Ba là, năng lực của các đơn vị đầu mối
thực hiện trợ giúp DNNVV còn yếu và thiếu.
Theo quy định tại Điều 15 và 18 của Nghị
định 56/2009/NĐ-CP, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, các Sở Kế hoạch và Đầu tư địa phương có
chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về trợ
giúp phát triển DNNVV; làm đầu mối phối
hợp với các cơ quan liên quan xây dựng
chương trình, kế hoạch trợ giúp phát triển
DNNVV, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt,
ban hành và chỉ đạo tổ chức thực hiện. Tuy
nhiên, hiện tại, theo báo cáo mới chỉ có
16/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
có đơn vị đầu mối trực thuộc Sở Kế hoạch
và Đầu tư hoặc cấp tương đương thực hiện
chức năng trợ giúp phát triển DNNVV trên
địa bàn tỉnh.
Bốn là, sự quan tâm và đầu tư của các địa
phương đối với công tác trợ giúp phát triển
DNNVV còn thấp trong khi nguồn ngân sách
Trung ương hạn chế. Hầu hết các địa phương
chưa chủ động bố trí ngân sách để hỗ trợ cho
DNNVV, nếu có thì cũng rất hạn chế so với
nhu cầu hỗ trợ cao từ phía cộng đồng
DNNVV (chỉ mới 19% tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương bố trí ngân sách riêng thực
hiện công tác hỗ trợ cho doanh nghiệp).
Việc khắc phục những hạn chế nêu trên là
một trong những mục tiêu cơ bản mà Luật Hỗ
trợ DNNVV đã hướng tới. Luật đã ghi nhận
trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, các Bộ, ngành, địa phương trong việc
cấp kinh phí từ ngân sách cho hoạt động hỗ
trợ, qua đó phần nào chấm dứt tình trạng các
Bộ, ngành, địa phương có thái độ tùy tiện
dành kinh phí hợp lý cho công tác này. Luật
đã quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan nhà nước, cơ chế phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước với nhau và giữa các cơ
quan nhà nước với các tổ chức đại diện của
doanh nghiệp, qua đó góp phần khắc phục
tình trạng cắt khúc, biệt lập, mạnh ai lấy làm,
đặc biệt là sự không phối hợp trong công tác
hỗ trợ DNNVV. Luật cũng đã xây dựng cơ
chế giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các
chương trình hỗ trợ, qua đó góp phần khắc
phục một trong những hạn chế cơ bản của
công tác hỗ trợ hiện nay là Nhà nước đã bỏ ra
nhiều tiền nhưng không đạt được hiệu quả
như mong muốn.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 280 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng công tác hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá chuyeân ñeà thaùng 9/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
7
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
Lê Toàn Thắng1
Tóm tắt: Việc ban hành Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đặt ra nhiều vấn
đề phải giải quyết. Một trong số các vấn đề đó là phải tổng kết thực tiễn thi hành công tác hỗ
trợ mà Nhà nước ta đã dành cho doanh nghiệp trong thời gian qua, nhất là từ khi có Nghị định
số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và
vừa. Bài viết này góp phần đánh giá thực trạng công tác hỗ trợ DNNVV, tạo cơ sở thực tiễn để
thực hiện mục tiêu chung là xây dựng được một đạo luật có nội dung phù hợp với điều kiện kinh
tế - xã hội của nước ta.
Từ khóa: Công tác hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Thực trạng công tác hỗ trợ, Nhóm
chính sách hỗ trợ.
Nhận bài: 01/8/2017; Hoàn thành biên tập:15/8/2017; Duyệt đăng: 05/9/2017
Abstract: Issuing the Law on Supporting SMEs brings forward many issues to be solved.
One of those issues is summarizing the reality of implementing support activity that our state has
given to enterprises over the past time, especially since the issuance of Decree No. 56/2009/NĐ-
CP dated 30/6/2009 of the Government on supporting the development of SMEs. This article
contributes to the assessment of SMEs-supporting activity, creating practical foundation to
implement the general target of developing a Lawhaving content suitable with social-economic
conditions of our country.
Keywords: the activity of supporting SMEs, reality of supporting activity, Group of
supporting policy.
Date of receiving:01/8/2017;date of editing: 15/8/2017; Date of publish approval: 05/9/2017
1. Thực trạng công tác hỗ trợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa
Ngày 30/6/2009, Chính phủ ban hành Nghị
định số 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển
DNNVV (gọi tắt là Nghị định 56/2009/NĐ-
CP) thay thế Nghị định số 90/2001/NĐ-CP,
trong đó quy định 08 nhóm chính sách trợ giúp
doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), bao gồm:
(1) Trợ giúp tài chính; (2) Mặt bằng sản xuất;
(3) Đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ,
trình độ kỹ thuật; (4) Xúc tiến mở rộng thị
trường; (5) Tham gia kế hoạch mua sắm, cung
ứng dịch vụ công; (6) Thông tin và tư vấn; (7)
Trợ giúp phát triển nguồn nhân lực; (8) Vườn
ươm doanh nghiệp.
