hay như đối với chính sách tín dụng trong lĩnh vực BĐS, thực hiện Quyết định số 1013/QĐ-TTg về lãi suất cho vay ưu đãi nhà ở xã hội tại NHCSXH theo quy định tại Nghị định số 100/2015/NĐ-CP của Chính phủ, NHNN đã chỉ định các NHTM, NHCSXH tham gia hỗ trợ cho vay nhà ở xã hội với lãi suất ưu đãi, Nhà nước sẽ cấp bù chênh lệch lãi suất. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai bị vướng do các NHTM được chỉ định chưa được bố trí nguồn vốn từ NSNN để cấp bù chênh lệch lãi suất, còn nguồn vốn bố trí cho NHCSXH lại rất thấp. Vậy để các CSTT phi truyền thống trong tương lai sớm đi vào thực tiễn cuộc sống các Bộ, ban, ngành các cấp cần nhanh chóng đưa ra các thông tư hướng dẫn Nghị định, Quyết định. Đồng thời, các văn bản phải đảm bảo tính đồng bộ, tránh hiện tượng chồng chéo gây khó khăn và chậm trễ khi thực hiện. 3.2 Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ban ngành Để ngành ngân hàng có thể đẩy mạnh cung ứng nguồn vốn tín dụng phục vụ hiệu quả lĩnh vực ưu tiên, rất cần sự quan tâm, triển khai đồng bộ các giải pháp từ phía các Bộ, ngành, ủy ban nhân dân chính quyền các cấp và từ chính bản thân đối tượng được hưởng lợi. Trong chính sách nới lỏng tín dụng đối với khu vực NN & NT, đặc biệt là vùng sâu vùng xa khó tiếp cận với thông tin, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngân hàng với cấp ủy, chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội (như Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam,) để tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách đến các tổ chức, cá nhân trên địa bàn. Hoặc để giúp các hộ gia đình sớm hoàn thiện thủ tục vay vốn và nhanh chóng tiếp cận được nguồn vốn, NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố cần tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố chỉ đạo Sở Tài nguyên môi trường và các ban ngành liên quan đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản trên đất cho người dân. Trong công tác cho vay, kiểm tra, đôn đốc thu nợ, xử lý và phát mại tài sản thế chấp đối với các món vay không có khả năng hoàn trả, các ngành có liên quan và các cấp chính quyền địa phương cần phối hợp và tạo điều kiện cho ngân hàng thực hiện nhiệm vụ. Đối với chính sách tín dụng hỗ trợ ngư dân, sự ra đời của Nghị định 67/2014/NĐ-CP được đánh giá là hệ thống chính sách đồng bộ, toàn diện nhất từ trước đến nay để hỗ trợ ngư dân đóng mới, nâng cấp tàu phục vụ khai thác hải sản xa bờ có giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, bộ máy thực hiện Nghị định cồng kềnh nên ngư dân muốn vay vốn phải nộp hồ sơ xét duyệt qua nhiều cấp và các cấp có những tiêu chí đánh giá không thống nhất. Trong Nghị định 67/2014/ NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn quy định các cấp chính quyền địa phương có trách nhiệm phổ biến, hướng dẫn, đưa chính sách đến với ngư dân; xác nhận, thẩm định, lập danh sách những chủ tàu đủ điều kiện được hỗ trợ theo Nghị định, nhưng trong thực tế, các cơ quan này chưa vào cuộc mạnh mẽ, chưa tuyên truyền chính sách và bị động trước những khó khăn của ngư dân trong quá trình thực hiện. Hậu quả là nhiều ngư dân không tha thiết với vốn vay ưu đãi, thậm chí họ đã lập hồ sơ vay vốn rồi lại xin rút hồ sơ và tự tìm nguồn vốn vay bên ngoài. 39Số 126 (2/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế Từ những trường hợp cụ thể ở trên có thể rút ra kết luận, Chính phủ cần yêu cầu các Bộ, ngành, chính quyền địa phương phối hợp chặt chẽ trong việc tuyên truyền và hỗ trợ người dân tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai. Bên cạnh đó, Chính phủ cần chỉ đạo NHNN và qua đó là NHTM đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động tín dụng, ngân hàng, cải tiến quy trình, thủ tục, rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay, đồng thời niêm yết công khai, minh bạch các quy trình, thủ tục cho vay, rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay để người dân được vay vốn một cách thuận lợi với thời gian nhanh nhất 3.3 Thường xuyên kiểm tra, đánh giá hiệu quả và có biện pháp điều chỉnh cho phù hợp Chính sách nới lỏng tín dụng trong những năm qua đã đóng góp tích cực vào việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới, giúp người dân đô thị có thu nhập trung bình và thu nhập thấp có nhà ở, giúp ngư dân vươn khơi bám biển,Tuy nhiên, việc triển khai chính sách vẫn còn nhiều bất cập và vướng mắc mà khi thiết kế chính sách đã không lường trước hết được. Thứ nhất, vốn vay không đến đúng đối tượng như mong đợi của chính sách. Mục tiêu của các chính sách nới lỏng tín dụng là “giải cứu” một số khu vực của nền kinh tế, đồng thời khuyến khích một số lĩnh vực phát triển, giúp nền kinh tế thoát khỏi suy thoái. Tuy nhiên, khi thực hiện, có nhiều hộ gia đình, DN và đơn vị không đủ điều kiện được hưởng chính sách ưu đãi nhưng vẫn cố tình thay đổi điều kiện để tiếp cận vốn vay nhằm trục lợi khi các cơ quan kiểm tra, thẩm định không kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Thứ hai, nguồn vốn vay được sử dụng không đúng mục đích. Trong chính sách nới lỏng tín dụng cho khu vực NN & NT đã có những trường hợp vốn vay được hộ nông dân sử dụng vào mục đích chi tiêu, giải quyết khó khăn đột xuất,thay vì sử dụng để sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh đó, có những khoản vay không phải thế chấp tài sản đảm bảo nợ vay, không có ràng buộc về trách nhiệm pháp lý khiến người đi vay không có áp lực sử dụng vốn vay đúng mục đích để tăng thêm thu nhập và trả nợ. Thứ ba, vốn vay có thể bị sử dụng kém hiệu quả. Các hộ nông dân, ngư dân với trình độ còn hạn chế, thường thiếu kiến thức về sản xuất, kinh doanh, cách thức làm việc kém chuyên nghiệp và không khoa học nên làm ăn hay bị thua lỗ dẫn đến nguy cơ mắc nợ xấu cao. Hoặc như công tác giám sát đóng tàu và đăng kiểm còn sai sót, sự giám sát của các bên liên quan thiếu sâu sát, vì thế chất lượng tàu đóng kém (vỏ thép bị rỉ sét nặng, máy tàu thường xuyên hư hỏng,...) gây thiệt hại cho ngư dân và ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vốn vay của ngư dân cũng như hiệu quả chính sách tín dụng. Để đảm bảo dòng tiền tín dụng hướng đến đúng nơi, được sử dụng đúng mục đích và đem lại hiệu quả cao, NHNN cần tăng cường kiểm tra, giám sát tình hình cấp tín dụng của các TCTD. Đồng thời, các TCTD cần xây dựng quy trình và thường xuyên tiến hành kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn và trả nợ của người vay; phát hiện kịp thời các khoản nợ quá hạn, nợ xấu ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng; thực hiện cảnh báo sớm rủi ro cho người vay. Trên cơ sở kết quả kiểm tra và giám sát, cần có đánh giá, rút kinh nghiệm, khắc phục sai sót và có kiến nghị đề xuất kịp thời để điều chỉnh nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách. 40 Số 126 (2/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế 3.4 Kết hợp với một số biện pháp hỗ trợ khác Như đã phân tích ở trên, do điều kiện chưa phù hợp để thực hiện các chương trình nới lỏng định lượng, công cụ CSTT phi truyển thống NHNN Việt Nam sử dụng thời gian qua là chính sách nới lỏng tín dụng. Chính sách này đã giúp một số khu vực và thị trường phục hồi và tiếp tục phát triển sau khủng hoảng kinh tế. Song để CSTT phi truyền thống phát huy hiệu quả hơn nữa thì nên kết hợp với một số giải pháp hỗ trợ sau: Thứ nhất, cần nâng cao mức an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng để cung cấp tín dụng cho nền kinh tế thông qua việc tiếp tục thực hiện tái cơ cấu hệ thống ngân hàng và xử lý nợ xấu. Muốn vậy, NHNN cần chỉ đạo hệ thống các TCTD tích cực triển khai đồng bộ các biện pháp điều hành cũng như chấn chỉnh hoạt động của các TCTD như: (1) Kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng tín dụng đi đôi với việc nâng cao chất lượng tín dụng, kiểm soát và giảm tín dụng trong những lĩnh vực rủi ro để chủ động kiểm soát nợ xấu phát sinh; (2) Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý hỗ trợ cho quá trình đánh giá, kiểm soát, xử lý nợ xấu như các chuẩn mực mới về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro, các tỷ lệ, giới hạn an toàn hoạt động của TCTD, quy định về ủy thác, nhận ủy thác theo hướng phù hợp hơn với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế, từ đó, tạo nền tảng cho các TCTD hoạt động an toàn hơn và thúc