Thực trạng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA

- Chiến lược xây dựng và quảng cáo cho thương hiệu sản phẩm: Thương hiệu là kết quả của qua trình tiếp thị và quảng cáo lâu dài, phải tốn kém nhưng nó rất quan trọng, một khi sản phẩm của các hãng đều na ná như nhau về chất lượng và giá cả thì thương hiệu là cái duy nhất để khách hàng mua hàng của doanh nghiệp mình chứ không mua của người khác. Một thương hiệu mạnh có thể giúp doanh nghiệp đạt vị thế dẫn đầu trong nghành.Thương hiệu càng nổi tiếng thì khả tăng thị phần của nó trên thị trường càng cao. Nhờ đó doanh nghiệp có thể điều tiết thị trường, định gía cao hơn, chi phối làm cho các đối thủ khác phải nản lòng khi tranh dành thị trường. - Chiến lược văn hoá doanh nghiệp: Các DNVN muốn đứng vững và phát triển trong cạnh tranh thì cần xây dựng cho mình một mô hình văn hoá doanh nghiệp; đó là xây dựng chế độ lương bổng cao, chế độ làm việc ổn định, xây dựng quan hệ giữa các thành viên trong doanh nghiệp như một đại gia đình, hướng tới một tinh thần đồng đội cao, đồng thời có quy định rõ ràng về thưởng phạt, như vậy mới tạo ra động lực cạnh tranh đó là động lực phát triển doanh nghiệp. - Chiến lược vốn: Trên cơ sở chiến lược kinh doanh dài hạn và các mục tiêu trước mắt, doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược huy động vốn. Một trong những yếu điểm của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là thiếu vốn, vốn ít nhưng một số ngân hàng thương mại lại thừa vốn. Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp Việt Nam cần xây dựng được phương án kinh doanh khả thi và ngân hàng cũng phải tiến hành phương thức cho vay, trợ giúp doanh nghiệp chứ không nên cho vay một cách thụ động máy móc. Bên cạnh nguồn vốn ngân hàng, các công ty cổ phần, doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, các tổng công ty có thể huy động vốn từ thị trường chứng khoán thông qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Đây là nguồn vốn rẻ và ổn định, giúp các doanh nghiệp thực hiện các dự án kinh doanh lớn, thời gian dài.

doc25 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1250 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thực trạng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA lời mở đầu Việt Nam tham gia vào AFTA từ 1/1/1996 việc hộ nhập vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) vừa là tất yếu khách quan của xu thế thời đại, vừa là yêu cầu nội tại của nền kinh tế Việt Nam,đó là bước khởi động đầu tiên có ý nghĩa quết định đối với quá trình hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu của nền kinh tế Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng. Một trong những khó khăn thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là xây dựng chiến lược và các giải pháp khả thi để nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập nhanh chóng vào lộ trình cắt giảm thuế quan theo trương trình CEPT được ấn định vào năm 2006. Đây không chỉ là yêu cầu tất yếu mà còn là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự thành bại của nền kinh tế Việt Nam trong khuôn khổ AFTA. I. tổng quan về ASEAN, AFTA: 1. Liên kết KTQT: Từ xa xưa kinh nghiệm phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới đã cho thấy: để có một nền kinh tế quốc gia hùng mạnh thì mọi chính sách và các hoạt động không thể bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà phải có mối quan hệ với các nền kinh tế khác đó là điều kiện tất yếu để phát triển. Hiện này trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế, trên thế giới đã xuất hiện nhiều liên kết kinh tế quốc tế và các tổ chức kinh tế quốc tế để cùng hợp tác phát triển các vấn đề kinh tế có tính chất liên quốc gia. Liên kết kinh tế quốc tế là một hình thức trong đó diễn ra quá trình xã hội hoá có tính chất quốc tế đối với quá trình tái sản xuất giữa các chủ thể kinh tế kinh tế quốc tế. Đó là sự thành lập một tổ chức hợp kinh tế quốc tế của các nhóm thành viên nhằm tăng cường phối hợp điều chỉnh các lợi ích giữa các bên tham gia giảm bớt sự khác biệt về điều kiện phát triển giữa các bên và thúc đẩy quan hệ quốc tế phát triển cả bề rộng và bề sâu. Liên kết kinh tế quốc tế có thể được phân chia thành bốn hình thức: + khuvực mậu dịch tự do + liên minh thuế quan + thị trường chung + liên minh tiền tệ + liên minh kinh tế Ví dụ thực tế của các liên kết kinh tế quốc tế đó là khu vược mậu dịch tự do châu âu EFTA, khu vực mậu dịch tự do bắc mĩ NAFTA, khu vực mậu dịch tự do ASEAN AFTA cộng đồng kinh tế châu âu EEC, khối đồng minh BENILUX là liên minh giữa Bỉ, Hà LAN, Luxămbua. 2. ASEAN và AFTA Vào những năm 60 ở đông nam á đế quốc Mĩ bị thất bại nặng nề và phải từng bước xuống thang chiến tranh và chuyển sang chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh. Các nước đứng trước thách thức chính trị và kinh tế trong nội bộ từng nứơc và những thách thức xung đột từ bên ngoài. Để đối phó lại các nước này đã chủ trương thành lập hiệp hội các nước đông nam á ASEAN ASEAN được thành lập ngày 8/8/1967 sau khi bộ trưởng ngoại giao các nước Indonesia, Malaisia, Philiphine, Xingapone, Thailan ký bản tuyên bố ASEAN (tuyên bố Băngcokc) ngày 8/1/1984 Brunây Daluxalam được kết nạp vào ASEAN Ngày 28/7/1995 Việt Nam trở thành thànhviên thứ 7 của ASEAN 7/1997 Lào và Mianma gia nhập ASEAN Ngày 30/4/1999 Căm puchia trở thành thành viên thứ 10 Trong thời kì đầu, ASEAN chỉ là một tổ chức khu vực bình thường như nhiều tổ chức khác ở khắp các châu lục trên thế giới. Tuy nhiên trong hai thập kỷ gần đây các nước này gặt hái được những thành công đáng kể về mặt kinh tế trong thời gian dài các nước ASEAN đã duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân 6%/ năm đặc biệt các nước phát triển mạnh như Singapo, Malaixia, Thailan