Qua 8 năm thi hành Nghị định 56/2009/NĐ-
CP có thể sơ bộ đánh giá kết quả triển khai các
nhóm chính sách này như sau:
1.1. Nhóm chính sách trợ giúp tài chính,
tín dụng
a) Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp
cận tín dụng từ các ngân hàng thương mại
Bám sát các Nghị quyết của Quốc hội, chỉ
đạo của Chính phủ, diễn biến kinh tế vĩ mô
tiền tệ trong nước và quốc tế, Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) đã tổ chức triển khai đồng bộ
các công cụ, giải pháp để điều tiết tiền tệ hợp
lý, đảm bảo các chỉ tiêu tiền tệ, tín dụng tăng
theo đúng định hướng đề ra.
NHNN đã áp dụng các biện pháp để duy
trì ổn định các mức lãi suất điều hành của
NHNN, trần lãi suất huy động bằng VND và
USD, trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng
VND đối với các lĩnh vực ưu tiên; tiếp tục chỉ
đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) thực hiện
các biện pháp cân đối nguồn vốn và sử dụng
1 Cục Phát triển doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
8
vốn duy trì ổn định lãi suất huy động, tiết
giảm chi phí hoạt động, nâng cao hiệu quả
kinh doanh để phấn đấu có điều kiện giảm lãi
suất cho vay cho doanh nghiệp. Một số TCTD
lớn đã điều chỉnh giảm lãi suất huy động
khoảng 0,3-0,5%/năm2 và giảm lãi suất cho
vay khoảng 0,5-1%/năm đối với các lĩnh vực
ưu tiên, sản xuất kinh doanh. Lãi suất cho vay
phổ biến khoảng 6-9%/năm đối với kỳ hạn
ngắn và 9-11%/năm đối với trung và dài hạn.
Đối với nhóm khách hàng tốt, tình hình tài
chính lành mạnh, minh bạch, lãi suất cho vay
ngắn hạn chỉ từ 4-5%/năm.
NHNN tiếp tục ban hành và sửa đổi, bổ
sung theo thẩm quyền các văn bản nhằm đơn
giản hóa thủ tục cho vay như bỏ giấy đề nghị
vay vốn của khách hàng tại hồ sơ đề nghị vay
vốn, đơn giản hóa yêu cầu về phương án sử
dụng vốn vay trong hoạt động cho vay phục
vụ đời sống,; đồng thời, quy định cụ thể về
trách nhiệm của TCTD khi thực hiện cho vay
để đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động
cho vay, bảo vệ quyền lợi của người vay. Tiếp
tục chỉ đạo NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố,
TCTD tăng cường triển khai Chương trình kết
nối ngân hàng - doanh nghiệp tháo gỡ khó
khăn cho doanh nghiệp trên địa bàn, đảm bảo
thiết thực bằng các cuộc đối thoại trực tiếp,
định kỳ và các hợp đồng cam kết cho vay vốn
cụ thể giữa ngân hàng với doanh nghiệp trên
địa bàn3
Các TCTD đẩy mạnh công tác cải cách
hành chính (CCHC), cải tiến các quy trình
cung cấp sản phẩm dịch vụ cho khách hàng
đảm bảo thuận tiện, nhanh gọn. Theo báo cáo
của NHNN, thời gian, số lần giao dịch, giấy
tờ cung cấp của khách hàng đã giảm 20-40%;
một số quy trình/sản phẩm dịch vụ đã giảm
42% số lượng bản gốc mẫu biểu, giảm 45%
số lượng chữ ký khách hàng và 48% số lượng
chữ ký cán bộ ngân hàng trên hồ sơ.
Một số TCTD đã chủ động xây dựng các
chương trình tín dụng ưu đãi lãi suất để hỗ trợ
doanh nghiệp. Ngân hàng Nông nghiệp và
phát triển nông thôn Việt Nam xây dựng
Chương trình tín dụng ưu đãi phục vụ “Nông
nghiệp sạch” dành cho khách hàng là doanh
nghiệp, hợp tác xã, liên hợp tác xã, chủ trang
trại sản xuất nông nghiệp sạch quy mô lớn với
số vốn 50.000 tỷ đồng, lãi suất cho vay thấp
hơn từ 0,5%-1,5%/năm so với lãi suất cho vay
ưu tiên đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn. Ngân hàng thương mại cổ phần Tiên
Phong (TPBank) ban hành chương trình
5.000 tỷ đồng cho vay ưu đãi đối với doanh
nghiệp xuất nhập khẩu; gói tín dụng 3.000 tỷ
đồng ưu đãi cho doanh nghiệp phụ trợ, doanh
nghiệp khởi nghiệp và các chương trình ưu
đãi lãi suất cho các DNNVV đầu tư xây dựng
nhà xưởng, máy móc trang thiết bị (với lãi
suất cho vay 6,5-6,9%/năm)
b) Hỗ trợ tiếp cận tín dụng thông qua hệ
thống quỹ bảo lãnh tín dụng
Bộ Tài chính đã phối hợp với NHNN và
các Bộ, ngành liên quan rà soát, chỉnh sửa các
chính sách nhằm tháo gỡ các vướng mắc
trong hoạt động bảo lãnh tín dụng (BLTD) và
đã đạt được một số kết quả, tuy nhiên quy mô
vốn bảo lãnh còn hạn chế.
