Đề nghị mở rộng chính sách quy định tại pháp lệnh chống tham nhũng, cho phép cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý tại doanh nghiệp cổ phần hoá được mua cổ phần như các cổ đông khác (ngoài phần mua theo giá ưu đãi), nếu họ có khả năng tài chính có thể mua được cao hơn, để tạo niềm tin cho tập thể người lao động trong doanh nghiệp và các cổ đông ngoài doanh nghiệp mua nhiều và nhanh số cổ phần bán ra.
Vai trò của cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp có một ý nghĩa quan trong, nó quyết định sự thành công trong thực hiện cổ phần hoá của từng doanh nghiệp, thế nhưng họ lại thấy rằng quyền lợi cuả họ bị kìm lại bởi nhiều quy định. Cụ thể như nghị định 44/CP (ngày 29-06-1998) không giới hạn cổ phần mà giám đốc trong doanh nghiệp được mua, nhưng trong pháp lệnh chống tham nhũng thì giám đốc chỉ được mua không quá số cổ phiếu ưu đãi bình quân của người lao động trong công ty. Việc khống chế người lãnh đạo, người quản lý doanh nghiệp chỉ được mua cổ phần theo giá ưu đãi tối đa bằng mức bình quân của cổ đông trong doanh nghiệp đã là một điều thiếu bình đẳng khiến cho các đối tượng này thiếu hăng hái trong việc tiến hành cổ phần hoá. Và điều làm cho các vị giám đốc tâm tư hơn nữa là theo các quy định tại nghị định 73/CP (06-12-2000) thì giám đốc sẽ mất quyền quản lý vốn doanh nghiệp nếu nắm giữ dù chỉ một cổ phiếu của doanh nghiệp. Thực tế đã cho thấy ở doanh nghiệp nào mà người lãnh đạo và người quản lý không hăng hái nhiệt tình tham gia thì quần chúng nơi đó cũng không tin tưởng, nhiệt tình tham gia chương trình cổ phần hoá, và tiến trình cổ phần hoá ở các doanh nghiệp đó thường bị kéo dài một cách không cần thiết, thậm chí cơ cấu vốn điều lệ của công ty cổ phần cũng không đảm bảo đúng như phương án cổ phần hoá đã đề ra vì gặp những trở ngại trong quá trình bán cổ phần. Nhiều doanh nghiệp đã cổ phần hoá không thuộc diện Nhà nước phải nắm giữ cổ phần chi phối, thế nhưng số cổ phần do Nhà nước và các doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ còn khá lớn (khoảng trên 30%) do không bán hết. Điều đó cho thấy cần phải xem xét, sửa đổi, bổ sung lại các quy định về việc khống chế quyền mua cổ phần sao cho hợp lý và linh hoạt để việc thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước được thuận lợi hơn, công bằng hơn, đảm bảo hoạt động cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đáp ứng triệt để hơn các mục tiêu đã được đặt ra.
79 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1189 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhà nước chỉ chiếm 22,6% tổng số vốn của công ty cổ phần, vốn của các đối tượng khác chiếm 77,4% nhưng lại là nguồn vốn phân tán, do đó phần sở hữu của nhà nước trong các công ty vẫn giữ vai trò trọng yếu, chi phối hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Tóm lại từ thực tế cổ phần hoá của cả nước mà điển hình là thành phố Hà Nội cho thấy việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sang hình thức cổ phần chẳng những giúp nhà nước bảo tồn nguồn vốn của mình mà còn tăng đáng kể tỷ suất lợi nhuận trên nguồn vốn trước đây, nhà nước cũng thu hồi vốn để đầu tư cho các DN khác. Vai trò của người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá cũng có sự đổi khác họ vừa làm việc cho công ty cổ phần vừa là chủ sở hữu công ty trên cơ sở đồng vốn của mình. Vì thế ý thức và tinh thần trách nhiệm được nâng cao hơn trước. Hoạt động của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá nhạy bén năng động tự chủ hơn trước. Nhờ đó mà chất lượng hiệu quả công việc cũng cao hơn trước, các khoản đóng góp vào ngân sách nhà nước cũng tăng lên.
Cổ phần hoá đã đem lại lợi ích cho cả nhà nước, người lao động và cổ đông của doanh nghiệp. Từ thực tế đó đã chứng minh rằng chủ trương của Đảng và nhà nước ta về cổ phần hoá là hoàn toàn đúng đắn.
Về phía nhà nước và thành phố: để xem xét một cách khách quan về kết quả cổ phần hoá đạt được, chúng ta không thể không nói đến những thuận lợi khi thực hiện chủ trương cổ phần hoá hiện nay.
Chương trình cổ phần hoá của doanh nghiệp nhà nước được sự quan tâm rất lớn của Đảng và nhà nước ta. Nghị quyết hội nghị lần thứ 3 ban chấp hành TW đảng khoá IX đã tái khẳng định quyết tâm sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước mà cổ phần hoá là một trong những hình thức quan trọng nhằm cải cách doanh nghiệp nhà nước cả về số và chất lượng, giúp các doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay.
Nhờ vào chính sách đổi mới, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của nhà nước trong nhiều năm qua, thu nhập dân cư tăng cao. Số người khá giả ở thành thị và nông thôn ngày càng nhiều. Đây là lượng cầu tiềm năng đáp ứng cho các chứng khoán phát hành ở những doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá.
Cơ chế thị trường đã tạo ra một đội ngũ những nhà quản lý doanh nghiệp có khả năng kinh doanh lớn, người lao động trong doanh nghiệp đã thích ứng với loại hình chứng khoán là cổ phiếu được phát hành ở doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. Đồng thời những thành quả bước đầu của chương trình cổ phần hoá đã giúp nhân dân thêm tin tưởng và ủng hộ chính sách của Đảng và nhà nước.
Sự ra đời của trung tâm giao dịch chứng khoán đã góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy hoạt động trao đổi, mua bán cổ phiếu, kêu gọi sự đầu tư từ công chúng. Đây là nhân tố ảnh hưởng khá tích cực đến tiến trình cổ phần hoá.
Đồng thời được sự chỉ đạo thường xuyên và sự quan tâm sâu sát của uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội cùng những chính sách và chủ trương chỉ đạo từ phía uỷ ban nhân dân thành phố, nên Hà Nội luôn dẫn đầu cả nước về tốc độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Về phía doanh nghiệp thì việc thu hút vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế khác trở nên dễ dàng hơn, doanh nghiệp có khả năng đổi mới công nghệ, nâng cao tinh thần trách nhiệm của người lao động, nâng cao tính năng động của ban giám đốc các công ty. Khiến cho công ty có khả năng cạnh tranh với các đối thủ khác. Thu nhập của người lao động được nâng lên đáng kể, doanh nghiệp dần dần có tích luỹ nội bộ, hoàn thành được nghĩa vụ với nhà nước. Doanh nghiệp sẽ tự chủ hơn trong hoạt động kinh doanh chứ không còn phụ thuộc vào chỉ tiêu nhà nước giao cho như trước.
Nhà nước không còn phải bỏ tiền ra để bù lỗ cho doanh nghiệp như trước nữa, mà để tiền đó đầu tư vào các lĩnh vực khác. Nhà nước thu hồi được một phần vốn trong doanh nghiệp khi cổ phần hoá.
