Nghiên cứu tiếp từ mô hình này cho thấy ngành công nghiệp
không chỉ lan tỏa đến thu nhập thấp, lan tỏa đến nhập khẩu cao
mà còn là thủ phạm chính gây nên phát thải nhà kính. Đáng chú ý
là lượng phát thải gây hiệu ứng nhà kính đang có xu hướng tăng
lên (hình 5). Nhóm ngành sản xuất các sản phẩm khoáng phi kim
loại (ngành số 7) phát thải ra hiệu ứng nhà kính cao nhất, cao hơn
mức bình quân chung (3,3 lần), sau đó là nhóm ngành xây dựng
(2,39 lần), nhóm nông, lâm nghiệp và thủy sản (2,36 lần). Các
nhóm ngành: Cung cấp
nước; hoạt động quản
lý và xử lý rác thải,
nước thải; công nghiệp
chế biến chế tạo khác;
sản xuất thực phẩm, đồ
uống và thuốc lá; khai
khoáng đều có mức
phát thải hiệu ứng nhà
kính cao hơn mức bình
quân chung của nền
kinh tế. Một điều đáng
chú ý là hầu như ai
cũng nghĩ ngành vận tải
thải ra hiệu ứng nhà
kính lớn nhưng thực
chất lại không phải như
vậy, ngành vận tải thải
ra lượng CO2 tương đối
lớn nhưng không thải ra
nhiều CH4 và N2O.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 225 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng công nghiệp Việt Nam trong thời gian qua, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
NGHIÊN CỨU – TRAO ĐỔI
CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
TS. Bùi Trinh*
Tóm tắt:
Ở Việt Nam tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP luôn được xem là thành tích
trong hầu hết các báo cáo từ Trung ương đến địa phương, tuy nhiên từ số liệu của Tổng cục
Thống kê cho thấy tỷ trọng nhóm ngành công nghiệp xây dựng dường như không có sự thay
đổi trong gần 17 năm qua, tỷ lệ này trong GDP vẫn chỉ xoay quanh ở mức 31-32%, nhưng cơ
cấu sở hữu của nhóm ngành này thay đổi mạnh mẽ theo chiều hướng khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài (FDI) ngày càng chiếm số lớn (trên 70%) trong tổng giá trị xuất khẩu ngành công
nghiệp, phần còn lại (khoảng 30%) là sân chơi của doanh nghiệp trong nước. Bài viết này cho
chúng ta một góc nhìn về FDI theo một góc độ khác để từ đó có chính sách phù hợp trong
phát triển công nghiệp Việt Nam.
Kể từ khi gia nhập WTO (2007) đến
nay độ mở của nền kinh tế Việt Nam là rất
lớn, năm 2016 xuất khẩu hàng hóa tăng
364%, nhập khẩu hàng hóa tăng 279% so
với năm 2007. Tuy nhiên về sở hữu, khu vực
FDI tăng nhanh hơn khu vực trong nước khá
nhiều, xuất khẩu hàng hóa của khu vực FDI
trong giai đoạn này tăng 454% và nhập khẩu
hàng hóa của khu vực FDI tăng 472%, tăng
trưởng xuất khẩu bình quân của khu vực FDI
giai đoạn 2007 – 2016 khoảng 21%/năm và
tăng trưởng bình quân về nhập khẩu của khu
vực FDI khoảng 22%/năm, trong khi tăng
trưởng về xuất khẩu và nhập khẩu của khu
vực trong nước giai đoạn này tương ứng là
11% và 7%/năm. Cơ cấu xuất nhập khẩu
cũng cho thấy khu vực FDI đang chiếm thị
phần, năm 2005 xuất khẩu của khu vực FDI
chiếm khoảng 57% trong tổng giá trị xuất
khẩu, đến năm 2016 con số này là 72%; tương
*
Viện nghiên cứu phát triển Việt Nam
tự cơ cấu nhập khẩu của khu vực FDI cũng
tăng từ 35% năm 2005 lên 59% năm 2016.
Số liệu Thống kê cho thấy việc nền kinh tế
nhập siêu hay xuất siêu phụ thuộc vào khu
vực FDI, vì khu vực kinh tế trong nước luôn
nhập siêu và khu vực FDI luôn xuất siêu kể
từ 2000 đến nay. Về chi trả sở hữu thuần ra
nước ngoài, ước tính năm 2018 có thể chi trả
trên 20 tỷ đô la, trong đó hơn 10 tỷ đô la cho
việc trả nợ và hơn 10 tỷ đô la là khối FDI
chuyển tiền một cách hợp pháp ra nước
ngoài và trung bình FDI nộp thuế khoảng 7,5
tỷ đô la, trong đó thuế VAT về bản chất
không phải tiền của khu vực FDI mà là tiền
của người tiêu dùng Việt Nam đóng góp vào
ngân sách thông qua việc sử dụng sản phẩm
của khu vực này. Đấy là chưa tính đến
chuyện các doanh nghiệp đưa sản phẩm ra
và vào Việt Nam giá trị thế nào rất khó nắm
bắt nên phần lợi nhuận thật có thể đã nằm
2
ở nước ngoài mà Việt Nam không
thể biết và không thể đánh
thuế, phần thuế này có thể
doanh nghiệp FDI được hưởng.