đẩy xử lý nợ xấu, cơ cấu lại theo các mục tiêu, định hướng đề ra. (3) Yêu cầu các TCTD tăng cường công tác xử lý nợ xấu chủ yếu thông qua giảm lợi nhuận, giảm chia cổ tức cho các cổ đông để tăng cường trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro xử lý các khoản nợ xấu phát sinh, tăng cường phối hợp với các cơ quan chức năng để xử lý tài sản bảo đảm, bán nợ xấu cho Công ty Quản lý Tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC), bán nợ xấu cho các cá nhân và tổ chức khác. Thứ hai, cần nâng cao vai trò của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của thị trường vốn, có chức năng huy động những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ, lẻ trong xã hội tập trung thành nguồn vốn lớn tài trợ cho DN, các tổ chức kinh tế hoặc Chính phủ để phát triển sản xuất và thực hiện các dự án đầu tư. Đây là kênh huy động nguồn vốn dài hạn cho các DN trong nền kinh tế. Kể từ khi ra đời (năm 2000), thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chưa trở thành kênh huy động vốn dài hạn hiệu quả cho các DN. Các nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán vẫn còn thiếu chuyên nghiệp, chủ yếu mua bán theo tâm lý đám đông, những tin đồn trên thị trường thay vì dựa trên cơ sở phân tích năng lực tài chính và năng lực kinh doanh của các công ty có cổ phiếu được niêm yết. Do vậy, hệ thống các NHTM vẫn là kênh cung cấp vốn chính (cả nguồn vốn ngắn hạn và dài hạn) cho nền kinh tế. Việc mở rộng thị trường chứng khoán giúp NHNN có thêm công cụ và kênh truyền dẫn để điều hành CSTT, giảm bớt sự phụ thuộc vào các cơ quan khác. Bài học kinh nghiệm rút ra từ việc áp dụng CSTT phi truyền thống tại các quốc gia phát triển cho thấy, thị trường chứng khoán phát triển sẽ làm tăng tính khả thi của các biện pháp phi truyền thống. Chính vì vậy, muốn CSTT phi truyền thống phát huy hiệu quả, cần phải nâng cao vai trò của thị trường chứng khoán. Thứ ba, tăng cường thu hút nguồn vốn từ bên ngoài như đầu tư trực tiếp (FDI), vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Hiện nay, nguồn vốn cần cho nhu cầu phát triển các lĩnh vực ưu tiên ở Việt Nam là rất lớn, trong khi nguồn lực trong nước có hạn, vì vậy thu hút nguồn vốn 41Số 126 (2/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế thêm từ bên ngoài là giải pháp tối ưu. Xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế đã giúp đẩy nhanh dòng lưu chuyển vốn trên thế giới, đặc biệt là dòng vốn FDI. Với lợi thế về nguồn vốn, về khoa học và công nghệ cũng như kinh nghiệm và trình độ quản lý, dòng vốn FDI được kỳ vọng giúp các nền kinh tế phát triển hơn, đặc biệt là đối với các nước đang và kém phát triển. Ở nước ta, dòng vốn FDI đã tạo được những chuyển biến mạnh mẽ trong nền kinh tế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, dòng vốn FDI vào lĩnh vực ưu tiên còn rất hạn chế. Theo Tổng cục Thống kê, lũy kế đến tháng 8 năm 2018, lượng vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp mới chỉ chiếm khoảng hơn 1%. Bên cạnh vốn FDI là vốn ODA, trong 20 năm (1996-2015) tổng lượng vốn ODA huy động trong ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn chỉ vào khoảng hơn 6 tỷ USD, chiếm 7-8% tổng ODA cả nước (trong đó, nông nghiệp: 21%; phát triển nông thôn: 15% và ít nhất là thủy sản chỉ với 4%). Mặc dù vậy, vốn ODA cũng đã góp phần đáng kể thúc đẩy và thay đổi bộ mặt lĩnh vực NN & NT. Để tăng tỷ trọng vồn FDI và ODA vào các lĩnh vực ưu tiên, cần nâng cao tính minh bạch của hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào các vùng khó khăn, kém hấp dẫn. Bên cạnh đó, cần có các biện pháp sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA để tạo tiền đề thu hút FDI, bởi vì, các dự án ODA sẽ giải quyết các khó khăn về cơ sở hạ tầng và những khó khăn sơ cấp nảy sinh trong quá trình sản xuất, qua đó giúp nhà đầu tư FDI hạn chế được các chi phí giao dịch và tập trung nguồn vốn cho đầu tư kinh doanh. Tài liệu tham khảo Báo Nhân dân điện tử (2020), “Khai thác, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản”, https://www.nhandan. com.vn/nation_news/item/18531102-.html, truy cập ngày 02/01/2020. Doanh nhân Sài Gòn (2015), “3 lý