3.2. Tồn tại và nguyên nhân làm chậm tiến trình cổ phần hoá.
Về thủ tục chuyển giao bất động sản nhà xưởng và vật kiến trúc: nhà có nhiều hộ nhiều tầng, nhiều cơ quan và cá nhân cùng quản lý sử dụng chung với doanh nghiệp cổ phần hoá. Doanh nghiệp cổ phần hoá đã đầu tư xây dựng cơ bản trên đất đi thuê của doanh nghiệp nhà nước khác chưa cổ phần hoá hoặc tổ chức khác,
Về công nợ trước khi cổ phần hoá: có đến 80% số doanh nghiệp trong diện cổ phần hoá đều có tình trạng nợ phải thu khó đòi mà con nợ vẫn tồn tại cần phải xử lý trước khi xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá: con nợ vẫn tồn tại và còn địa chỉ pháp nhân đang chuẩn bị giải thể hoặc phá sản, hàng năm vẫn có xác nhận nợ và hứa trả, nhưng không trả hoặc trả rất ít. Con nợ đang bị truy nã, bị tù không còn tài sản, hay đang trong quá trình điều tra để đưa ra xét xử. Con nợ là những nông dân, ngư dân, mua vật tư để sản xuất do thiên tai, do làm ăn thua lỗ chậm trả kéo dài ...
Về phía doanh nghiệp có tình hình tài sản, tình hình tài chính phức tạp chưa có cơ chế xử lý như: công nợ tồn đọng nhưng không lập hồ sơ, nợ phải thu khó đòi chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn vốn. Doanh nghiệp có liên doanh với nước ngoài nhưng liên doanh thua lỗ chưa có cơ chế xử lý. Vẫn còn một số giám đốc doanh nghiệp trong diện cổ phần hoá chưa muốn làm, lần lựa nêu lý do để xin rút tên để có thời gian “củng cố lại” trước khi cổ phần hoá ...
Đối với đơn vị chủ quản: uỷ ban nhân dân thành phố đã giao kế hoạch cổ phần hoá cho các quận huyện, sở ban ngành, tổng công ty 90 theo chỉ tiêu số lượng doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá của chính phủ giao, nhưng các cơ quan chủ quản chậm triển khai nhất là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc là thành viên của các tổng công ty 90, vì tổng công ty sợ bị mất vốn.
Phần iii: Một số cơ chế giải pháp đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá.
I. Quan điểm và mục tiêu đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Quan điểm cổ phần hoá
Thực hiện từng bước vững chắc việc cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn nhằm ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả.
Phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp
Cần thực hiện các hình thức cổ phần hoá có mức độ thích hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất kinh doanh, trong đó sở hữu Nhà nước chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối.
Tùy tính chất, loại hình doanh nghiệp mà tiến hành bán một tỷ lệ cổ phần cho công nhân, viên chức làm việc tại doanh nghiệp để tạo động lực bên trong trực tiếp thúc đẩy phát triển và bán cổ phần cho tổ chức hay cá nhân ngoài doanh nghiệp để thu hút thêm vốn, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh.
2. Mục tiêu cổ phần hoá của Hà Nội đến cuối 2005.
Về mục tiêu cổ phần hoá thì chính phủ đã ra nghị định 64/2002/NĐ-CP nhằm bổ sung thay thế nghị định 44/1998/NĐ-CP, và bổ sung một số tư tưởng, quan điểm chỉ đạo mới trong nghị quyết Hội nghị Ban chấp Hành trung ương lần 3 khoá IX về tiếp tục sắp xếp đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, bao gồm một số mục tiêu cơ bản sau:
Góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp; tạo ra loại doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu trong đó có đông đảo người lao động; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước và của doanh nghiệp.
Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm: cá nhân, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp.
Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông, tăng cường sự giám sát của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp, đảm bảo hài hoà lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp nhà đầu tư và người lao động.
Riêng đối với Hà Nội mục tiêu đến năm 2005 sẽ chuyển đổi sắp xếp 45% số doanh nghiệp hiện nay (là một số doanh nghiệp hiện đang làm ăn có lãi nhưng nhà nước không cần sở hữu hoàn toàn nữa hoặc những doanh nghiệp hiện đang tạm thời lỗ), tiến hành giải thể 5% số doanh nghiệp nhà nước làm ăn thường xuyên thua lỗ và chỉ duy trì 50% số doanh nghiệp nhà nước hiện có, đây là những doanh nghiệp nhà nước làm ăn có lãi trong thời gian dài và những doanh nghiệp giữ vai trò định hướng, trọng yếu không thể tiến hành cổ phần hoá, những doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng ít lãi nhưng thiết yếu. Trong giai đoạn 2003 - 2005 sẽ tiến hành cổ phần hoá 63 doanh nghiệp nhà nước có đủ điều kiện để tiến hành cổ phần hoá.
Khi tiến hành cổ phần hoá nhà nước sẽ nắm giữ hơn 50% tổng số cổ phần của công ty khi cổ phần hoá với những doanh nghiệp sau:
- Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh: có vốn từ 10 tỷ đồng trở lên, nộp ngân sách nhà nước bình quân 3 năm trước liền kề là hơn 1 tỷ đồng như: khai thác lọc nước sạch thành phố (công ty kinh doanh nước sạch số 2), công nghiệp và xây dựng (công ty cơ điện Trần Phú, công ty bê tông và xây dựng Thịnh Liệt, công ty vật liệu Cầu Đuống, công ty kinh doanh và phát triển nhà Thanh Trì, công ty kinh doanh và phát triển nhà Đống Đa, công ty tu tạo và phát triển nhà, công ty xây dựng số 1, công ty xây dựng công nghiệp, công ty xây dựng giao thông số 3, công ty đầu tư xây lắp thương mại)
- Hoạt động khai thác: In các loại (công ty in tổng hợp Hà Nội), dịch vụ hợp tác lao động (công ty lao động hợp tác quốc tế),
- Doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích: sản xuất giống cây trồng vật nuôi (công ty giống cây trồng Hà Nội, công ty giống gia súc), quản lý khai thác công trình thuỷ nông đầu nguồn, công trình thuỷ nông quy mô lớn (công ty khai thác công trình thuỷ nông Đông Anh, công ty khai thác công trình thuỷ nông Từ Liêm, công ty khai thác công trình thuỷ nông Sóc Sơn, công ty khai thác công trình thuỷ nông Thanh Trì).
Còn trực thuộc quản lý của thành phố Hà Nội không có nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực quan trọng khi tiến hành cổ phần hoá, do vậy nhà nước không cần phải nắm giữ > 50% tổng số cổ phần của doanh nghiệp
- Những doanh nghiệp mà nhà nước giữ cổ phần đặc biệt quyết định một số vấn đề quan trọng để đảm bảo an ninh, kinh tế, quốc kế, dân sinh thì theo như quy định của thủ tướng chính phủ nhà nước sẽ giữ lại vốn cổ phần nhà nước là 51% vốn điều lệ.
Phương án sắp xếp doanh nghiệp nhà nước từ 2003 - 2005 sau khi sắp xếp thì Hà Nội chỉ còn khoảng 100 doanh nghiệp nhà nước. Trong đó tổng nguồn vốn thuộc sở hữu của nhà nước là 2.491.177 triệu đồng. Như vậy trung bình mỗi doanh nghiệp nhà nước sẽ có số vốn trung bình là khoảng 24.198 triệu đồng.
Tỷ trọng doanh nghiệp nhà nước giữ lại là 45,5 %
Tỷ trọng của vốn nhà nước của 100 doanh nghiệp nhà nước cần duy trì 100 % sở hữu nhà nước so với trước khi sắp xếp là 74,4 %
Tỷ trọng số doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá là 24,3%
Tỷ trọng vốn nhà nước của doanh nghiệp sẽ thực hiện cổ phần hoá là 10,5%
Tỷ trọng số doanh nghiệp được giao bán là 1%
Tỷ trọng vốn trong các doanh nghiệp được giao bán là 0,21 %
Tỷ trọng doanh nghiệp sát nhập, hợp nhất là 14,4%
Tỷ trọng vốn của doanh nghiệp nhà nước hợp nhất là 6,7%
Tỷ trọng doanh nghiệp giải thể, phá sản là 3,6%
Tỷ trọng vốn của doanh nghiệp nhà nước phá sản là 0,14%
Lao động trong các doanh nghiệp là 68.139 người (trong đó lao động chờ sắp xếp là 316 người).