trong nhiều năm đạt mức tăng trưởng hai con số.Singapo được xếp vào hạng các nước công nghiệp mới còn Malaixia và Thailan đều đang ngấp nghé nghưỡng cửa này trong tương lai không xa: Các mục tiêu lớn của ASEAN là: Thúc đẩy phát triển kinh tế ; xã hội và văn hoá Bảo vệ sự ổn định chính trị và kinh tế của khu vực: Là diễn đàn để giải quết các vấn đề khác biệt trong nội bộ khu vực: Các nước ASEAN đã hợp tác với nhau trong nhiều lĩnh vực như: hợp tác thương mại, đầu tư, phát triển công nghiệp, nông nghiệp, năng lượng, và vấn đề đáng quan tâm hiện nay là khu vực mậu dịch tự do ASEAN AFTA. AFTA ra đời từ đầu những năm 90, do môi trường chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực có những thay đổi khi chiến tranh lạnh kết thúc, vị trí của khối ASEAN đã được cải thiện và các cam kết kết quốc tế của Hoa kỳ, Trung quốc và Nga đã thay đổi AFTA ra đời vời ba mục tiêu cơ bản là: Tự do hoá thương mại,thu hút đầu tư nước ngoài và mở rộng quan hệ thương mại với các nước. các mục tiêu có quan hệ với nhau trong đó mục tiêu thu hút đầu tư nứơc ngoài là mục tiêu trung tâm. Khu vực AFTA hình thành trên cơ cở các yếu tố: Chương trình ưu đãi thuế quan có chiến lược chung Thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hàng hoá giữa các nước thành viên Công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ hàng hoá Xoá bỏ những qui định hạn chế đối với hoạt động thương mại Tăng cường hoạt động tư vấn kinh tế vĩ mô. Theo qui định của CEPT hàng hoá muốn được hưởng ưu đãi thuế quan trong khuôn khổ CEPT cần có các điều kiện: Phải là các sản phẩm được đưa vào danh mục giảm thuế và đã được hội đồng AFTA công nhận Chỉ có các sản phẩm đã ở mức thuế 29% trở xuống và nằm trong danh mục giảm thuế giữa hai nước thành viên Các sản phẩm phải có ít nhất 40% thành phần được sản xuất chế tạo, có xuất xứ từ ASEAN. Hiệp định CEPT cũng qui định việc thực hiện sẽ được tiến hành theo hai quá trình: Chương trình cắt giảm nhanh (fast track) và chương trình cắt giảm bình thường (normal track). Trong tuyên bố Xingapho năm 1992, năm 1992 các nước ASEAN đã quết định đưa ra một nhóm mặt hàng vào diện giảm thuế nhanh là giầu thực vật, xi măng, hoá chất, dược liệu, phân bón, đồ nhựa, các sản phẩm cao su, các sản phẩm da, bột giấy, hàng dệt, các sản phẩm gốm và thuỷ tinh đá quí và đồ trang sức, đồ điện tử và đồ dùng bằng gỗ, song mây Theo hiệp định CEPT ký năm 1992 thì thời gian hoàn thành AFTA sẽ là 15 năm bắt đầu từ 1/1/ 1993 và kết thúc 1/1/2008.gần đây một tiến trình mới được đề nghị trong đó qui định thời gian cắt giảm cắt giảm thuế chỉ còn 10 năm. Như vậy AFTA sẽ hoàn thành vào năm 2003 thay vì 2008 như trước đây. Gia nhập ASEAN tháng 7/1995 Việt Nam cam kết thực hiện CEPT năm 1996, chậm hơn 3 năm so với các nước. Như vậy thời gian kết thúc của Việt Nam sẽ là 2006 Thời gian biểu thực hiện CEPT của các nước ASEAN như sau: Theo chương trình cắt giảm thuế quan bình thường thì các mặt hàng có mức thuế trên 20% sẽ giảm xuống còn 20% trong 5 năm và 0 – 5% trong 5 năm tiếp theo. Đối với các mặt hàng có mức thuế 20% trở xuống thì trong vòng 7 năm sẽ xuống còn 0% - 5% Theo chương trình cắt giảm nhanh thì các mặt hàng có mức thuế trên 20% sẽ giảm xuống còn 0% - 5% trong vòng 7 năm. Đối với các mặt hàng có 20% trở xuống thì trong vòng 5 năm sẽ còn 0% - 5% Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế thì trong vòng 5 năm. Mỗi năm phải đưa 20% số sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế vào danh mục giảm thuế Đối với danh mục mặt hàng loại trừ hoàn toàn đây là sản phẩm có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, cuộc sống sức khoẻ con người,các giá trị văn hoá nghệ thuật,di tích, lịch sử khảo cổ. Mặt hàng này sẽ không được xem xét đến theo trương trình CEPT.Đối với danh mục nhạy cảm của hàng nông sản chưa chế biến, lúc đầu nông sản chưa chế biến không được đưa vào chương trình CEPT. Nhưng theo chương trình CEPT sửa đổi,các nông sản chưa chế biến này sẽ được đưa vào ba loại danh mục khác nhau là danh mục giảm thuế, danh mục loại trừ tạm thời và danh mục nhạy cảm của hàng nông sản chưa chế biến * Về việc thuyên giảm hàng rào phi thuế quan (NTB) Nhằm giảm bớt và dần xoá bỏ hàng rào phi thuế quan trong buôn bán nội bộ ASEAN. Các nước ASEAN đã thành lập nhóm thương lượng về ưu đãi buôn bán.Các cuộc thảo luận của nhóm nhằm thực hiện thoả thuận về việc duy trì và thuyên giảm các biện pháp phi thuế quan. Hình thức thảo luận, thương lượng chủ yếu là song phương, nhìn chung những cuộc thương lượng chưa đem lại nhiều kết quả thiết thực, tuy nhiên các nước ASEAN đều cam kết thực hiện thuyên giảm các hàng rào phi thuế quan trong quá trình thực hiện tự do hoá thương mại. Hiệp định CEPT cũng qui định các nước ASEAN phải cam kết xoá bỏ các hàng rào phi thuế quan liên quan 5 năm, sau khi AFTA hoàn thành II. Thực trạng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA 1. Việt Nam và AFTA Việt Nam thực hiện CEPT tham gia AFTA là chặng đầu tiên trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Tiến trình này bắt đầu từ những năm 1990 bằng việc kí hiệp định khung về hợp tác kinh tế với EU và tham gia hội nhập ASEAN năm 1995, tham gia APEC năm 1998, kí hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ năm 2000 và đang tích cực chuẩn bị hành trang đứng trong tổ chức thương mại thế giới (WTO) thời gian tới.- Ngay sau khi là thành viên của ASEAN, Việt Nam đã cam kết tham gia các hoạt động hợp tác kinh tế của hiệp hội, trong đó có CEPT / AFTAmới gia nhập và có trình độ phát triển chưa cao Việt Nam cũng có những thuận lợi vvà khó khăn vừa mang tính đặc thù vừa mang tính phổ biến của ASEAN khi tham gia hiệp định CEPT thành lập AFTA và các hoạt động kinh tế quốc tế và khác.