do kinh tế Việt Nam chưa cần dùng gói QE”, https://doanhnhansaigon. vn/di-nghi-viet/3-ly-do-kinh-te-viet-nam-chua-can-dung-goi-qe-1061475.html, truy cập tháng 1/2020. Đỗ, H.L, Phạm, T.L.P., Phạm, A.N. & Nguyễn, Đ.Q. (2015), “Tín dụng hỗ trợ ngư dân đóng tàu theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP và các khuyến nghị”, Tạp chí Ngân hàng, Số 11/2015, https://www.sbv.gov. vn, truy cập ngày 02/01/2020. FPT Securities (2015), Báo báo ngành Bất động sản. Hồ, T.H.T. (2018), Giải pháp tài chính hỗ trợ hộ ngư dân phát triển hoạt động khai thác thủy sản ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ, Học viện Tài chính. Ngân hàng Nhà nước (2019), “Nguồn vốn ngân hàng nguồn lực thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia”, https://www.sbv.gov.vn, truy cập ngày 02/01/2020. Ngân hàng Nhà nước (2019), “Vốn ngân hàng hỗ trợ tích cực, hiệu quả cho phát triển nông nghiệp nông thôn”, https://www.sbv.gov.vn, truy cập ngày 02/01/2020. Nghị định 116/2018/NĐ-CP ngày 07/9/2018, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 07/09/2018, có hiệu lực từ ngày 25/10/2018. Nghị định 41/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/04/2010, có hiệu lực từ ngày 01/06/2010. Nghị định số 17/2018/NĐ-CP của Chính phủ ngày 02/02/2018, có hiệu lực từ ngày 25/03/2018. 42 Số 126 (2/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế Nghị định số 55/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09/06/2015, có hiệu lực từ ngày 25/07/2015. Nghị định số 67/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07/07/2014, có hiệu lực từ ngày 25/08/2014. Nghị định số 100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 về phát triển và quản lý nhà ở xã hội, có hiệu lực từ ngày 10/12/2015. Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013. Nguyễn, D.V. (2013), “Nông nghiệp Việt Nam thực trạng và giải pháp”, Vụ Kế hoạch, Bộ Nông nghiệp và Nông thôn, truy cập ngày 02/01/2020. Nguyễn, M.P. (2010), “Phát triển thị trường tín dụng nông nghiệp và nông thôn: kinh nghiệm Trung Quốc và thực tiễn ở Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, Số 22/2010, https://www.sbv.gov.vn, truy cập ngày 02/01/2020. Nguyễn, T.H. & Nguyễn, H.A. (2012), “Một số giải pháp cho thị trường bất động sản Việt Nam phát triển bền vững trong điều kiện hiện nay”, https://www.sbv.gov.vn, truy cập ngày 02/01/2020. Nguyễn, T.H. & Trần, Q.T. (2018), “Chính sách tiền tệ phi truyền thống: bài học từ ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ)”, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, Số 110, tr. 76 - 94. Nguyễn, T.H.L. (2018), “Giải pháp tăng cường tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, tin-dung-phuc-vu-phat-trien-nong-nghiep-nong-thon-viet-nam-301351.html, truy cập ngày 02/01/2020. Nguyễn, T.K.T. (2017), “Vai trò của tín dụng ngân hàng với sự phát triển bền vững của thị trường bất động sản”, Tạp chí Ngân hàng, Số 3/2017, https://www.sbv.gov.vn, truy cập ngày 02/01/2020. Tạp chí cộng sản (2020), “Đổi mới chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn”, http:// www.tapchicongsan.org.vn/Home/kinh-te/2019/55089/Doi-moi-chinh-sach-tin-dung-phuc-vu- phat-trien-nong-nghiep.aspx, truy cập ngày 02/01/2020. Thông tư 10/2015/TT-NHNN ngày 22/07/2015. Thông tư số 14/TT-NHNN ngày 14/06/2010. Thông tư số 20/TT-NHNN ngày 29/09/2010. Tô, K.N. & Vũ, T.K.O. (2017), “Nhìn lại 5 năm hoạt động tín dụng ngân hàng với chương trình xây dựng nông thôn mới”, Tạp chí Ngân hàng, https://www.sbv.gov.vn, truy cập ngày 02/01/2020. Vũ, M.C. & Trần, A.Q. (2018), “Tình hình xử lý nợ xấu tại Việt Nam qua các giai đoạn - các vấn đề cần quan tâm và khuyến nghị”, Tạp chí Ngân hàng, Số 21/2018, hinh-xu-ly-no-xau-tai-viet-nam-qua-cac-giai-doan-cac-van-de-can-quan-tam-va-khuyen-nghi. htm, truy cập ngày 02/01/2020. Vũ, T.H. & Hoàng, Đ.M. (2015), “Ứng dụng công cụ truyền thống trong điều hành chính sách tiền tệ tại Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, Số 20, tr. 7 - 16. 43Số 126 (2/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthuc_trang_ap_dung_chinh_sach_tien_te_phi_truyen_thong_o_vie.pdf
Tài liệu liên quan