Trong số hơn 100 doanh nghiệp giữ lại phát triển ưu tiên các ngành nghề sản xuất công nghiệp, xây dựng thương mại dịch vụ. áp dụng thí điểm 5 doanh nghiệp theo mô hình công ty mẹ công ty con và 10 doanh nghiệp chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên, giải thể doanh nghiệp hoạt động theo mô hình liên hiệp chuyển sang hình thức hoạt động khác ngay trong năm nay (2003).
Mục tiêu:
Tạo lập những tiền đề cơ bản toàn diện để doanh nghiệp nhà nước phát huy quyền tự chủ trong kinh doanh, huy động nguồn vốn và nguồn nội lực phát triển sản xuất kinh doanh bảo toàn vốn.
Cổ phần hoá giúp tổ chức sắp xếp lại một bước cơ bản của doanh nghiệp nhà nước hình thành cơ cấu hợp lý trong khu vực kinh tế nhà nước nhằm tích tụ tập trung sản xuất hình thành một số tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp lớn, có sức cạnh tranh và phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước của khu vực thủ đô.
Tách chức năng quản lý nhà nước về kinh tế ra khỏi chức năng quản lý sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp nhà nước. Thúc đẩy cải cách hành chính đổi mới sắp xếp lại bộ máy chính quyền ở các cấp thuộc thành phố Hà Nội nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đẩy nhanh tiến độ, nâng cao hiệu quả cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
II. Một số cơ chế giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá.
1. Nâng cao nhận thức về cổ phần hoá.
Nhà nước đã tiếp tục xây dựng nhiều chính sách mới, đặc biệt là NĐ 64/2002/NĐ-CP. Tuy nhiên, về tác động thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước của nghị định mới, điều này là chưa rõ ràng. Điểm mấu chốt vẫn là tư tưởng trong các bộ, ngành, cho dù chính sách mới có những thay đổi thông thoáng đến bao nhiêu, nhưng nếu cơ quan chủ quản vẫn còn cố tình níu kéo để giữ lại doanh nghiệp thành viên thì khó mà nói tới chuyện hiệu quả được. Cần tích cực thực hiện việc phổ biến, tuyên truyền chủ trương, chính sách cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước với những hình thức đa dạng hơn, coi trọng hiệu quả của công tác này.
Các cơ quan quản lý cần phải hiểu rõ theo Luật doanh nghiệp thì cơ quan quyền lực cao nhất của doanh nghiệp nhà nước sau khi chuyển sang công ty cổ phần là đại hội cổ đông và giữa kỳ đại hội là hội đồng quản trị, theo đó để xác định đúng đối tượng trong các quan hệ hành chính của mình, không can thiệp vào chức năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau cổ phần hóa như một doanh nghiệp Nhà nước trước đây. Cũng vậy, khi công ty đã có phương án sản xuất kinh doanh, phương án đầu tư xây dựng được đại hội cổ đông hoặc hội đồng quản trị phê chuẩn thì cơ quan cấp giấy phép cũng không nên đòi hỏi các thủ tục khác, chẳng hạn như phải được "cơ quan chủ quản phê duyệt". Tránh tình trạng không rõ ràng trong quan hệ giữa tổng công ty và các công ty thành viên đã cổ phần hoá như nhiều doanh nghiệp vẫn bị dội xuống các văn bản chỉ đạo từ Tổng công ty quản lý trước đây.
2. Hoàn thiện cơ chế chính sách về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Thứ nhất, nên có sự điều chỉnh chính sách ưu đãi với người lao động trong doanh nghiệp nhà nước chuyển sang công ty cổ phần cho phù hợp với tình hình thực tế và tạo động lực mạnh mẽ hơn.
- Ngoài việc bán cổ phiếu ưu đãi cho người người lao động với giá ưu đãi như hiện nay, Nhà nước có thể cho hẳn người lao động một số cổ phần nhất định theo thâm niên và mức độ cống hiến của họ với sự phát triển doanh nghiệp
- Trong ưu đãi với người lao động nghèo, thay vì quy định tiêu chuẩn chung cho tất cả các vùng trong việc xếp loại lao động nghèo (<300.000 đồng/người), cần có tiêu chuẩn riêng theo vùng, bởi lẽ mức giá sinh hoạt của các vùng rất khác nhau.
- Cần có sự phân biệt mức độ ưu đãi cho người lao động theo ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh, khắc phục tình trạng dàn trải có tính chất bình quân như hiện nay.
Thứ hai, thực hiện đúng nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp nêu trong nghị định 44/1998/NĐ-CP là "giá mà người mua và người bán đều có thể chấp nhận". theo đó, cần chú ý một số điểm sau:
- Điều chỉnh theo hướng tăng thêm phần ưu đãi cho người lao động ở các doanh nghiệp có vốn tự tích lũy lớn, và không tính vào giá trị doanh nghiệp các loại tài sản không phù hợp với phương án kinh doanh tương lai của công ty cổ phần
- Giá trị thực tế quyền sử dụng đất tại doanh nghiệp
- Mở rộng thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp và quyền quyết định chuyển doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần "cơ quan nào ra quyết định thành lập doanh nghiệp Nhà nước, cơ quan ấy có quyền quyết định chuyển doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần" với điều kiện tuân thủ chặt chẽ quy định của Nhà nước, không làm thất thoát vốn và tài sản.
- Chi phí cho quá trình cổ phần hóa cần được tính theo giá trị cổ phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp chứ không phải tính theo giá trị thực tế của doanh nghiệp.
Thứ ba, cần chú trọng hướng dẫn việc bán cổ phiếu cho Việt kiều và người nước ngoài nhằm đa dạng hóa các nguồn vốn cho phát triển doanh nghiệp.
Riêng về việc đưa giá trị đất vào giá trị doanh nghiệp, nghị định quy định trước mắt vẫn áp dụng chính sách thuê đất và giao đất theo quy định hiện hành. Thí điểm tính giá trị đất chỉ mới áp dụng đối với diện tích đất giao cho doanh nghiệp để kinh doanh nhà và hạ tầng, bởi đây là vấn đề rất khó nên cần có thời gian nghiên cứu thêm.
3. Vấn đề lựa chọn và củng cố doanh nghiệp nhà nước để thực hiện cổ phần hoá.
3.1. Lựa chọn doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá.
Theo tinh thần của NĐ 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ thì đối tượng cổ phần hoá đã được quy định thông thoáng hơn, rõ ràng hơn, mặt khác, cổ phần hoá không còn là tự nguyện của doanh nghiệp mà theo sự phân định của Chính phủ trên cơ sở phương án sắp xếp và chuyển chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp Nhà nước của các bộ, ngành và các địa phương, đồng thời doanh nghiệp phải đủ các điều kiện của cổ phần hoá như quy định tại nghị định 64/2002/NĐ-CP. Do thiếu các tiêu thức cần thiết quy định và hướng dẫn việc lựa chọn doanh nghiệp để thực hiện cổ phần hoá nên đã dẫn tới tình trạng các bộ, ngành, địa phương quy định việc lựa chọn doanh nghiệp để cổ phần hoá rất khác nhau.