Đặc thù dễ nhận thấy nhất là ở thể chế và cơ chế quản lý kinh tế ; ở khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam với các nước trong ASEAN đã có nền kinh tế thị trường phát triển ở năng lực các doanh nghiệp doanh nghiệp bao gồm các nhà nước và tư nhân trong điều kiện cạnh tranh trong điều kiện của nền kinh tế thị trường mở của hội nhập kinh tế toàn cầu theo hướng tự do hoá ; đến các yếu tố cơ bản khác của nền kinh tế đang chuyển đổi sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và các kết cấu hạ tầng phần cứng (giao thông, chính sách....) và các nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân lực có trình độ và công nghệ hiện đại chưa đảm bảo sự tham gia vào quá trình hội nhập chủ động có hiệu quả. Khó khăn to lớn đang trở thành thách thức làm thế nào để chủ động và tích cực tham gia vào dòng chảy hội nhập kinh tế khu vực và thế giới mà vẫn bảo vệ và phát huy lợi ích quốc gia bản sắc dân tộc, gắn liền với lợi ích khu vực theo mục tiêu đoàn kết, hòa bình ổn định và thịnh vượng. Đây có thể là thách thức lớn nhất trước mắt và trực tiếp trong công cuộc hội nhập. Tuy nhiên Việt Nam với hướng thuận lợi căn bản là trong khi vẫn nỗ lực phát triển theo con đường riêng của mình đã tranh thủ tận dụng những hình thức, xu thế hợp tác tích cực ở nhiều cấp độ với khu vực và thế giới. Những thuận lợi đó trước hết là ở chính con người Việt Nam thông minh, hiếu học cần cù vượt khó, ở một lực lượng lãnh đạo thống nhất kiên trung, đường lối đổi mới toàn diện phát huy tối đa nội lực và sức mạnh dân tộc tích cực tranh thủ ngoại lực và gắn kết với thế mạnh của đoàn kết khu vực ngày nay và với chính sách đối ngoại đúng đắn nâng cao vị thế của Việt Nam trong trường quốc tế, do đó Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực chủ động trong hiệp hội và càng thu hút được nhiều thành công trong tiến trình hội nhập AFTA Với chủ trương tích cực và chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế (Việt Nam đã có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA.Trong năm qua Việt Nam đã công bố các danh mục hàng hoá hàng năm thực hiện hiệp định CEPT ngay từ những năm 1996 Việt Nam đã công bố danh mục hàng hoá và mức thuế suất của 857 mặt hàng vào thực hiện CEPT, thuộc danh mục IL, năm 1997, Việt Nam tiếp tục công bố đưa thêm vào thực hiện CEPT 621 mặt hàng ; Năm 1998 công bố đưa thêm 137 mặt hàng; Năm 1999 là 1949 mặt hàng và năm 2000 có thêm 640 dòng thuế nữa vào mục thực hiện CEFT. Cho đến nay, tổng các mặt hàng được đưa vào danh mục cắt giảm gồm 4 230 dòng thuế, trong đó có 2 960dòng thuế có thuế suất 0-5%. Dự kiến có khỏng 1940 dòng thuế thuộc danh mục tạm thời được chuyển vào cắt giảm trong những năm 2001 –2003 để đến năm 2006 thuế suất nhập khẩu toàn bộ các dòng thuế thực hiện AFTA đúng theo cam kết 0 –5%. Trong giai đoạn 2001 – 2006 Việt Nam phải thực hiện tiến trình cắt giảm thuế quan 6210 dòng thuế nhập khẩu trong tổng số 6400 dòng thuế hiện hành bao gồm 4200 đã được đưa vào thực hiện CEPT trước năm 2001; 720 dòng thuế cắt giảm trong năm 2001 khoảng 510 dòng thuế ở năm 2002 và 710 dòng thuế ở 2003.Theo lịch trình tổng thể đã được thông qua về nguyên tắc nên đến 2006, khoảng 95% mặt hàng nhập khẩu từ ASEAN có mức thuế suất 5% và không bị áp dụng biện pháp phi thuế quan. Như vậy Việt Nam muốn phát triển kinh tế trong bối cảnh tổng hợp CEPT / AFTA đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết ở các cấp nghành từ trung ương đến địa phương Đối với các doanh nghiệp Việt Nam là động lực của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế các doanh nghiệp Việt Nam cần nỗ lực tăng cường sức cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ thích ứng với quá trình hội nhập trực tiếp là CEPT và AFTA. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam tham gia AFTA cũng có nghĩa là chấp nhận một cuộc chơi cạnh tranh trong sân chơi bình đẳng ngay trong khu vực và tại nước mình. Thành công hay thất bại của doanh nghiệp phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh. Khi đã nâng cao được khả năng cạnh tranh, sản xuất được thúc đẩy và doanh nghiệp phát triển. Một sự chuẩn bị tích cực để tham gia hợp tác, hội nhập trên nhiều phương diện ở nhiều cấp độ không chỉ phụ thuộc vào những điều kiện cần thuộc phạm vi chính sách vĩ mômà còn liên quan đến nhiều yếu tố khác, đặc biệt là khả năng nội lực chủ động thích ứng của các doanh nghiệp. Nâng cao khả năng cạnh tranh, đáp ứng của các doanh nghiệp Việt Nam đối với AFTA đang là yêu cầu cấp thiết, liên quan trực tiếp đến các lợi ích của các chủ thể tham gia công cuộc hội nhập khu vực và quốc tế, trong đó có doanh nghiệp và người tiêu dùng 2. Những cơ hội và thách thức của các danh nghiệp Việt Nam khi tham gia AFTA 2. 1) Cơ hội: Quan điểm của nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay cho rằng, tham gia vào AFTA doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn thách thức hơn là cơ hội. Lý giải cho quan điểm này bắt nguồn từ thực trạng yếu kém của các DNVN cũng như khả năng cạnh tranh của các DNVN trước các đối tác ASEAN, đặc biệt là ASEAN 5. Tuy nhiên nếu xem xét nội dung AFTA đối chiếu vào hoạt động của DNVN, có thể thấy nếu các DNVN có chiến lược, giải pháp đúng đắn sẽ tận dụng được những cơ hội thuận lợi. Thứ nhất: Quá trình hội nhập sẽ ép buộc DNVN phải tự đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh tích cực áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ và cung cách làm ăn mới. Hội nhập bắt buộc và khuyến khích các DNVN tập trung vào những nghành được ưu đãi lớn và ngừng sản xuất những mặt hàng không có tính cạnh tranh. Sức ép to lớn đó đòi hỏi các DNVN phải đuổi kịp và vượt các nước khác về mẫu mã, chất lượng và gia cả hàng hoá, nếu không sẽ phá sản và trao thị trường Việt Nam cho các đối thủ khu vực và thế giới