Dựa trên nguyên tắc
thường trú thì sự lớn mạnh của
khu vực FDI có thể làm tăng
GDP nhưng lại làm nguồn lực
của nền kinh tế ngày càng bị
thu hẹp thông qua chỉ tiêu GNI,
NDI và tiết kiệm (saving) của
nền kinh tế, trong khi những chỉ
tiêu này của nước chủ quản các
doanh nghiệp FDI lại tăng. Một
vấn đề đặt ra là ngoài việc khu
vực FDI có trình độ quản lý tốt,
nguồn vốn mạnh các chính sách
của Việt Nam làm lợi cho khu
vực này quá nhiều, trong khi
doanh nghiệp ngoài quốc doanh
trong nước không được những
ưu đãi này.
Với chính sách như hiện
nay cộng với việc tham gia tiếp
Hiệp định Đối tác toàn diện và
tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP) giá trị xuất khẩu của
khu vực FDI trong công nghiệp
có thể lên trên 80% vào năm
2025 và doanh nghiệp nội sẽ
dần biến mất trên chính đất
nước mình.
Kết hợp độ nhậy và độ lan
tỏa có được bức tranh về mối
liên kết ngành, nếu bảng I/O
2012 đại diện về cấu trúc cho
giai đoạn 2008 – 2013 và bảng
I/O 2016 đại diện cho cấu trúc
giai đoạn 2013 – 2018. Hình 1
và hình 2 cho thấy trong 10
năm qua bức tranh về sự liên
kết ngành hầu như không có sự
thay đổi nào đáng kể. Tuy dáng điệu của sự liên kết
ngành không thay đổi nhưng mức độ hiệu quả thông qua
tỷ lệ giá trị gia tăng so với giá trị sản xuất của giai đoạn
2013 - 2018 kém hơn giai đoạn 2008 - 2013 ở hầu hết các
ngành, nếu giai đoạn 2008 - 2013 tỷ lệ giá trị tăng thêm
so với giá trị sản xuất khoảng 36% thì giai đoạn 2013-
2018 cho thấy tỷ lệ này giảm xuống 28%. Tỷ lệ này sụt
giảm mạnh mẽ nhất là ở nhóm ngành công nghiệp chế
biến chế tạo. Điều này phần nào phản ánh mức độ gia
công của nền kinh tế Việt Nam ngày càng ở mức cao.
Hình 1. Bức tranh về liên kết ngành
(Economic – Lanscape), 2016
Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu
Hình 2. Bức tranh về liên kết ngành 2012
Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu
3
Hình 3. Tỷ lệ giá trị tăng thêm so với giá trị sản xuất
Nguồn: Nhóm nghiên cứu tính toán từ bảng I/O 2012 và 2016
Nhìn sâu hơn vào cấu trúc kinh tế thông qua mô hình cân
đối liên ngành có thể thấy khu vực công nghiệp chế biến chế tạo
lan tỏa ngày càng thấp đến thu nhập, nhưng lại lan tỏa ngày càng
cao đến nhập khẩu. Một ngành được xem là ngành có tầm quan
trọng tương đối với nền kinh tế là những ngành có chỉ số lan tỏa
đến nhập khẩu thấp và lan tỏa đến giá trị gia tăng cao. Bảng 1 cho
thấy chỉ có nhóm ngành
nông, lâm nghiệp, thủy
sản và khối ngành dịch
vụ đáp ứng đòi hỏi này.
Hầu hết những ngành
thuộc công nghiệp chế
biến chế tạo tuy có chỉ
số lan tỏa và độ nhậy
cao nhưng lại kích thích
mạnh đến nhập khẩu và
lan tỏa đến thu nhập
thấp hơn mức bình
quân chung khá nhiều.