Cho nên việc chọn doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá là: bất cứ doanh nghiệp nào không thuộc diện nhà nước phải đầu tư hoặc tiếp tục giữ 100% vốn, đều sẽ cho cổ phần hoá, trong số này không có tiêu chuẩn cho doanh nghiệp nào muốn thì cổ phần hoá, doanh nghiệp nào không muốn thì thôi.
Tiêu chuẩn doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá là bộ phận phụ thuộc của doanh nghiệp nhà nước phải có đủ điều kiện hạch toán độc lập và không gây khó khăn hay ảnh hưởng xấu đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và các bộ phận còn lại.
Ngoài ra doanh nghiệp hạch toán độc lập có vốn < 5 tỷ, nếu không cổ phần hoá thì tiến hành giao bán, khoán kinh doanh, cho thuê.
3.2. Củng cố doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá.
Thành lập công ty đầu tư tài chính của nhà nước theo mô hình của Trung Quốc. Công ty này quản lý các vấn đề kinh doanh và đại diện cho chính phủ làm chủ sở hữu vốn của doanh nghiệp nhà nước, còn các bộ ngành chỉ làm nhiệm vụ quản lý nhà nước.
Tách quyền sở hữu tài sản ra khỏi quyền quản lý và khai thác của doanh nghiệp. Nhà nước dùng các chỉ tiêu về doanh số, lợi nhuận, khả năng thanh toán nợ để quản lý doanh nghiệp nhà nước, còn lại giao cho hội đồng quản trị hoặc giám đốc toàn quyền quyết định các vấn đề cụ thể trong quá trình sản xuất, kinh doanh như: mua sắm thanh lý, cầm cố, thế chấp tài sản, quyền quyết định tỷ lệ khấu hao, đầu tư phát triển, trả lương công nhân, tính toán chi phí sản xuất... Thu nhập của công nhân, giám đốc doanh nghiệp tính theo hiệu quả kinh doanh không khống chế định mức mà chỉ quy định mức lương tối thiểu như của nhà nước là được, không khống chế mức tối đa.
Giám đốc doanh nghiệp là một nghề, không phải là một chức vụ, nên phải được đào tạo theo chương trình khoa học. Thực hiện thuê giám đốc để điều hành doanh nghiệp nhà nước, nhưng trước hết phân định rõ mối quan hệ giữa giám đốc và hội đồng quản trị, giữa giám đốc và cấp uỷ tại doanh nghiệp.
Hạn chế đưa các chi phí xã hội vào doanh nghiệp nhà nước. Không dùng tiền thuế của dân và các thành phần kinh tế khác để cấp vốn hay đầu tư cho doanh nghiệp nhà nước, gây thói chây ỳ ỷ lại ở các doanh nghiệp nhà nước gây thất thoát lãng phí kém hiệu quả.
4. Hoàn thiện định giá doanh nghiệp nhà nước và vấn đề nhà đất.
4.1. Hoàn thiện định giá nhà đất.
Cho phép áp dụng nhiều phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá, đồng thời quy định tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá như cơ quan có thẩm quyền quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp sẽ chỉ định người đại diện làm chủ tịch hội đồng, cơ quan tài chính (cung cấp) cử người đại diện làm chủ tịch hội đồng; hoặc lựa chọn công ty kiểm toán và tổ chức kinh tế có chức năng định giá.
Giá trị quyền sử đụng đất được tính vào giá trị doanh nghiệp đối với diện tích đất nhà nước giao cho doanh nghiệp để kinh doanh nhà và hạ tầng ; doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được hưởng các quyền sử dụng đất theo quy định của luật đất đai.
Xác định lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được so với lãi suất của trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm ở thời điểm gần nhất. Cho phép tính giá trị thương hiệu vào giá trị doanh nghiệp, nếu rõ ràng thì được thị trường chấp nhận.
Kết quả xác định giá trị doanh nghiệp là cơ sở xác định mức giá sàn để tổ chức bán cổ phần cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp .
Toàn bộ giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá do bộ trưởng các bộ, chủ tịch UBND tỉnh thành phố quyết định, trừ trường hợp giá trị doanh nghiệp thực tế nhỏ hơn so với trên sổ sách kế toán của doanh nghiệp từ 500 triệu đồng trở lên, thì cần phải thoả thuận bằng văn bản của bộ tài chính.
Cách xác định giá trị doanh nghiệp cũng có nhiều quy định thoáng hơn với điều khoản cho áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để xác định giá trị, và có thể thuê các công ty kiểm toán hoặc các tổ chức kinh tế có chức năng để định giá doanh nghiệp. Giá trị được xác định này dùng để bán cổ phần cho người lao động, còn đối với cổ phần bán ra ngoài (được quy định phải bán ra ngoài tối thiểu 30%) thì đó chỉ là "giá sàn" để làm cơ sở bán đấu giá. Việc bán đấu giá này được quy định thực hiện thông qua các tổ chức tài chính trung gian. Cách làm như vậy nhằm mục đích đưa giá bán doanh nghiệp sát hơn với giá trị thật, hạn chế những phản ánh định giá doanh nghiệp thấp, gây thất thoát tài sản nhà nước.
Giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá có tính đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được. Giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp là giá trị thực tế của doanh nghiệp sau khi dã trừ các khoản nợ phải trả và số dự Quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi.
Giá trị tài sản của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào chất lượng tài sản, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp. Chất lượng tài sản của doanh nghiệp căn cứ vào khả năng bảo đảm an toàn trong vận hành và sử dụng tài sản; bảo đảm chất lượng sản phẩm và môi trường. Giá trị quyền sử dụng đất, trước mắt vẫn áp dụng chính sách thuê đất và giao đất theo quy định hiện hành. ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố tính lại giá thuê đất ở những vị trí thuận lợi để áp dụng chung cho mọi loại hành doanh nghiệp. Đối với diện tích đất Nhà nước giao cho doanh nghiệp để kinh doanh nhà và hạ tầng thì phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá. Giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp được xác định trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp trên vốn nhà nước tại doanh nghiệp bình quân trong 3 năm liền kề trước khi cổ phần hoá so với lãi suất của trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm ở thời điểm gần nhất nhân với giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp tại thời điểm định giá. Nếu doanh nghiệp có giá trị thương hiệu được thị trường chấp nhận thì xác định căn cứ vào thị trường.
Kết quả xác định giá trị doanh nghiệp là cơ sở để xác định cơ cấu cổ phần bán lần đầu, thực hiện chính sách đối với người lao động trong doanh nghiệp, người sản xuất và cung cấp nguyên liệu, xác định mức giá "sàn" để tổ chức bán cổ phần cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp chỉ được cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh lại trong trường hợp doanh nghiệp có khó khăn trong việc bán cổ phần và trong trường hợp xác định lại giá trị doanh nghiệp từ thời điểm định giá đến thời điểm doanh nghiệp chính thức chuyển thành công ty cổ phần.
Trước khi xác định giá trị doanh nghiệp cần phải xử lý tài sản thuê, mượn, góp vốn liên doanh, liên kết, tài sản không cần dùng, tài sản được đầu tư bằng Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi.
4.2. Giải quyết vướng mắc về nhà đất.
Giá trị quyền sử dụng đất được tính vào giá trị thực tế của doanh nghiệp nhà nước khi chuyển thành công ty cổ phần. Giá trị quyền sử dụng đất, lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp về địa lý, uy tín doanh nghiệp, tính chất độc quyền về sản phẩm, mẫu mã, thương hiệu (nếu có) được tính là căn cứ xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp khi chuyển thành công ty cổ phần. Đối với diện tích đất nhà nước giao cho doanh nghiệp để kinh doanh nhà và hạ tầng thì phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá. Giá trị quyền sử dụng được xác định theo khung giá chuyển quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền quy định và không thấp hơn chi phí đã đầu tư như đền bù, giải phóng mặt bằng, san lấp mặt bằng... ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm tính lại giá thuê đất ở những vị trí thuận lợi để áp dụng cho mọi loại hình doanh nghiệp. Trước mắt nhà nước vẫn áp dụng chính sách thuê và giao đất theo quy định hiện hành.
Giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp được xác định trên cơ sở tỷ lệ lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp trên vốn nhà nước tại doanh nghiệp bình quân trong 3 năm liền kề trước khi cổ phần hoá so với lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm ở thời điểm gần nhất nhân với giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở thời điểm định giá. Nếu doanh nghiệp có giá trị thương hiệu được thị trường chấp nhận thì xác định căn cứ vào thị trường.
Riêng về việc đưa giá trị đất vào giá trị doanh nghiệp, nghị định quy định trước mắt vẫn áp dụng chính sách thuê đất và giao đất theo quy định hiện hành. Thí điểm tính giá trị đất chỉ nên áp dụng đối với diện tích đất giao cho doanh nghiệp để kinh doanh nhà và hạ tầng, bởi đây là vấn đề rất khó nên cần có thời gian nghiên cứu thêm.
5. Cơ chế phân bổ và tổ chức bán cổ phiếu.
5.1. Cơ chế phân bổ việc bán cổ phiếu
Không hạn chế số lượng cổ phần được mua lần đầu tại các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá đối với nhà đầu tư trong nước (trừ trường hợp doanh nghiệp thuộc diện nhà nước giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt). Cần quy định các điều kiện để xác định cổ đông sáng lập của doanh nghiệp cổ phần hoá là: Cổ đông sáng lập trong doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá phải thoả mãn các điều kiện tham gia thông qua điều lệ lần đầu cuả công ty cổ phần; cùng nhau nắm giữ ít nhất một số lượng cổ phần được quyền chào bán; sở hữu số lượng cổ phần đảm bảo mức tối thiểu của cổ đông sáng lập và số lượng cổ phần tối thiểu của cổ đông sáng lập do đại hội đồng cổ đông quyết định và ghi vào điều lệ công ty.
Cơ cấu cổ phần lần đầu của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được dành để bán theo giá ưu đãi (giảm giá 30% trên 100.000 đồng mệnh giá ban đầu của một cổ phần) cho người lao động trong doanh nghiệp, cho người sản xuất và cung cấp nguyên liệu ở những doanh nghiệp chế biến hàng nông lâm thuỷ sản; ngoài ra, phải theo một thứ tự ưu tiên khi bán cổ phần là:
- Nhà nước, nếu vẫn tiếp tục nắm giữ cổ phần.
- Người lao động trong doanh nghiệp được mua theo giá ưu đãi.
- Người sản xuất và cung cấp nguyên liệu cho doanh nghiệp, được phép mua theo giá ưu đãi.
- Mọi người, được mua số cổ phần còn lại, nhưng phải dành tối thiểu 30% để bán ra ngoài doanh nghiệp, trong đó ưu tiên cho các nhà đầu tư tiềm năng.
Cán bộ quản lý tại doanh nghiệp nhà nước, từ phó phòng nghiệp vụ trở lên không bị khống chế mức mua cổ phần theo giá ưu đãi bình quân trong doanh nghiệp. Người lao động trong doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá đều có quyền và nghĩa vụ như nhau dựa theo số năm tháng thực tế làm việc tại khu vực nhà nước trước khi cổ phần hoá. Tuy nhiên điều này cần phải được khẳng định lại, vì doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá vẫn phải chịu sự chi phối của điều 1 pháp lệnh chống tham nhũng.
Theo quy định thì việc mua cổ phần lần đầu tại các doanh nghiệp cổ phần hoá được khống chế như sau:
- Loại doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt thì mỗi pháp nhân được mua không quá 10%, mỗi cá nhân được mua không quá 5% tổng số cổ phần của doanh nghiệp.
- Loại doanh nghiệp mà Nhà nước không tham gia cổ phần thì không hạn chế số lượng cổ phần của mỗi pháp nhân và cá nhân nhưng phải bảo đảm số cổ đông tối thiểu theo Luật doanh nghiệp
Việc khống chế như trên còn quá chặt chẽ, cứng nhắc, đã hạn chế những nhà đầu tư muốn mua số lượng cổ phần lớn để được tham gia quản lý công ty, mà những nhà đầu tư loại này thường mong muốn thay đổi hẳn phương pháp quản lý của công ty. Do đó, thường dẫn tới hiện tượng người được quyền mua thì không có đủ tiền còn người có đủ tiền muốn mua thì lại không được mua. Chính điều này đã làm cho doanh nghiệp khó có thể thu hút được vốn từ nhiều nguồn khác nhau, để tiến hành mở rộng sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận. Các nhà đầu tư tiềm năng chỉ có thể sở hữu được tối đa 30% số cổ phiếu nên không thể tiến hành mở rộng doanh nghiệp theo hướng kinh doanh sản xuất những mặt hàng có lợi nhuận cao được. Chính vì thế việc khống chế số lượng chỉ có 30% số cổ phiếu được phép bán ra ngoài doanh nghiệp sẽ là hạn chế rất lớn nên chăng tỷ lệ này là 50% thì cổ đông bên ngoài doanh nghiệp nếu có tiền thì có thể nắm quyền quyết định những vấn đề quan trọng trong doanh nghiệp cổ phần hoá thì hợp lý hơn
Trong những trường hợp nhất định, cơ chế trên đã có những ảnh hưởng không tốt đến tiến trình bán cổ phần cũng như tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nói chung; đồng thời còn là một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng cho việc thực hiện các mục tiêu: huy động vốn và thay đổi phương thức quản lý của chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
5.2. Tổ chức bán cổ phiếu
Cổ phần được bán công khai tại doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, hoặc tại các tổ chức tài chính trung gian theo cơ cấu cổ phần lần đầu đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt trong phương án cổ phần hoá và sẽ được thực hiện theo phương thức bán đấu giá .
Việc bán cổ phần tại các doanh nghiệp này trước hết sẽ được tiến hành bán cho cổ đông trong doanh nghiệp, theo các quy định của nhà nước cho các đối tượng khác nhau đó. Số cổ phiếu còn lại ít nhất 30% mới được bán ra ngoài cho các cổ đông khác theo hình thức công khai tại doanh nghiệp hay trên thị trường thông qua tổ chức tài chính trung gian. Trong trường hợp doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu thì nộp bản giải trình về nhu cầu mở rộng doanh nghiệp đã được thông qua tại đại hội đồng cổ đông của công ty, rồi mới được phép phát hành cổ phiếu ra bên ngoài và được định giá theo giá thị trường.
Doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá có tình hình tài chính phù hợp với điều kiện niêm yết trên thị trường chứng khoán, thì phương án bán cổ phần ra bên ngoài phải đảm bảo các điều kiện để được niêm yết trên thị trường chứng khoán, sau khi chuyển thành công ty cổ phần.
Tiền thu từ bán cổ phần thuộc vốn nhà nước tại các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty nhà nước (không phân biệt tổng công ty 90 hay tổng công ty 91) sẽ được chuyển về quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá tổng công ty nhà nước.
Tiền thu từ bán phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được sử dụng để hỗ trợ doanh nghiệp thanh toán trợ cấp cho người lao động thôi việc mất việc tại thời điểm cổ phần hoá hoặc sau khi người lao động chuyển sang làm việc tại công ty cổ phần
Tiền thu từ bán phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá nên được sử dụng để hỗ trợ doanh nghiệp có khó khăn về khả năng thanh toán và để xử lý các khoản nợ quá hạn, nợ bảo hiểm xã hội.