Thứ hai: DNVN có thể hạ giá thành sản phẩm do mua được nguyên vật liệu đầu vào rẻ hơn. Đây là cơ hội không dễ có được với bất cứ một doanh nghiệp nào. Những khó khăn khan hiếm nguyên liệu cho sản xuất sẽ được giải quyết. Nếu DNVN tận dụng tốt cơ hội này họ sẽ đủ sức vươn lên cạnh tranh với các đối thủ khác. Thứ ba: DNVN sẽ tự trải qua quá trình sàng lọc tự nhiên thông qua cạnh tranh quốc tế. Những doanh nghiệp nhà nước (DNNN) xưa nay làm ăn thua lỗ nhưng vẫn được trợ cấp sẽ nhanh chóng bị thay thế bởi các doanh nghiệp nước ngoài hay doanh nghiệp trong nước có đủ khả năng. Do đó sản xuất trong nước sẽ hiệu quả hơn và thích ứng nhanh chóng với các điều kiện thay đổi Thứ tư: AFTA tạo điều kiện thuận lợi mở rộng thị trường hàng hoá dịch vụ xuất khẩu cho các DNVN hội nhập vào thương mại khu vực Nội dung của AFTA đã đưa ra các nguyên tắc về xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử trong thương mại, các tranh chấp thương mại được gíải quết công bằng, thực hiện bình đẳng trong đàm phán. Thông qua các nguyên tắc này, khi các DNVN tham gia AFTA các sản phẩm sẽ được hưởng thuế suất ưu đãi hơn cả thuế suất tối huệ quốc (MFN) mà các nước ASEAN sẽ dành cho các nước thành viên WTO. Thực tế thương mại hai chiều giữa Việt Nam và các nước ASEAN kể từ khi Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN (1995) và khi Việt Nam tham gia AFTA (1996) cho đến nay cho thấy các sản phẩn đóng góp của DNVN trong thương mại nội bộ khu vực tăng lên. 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 XK 1,112 1,364 1,911 2,372 2,463 NK 2,378 2,788 3,166 3,749 3,288 Gross 3,490 4,152 5,077 6,122 5,751 % 23,9 % 33,4 % 25,5 % 29,7% 28,4 % Nguồn: vụ hợp tác đa biên bộ thương mại Thứ năm: Thông qua AFTA các DNVN có cơ hội thuận lợi mở rộng hợp tác đầu tư, chuyển giao công nghệ, tận dụng lợi thế về nhân công, tài nguyên thiên nhiên nhằm năng cao khả năng cạnh tranh. Khi môi trường thương mại nội bộ khu vực ngày càng tự do cũng có nghĩa là mức độ hội nhập kinh tế giữa các nước thành viên ngày càng tăng lên. Các hình thức liên kết khác như: đầu tư nội bộ ASEAN(AIA), hợp tác công nghiệp (AICO), tài chính, giao thông vận tải, năng lượng... đang tạo điều kiện cho các DNVN có đủ khả năng nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm. Mặt khác do có đảm bảo bằng cam kết đa phương nên các nhà đầu tư ASEAN và nước ngoài yên tâm đầu tư và chuyển giao công nghệ tại thị trường Việt Nam cũng như các DNVN đầu tư ra nước ngoài được đối xử bình đẳng. Thứ sáu: tham gia AFTA, các NDVN có khả năng rút ngắn khoảng cách tụt hậu, tranh thủ và bổ sung các lợi thế sắn có giữa các doanh nghiệp trong nội bộ khu vực. Mặc dù có sự trùng lặp về cơ cấu ngoại thương giữa Việt Nam và ASEAN nhưng có nhiều lĩnh vực DNVN có thể khai thác từ thị trường ASEAN như: Việt Nam có thế mạnh về các sản phẩm nông sản, hàng dệt may mặc trong khi đó ta cũng có nhu cầu nhập khẩu máy móc hạng trung bình, các sản phẩm hoá chất, bán thành phẩm từ các nước ASEAN với giá thấp hơn so với khu vực khác trên thế giới. Nếu tranh thủ được các lợi thế này DNVN sẽ có lợi do tăng được khả năng cạnh tranh với các đối thủ bên ngoài ASEAN về giá cả, chi phí vận chuyển. Ngoài ra trong quá trình hội nhập kinh tế, các DNVN có thể học hỏi kinh nghiệm quản lý,tiếp thu kỹ thuật công nghệ, đặc biệt đối với các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ từ các nước ASEAN khác. THứ bẩy:vị thế của DNVN được cải thiện nhờ quá trình đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ khu vực và thế giới. Trên cơ sở nguyên tắc đồng thuận cũng như sức mạnh tập thể của tổ chức ASEAN, các DNVN sẽ tạo được thế và lực trong đàm phán thương mại song phương và đa phương với các cường quốc kinh tế cũng như các tổ chức quốc tế như APEC, EU, WTO.... 2.2) Thực trạng năng lực cạnh tranh và khó khăn thách thức của các DNVN trong quá trình hội nhập AFTA: Trong cạnh tranh, xét về phương diện sản phẩm đầu ra, sự thắng hay thua của một doanh nghiệp được quyết định bởi bốn yếu tố chính: gia bán (thấp); chất lượng (cao); tổ chức tiêu thụ (hợp người tiêu dùng) và uy tín của doanh nghiệp cao. Sản phẩm của các DNVN chỉ một số rất ít, còn đại đa số đều yếu kém hơn các sản phẩm cùng loại của các nước ASEAN hoặc của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nguyên nhân này bắt nguồn từ sự yếu kém của các yếu tố đầu vào cuả DNVN là: Thứ nhất: Giá đầu vào cao Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam tiến hành điều tra 800 doanh nghiệp mới đây cho thấy các DNVN chỉ dám chấm 2,87 điểm (theo thang điểm từ 1-5) cho khả năng cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài. Trong khi đó khả năng cạnh tranh với các đối thủ trong nước được các DNVN đánh gía ở mức 3,55 điểm. Đặc biệt so với năm 1999 thang điểm về sức cạnh tranh của các DNVN tại thị trường trong nước đã tăng từ 3,6 lên 3,7 điểm trong năm 2000. Rõ ràng sự vững tin trong cạnh tranh của các DNVN chỉ thực sự mạnh mẽ trong thị trường với những đối thủ quen thuộc. Cũng theo cuộc điều tra trên có tới 29% doanh nghiệp trong số 800 doanh nghiệp được hỏi vẫn phải sử dụng trên 40% nguyên phụ liệu nhập khẩu thậm chí có nghành phải sử dụng 70 - 80% nguyên phụ liệu nhập khẩu. Chính vì phương thức sản xuất này mà tỷ lệ giá trị gia tăng trong hàng hóa xuất khẩu của các DNVN được đánh giá thấp.Trong xu thế giảm giá hàng xuất khẩu công nghiệp của thế giới, thị việc giữ thị trường trong nước và mở rộng thị trường ASEAN cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đứng trước thách thức lớn. Thứ hai: Chi phí trung gian cao. So với thời điểm 1996 đến nay, giá xăng dầu tăng 42,2%, giá cước phí vận chuyển tăng 130%, tiền công tăng 75%, thuế sử dụng đất tăng 90,9% điện tăng 37,5 %, ngoại tệ tăng 20,2%, ngoài ra còn thêm các loại tiêu cực phí cũng góp phần không nhỏ làm tăng chi phí cho doanh nghiệp. Thứ ba: Các doanh nghiệp Việt Nam hiện đang phải đối mặt với tình trạng máy móc thiết bị cũ, lạc hậu làm cho năng suất lao động không cao, chất lượng sản phẩm thấp, dẫn đến gia sản phẩm cao. Các số liệu cho thấy hiện có khoảng 53000 doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế với ba triệu lao động.Tuy nhiên nếu so sánh với doanh nghiệp của các nước ASEAN phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp qui mô nhỏ, trình độ công nghệ lạc hậu.Tài sản cố định bình quân cho một lao động của DNVN chỉ có 44 triệu đồng.