Theo báo cáo Bộ Tài chính, tính đến ngày
30/6/2016, cả nước có 27 Quỹ BLTD tại các
địa phương, với tổng vốn điều lệ thực có ước
khoảng 1.462 tỷ đồng, trong đó: Vốn ngân sách
nhà nước (NSNN) cấp là 1.318,4 tỷ đồng; vốn
2 Đến cuối năm 2016, mặt bằng lãi suất huy động phổ biến ở mức 0,8-1%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có
kỳ hạn dưới 1 tháng; 4,5-5,4%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 5,4-6,5%/năm đối với
tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn trên 12 tháng ở mức 6,4-7,2%/năm.
3 Đến cuối năm 2016 triển khai 250 Hội nghị đối thoại giữa ngân hàng với DN tại 63 tỉnh, thành phố, tháo gỡ khó
khăn cho 35.000 doanh nghiệp, cam kết cho vay mới đạt hơn 570.000 tỷ đồng. Dư nợ được gia hạn, cơ cấu lại kỳ
hạn trả nợ, nâng hạn mức tín dụng, điều chỉnh giảm lãi suất đạt 85.000 tỷ đồng cho hơn 7.000 doanh nghiệp.
Soá chuyeân ñeà thaùng 9/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
9
góp của các tổ chức, hiệp hội ngành nghề là
143,6 tỷ đồng, chưa đến 10% trong tổng vốn
điều lệ. Điều này cho thấy nguồn vốn huy động
của hệ thống Quỹ BLTD vẫn chủ yếu dựa vào
ngân sách nhà nước và vốn huy động của các
tổ chức bên ngoài còn rất hạn chế. Quỹ BLTD
có mức vốn điều lệ cao nhất là Quỹ của TP. Hồ
Chí Minh với 232,355 tỷ đồng và thấp nhất là
Bạc Liêu với 15 tỷ đồng. Lũy kế doanh số bảo
lãnh của các quỹ BLTD từ năm 2002 đến
30/6/2016 ước khoảng trên 4.161 tỷ đồng, tổng
số dư bảo lãnh khoảng 361 tỷ đồng. Tổng số
tiền các quỹ BLTD đã phải thực hiện nghĩa vụ
trả nợ thay cho DNNVV ước khoảng 137,95
tỷ đồng.
Đối với hoạt động bảo lãnh tín dụng qua
Ngân hàng Phát triển (NHPT) Việt Nam, tổng
số tiền vay được chấp thuận bảo lãnh đến nay
là 15.316,5 tỷ đồng. Số chứng thư bảo lãnh
NHPT đã phát hành là 1.536 chứng thư với
giá trị vốn vay 10.639,4 tỷ đồng. Hiện còn 66
chứng thư với giá trị vốn vay cam kết 1.124,5
tỷ đồng và 25.600 nghìn USD; dư nợ tại ngân
hàng thương mại (NHTM) là 676,68 tỷ đồng
và 22.213,67 nghìn USD; lãi quá hạn tại
NHTM: 350 tỷ đồng và 4.908,34 nghìn USD;
trong đó 54 chứng thư còn hiệu lực chưa phát
sinh trả nợ thay với giá trị cam kết bảo lãnh:
1.039,99 tỷ đồng; dư nợ gốc tại NHTM:
669,29 tỷ đồng, lãi quá hạn tại NHTM:
339,62 tỷ đồng. Số chứng thư đã phát sinh trả
nợ thay một phần còn dư nợ tại NHTM: 12
chứng thư, giá trị vốn vay cam kết bảo lãnh
84,51 tỷ đồng và 25,6 triệu USD; dư nợ gốc
tại NHTM: 7,39 tỷ đồng và 22.213,67 nghìn
USD, lãi quá hạn tại NHTM: 10,4 tỷ đồng và
4.908,34 nghìn USD.
Dư nợ bắt buộc đến 30/6/2016: trong 78
khoản bảo lãnh trả nợ thay, 5 khoản đã thu
xong nợ vay bắt buộc, còn 73 khoản với dư
nợ như sau: (i) Nợ VNĐ: Nợ gốc 292,73 tỷ
đồng; lãi phải thu 219,3 tỷ đồng; (ii) nợ USD:
nợ gốc: 0 USD; nợ lãi: 57,39 nghìn USD.
Đánh giá chung cho thấy hoạt động bảo
lãnh tín dụng thông qua hệ thống NHPT và
các quỹ BLTD địa phương còn hạn chế, chưa
góp phần đáng kể trong việc hỗ trợ DNNVV
tiếp cận tín dụng.
c) Hỗ trợ tiếp cận tín dụng thông qua Quỹ
Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
Ngày 17/4/2013, Thủ tướng Chính phủ đã
có Quyết định số 601/QĐ-TTg về việc thành
lập Quỹ phát triển DNNVV. Quỹ có tổng vốn
điều lệ là 2.000 tỷ đồng từ ngân sách nhà
nước và nguồn vốn huy động từ các khoản
đóng góp của tổ chức, cá nhân trong và nước
ngoài. Quỹ tập trung hỗ trợ cho các DNNVV
có dự án, phương án sản xuất-kinh doanh khả
thi thuộc lĩnh vực ưu tiên, khuyến khích của
Nhà nước, phù hợp với mục đích của Quỹ
nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp, góp phần tăng thu nhập, việc
làm cho người lao động. Đến ngày 12/8/2015,
sau hơn 2 năm kể từ khi có quyết định của
Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính mới ban
hành Thông tư số 119/2015/TT-BTC về quy
chế quản lý tài chính của Quỹ và Bộ Kế hoạch
và Đầu tư ban hành Thông tư số 13/2015/TT-
BKHĐT ngày 26/10/2015 quy định danh mục
lĩnh vực ưu tiên và đối tượng ưu tiên hỗ trợ
của Quỹ.