Đây dường như là một
bằng chứng mạnh mẽ
nữa cho vấn đề mức độ
gia công của nền công
nghiệp Việt Nam ngày
càng mang tính gia
công toàn diện, năng
suất lao động của nhóm
ngành này cũng thấp
nhất (hình 4)
Bảng 1. Lan tỏa từ 1 đơn vị tăng lên của cầu cuối cùng đến giá trị gia tăng và nhập khẩu
Đơn vị tính: Lần
S
T
T
Ngành kinh tế
2012 2016
Lan tỏa
đến VA
của đơn
vị tăng
lên của
cầu cuối
cùng
Mức
lan tỏa
đến
VA
bình
quân
Mức độ
lan tỏa
đến
nhập
khẩu
Lan tỏa
đến VA
của đơn
vị tăng
lên của
cầu cuối
cùng
Mức
lan tỏa
đến
VA
bình
quân
Mức độ
lan tỏa
đến
nhập
khẩu
1
Nông, lâm nghiệp và
thủy sản
0,684 1,024 0,952 0,640 1,050 0,922
2 Khai khoáng 0,654 0,979 1,042 0,585 0,960 1,062
3
Sản xuất thực phẩm,
đồ uống và thuốc lá
0,625 0,935 1,130 0,580 0,953 1,074
4
Sản xuất các sản phẩm
dệt may, trang phục và
đồ da
0,560 0,838 1,327 0,511 0,839 1,251
4
S
T
T
Ngành kinh tế
2012 2016
Lan tỏa
đến VA
của đơn
vị tăng
lên của
cầu cuối
cùng
Mức
lan tỏa
đến
VA
bình
quân
Mức độ
lan tỏa
đến
nhập
khẩu
Lan tỏa
đến VA
của đơn
vị tăng
lên của
cầu cuối
cùng
Mức
lan tỏa
đến
VA
bình
quân
Mức độ
lan tỏa
đến
nhập
khẩu
5
Sản xuất các sản phẩm
dầu mỏ và khí đốt
0,483 0,722 1,560 0,431 0,707 1,456
6
Sản xuất các sản phẩm
hóa chất
0,511 0,765 1,474 0,493 0,809 1,297
7
Sản xuất các sản phẩm
khoáng phi kim loại
0,663 0,992 1,016 0,619 1,016 0,975
8
Sản xuất và chế biến
kim loại và các sản
phẩm kim loại
0,431 0,645 1,716 0,413 0,678 1,502
9
Sản xuất thiết bị, máy
móc
0,388 0,581 1,845 0,375 0,615 1,600
10
Công nghiệp chế biến
chế tạo khác
0,538 0,806 1,392 0,514 0,844 1,243
11
Sản xuất và phân phối
điện, khí đốt, nước
nóng, hơi nước và điều
hòa không khí
0,879 1,316 0,364 0,763 1,253 0,606
12
Cung cấp nước; hoạt
động quản lý và xử lý
rác thải, nước thải
0,772 1,154 0,689 0,690 1,133 0,793
13 Xây dựng 0,578 0,864 1,274 0,538 0,883 1,183
14 Vận tải kho bãi 0,604 0,904 1,193 0,555 0,911 1,138
15
Bán buôn, bán lẻ;
Khách sạn và nhà hàng
0,798 1,195 0,608 0,724 1,189 0,706
16
Thông tin và truyền
thông
0,682 1,020 0,959 0,608 0,998 1,003
17
Hoạt động tài chính,
ngân hàng và bảo hiểm
0,869 1,300 0,396 0,798 1,309 0,517
18
Hoạt động chuyên
môn, khoa học và công
nghệ
0,822 1,230 0,536 0,714 1,171 0,733
19 Giáo dục và đào tạo 0,928 1,388 0,218 0,830 1,363 0,434
20
Y tế và hoạt động trợ
giúp xã hội
0,680 1,018 0,964 0,614 1,008 0,988
21 Các ngành dịch vụ khác 0,886 1,325 0,345 0,799 1,311 0,515
Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu từ bảng I/O 2012 và 2016
5
Hình 4. Thay đổi về năng suất lao động theo 3 nhóm ngành (%)
Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu
Nghiên cứu tiếp từ mô hình này cho thấy ngành công nghiệp
không chỉ lan tỏa đến thu nhập thấp, lan tỏa đến nhập khẩu cao
mà còn là thủ phạm chính gây nên phát thải nhà kính. Đáng chú ý
là lượng phát thải gây hiệu ứng nhà kính đang có xu hướng tăng
lên (hình 5). Nhóm ngành sản xuất các sản phẩm khoáng phi kim
loại (ngành số 7) phát thải ra hiệu ứng nhà kính cao nhất, cao hơn
mức bình quân chung (3,3 lần), sau đó là nhóm ngành xây dựng
(2,39 lần), nhóm nông, lâm nghiệp và thủy sản (2,36 lần). Các
nhóm ngành: Cung cấp
nước; hoạt động quản
lý và xử lý rác thải,
nước thải; công nghiệp
chế biến chế tạo khác;
sản xuất thực phẩm, đồ
uống và thuốc lá; khai
khoáng đều có mức
phát thải hiệu ứng nhà
kính cao hơn mức bình
quân chung của nền
kinh tế. Một điều đáng
chú ý là hầu như ai
cũng nghĩ ngành vận tải
thải ra hiệu ứng nhà
kính lớn nhưng thực
chất lại không phải như
vậy, ngành vận tải thải
ra lượng CO2 tương đối
lớn nhưng không thải ra
nhiều CH4 và N2O.