5.3. Cần hoàn chỉnh chính sách bán cổ phần cho đối tác nước ngoài
Về mục tiêu của việc bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài quy chế quy định 3 mục tiêu đó là: huy động vốn, công nghệ (tiên tiến) và trình độ quản lý. Trong 3 mục tiêu đó thì mục tiêu nâng cao trình độ quản lý của các nhà quản lý doanh nghiệp là chủ yếu, nhưng muốn nâng cao trình độ quản lý của các nhà quản lý doanh nghiệp Việt Nam thì nên để nhà đầu tư nước ngoài tham gia quản lý công ty cổ phần, từ đó ta học được cách quản lý, điều hành của họ. Điều này có vẻ như mâu thuẫn với việc quy định nhà đầu tư nước ngoài chỉ được sở hữu không vượt 30% vốn điều lệ của công ty cổ phần, trong khi luật đầu tư nước ngoài lại cho phép các nhà đầu tư nước ngoài liên doanh với mức vốn góp không dưới 30% và được quyền thành lập các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam.
Về giá bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài cũng là điều cần bàn thêm. Cụ thể: một mặt quy chế quy định giá bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước thống nhất chung một giá, mặt khác lại quy định trong trường hợp nhiều nhà đầu tư nước ngoài đăng ký mua cổ phần vượt quá 30% số vốn điều lệ của công ty thì tổ chức đấu giá. Vậy khi đấu giá mà nhà đầu tư nước ngoài trả giá cao hơn nhà đầu tư trong nước thì có điều chỉnh giá mua cổ phần của nhà đầu tư trong nước không? trong thực tế các doanh nghiệp đã bán cổ phần cho các nhà đầu nước ngoài đều có mức giá cao hơn giá bán cho nhà đầu tư trong nước. Vậy quy định như vậy là can thiệp quá sâu vào doanh nghiệp.
Sự không thống nhất trong cơ chế chính sách về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước cùng với biện pháp phân cấp mạnh mẽ trong công tác tổ chức thực hiện cổ phần hoá như thiếu sự kiểm tra giám sát và chấn chỉnh kịp thời của Chính phủ và trách nhiệm rõ ràng của cơ quan được uỷ quyền đã dẫn đến sự không thống nhất trong việc triển khai cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở các địa phương và các bộ, ngành. Vì vậy đã có biểu hiện tuỳ tiện hoặc trây ỳ trong việc xúc tiến thực hiện chủ trương cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước.
6. Chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước và người lao động khi thực hiện cổ phần hoá.
6.1. Chính sách ưu đãi hợp lý đối với doanh nghiệp cổ phần hoá
Theo quy định, doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang công ty cổ phần được hưởng 6 ưu đãi, trong đó chủ yếu là ưu đãi về mặt tài chính.
Tuy vậy, cho đến nay những ưu đãi về tài chính của doanh nghiệp vẫn còn một số nội dung cần phải được tiếp tục hoàn thiện.
Về ưu đãi được "tiếp tục vay vốn tại ngân hàng thương mại, công ty tài chính, các tổ chức tín dụng khác của Nhà nước theo cơ chế và lãi suất như đã áp dụng đối với doanh nghiệp Nhà nước". Thực tế nhiều doanh nghiệp đã gặp phải khó khăn khi thực hiện ưu đãi này vì thông tư hướng dẫn của ngân hàng Nhà nước Việt Nam lại quy định chỉ những doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ cổ phần đặc biệt, cổ phần chi phối mới được tiếp tục vay vốn theo cơ chế và lãi suất hiện hành áp dụng đối với doanh nghiệp Nhà nước, còn những doanh nghiệp khác (nhà nước không nắm giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt) chỉ được hưởng ưu đãi này trong vòng 2 năm liên tiếp sau khi doanh nghiệp chuyển chính thức sang hoạt động theo Luật công ty, còn sau đó thì theo cơ chế tín dụng hiện hành áp dụng cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Vấn đề tỷ lệ cổ phần ưu đãi cho những doanh nghiệp Nhà nước có phần vốn tự tích luỹ nhiều, quy định hiện hành vẫn chưa hợp lý, và không thể thực hiện được vì nếu so sánh giữa phần vốn tự tích luỹ với giá trị doanh nghiệp thì khó có doanh nghiệp nào đảm bảo được tỷ lệ 10% chứ chưa nói đến tỷ lệ trên 40% như chế độ Nhà nước đã quy định.
Đối với một số doanh nghiệp trong diện cổ phần hoá có tình hình tài sản, tài chính phức tạp chưa có cơ chế xử lý như: do quá trình trước để lại công nợ nhưng không lập hồ sơ đầy đủ, nợ phải thu khó đòi chiếm tỷ trọng lớn trong phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, công nợ của giai đoạn I còn tồn đọng chưa xử lý xong... Tồn đọng này vẫn kéo dài chưa thể giải quyết được.
Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài nhưng liên doanh thua lỗ chưa có cơ chế xử lý.
Doanh nghiệp đang làm đề án cổ phần hoá nhưng phải tiến hành di dời, hoặc nhà cửa, kho, đất đai đang tranh chấp.
Doanh nghiệp trước đây bị thua lỗ và đã chi âm quỹ phúc lợi khen thưởng, gặp khó khăn trong phương hướng phát triển, nên chưa thể xây dựng đề án cổ phần hoá.
Nên phương hướng giải quyết cho doanh nghiệp loại này trong quá trình cổ phần hoá là:
Về công nợ thì các khoản nợ phải thu đã quá hạn thanh toán từ 3 năm trở lên (trước đây là 5 năm), tuy con nợ đang tồn tại nhưng không có khả năng trả nợ, được phép xử lý bằng cách trừ vào kết quả kinh doanh, hoặc cuối cùng không còn nguồn nào thì trừ vào phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp cổ phần hoá.
Nợ phải thu quá hạn thanh toán có thể được bán cho các tổ chức kinh tế có khả năng mua bán nợ.
Nợ phải trả đến hạn được thoả thuận với chủ nợ để xử lý hoặc chuyển thành vốn góp cổ phần.
Nợ thuế và nợ ngân sách của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được xem xét cho xử lý như khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ.
Nợ đọng vay ngân hàng thương mại doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được quyền thoả thuận với ngân hàng để giãn nợ, khoanh nợ, xoá nợ giảm lãi suất vay hoặc chuyển nợ thành vốn góp cổ phần.
Nợ nước ngoài doanh nghiệp tự vay có thể thoả thuận với chủ nợ chuyển thành vốn góp trong công ty cổ phần.
Các khoản lỗ luỹ kế trước đây của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được dùng thu nhập trước thuế có đến thời điểm cổ phần hoá để bù đắp.
Đối với tài sản liên doanh nước ngoài doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được thoả thuận để mua bán lại vốn góp liên doanh. Nếu đưa vốn góp liên doanh vào cổ phần hoá thì đã có quy định hướng dẫn xác định giá trị góp vốn liên doanh với nước ngoài, theo tỷ giá chuyển đổi ngoại tệ bình quân trên thị trường tiền tệ tại thời điểm định giá
Đối với doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài nếu làm ăn thua lỗ có thể cho kết thúc hợp đồng liên doanh, rồi tiến hành giải thể doanh nghiệp đó theo quy định của pháp luật. Hoặc có thể tiến hành cổ phần hoá theo hướng cổ phần hoá đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Cần có cơ chế thích hợp đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Có thể cho phép các doanh nghiệp này tiến hành cổ phần hoá vì chính những công ty này sẽ làm phong phú hơn các hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Đối với những doanh nghiệp này thì nên quy định khống chế tỷ lệ cổ phần thích hợp với bên nước ngoàivà bên Việt Nam, trước hết cần thí điểm để rút kinh nghiệm tránh việc mắc sai lầm. Việc đầu tiên là tiến hành bổ sung sửa đổi sửa đổi luật đầu tư nước ngoài và chỉ tiến hành cổ phần hoá những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, cần có những bước đi thích hợp.