Đánh giá chung cho thấy tiến độ triển khai
đưa vào hoạt động của Quỹ phát triển
DNNVV còn chậm, chưa đáp ứng được mong
mỏi của các DNNVV. Tính đến nay đã gần 04
năm từ khi ra đời Quỹ vẫn chưa thực hiện
được khoản giải ngân cho DNNVV. Nguyên
nhân là do sự chậm trễ trong việc bố trí vốn
điều lệ cho hoạt động của Quỹ và việc chậm
trễ trong việc ban hành các cơ chế quản lý tài
chính của Quỹ.
1.2. Hỗ trợ về mặt bằng sản xuất
- Về tạo quỹ đất cho doanh nghiệp: Luật
Đất đai (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua
cuối năm 2013 với một số sửa đổi nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
10
đất sạch cho sản xuất, kinh doanh. Trong số
các sửa đổi đó, có quy định về việc minh bạch
hóa để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân
và doanh nghiệp tiếp cận đất sạch thông qua
đấu giá quyền sử dụng đất. Việc tiếp cận đất
đai đối với doanh nghiệp cũng trở nên dễ
dàng hơn nhờ các sửa đổi mới đưa vào.
- Về khuyến khích xây dựng các khu, cụm
công nghiệp cho DNNVV ở địa phương.
Hiện nay, trên toàn quốc có 299 khu công
nghiệp được thành lập theo quy hoạch do
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt4 và 639 cụm
công nghiệp5 với tổng diện tích trên 80.000
ha. Đồng thời, theo báo cáo của Bộ Công
Thương, đến hết năm 2014 cả nước có
khoảng 1.600 cụm công nghiệp với tổng diện
tích trên 51.000ha. Trong đó, có khoảng 626
cụm công nghiệp đã thu hút được các dự án
đầu tư sản xuất vào cụm công nghiệp và thu
hút được gần 11.000 dự án, doanh nghiệp đầu
tư sản xuất kinh doanh trong đó.
Tuy nhiên, theo đánh giá, cả nước hiện
chưa có một khu, cụm công nghiệp nào dành
riêng cho các DNNVV. Theo số liệu của Bộ
Tài nguyên và Môi trường, tổng diện tích của
các khu công nghiệp ngoài khu kinh tế hiện
nay là 91.332 ha.Trong khi đó, quỹ đất công
nghiệp trong các khu, cụm công nghiệp chưa
lấp đầy vẫn còn nhiều, chiếm khoảng 50%
trong các khu công nghiệp và khoảng 40%
trong các cụm công nghiệp. Đất khu, cụm
công nghiệp chưa được lấp đầy nhưng
DNNVV khó tiếp cận đất công nghiệp vì bản
thân các nhà đầu tư hạ tầng khu, cụm công
nghiệp không muốn chia nhỏ diện tích cho
phù hợp với nhu cầu sử dụng của DNNVV vì
làm tăng chi phí đầu tư hạ tầng. Mặt khác, chi
phí giá thuê cao so với khả năng tài chính của
DNNVV do không được tiếp cận đất tại các
khu vực tập trung, DNNVV buộc phải sản
xuất tại các khu vực sinh sống, xen lẫn với
khu dân cư nên đã có tác động xấu tới môi
trường xung quanh.
Thời gian qua, các địa phương đã cố
gắng triển khai công tác quy hoạch đi trước
một bước và thực hiện công khai hóa, minh
bạch hóa các thông tin liên quan đến quy
hoạch sử dụng đất để người dân, các doanh
nghiệp biết và thực hiện đầu tư kinh doanh
theo đúng quy hoạch. Tuy nhiên, các biện
pháp khuyến khích xây dựng các khu, cụm
công nghiệp cho các DNNVV thuê làm mặt
bằng sản xuất, kinh doanh chưa được quy
định rõ ràng nên hiện chính sách trợ giúp
mặt bằng sản xuất mới chỉ dừng lại ở mức
công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
trên địa bàn tỉnh, thành phố đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt; các khu, cụm
công nghiệp chưa thực sự có những chính
sách ưu đãi thu hút DNNVV.
1.3. Hỗ trợ đổi mới, nâng cao năng lực
công nghệ, trình độ kỹ thuật
Nhằm hỗ trợ doanh nghiệp thương mại
hoá sản phẩm, các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia và quy trình đánh giá sự phù
hợp, hợp chuẩn đang được Bộ Khoa học và
Công nghệ (KH&CN) tích cực triển khai. Bộ
KHCN đã trình Chính phủ ban hành một số
nghị định về kiểm định, hiệu chuẩn, thử
nghiệm phương tiện đo lường, chuẩn đo
lường; về kinh doanh mũ bảo hiểm cho người
đi xe mô tô, xe máy; về điều kiện kinh doanh
dịch vụ đánh giá sự phù hợp. Luật Chuyển
giao công nghệ (sửa đổi) đã được hoàn thiện
chờ thông qua. Nghị định về doanh nghiệp
KH&CN đã được sửa đổi theo hướng tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc tạo điều kiện
thuận lợi nhất trong việc đăng ký, chứng
nhận và hoạt động của doanh nghiệp
KH&CN.