Đối với các doanh nghiệp tư nhân, bao gồm 23000 doanh nghiệp, vốn tài sản cố định chỉ chiếm 16% tổng số vốn tài sản cố định của doanh nghiệp Việt Nam. Trình độ cong nghệ của Việt Nam hiện tụt hậu khoảng 25 - 30 năm so với Thailan, dẫn đến chi phí đầu vào cao hơn từ 30 - 50 % so với các đối tác ASEAN khác. Đặc biệt trong các doanh nghiệp nhà nước có khoảng 30% doanh nghiệp thường xuyên kinh doanh thua lỗ, 30% thất thường và 40% còn lại có lãi, đây cũng chỉ lá số liệu dựa trên các báo cáo chính thức của các doanh nghiệp, mà tính chân thực của các báo cáo này không ai dám khảng định. Hơn nữa các DNVN làm ăn có lãi thường rơi vào những doanh nghệp độc quyền của nhà nước như bưu chính viễn thông, điện lực, xăng dầu... vì thế không phản ánh đúng thực lực kinh doanh của các doanh nghiệp này. Thứ tư: kinh nghiệm về kinh doanh, năng lực quản lý, công tác tiếp thị, sự hiểu biết về thị trường, thông tin kinh doanh của các DNVN còn yếu kém, chất lượng lao động chưa cao, chưa có tính chuyên nghiệp, các doanh nghiệp chưa có chiến lược phát triển lâu dài ổn định, chiến lược cạnh tranh quốc tế mà phần lớn mới chỉ có chiến lược kinh doanh ngắn hạn, thậm chí chỉ là kế hoạch kinh doanh trong từng thương vụ. Vấn đề này liên quan đế nhiều yếu tố. Trước hết, mức độ phổ cập các thông tin lien quan đến vấn đề AFTA đối với các doanh nghiệp còn thiếu và không đồng bộ. Nội dung của trương trình AFTA đối với các doanh nghiệp còn mang tính chất khái quát mà chưa có những nội dung cụ thể gắn với mụctiêu và chính sách hội nhập kinh tế của doanh nghiệp. Ngoài ra lịch trình cắt giảm thuế theo nội dung CEPT về tổng thể được chuẩn bị tương đối đầy đủ nhưng các danh mục sản phẩm cắt giảm thuế của từng doanh nghiệp triển khai chậm và lúng túng. Nhìn chung các DNVN chưa định ra được chiến lược và chính sách cạnh tranh sản phẩm để tiến tới 2006, khi kết thúc chương trình tự do hoá thương mại của Việt Nam trong khuôn khổ AFTA, các doanh nghiệp có khả năng chủ động cạnh tranh để chiếm thị phần tiêu thụ sản phẩm ở thị trường trong nước và khu vực.Phần lớn cơ cấu sản phẩm của các DNVN hiện nay chủ yếu là sản phẩm sơ chế,sản phẩm nhiều lao động do đó giá trị gia tăng thấp, khả năng cạnh tranh yếu so với doanh nghiệp của một số nước ASEAN khác. Thứ năm: vấn đề cân đối và sử dụng vốn để đầu tư và tái đầu tư sản xuất của các DNVN vẫn còn những vấn đề bất ổn. Nếu so sánh với tiềm năng nguồn vốn của một số doanh nghiệp các nước ASEAN khác như:singapore, thailan, malayxia... các doanh nghiệp Việt Nam đều trong tình trạng thiếu vốn nghiêm trọng. Theo các số liệu, DNVN cần phải huy động khoảng 20 000 tỷ VND chưa kể các nguồn vốn đầu tư đến cơ sở hạ tầng, mặt bằng sản xuất,... Riêng nguồn vốn lưu động của các DNVN mới chỉ đáp ứng được 60% nhu cầu. Đây là bài toán khó đặt ra cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên điều nghịch lý ở chỗ một số DNVN mặc dù thiếu vốn nhưng ngại vay vốn từ ngân hàng hoặc huy động vốn từ các nguồn vốn khác.Thực tế cho thấy, lãi suất cho vay của các ngân hàng đối với các doanh nghiệp hiện nay khá thấp, kèm theo các thủ tục vay vốn đơn giản nhưng cũng không thu hút được nhiều doanh nghiệp vay vốn. Sở dĩ có tình trạng này là do các doanh nghiệp lúng túng khi làm thủ tục giải ngân cũng như khó khăn tìm đầu ra bao tiêu sản phẩm. Mặt khác chính sách thẩm định nguồn vốn cho vay của ngân hàng còn bộc lộ nhược điểm khi đánh giá thực trạng và năng lực kinh doanh của từng doanh nghiệp.Chính vì vậy dẫn đến tình trạng những doanh nghuiệp kinh doanh lành mạnh, cần vốn đầu tư chưa được đáp ứng kịp thời. Ngược lại có những doanh nghiệp sản xuất không hiệu quả, sử dụng vốn sai mục đích do có những mối quan hệ với những các bộ phụ trách ngân hàng đã chiếm dụng vốn đáng kể gây thất thoát ngiêm trọng cho nguồn ngân sách. Thứ sáu: khả năng tiêu thụ của thị trường nội địa chậm hạn chế đến việc kích thích các DNVN nâng cao hiệu quả sản xuất, cải cách cơ cấu mặt hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh. Vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam mà còn làm giảm tốc độ đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam. Hiện nay cho thấy tình trạng cung vượt cầu trong một số sản phẩm công nghiệp như điện tử, dệt may, vải sợi, xi măng,sắt thép... nguyên nhân chủ yếu do sức mua trong nước giảm.Kết quả dẫn đến hiện tượng tồn đọng vốn lưu chuyển cũng như làm tăng lãi suất vay ngân hàng của các doanh nghiệp.chính vì thế làm giảmvị thế cạnh tranh cũng như cải thiện môi trường kinh doanh của các DNVN. Thứ bẩy: môi trường pháp lý đối với doanh nghiệp chưa được hoàn chỉnh, còn có sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần. Từ những cơ hội và thách thức nêu trên, bài toán đặt ra đối với các DNVN hội nhập kinh tế khu vực nói chung và tham gia AFTA nói riêng là tìm ra các giải pháp khả thi có hiệu quả. III. Một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng caokhả năng cạnh tranh của các DNVN khi hội nhập AFTA. 1. Khả năng phát triển của DNVN trong những năm tới. Các DNVN chỉ có quĩ thời gian từ 2002 đến 2005 để chuẩn bị và đảm bảo khả năng thích ứng với hoạt động sản xuất kinh doanh