Hình 5. Phát thải nhà kính 2012 và 2016 gây nên trong quá trình sản xuất
Đơn vị tính: Triệu tấn
Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu dựa trên báo cáo của Bộ Tài nguyên – Môi trường và bảng I/O,
2012 và 2016
0
0,02
0,04
0,06
0,08
0,1
0,12
0,14
0,16
0,18
Năm 2012
Năm 2016
Tổng số
Nông, lâm nghiệp và thủy sản
Công nghiệp và xây dựng
Dịch vụ
6
Tóm lại, hơn 10 năm qua và những
dấu hiệu trong tương lai cho thấy, ngành
công nghiệp Việt Nam đang dần bị khu vực
FDI chiếm lĩnh, mức độ ô nhiễm không khí sẽ
ngày càng trầm trọng. Năng suất lao động có
được cải thiện hay không dường như không
còn ý nghĩa vì khu vực FDI chiếm lĩnh hoàn
toàn thì năng suất của khu vực này sẽ tăng
lên nhanh chóng, GDP cũng có thể tăng lên
nhưng người dân Việt Nam chẳng nhận được
là bao ngoại trừ thiệt hại về môi trường.
Luồng tiền chảy ra do FDI chuyển sở hữu về
nước sẽ càng nhiều và nguồn lực của nền
kinh tế (saving) càng teo tóp. Nhằm hạn chế
và khắc phục tình trạng nêu trên, Việt Nam
cần nhanh chóng sửa đổi cấu trúc kinh tế và
không nên ám ảnh bởi tăng trưởng GDP.
Tài liệu tham khảo:
1. A Ebiefung, G Udo. (1999). An industrial
pollution emission control model Computers
& industrial engineering, Volume 37, Issues
1-2, Pages 371-374
2. Bui Trinh and Bui Quoc.(2017).Some
Problems on the Sectoral Structure, GDP
Growth and Sustainability of Vietnam Journal
of Reviews on Global Economics, 2017, 6,
143-153
3. Bui Trinh, Pham Le Hoa. (2017).
Comparing the Economic Structure and
Carbon Dioxide Emission between China and
Vietnam, International Journal of Economics
and Financial Research Vol. 3, No. 3, pp: 31-
38.
4. Bui Trinh, Nguyen Viet Phong. (2013).A
short note on Ras method Advances in
Management & Applied Economics, vol. 3,
no.4, 133-137.
5. Bui Trinh, Nguyen Viet Phong. (2013).A
short note on Ras method Advances in
Management & Applied Economics, vol. 3,
no.4, 133-137.
6. Dobos, I. and Floriska, A. (2005).A
dynamic Leontief model with non-renewable
resourcesEconomic Systems Research, 17(3),
317-26
7. Guo, D. and Hewings, G. J. D. (2001).
Comparative Analysis of China’s Economic
Structures Between 1987 and 1997: An
Input-Output Prospective. Discussion Paper
at Regional Economics Applications
Laboratory. Urbana.
8. Leontief, W. (1936) ‘Quantitative Input
and Output Relations in the Economic System
of the United States’, The Review of
Economic and Statistics, 18, pp. 105-25
9. Wassily, L. (1941). Structure of the
American economy, 1919-1929. Harverd
University Press: Cambridge Mass.
10. Leontief, W. (1970). Environmental
Repercussions and the Economic Structure:
An Input-Output Approach The Reuiew of
Economics and Statistics 52 (3), 262-71.
11. Leontief, W. (1986) Input - output
ecomonicsOxford University Press,
12. Miller, R.E., and P.D. Blair (1985). Input-
Output Analysis: Foundations and Extensions.
Englewood Cliffs, N.J.: Prentice-Hall.
13. Miyazawa K, (1976) Input-Output
Analysis and the Structure of Income
Distribution (Springer, Berlin)
14. Schoonbeek, L. (1990). The size of the
balanced growth rate in the dynamic Leontief
model. Economic Systems Research, 2(4),
345-349.
15. Xiaoming Pan,Steven Kraines (2001)
Environmental Input-Output Models for Life-
Cycle AnalysisEnvironmental and Resource
Economics, Volume 20, Issue 1, pp 61-72
16. Vietnam GSO Statistics yearbook, 2016,
Statistical publisher, Hanoi, Vietnam
17. UN, EU, FAO, IMF, OECD, WB “System
of EnvironmentalEconomic Accounting
2012— Central Framework”, 2014, New York
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_cong_nghiep_viet_nam_trong_thoi_gian_qua.pdf