4 Nghị định 29/2008/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ngày 14/3/2008 quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất
và khu kinh tế. Nghị định 104/2013/NĐ-CP.
5 Báo cáo của Bộ Công Thương (7/2014)
Soá chuyeân ñeà thaùng 9/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
11
Để rà soát đơn giản hoá quy trình, thủ tục
xác lập quyền sở hữu trí tuệ (SHTT), Bộ
KHCN tiến hành triển khai thực hiện dự án
“Xây dựng hệ thống thông tin tích hợp phục
vụ thẩm định đơn đăng ký SHTT” nhằm thực
hiện đăng ký bảo hộ quyền SHTT qua mạng
điện tử; phối hợp với Bộ Tài chính sửa đổi
Thông tư số 22/TT-BTC ngày 04/02/2009 quy
định mức thu, chế độ nộp, quản lý và sử dụng
phí, lệ phí sở hữu công nghiệp (SHCN) với
mục tiêu đơn giản hóa, thuận lợi hóa quy trình
xác lập quyền SHCN; tham gia các sáng kiến
về chia sẻ công tác thẩm định đơn SHCN
quốc tế; ngoài ra còn tích cực rà soát đơn giản
hóa thủ tục, giảm bớt quy trình, tăng cường
phân cấp trong thẩm định đơn SHCN; ứng
dụng CNTT và tuyển dụng, đào tạo thẩm định
viên nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả xử
lý đơn SHCN. Tính đến 31/12/2016, Bộ
KHCN đã tiếp nhận 87.974 đơn SHCN và đã
xử lý 74.033 đơn, đã cấp bằng bảo hộ cho
23.175 đối tượng SHCN.
16 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia
đã dần đi vào hoạt động ổn định, góp phần
nâng cao năng lực nghiên cứu và đào tạo, hỗ
trợ cho các cơ quan chủ trì, các tổ chức khoa
học và công nghệ, các trường đại học trong
cùng lĩnh vực chuyên môn thực hiện nhiệm
vụ về nghiên cứu, đào tạo và dịch vụ KHCN.
Ngoài ra, với năng lực trang thiết bị tiến tiến,
hiện đại trong từng lĩnh vực, các phòng thí
nghiệm trọng điểm cũng hỗ trợ đắc lực cho
hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Tuy
nhiên, việc tiếp cận các phòng thí nghiệm này
của doanh nghiệp còn hạn chế; cần ban hành
cơ chế tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp
cận các phòng thí nghiệm này, đảm bảo hiệu
quả đầu tư của NSNN và kịp thời hỗ trợ
DNNVV phát triển.
Quỹ Đổi mới Công nghệ Quốc gia đang
tích cực hoàn tất thủ tục hỗ trợ khoảng 100 dự
án tăng cường năng lực, đổi mới công nghệ
cho các doanh nghiệp. Bộ KHCN cũng đã ban
hành Thông tư số 14/2016/TT-BKHCN quy
định về quản lý các hoạt động cho vay từ vốn
của Quỹ Đổi mới Công nghệ Quốc gia làm cơ
sở pháp lý quan trọng để các doanh nghiệp, tổ
chức, cá nhân có nhu cầu vay vốn để thực hiện
các nhiệm vụ KHCN từ nguồn vốn của Quỹ.
1.4. Hỗ trợ xúc tiến, mở rộng thị trường
Chương trình xúc tiến thương mại quốc
gia thực hiện theo Quyết định số
72/2010/QĐ-TTg ngày 15 tháng 11 năm 2010
của Thủ tướng Chính phủ. Đây là một trong
những chính sách quan trọng hỗ trợ các tổ
chức hiệp hội ngành hàng, các cơ quan xúc
tiến thương mại và các địa phương thực hiện
các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp củng cố,
mở rộng thị trường xuất khẩu, thị trường
trong nước và miền núi, biên giới, hải đảo,
đào tạo nâng cao năng lực cho doanh nghiệp,
hợp tác xãvới mục tiêu đẩy mạnh xuất
khẩu, hạn chế nhập siêu, ưu tiên tập trung các
hoạt động/Chương trình lớn, có trọng tâm
trọng điểm và gắn trực tiếp với hiệu quả. Số
lượt doanh nghiệp tham gia Chương trình
tăng dần qua các năm, trong đó chiếm 90% là
DNNVV6.
Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế hội
nhập sâu như hiện nay, một trong những vấn
đề nhiều chuyên gia lo ngại chính là doanh
nghiệp Việt Nam lại đang mất dần thị trường
trong nước cho doanh nghiệp nước ngoài.