trong môi trường tự do hoá thương mại ở phạm vi khu vực. Troing khoảng thời gian đó các DNVN phát triển ra sao sẽ tuỳ thuộc vào rất nhiều yếu tố cả bên trong và bên ngoài. Nhưng bản thân các yếu tố đó cũng đang thay đổi và có những ảnh hưởng khác nhau đến sức phát triển của doanh nghiệp trong và ngoài nước. Về yếu tố khai thác nguồn tài nguyên và cơ hội khai thác nguồn tài nguyên để phát triển là yếu tố hết sức quan trọng đối với các DNVN. Tuy nhiên, trong xu thế hiện nay lợi thế phát triển nhờ tài nguyên đã và đang mất dần do: + Hiện nay xu hướng phát triển xuất khẩu tăng mạnh ở những sản phẩm có giá trị gia tăng cao, hàm lượng chất xám cao. + Công nghiệ sản xuất hàng hoá chuyển từ công nghệ sử dụng tài nguyên tương đối hiếm sang sử dụng các vật liệu mới, sản xuất từ tài nguyên tương đối rẻ. + Thương mại dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị thương mại. Về khả năng huy động vốn đầu tư xã hội: Nếu như sự phát triển của các doanh nghiệp dựa trên cơ sở khai thác yếu tố tài nguyên đang đạt đến giới hạn do sự chuyển hoá của lợi thế so sánh,thì yếu tố vốn đầu tư lại càng trở nên quan trọng hơn cho sự phát triển của doanh nghiệp.Tuy nhiên đang có một số khó khăn về khả năng huy động vốn đầu tư xã hội trong thập kỷ tới của một số doanh nghiệp như: + Nhiều doanh nghiệp nhà nước đang trong tình trạng nợ nần kéo dài, trong khi đó tỉ lệ lợi nhuận tương đối thấp. + Cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước đang phát triển nói chung và các nước trong khu vực ASEAN nói riêng được đánh giá sẽ gay gắt hơn + Đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh vẫn còn nhiều vấn đề phải được tiếp tục hoàn thiên và đổi mơí trong nhiều năm tiếp theo, như chính sách đất đai, quy định về thế chấp khi vay vốn ngân hàng. Về nguồn nhân lực: trong thập kỷ 90 có thể thấy rằng, sự dồi dào lao động tương đối giản đơn, giá rẻ ở nước ta đã đem lại sự phát triển chung của các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất cần nhiều lao động. Tuy nhiên, lợi thế về lao động rẻ nhưng tương đối giản đơn của Việt Nam trong thập kỷ tới sẽ giảm dần và các doanh nghiệp cũng phải đề phòng nguy cơ rơi vào cái bẫy của lao động rẻ. Bên cạnh đó cũng cần thấy rằng sự khan hiếm lao động có trình độ chuyên môn được đào tạo sâu ở nưóc ta ngày càng hiện ra rõ nét hơn. 2. Các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các DNVN trong tiế trình hội nhập AFTA. Trong quá trình toàn cầu hoá nói chung và quá trình tham gia AFTA nói riêng, ngoài những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lí là những yếu tố thuộc về lợi thế so sánh do thiên nhiên ban tặng, chúng ta chỉ còn một yếu tố lợi thế so sánh là lao động rẻ. Tuy nhiên lao động rẻ của chúng ta đang bị cạnh tranh gay gắt từ Trung quốc. Mặt khác, trong những năm tới lao động kĩ thuật trình độ cao mới là lao động nền kinh tế tri thức cần đến. Do vậy đông và rẻ không còn là lợi thế cho lực lượng lao động của ta nữa. Như vậy đôi khi người ta cũng phải tự tạo ra lợi thế so sánh cho mình. 2.1) Các giải pháp và kiến nghị từ phía chính phủ:1 Để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp thì vai trò của nhà nước là rất quan trọng, do đó nhà nước cần phải: Đẩy mạnh cải cách thể chế kinh tế:Thực tế chỉ rõ thể chế nào doanh nghiệp ấy. Một thể chế kinh tế nếu phù hợp với lòng dân, phù hợp với thực trạng của đất nước và quy luật phát triển của thời đại sẽ có tác dụng thúc đẩy to lớn với sự phát triển của một đất nước, thúc đẩy hình thành một hệ thống doanh nghiệp hùnh mạnh có khả năng cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu.điều đó đòi hỏi nhà nước phải tạo hành lang pháp lí bình đẳng ổn định cho các doanh nghiệp, mọi lĩnh vực hoạt động đều xuất phát theo luật (luật doanh nghiệp, luật thương mại, luật cạnh tranh...) ngoài ra không còn rằng buộc gì nữa.Với mục tiêu như vậy, cần nhanh chóng xây dựng bộ máy làm luật một cách chuyên nghiệp,tránh tình trạng luật qui định chung chung kéo theo quy định hướng dẫn luật:nghị định hướng dẫn, thông tư hướng dẫn, thông tư liên bộ, xuông địa phương lại có văn bản hướng dẫn,sở ban nghành lại co văn bản hướng dẫn.Như vậy dễ xảy ra tình trạng cơ chế xin cho hoành hành làm cho doanh nghiệp khó có thể phát triển được.việc đổi mới thể chế kinh tế sẽ đạt được hai mục tiêu:Một là: nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế;Hai là: tạo sự minh bạch,công khai trong hoạt đọng kinh doanh,thúc đẩy khả năng cạnh tranh của các DNVN. Xây dựng một chiến lược cạnh tranh mang tính toàn cầu:Việc thủ tướng chính phủ tiến hành các cuộc gặp gỡ với các doanh nghiệp hàng năm để lắng nghe những thắc mắc, những kiến nghị của các doanh nghiệp và giải quyết các vấn đề trên của các doanh nghiệp. Điều đó thể hiện sự quan tâm của chính phủ đế sự phát triển của các doanh nghiệp. Tuy nhiên để nâng cao khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp thì đòi hỏi chính phủ cùng với các doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược cạnh tranh không những ở tầm khu vực, mà trên phạm vi toàn cầu, trên cơ sở đó chính phủ và doanh nghiệp sẽ có những chiến lược cụ thể. Điều này rất đúng khi nền kinh tế đã được quốc tế hoá cao, thì một sự biến động của một nước cũng sẽ ảnh hưởng tới các nước còn lại, thực tế khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á năm 1997 đã chứng minh điều đó Tạo môi trường cạnh tranh:danh nhân, giám đốc là một nghề và phải được thừa nhận như các nghề khác. đồng thời với việc đào tạo bồi dưỡng để hình thành một tầng lớp doanh nhân thực thụ, chuyên nghiệp, cần tạo ra cơ chế cạnh tranh bình đẳng trong việc tuyển dụng doanh nhân, có như vậy đội ngũ doanh nhân mới ngày càng vững mạnh. Riêng với doanh nghiệp nhà nước, thực tế chỉ rõ:khi giám đốc doanh nghiệp vẫn là quan chức do nhà nươc bổ nhiệm thì lợi ích của họ không gắn bó trực tiếp với tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước. Cần thết phải: + thay đổi cơ chế tuyển dụng, thực hiện việc tuyển dụng giám đốc thông qua cơ chế cạnh tranh trên thị trường + Xoá bỏ chế độ đẳng cấp doanh nghiệp, thực hiện cơ chế trả lương theo hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp, kích thích giám đốc năng động, sáng tạo trong kinh doanh. Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường cơ bản và thị trường hiện mới sơ khai như thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trương khoa học công nghệ, thị trường tư vấn và hỗ trợ thông tin cho doanh nghiệp. Nhà nước cần xúc tiến sớm việc xây dựng cơ chế giữa nhà nước, các chung tâm ngiên cứu khoa học và các doanh nghiệp.Điều này dẫn đến các doanh nghiệp có được các sản phẩm và mẫu mã mới, có chất lượng cao gía thành hạ, các trung tâm nghiên cứu có được thu nhập kích thích nghiên cứu phát triển, nhà nước giảm bớt được khoản ngân sách vố đã eo hẹp, lại dàn trải hiêu quả không cao. Đẩy nhanh trương trình cải cách các doanh nghiệp nhà nước theo hướng kiên quyết giải thể các doanh nghiệp nhà nước làm ăn không có hiệu quả; hình thành công ty đầu tư tài chính nhà nước, các công ty mua bán nợi; đẩy mạnh cổ phần hoá, trong đó thành lập bộ phận chuyên trách về cổ phần hoá,bộ phận này có mối liên hệ chặt chẽ với các công ty đầu tư tài chính nhà nước, cho thuê, bán khoán, công ty mua bán nợ để giúp nhà nước tập trung vào một số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, nâng cao tinh thần trách nhiệm của các giám đốc và người lao động ở các doanh nghiệp. Công khai lịch trình cắt giảm thuế và hàng rào phi thuế quan tạo động lực mới cho các doanh nghiệp phát triển, có khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Tiếp tục cải cách hệ thống ngân hàng, trong đó cơ cấu lại các ngân hàng thương mại quốc doanh, tập trung vào cải cách thủ tục tín dụng, cải tiến dịch vụ ngân hàng hướng các ngân hàng trở thành người bạn đồng hành trong kinh doanh hơn là người chỉ coi doanh nghuiệp là người cần mình, người vay không trả. Nhà nước cần có chính sách cụ thể, hợp lí để khuyến khích các doanh nghiệp trong quá trình tham gia AFTA như: ưu tiên tín dụng, sửa đổi bổ xung những ưu đãi thuế cho sản xuất, xuất khẩu; thành lập quĩ bảo hiểm xuất khẩu, đặc biệt đối với các sản phẩm có tính chất nhạy cảm cao (nguyên nhiên liệu, nông sản, thực phẩm...) Xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng về giao thông, thông tin...cùng với sự phát triển đồng bộ các nghành văn hoá, du lịch... và đổi mới đồng bộ các chính sách quan trọng khác về giáo dục đào tạo, xuất khẩu lao động... 2.2) Các giải pháp và kiến nghị đối với doanh nghiệp Các doanh nghiệp Việt Nam phải khẩn trương và dành thế chủ động trong quá trình hội nhập, không trông chờ ỉ lại vào sự hỗ trợ của nhà nước; cũng không nên đợi đến khi hàng hoá của các nước vào rồi thì mới có giải pháp và phải tự phát huy nội lực.Muốn vậy thì việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các DNVN là hết sức cần thiết.Trước hết các doanh nghiệp cần phải tiến hành ngay việc xúc tiến thương mại, quảng cáo... để tìm hiểu nhu cầu tiêu dùng, thói quen tâp quán cũng như các qui định về pháp lý của từng thị trường để làm cơ sở cho việc hoạch định lại chương trình phát triển ; kế hoạch kinh doanh phải phân tích, nắm vững lợi thế sản phẩm của mình và căn cứ vào danh mục hàng hoá, thuế suất của Việt Nam để lựa chọn sản phẩm nhằm đầu tư kinh doanh cho phù hợp với điều kiện mới; chủ động mở rộng và tìm kiếm thị trường, cọ sát vươn ra trước khi mà hàng hoá của ASEAN tràn vào Việt Nam ; đồng thời phải coi trọng và chiếm lĩnh thị trường trong nước. Từ các nhận định phương hướng trên tôi có kiến nghị sau đây đối với các doanh nghiệp: Thứ nhất: chạy tiếp sức thay vì mạnh ai người nấy chạy. Các DNVN phải hiểu rằng để có thể tiến đến đích nhanh, họ phải chọn cách chạy tiếp sức thay vì mạnh ai người nấy chạy - một điểm yếu tồn tại ở các DNVN. Mỗi người phải nỗ lực chạy nhanh hơn đồng đội (tinh thần cạnh tranh) nhưng đồng thời cũng sẵn sàng giúp đồng đội lúc cần thiết (tinh thần hợp tác). Làm được điều đó chúng ta sẽ tận dụng được hai ưu điểm của cạnh tranh và hợp tác: cạnh tranh để có được sản phẩm tốt và giá hạ nhất (điều kiện sống của các doanh nghiệp hợp tác để hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong và ngoài tổng công ty phát triển (điều kiện sống của hệ thống doanh nghiệp) Thứ hai: đầu tư cho một tầm nhìn lâu dài. Để làm được điều đó (sản phẩm tốt, giá hạ trong khi công nghệ còn lạc hậu) các DNVN phải ưu tiên tối đa hoá lợi nhuận từ số một xuống số hai, ưu tiên số một là phải đầu tư hướng tới một chiến lược dài hơn để dần tự khảng định mình. Triết lý kinh doanh đó thể hiện ở các điểm sau: Chiến lược sản phẩm: Chọn những sản phẩm mà doanh nghiệp có thế mạnh, không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá sản phẩm theo nhu cầu ngày càng phát triển và nâng cao của xã hội (chế biến, chế biến tinh, theo nhiều giá trị sử dụng, hình thức bao bì).khai thác có hiệu quả các lợi thế so sánh quốc gia trong lựa chọn sản phẩm kinh doanh, chú trọng đến khâu nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, hiện đại hoá khâu thiết kế sản phẩm, lựa chọn hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến trên thế giới phù hợp với doanh nghiệp để nâng cao chất lượng sản phẩm. Chiến lược hạ thấp chi phí: bao gồm các chi phí đầu vào và các chi phí trung gian khác để hạ giá thành nâng cao lợi nhuận và có khả năng bán hàng ra với giá cạnh tranh. Chiến lược chuyên biệt hoá sản phẩm: luôn tìm cách để sản phẩm của doanh nghiệp mình có tính khác biệt độc đáo ở một số điểm nào đó, so với sản