6.2. Đảm bảo lợi ích của người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá.
Theo quy định thì mỗi 1 năm làm việc cho Nhà nước người lao động trong doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá được mua tối đa 10 cổ phần (trị giá 1 cổ phiếu 100.000 đồng) với mức giảm giá 30% so với các đối tượng khác. Số lượng cổ phần được mua với giá ưu đãi tuỳ thuộc vào số năm công tác của từng người nhưng tổng giá trị ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp không được vượt quá 20% hoặc 30% (đối với những doanh nghiệp có vốn tự tích luỹ từ 40% giá trị doanh nghiệp trở lên) giá trị vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Riêng người lao động nghèo còn được Nhà nước cho trả chậm tiền mua cổ phần ưu đãi trong giới hạn 10 năm.
Về cơ bản, chế độ ưu đãi cho người lao động đã được cải thiện nhiều so với trước đây. Tuy nhiên, việc quy định thống nhất tỷ lệ giá trị được ưu đãi tương ứng với phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp mà không xét đến mức vốn thực tế và lao động hiện có ở doanh nghiệp là không hợp lý và không công bằng, sẽ dẫn tới tình trạng nơi nhiều vốn Nhà nước thì người lao động được hưởng một phần mức đã quy định. Nhất là những doanh nghiệp có giá trị tài sản thấp và đông lao động ưu đãi này chưa thật hấp dẫn người lao động vì thực tế bình quân người lao động ở những doanh nghiệp này chỉ mua được 2-3 cổ phần theo giá ưu đãi cho mỗi năm công tác trong khu vực Nhà nước mà thôi.
Mặt khác, chế độ ưu đãi này mới chỉ khuyến khích một bộ phận người lao động ở những doanh nghiệp cổ phần hoá, không công bằng đối với những người lao động đã làm việc cho Nhà nước ở các khu vực khác hoặc đã hưu trí. Chưa thật sự tạo ra được động lực thúc đẩy đông đảo quàn chúng quan tâm và nhiệt tình tham gia hưởng ứng chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước của Chính phủ.
Nên chăng áp dụng tổng hợp các giải pháp sau đây trong quá trình cổ phần hoá:
Doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được miễn lệ phí cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh khi chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần.
Doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được duy trì các hợp đồng thuê nhà cửa, vật kiến trúc của các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp khác, hoặc được ưu tiên mua theo giá thị trường tại thời điểm cổ phần hoá để ổn định sản xuất kinh doanh.
Số dư bằng tiền của quĩ khen thưởng phúc lợi được chia cho người lao động đang làm việc tại doanh nghiệp để mua cổ phần, không phải nộp thuế thu nhập cá nhân.
Người lao động trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được nhà nước bán cổ phần theo giá ưu đãi cho một năm làm việc thực tế tại khu vực nhà nước với giá giảm 30% so với mệnh giá ban đầu. Trị giá một cổ phần là 100.000 đồng. Người lao động nghèo được mua trả dần 10 năm không lãi suất với cổ phần không quá mức khống chế trên tổng số cổ phần bán ưu đãi. Tổng giá trị ưu đãi không vượt quá phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Tất cả cổ phần ưu đãi này đều là cổ phiếu ghi tên và và chỉ được chuyển nhưọng sau một thời gian nhất định kể từ khi mua.
Xoá bỏ tỷ lệ khống chế tổng mức giá trị ưu đãi cho người lao động.
Qui định cổ phần được mua theo giá ưu đãi của người lao động trong doanh nghiệp là loại cổ phiếu ghi tên và chỉ được chuyển nhượng sau 3 năm kể từ ngày mua, và được quyền thừa kế thì mới khuyến khích người lao động tham gia nhiệt tình trong việc mua cổ phiếu. Trường hợp đặc biệt nếu có vấn đề nghiêm trọng xảy ra thì hội đồng quản trị công ty cổ phần xem xét và ưu tiên mua lại theo giá thị trường tại thời điểm bán.
Không bắt buộc phải sử dụng hết số lao động hiện có tại thời điểm cổ phần hoá, chỉ yêu cầu sử dụng tối đa số lao động hiện có. Số lao động còn lại sẽ được Quỹ hỗ trợ lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước giải quyết. Người lao động dôi dư được hưởng chính sách đãi ngộ theo quy định của pháp luật và có hướng dẫn cụ thể cho từng doanh nghiệp trong từng ngành, lĩnh vực.
Còn về bán cổ phần cho lãnh đạo , quản lý, nghiệp vụ và người thân của họ cùng làm việc tại doanh nghiệp nhằm đảm bảo tính công bằng cho cán bộ công nhân viên, đồng thời không phân biệt cán bộ lãnh đạo hay lao động bình thường, nếu có thời gian thâm niên công tác như nhau thì phần ưu đãi cũng phải được hưởng như nhau. Nên bổ sung chính sách ưu đãi đối với người lao động trong một số doanh nghiệp không có tích luỹ quỹ phúc lợi khen thưởng để phân phối cho công nhân mua cổ phần, cụ thể như cho công nhân mua chịu trả chậm phần cổ phần theo giá ưu đãi (ngoài danh mục công nhân nghèo được mua trả chậm).
6.3. Chính sách đối với cán bộ lãnh đạo khi cổ phần hoá.
Đề nghị mở rộng chính sách quy định tại pháp lệnh chống tham nhũng, cho phép cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý tại doanh nghiệp cổ phần hoá được mua cổ phần như các cổ đông khác (ngoài phần mua theo giá ưu đãi), nếu họ có khả năng tài chính có thể mua được cao hơn, để tạo niềm tin cho tập thể người lao động trong doanh nghiệp và các cổ đông ngoài doanh nghiệp mua nhiều và nhanh số cổ phần bán ra.
Vai trò của cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp có một ý nghĩa quan trong, nó quyết định sự thành công trong thực hiện cổ phần hoá của từng doanh nghiệp, thế nhưng họ lại thấy rằng quyền lợi cuả họ bị kìm lại bởi nhiều quy định. Cụ thể như nghị định 44/CP (ngày 29-06-1998) không giới hạn cổ phần mà giám đốc trong doanh nghiệp được mua, nhưng trong pháp lệnh chống tham nhũng thì giám đốc chỉ được mua không quá số cổ phiếu ưu đãi bình quân của người lao động trong công ty. Việc khống chế người lãnh đạo, người quản lý doanh nghiệp chỉ được mua cổ phần theo giá ưu đãi tối đa bằng mức bình quân của cổ đông trong doanh nghiệp đã là một điều thiếu bình đẳng khiến cho các đối tượng này thiếu hăng hái trong việc tiến hành cổ phần hoá. Và điều làm cho các vị giám đốc tâm tư hơn nữa là theo các quy định tại nghị định 73/CP (06-12-2000) thì giám đốc sẽ mất quyền quản lý vốn doanh nghiệp nếu nắm giữ dù chỉ một cổ phiếu của doanh nghiệp. Thực tế đã cho thấy ở doanh nghiệp nào mà người lãnh đạo và người quản lý không hăng hái nhiệt tình tham gia thì quần chúng nơi đó cũng không tin tưởng, nhiệt tình tham gia chương trình cổ phần hoá, và tiến trình cổ phần hoá ở các doanh nghiệp đó thường bị kéo dài một cách không cần thiết, thậm chí cơ cấu vốn điều lệ của công ty cổ phần cũng không đảm bảo đúng như phương án cổ phần hoá đã đề ra vì gặp những trở ngại trong quá trình bán cổ phần. Nhiều doanh nghiệp đã cổ phần hoá không thuộc diện Nhà nước phải nắm giữ cổ phần chi phối, thế nhưng số cổ phần do Nhà nước và các doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ còn khá lớn (khoảng trên 30%) do không bán hết. Điều đó cho thấy cần phải xem xét, sửa đổi, bổ sung lại các quy định về việc khống chế quyền mua cổ phần sao cho hợp lý và linh hoạt để việc thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước được thuận lợi hơn, công bằng hơn, đảm bảo hoạt động cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đáp ứng triệt để hơn các mục tiêu đã được đặt ra.