Theo số liệu của Bộ Công Thương, hiện nay
cả nước có khoảng 90 cơ sở bán lẻ của doanh
nghiệp FDI có quy mô từ 500m2 trở lên thuộc
loại hình siêu thị, trung tâm thương mại,
chiếm khoảng 9,3% tổng số 800 siêu thị và
168 trung tâm thương mại ở Việt Nam. Theo
số liệu của Tổng cục Thống kê, các doanh
nghiệp FDI chiếm 3,4% thị phần trong tổng
mức bán lẻ cả nước và chủ yếu hoạt động ở
6 Số doanh nghiệp được hưởng lợi từ chương trình qua các năm 2012, 2013, 2014 lần lượt là 4.596, 6.834 và 7.682
doanh nghiệp.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
12
phân khúc thị trường bán lẻ hiện đại (chiếm
khoảng 17%). Tuy nhiên, thực tế một số tỉnh,
thành phố, các trung tâm thương mại, siêu thị
của doanh nghiệp FDI như Metro, BigC,
Lotte chiếm thị phần ưu thế so với tổng
mức bán lẻ còn nhỏ của địa phương đó. Thực
tế này cho thấy, trong phạm vi khu vực địa lý
cụ thể ở từng địa phương, các trung tâm
thương mại và siêu thị của doanh nghiệp FDI
có khả năng cạnh tranh trội hơn so với các
doanh nghiệp trong nước. Thực tiễn này ít
nhiều tác động tới sự phát triển của thị trường
bán lẻ trong nước, đặc biệt là khi doanh
nghiệp FDI tăng cường mở rộng đầu tư thông
qua hình thức mua bán lại doanh nghiệp hoặc
góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp bán
lẻ trong nước (thương vụ bán lại hoặc chuyển
nhượng cổ phần cho nhà đầu tư Thái Lan qua
hệ thống Metro, điện máy Nguyễn Kim, Big
C; thương vụ chuyển nhượng cổ phần cho nhà
đầu tư Nhật Bản qua hệ thống điện máy Trần
Anh, Citimart và Fivimart,).
Sự gia tăng đầu tư của nhà phân phối nước
ngoài, trong đó có nhà đầu tư Thái Lan kéo
theo mối quan ngại hàng Thái sẽ tràn ngập thị
trường và cạnh tranh gay gắt với hàng hoá
trong nước. Đứng trước thực tiễn diễn ra thời
gian qua, việc hình thành chuỗi phân phối sản
phẩm quốc gia để các DNNVV tham gia là
một chính sách mà nhiều quốc gia đã và đang
áp dụng. Việt Nam cũng cần nghiên cứu bổ
sung chính sách này vào khung hỗ trợ
DNNVV để từng bước giúp các doanh nghiệp
trong nước dành lại được thị phần ngay tại
chính thị trường nội địa.
1.5. Hỗ trợ thông tin và tư vấn
Hoạt động tư vấn tại hiện trường cho
doanh nghiệp được Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(Cục Phát triển doanh nghiệp) triển khai chủ
yếu trong khuôn khổ của Chương trình Tình
nguyện viên Nhật Bản và Hàn Quốc. Các
doanh nghiệp nhận được hỗ trợ tư vấn từ các
chuyên gia nước ngoài và đều đánh giá tốt
chương trình vì thông qua hoạt động tư vấn
và phái cử tình nguyện viên đến doanh
nghiệp, người lao động tại các doanh nghiệp
được đào tạo và tiếp cận với những kiến thức
và kinh nghiệm quản lý tại các nước phát
triển. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng
mong muốn được tiếp tục hỗ trợ chuyên sâu
hơn nữa.Ví dụ, sau tư vấn cơ bản về 5S, các
doanh nghiệp mong muốn được tiếp tục tư
vấn các kỹ năng về quản lý sản xuất ở cấp độ
cao hơn như TPM (Total Productive
Maintenance, JIT (Just in Time) hay tư vấn về
QCC (kiểm soát chất lượng).
Tuy nhiên, do chưa có khung pháp lý để
triển khai hoạt động tư vấn, nên hoạt động tư
vấn do Bộ Kế hoạch và Đầu tư triển khai chưa
được nhân rộng và còn gặp khó khăn do kinh
phí ngân sách nhà nước để triển khai cho hoạt
động này cũng chưa được bố trí. Ngoài ra,
nhằm xúc tiến thương mại, định hướng xuất
khẩu, các doanh nghiệp được Nhà nước hỗ trợ
thuê chuyên gia trong và ngoài nước để tư vấn
phát triển sản phẩm, nâng cao chất lượng sản
phẩm, phát triển xuất khẩu, thâm nhập thị
trường nước ngoài.
1.6. Trợ giúp phát triển nguồn nhân lực
Thứ nhất, hoạt động hỗ trợ đào tạo, bồi
dưỡng nguồn nhân lực cho doanh nghiệp nhỏ
và vừa.
Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân
lực cho DNNVV do Bộ KHĐT chủ trì phối
hợp với các Bộ, ngành, địa phương tổ chức
thực hiện qua 5 năm triển khai đạt được nhiều
kết quả tích cực. Các nội dung đào tạo khởi
nghiệp được cộng đồng sinh viên hưởng ứng
mạnh mẽ (đặc biệt sinh viên các trường Đại
học Bách khoa, Học viện Nông nghiệp, Đại
học Quốc gia Hà Nội...). Cộng đồng doanh
nghiệp đánh giá cao và hưởng ứng mạnh mẽ
các khoá đào tạo quản trị chuyên sâu theo
hướng tập trung vào các cụm/nhóm doanh
nghiệp có tiềm năng hình thành liên kết trong
chuỗi giá trị và cụm liên kết ngành; các
Soá chuyeân ñeà thaùng 9/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
13
chương trình quản trị lãnh đạo CEO, CFO,
COO; các khóa đào tạo kết hợp tư vấn các nội
dung về Kaizen, 5S tại hiện trường cho doanh
nghiệp sản xuất. Năm 2016, đã có 18.500 lượt
học viên tham gia và được hưởng lợi từ
chương trình đào tạo.