phẩm cùng loại của các doanh nghiệp khác (giá trị sử dụng, mẫu mã, bao bì) Chiến lược tiêu điểm: cũng có thể doanh nghiệp chỉ tập trung vào một vài phân khúc của thị trường trọng điểm, trực tiếp phục vụ cho nhu cầu của một nhóm khách hàng hạn chế có thể phân theo khu vực địa lý hoặc theo mức độ giàu nghèo, tuổi tác, nghề nghiệp, hoặc phân theo khúc nhỏ của thị trường trên một tuyến sản phảm đặc thù theo khả năng và ưu thế của doanh nghiệp. Chiến lược marketing: làm tốt công tác nghiên cứu thị trường, tạo được một đội ngũ những người tiếp thị, phát triển mạng lưới tiếp thị nhanh nhạy, rộng khắp, luôn có kế hoạch mở rộng thị trường phát triển mạng lưới tiêu thụ, thường xuyên đưa ra các hình thức khuyến mại phù hợp với từng lúc, từng nơi, cải tiến phương thức phục vụ khách hàng. Nâng cao chất lượng của hệ thống phân phối, kể cả các dịch vụ trước và sau khi bán hàng phù hợp với những đặc điểm và văn hoá tiêu dùng ở những thị trường khác, cần nắm vững và phản ứng nhanh với các thay đổi của đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Chiến lược đổi mới công nghệ: xây dựng kế hoạch để từng bước đổi mới dây truyền công nghệ, thay thế dần công nghệ cũ bằng công nghệ mới để tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng hàng hoá. Trước tiên lựa chọn các khâu quan trọng trong đây chuyền sản xuất để tiến hành hiện đại hoá trước. Chiến lược con người: Nâng cao trình độ nâng lực kinh doanh, điều hành quản lý doanh nghiệp, nhất là đối với việc nâng cao trình độ của giám đốc doanh nghiệp, tay nghề của người lao động, trình độ và kiến thức về tiếp thị, tiếp thu khoa học kỹ thuật, trình độ công nghệ thông tin, chú trọng đến những sáng kiến cải tiến của người lao động ở các khâu khác nhau trong hoạt động của doanh nghiệp. Có các hình thức khuyến khích lao động làm việc tố hơn. Chiến lược xây dựng và quảng cáo cho thương hiệu sản phẩm: Thương hiệu là kết quả của qua trình tiếp thị và quảng cáo lâu dài, phải tốn kém nhưng nó rất quan trọng, một khi sản phẩm của các hãng đều na ná như nhau về chất lượng và giá cả thì thương hiệu là cái duy nhất để khách hàng mua hàng của doanh nghiệp mình chứ không mua của người khác. Một thương hiệu mạnh có thể giúp doanh nghiệp đạt vị thế dẫn đầu trong nghành.Thương hiệu càng nổi tiếng thì khả tăng thị phần của nó trên thị trường càng cao. Nhờ đó doanh nghiệp có thể điều tiết thị trường, định gía cao hơn, chi phối làm cho các đối thủ khác phải nản lòng khi tranh dành thị trường. Chiến lược văn hoá doanh nghiệp: Các DNVN muốn đứng vững và phát triển trong cạnh tranh thì cần xây dựng cho mình một mô hình văn hoá doanh nghiệp; đó là xây dựng chế độ lương bổng cao, chế độ làm việc ổn định, xây dựng quan hệ giữa các thành viên trong doanh nghiệp như một đại gia đình, hướng tới một tinh thần đồng đội cao, đồng thời có quy định rõ ràng về thưởng phạt, như vậy mới tạo ra động lực cạnh tranh đó là động lực phát triển doanh nghiệp. Chiến lược vốn: Trên cơ sở chiến lược kinh doanh dài hạn và các mục tiêu trước mắt, doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược huy động vốn. Một trong những yếu điểm của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là thiếu vốn, vốn ít nhưng một số ngân hàng thương mại lại thừa vốn. Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp Việt Nam cần xây dựng được phương án kinh doanh khả thi và ngân hàng cũng phải tiến hành phương thức cho vay, trợ giúp doanh nghiệp chứ không nên cho vay một cách thụ động máy móc. Bên cạnh nguồn vốn ngân hàng, các công ty cổ phần, doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, các tổng công ty có thể huy động vốn từ thị trường chứng khoán thông qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Đây là nguồn vốn rẻ và ổn định, giúp các doanh nghiệp thực hiện các dự án kinh doanh lớn, thời gian dài. Nếu thực hiện được các điều trên đây thì đó là một hệ quả rất lôgic của một hệ thống doanh nghiệp hướng về trường kỳ và chắc chắn sẽ đủ năng lực cạnh tranh khi việc thực hiện AFTA hoàn tất Kết luận Theo như cam kết thì thời gian hoàn thành lộ trình cắt giảm thuế quan trong CEPT đang đến ngần (2006). Các cơ hội và thách thức của các DNVN khi tham gia AFTA đã được xác định. Một số giải pháp và kiến nghị nêu trên là sự đóng góp của bản thân tôi đối với việc tăng khả năng cạnh tranh của các DNVN hiện nay trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt khi hội nhập AFTA. Người ta đã thấy rõ sự giàu mạnh của một quốc gia khởi nguồn từ sự giàu mạnh của các doanh nghiệp. Vì thế, sự mạnh hay yếu của các DNVN không chỉ có ý nghĩa riêng đối với các doanh nghiệp mà còn có mối liên hệ mật thiết với lợi ích xã hội, lơi ích của người tiêu dùng và trên tất cả thì sự lớn mạnh của doanh nghiệp có liên hệ mật thiết với sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, dân chủ. Trong một tương lai không xa, khi thực hiện các cam kết hội nhập theo AFTA, và việc thực hiện hiệp định thương mại Việt - Mĩ và tổ chức thương mại thế giới thì việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp không chỉ là trách nhiệm của chính phủ, các doanh nghiệp mà còn là toàn xã hội, đòi hỏi cần tiến hành càng sớm càng tốt trong chiến lược cạnh tranh tổng thể, gắn với bối cảnh trong nước và thế giới đầy biến động. Danh mục tham khảo Giáo trình kinh tế quốc tế. 1998. Trường Đại học Kinh tế quốc dân Việt Nam và các tổ chức kinh tế quốc tế (Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế) Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1998 Tạp chí nghiên cứu Đông Nam á Số 1/2001; 2/2001 Kinh tế Châu á Thái Bình Dương Số 5 (10/2001); Số 3 (6/2001) Tạp chí kinh tế phát triển Số 138 (4/2002); Số 172 (5/2001); Số 118 (8/2000) Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0113.doc
Tài liệu liên quan