7. Kết hợp thị trường chứng khoán và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Muốn có thêm hàng hoá cho thị trường chứng khoán, theo nhiều chuyên gia phải đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp và đưa nhanh các doanh nghiệp này lên sàn giao dịch. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc các doanh nghiệp hội đủ điều kiện nhưng không tham gia thị trường chứng khoán, nhà nước có ưu đãi về thuế và phí nhưng các công ty e ngại kiểm toán, công bố thông tin và chờ cho thị trường chứng khoán hoạt động rồi mới niêm yết, một số công ty muốn niêm yết nhưng vì hạn chế về quyền chuyển nhượng cổ phiếu do điều lệ công ty quy định.
Vì thế cần có cơ chế chính sách thông thoáng hơn cho doanh nghiệp khi tham gia thị trường chứng khoán để thị trường chứng khoán là mục tiêu hướng tới của các doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hoá, nhằm thu hút vốn đầu tư thông qua thị trường chứng khoán, và cần tạo dựng quy chế thống nhất cho các công ty khi muốn tham gia vào thị trường chứng khoán được dễ dàng hơn, Không cần tiến hành các thủ tục rườm rà. Xây dựng thị trường chứng khoán phát triển để thị trường chứng khoán là kênh thu hút vốn hữu hiệu cho các doanh nghiệp, trong trường hợp muốn mở rộng sản xuất kinh doanh.
8. Thành lập hội doanh nghiệp cổ phần hoá.
Cần xúc tiến việc thành lập hội doanh nghiệp các công ty cổ phần hoá nhằm tạo điều kiện cho các công ty cổ phần hỗ trợ nhau trong quá trình phát triển, hội sẽ đứng ra bảo vệ quyền lợi cho các công ty cổ phần khi xảy ra tranh chấp, hay khúc mắc, khi cổ phần hoá hay trong quá trình hoạt động. Hội là cầu nối giữa công ty và nhà nước, các nhà lập pháp trong việc tháo gỡ những khó khăn cho công ty cổ phần.
III. Một số kiến nghị với trung ương và thành phố
1. Kiến nghị với trung ương
1.1. Về chính sách ưu đãi cho người lao động tại các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá.
Đề nghị xem xét để điều chỉnh cho phù hợp hơn trong việc bán cổ phần giá ưu đãi cho thành phần lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ và người thân thuộc của họ cùng làm việc tại doanh nghiệp, nhằm đảm bảo tính công bằng cho cán bộ công nhân viên chức (không phân biệt lãnh đạo hay lao động bình thường), nếu có thời gian thâm niên công tác như nhau thì phần ưu đãi phải như nhau. Ngoài những chính sách ưu đãi cho người lao động tại các doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hoá, việc tiếp tục nghiên cứu bổ sung chính sách tương tự, đối với lực lượng lao động tăng giảm trong doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá.
Cần thiết nên bổ sung chính sách ưu đãi đối với người lao động trong một số doanh nghiệp nhà nước không có tích luỹ được quỹ phúc lợi khen thưởng để phân phối cho công nhân mua cổ phần, cụ thể là đối với doanh nghiệp nhà nước không có số dư quỹ phúc lợi khen thưởng hoặc có nhưng quá ít , đề nghị cho công nhân mua chịu trả chậm phần cổ phần theo giá ưu đãi (ngoài danh mục công nhân nghèo được mua trả chậm).
1.2. Về bán cổ phần cho các cá nhân và pháp nhân trong nước.
Về vấn đề này thì nên khuyến khích tất cả các cá nhân và thành phần kinh tế tham gia mua và không hạn chế số lượng để huy động được càng nhiều vốn càng tốt, không nên hạn chế số lượng mua cổ phiếu như hiện nay sẽ làm giảm khả năng kêu gọi vốn đầu tư từ phía những nhà đầu tư tiềm năng.
Đối với những ngành mà nhà nước thấy cần nắm giữ hay chi phối đặc biệt thì nhà nước sẽ giữ lại >50% vốn điều lệ để đảm bảo vẫn quản lý được doanh nghiệp đó, cần quy định riêng đối với từng doanh nghiệp chứ không nói chung chung là những ngành nhà nước giữ tỷ lệ khống chế như hiện nay để có phương hướng lập kế hoạch cổ phần hoá nhằm tránh sai số trong lập kế hoạch.
1.3. Về một số nội dung khác trong xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá
Cần hướng dẫn bổ sung việc định giá tài sản là nhà ở, gắn với đất đai, thuộc loại tài sản lưu động, tạm gọi là hàng hoá của công ty địa ốc phát triển kinh doanh nhà, vì đó không phải là tài sản cố định của doanh nghiệp, hay gọi là tài sản lưu động của công ty kinh doanh bất động sản. Với loại tài sản này thì không nên đưa giá trị đất đai, nhà cửa vật kiến trúc nầy vào giá trị doanh nghiệp khi định giá.
Về định giá tài sản là nhà xưởng vật kiến trúc, đề nghị chính phủ hướng dẫn thêm việc xác định vị trí của doanh nghiệp (có hay không việc định giá đất vào giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá).
Về giá trị lợi thế nên quy rõ các điều kiện cần và đủ để xét doanh nghiệp có lợi thế hay không sau đó mới cho tính giá trị lợi thế.
Cần hướng dẫn chi tiết , cụ thể hơn đối với phần vốn góp liên doanh của doanh nghiệp cổ phần hoá.
Cần quy định nguyên tắc và phương thức đấu thầu phát hành cổ phiếu và đấu giá phát hành.
Cho thí điểm áp dụng các phương thức định giá phù hợp từng loại ngành sản xuất kinh doanh, để có thể kết hợp phương pháp, để tìm ra hệ số so sánh, khi xác định giá trị thực tế doanh nghiệp cổ phần hoá.
2. Kiến nghị với thành phố.
Đề nghị thành phố có hướng dẫn cụ thể cho các doanh nghiệp trong việc giải quyết các vướng mắc về định giá trị doanh nghiệp, về nhà đất, công nợ của các doanh nghiệp trước cổ phần hoá.
Thành phố nên thành lập một cơ quan chuyên trách trong giải quyết các vấn đề vướng mắc cho doanh nghiệp, đồng thời cơ quan này cũng tiến hành giải quyết các thủ tục cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà Nội.
Xúc tiến thành lập công ty cổ phần đầu tư và dịch vụ cổ phần hoá công ty hoạt động trong các lĩnh vực: tư vấn cổ phần hoá, dịch vụ phát hành cổ phiếu, đầu tư mua cổ phần, môi giới cho vay vốn đầu tư mua cổ phần, tư vấn quản lý doanh nghiệp sau cổ phần hoá , các dịch vụ có liên quan đến cổ đông của doanh nghiệp.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4588.doc