Thứ hai, các hoạt động hỗ trợ đào tạo
khác cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành
(Chương trình 585) do Bộ Tư pháp chủ trì
thực hiện đã tổ chức các khóa bồi dưỡng kiến
thức pháp luật kinh doanh cho doanh nghiệp;
bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ
pháp chế doanh nghiệp và cán bộ thực hiện
công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
- Chương trình đào tạo nâng cao năng lực
quản lý, khởi sự doanh nghiệp cho các cơ sở
công nghiệp nông thôn (thuộc Chương trình
Khuyến công): hỗ trợ đào tạo về khởi sự
thành lập doanh nghiệp cho các học viên và
nâng cao năng lực quản lý doanh nghiệp cho
chủ hoặc cán bộ quản lý của các cơ sở công
nghiệp nông thôn nhằm nâng cao kỹ năng
quản trị doanh nghiệp, quản lý điều hành sản
xuất, xây dựng thương hiệu, phát triển
bền vững.
2. Đánh giá chung công tác hỗ trợ
doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian
qua
2.1. Những kết quả đạt được
Quá trình triển khai thực hiện Nghị định
số 56/2009/NĐ-CP đã cho thấy ý nghĩa và
tầm quan trọng của Nghị định. Đây là cơ sở
pháp lý để xây dựng và triển khai thực hiện
các chính sách, chương trình trợ giúp phát
triển DNNVV, phát huy tiềm năng và nâng
cao vai trò của các DNNVV trong phát triển
kinh tế - xã hội quốc gia. Trên cơ sở Nghị
định số 56/2009/NĐ-CP, nhiều kế hoạch,
chương trình, dự án hỗ trợ DNNVV đã được
thực thi. Các Kế hoạch phát triển DNNVV 5
năm giai đoạn 2006-2010 và 2011-2015 đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại các
Quyết định số 236/2006/QĐ-TTg và Quyết
định số 1231/QĐ-TTg ngày 7/9/2012. Các
kế hoạch đã đưa ra hệ thống các giải pháp
trợ giúp DNNVV tương đối toàn diện và có
lộ trình thực hiện cụ thể. Đây là khung pháp
lý quan trọng giúp các Bộ, ngành, địa
phương và hiệp hội doanh nghiệp xây dựng
và thực hiện trợ giúp phát triển DNNVV
trong phạm vi quản lý và giúp định hướng
mục tiêu hỗ trợ DNNVV cho các nhà tài trợ
quốc tế.
Nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương cũng đã xây dựng các chính sách,
chương trình trợ giúp DNNVV trên các lĩnh
vực: quản trị doanh nghiệp, xúc tiến thương
mại, xây dựng thương hiệu, nâng cao năng
suất, chất lượng sản phẩm, đổi mới công
nghệ, tổ chức các cuộc đối thoại giữa chính
quyền, các cơ quan quản lý nhà nước với
doanh nghiệp,... Một số ngân hàng thương
mại đã triển khai các phương thức hỗ trợ tín
dụng thích hợp hơn với đối tượng DNNVV,
điều chỉnh lãi suất hỗ trợ DNNVV trong giai
đoạn khó khăn... Các bộ, ngành, hiệp hội
doanh nghiệp cũng đã và đang triển khai các
chương trình nhằm huy động nguồn lực của
toàn xã hội thúc đẩy hỗ trợ DNNVV. Các
chính sách và chương trình trợ giúp DNNVV
đã và đang từng bước đi vào cuộc sống. Nhận
thức và sự quan tâm của các Bộ, ngành và địa
phương đối với công tác trợ giúp phát triển
DNNVV đang dần được nâng lên. Đó là
những tín hiệu đáng khích lệ đối với cộng
động DNNVV, giúp họ có thêm niềm tin và
sức mạnh để vượt qua khó khăn và phát triển
bền vững.
2.2. Một số tồn tại, hạn chế
Các chính sách, chương trình trợ giúp
phát triển DNNVV đã đạt được một số kết
quả đáng ghi nhận nhưng việc triển khai thực
hiện cũng đã cho thấy tác động hỗ trợ của
các chính sách này vẫn còn nhiều hạn chế,
tồn tại:
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
14
Thứ nhất, các chương trình trợ giúp
DNNVV chưa được đánh giá, nghiệm thu kết
quả hỗ trợ một cách chính thức, bài bản. Một
số chương trình mới dừng ở mức ước tính tỉ lệ
DNNVV có thể tham gia, thậm chí có chương
trình không thể đánh giá được mức độ tham
gia của các doanh nghiệp.
Thứ hai, nhiều chính sách mới chỉ dừng
lại ở những quy định mang tính khuyến khích
chung, chưa có những quy định ưu đãi rõ ràng
(ví dụ trợ giúp DNNVV về mặt bằng sản xuất,
hỗ trợ DNNVV tham gia kế hoạch mua sắm,
cung ứng dịch vụ công) và kết quả hỗ trợ còn
hạn chế.
Thứ ba, một số chính sách có nội dung
chưa sát thực tế; hình thức thực hiện chưa phù
hợp với đối tượng DNNVV. Ví dụ như trong
lĩnh vực hỗ trợ về thông tin: đa số trang thông
tin cho doanh nghiệp cung cấp các thông tin
chung chung, lạc hậu, thiếu các thông tin phục
vụ thiết thực cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp hoặc tư vấn trực
tuyến. Việc đào tạo nguồn nhân lực có nội
dung chưa chuyên sâu, chưa bám sát với nhu
cầu thực tế của doanh nghiệp; hình thức tổ
chức khóa/lớp đào tạo chưa linh hoạt do đó
làm giảm sự quan tâm và tham gia của các
doanh nghiệp.
Thứ tư, tiến độ thực hiện các chính sách,
chương trình trợ giúp DNNVV còn chậm.
Thời gian xây dựng các văn bản hướng dẫn
thi hành các văn bản quy phạm pháp luật còn
bị kéo dài, thông thương từ 2 đến 3 năm. Ví
dụ như Chương trình đổi mới công nghệ quốc
gia đến 2020, Chương trình quốc gia phát
triển công nghệ cao, Chương trình phát triển
sản phẩm quốc gia gắn với công nghệ tiên
tiến.., Quỹ Phát triển DNNVV được thành
lập sau hơn 3 năm xây dựng đề án, hiện nay
DNNVV vẫn chưa tiếp cận được vốn của
Quỹ này.
Thứ năm, các chính sách, chương trình
trợ giúp DNNVV hiện đang được thực hiện
một cách rời rạc, manh mún và dàn trải. Trong
khi đó, đối với một doanh nghiệp, muốn phát
triển bền vững thì phải có đủ các yếu tố như
nguồn lực, tài chính, trình độ công nghệ, khả
năng tiếp cận thông tin thị trường, hiểu biết
pháp lý, nên cần có sự hỗ trợ mang tính
tổng thể của Nhà nước. Vì vậy, mặc dù hàng
năm Chính phủ đã bố trí nguồn lực để hỗ trợ
cho DNNVV nhưng hiện nay không thể đo
lường được hiệu quả thực hiện cũng như đánh
giá tác động của các biện pháp này của Chính
phủ đối với các doanh nghiệp. Nhiều
DNNVV phản ánh rằng, họ không biết hoặc
không tiếp cận được với chính sách hỗ trợ của
Nhà nước. Một số doanh nghiệp lại cho rằng,
các chính sách và chương trình trợ giúp chưa
thực sự đáp ứng nhu cầu thực tế của doanh
nghiệp, thủ tục tham gia phức tạp và không
có hướng dẫn cụ thể.
Thứ sáu, việc xây dựng và thực hiện
chính sách trợ giúp DNNVV ở cấp địa
phương còn nhiều hạn chế. Nhiều địa phương
chưa chủ động xây dựng các chương trình,
chính sách trợ giúp DNNVV trên địa bàn,
hầu hết mới chỉ tham gia thực hiện các
chương trình do các Bộ, ngành chủ trì với
mức độ khiêm tốn (xúc tiến thương mại, sở
hữu trí tuệ, quản lý chất lượng..). Khoảng
30% số địa phương chưa phê duyệt và triển
khai kế hoạch phát triển DNNVV của tỉnh
cũng như chưa có báo cáo về tình hình thực
hiện kế hoạch về Bộ Kế hoạch và Đầu tư để
kịp thời tổng hợp và tháo gỡ các kiến nghị,
khó khăn cho doanh nghiệp.
Những tồn tại, hạn chế nêu trên xuất phát
từ một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, các chính sách trợ giúp DNNVV
quy định tại Nghị định 56/2009/NĐ-CP được
lồng ghép vào các chương trình của ngành và
lĩnh vực. Theo đó, các chương trình này có
đối tượng hỗ trợ rộng, không dành riêng cho
DNNVV, các nội dung chưa thực sự phù hợp
với đối tượng DNNVV, dẫn đến việc không
Soá chuyeân ñeà thaùng 9/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
15
thể đánh giá được kết quả hỗ trợ cho DNNVV
cũng như giảm cơ hội tham gia/hưởng lợi của
các DNNVV.
Hai là, sự phối hợp giữa các Bộ ngành,
giữa Trung ương và địa phương còn yếu.
Thiếu cơ chế điều phối hoạt động trợ giúp
phát triển DNNVV. Hiện nay, hầu như mỗi
một bộ/ngành độc lập triển khai các chính
sách/chương trình của mình, thiếu sự liên kết
với các chương trình khác nhằm tập trung cho
một nhóm doanh nghiệp trọng điểm để phát
triển thành các doanh nghiệp có quy mô lớn
hơn và có tác động lan tỏa tới các doanh
nghiệp khác. Đồng thời, cơ chế báo cáo và
chia sẻ thông tin chưa được thực hiện nghiêm
túc và đầy đủ.
Ba là, năng lực của các đơn vị đầu mối
thực hiện trợ giúp DNNVV còn yếu và thiếu.
Theo quy định tại Điều 15 và 18 của Nghị
định 56/2009/NĐ-CP, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, các Sở Kế hoạch và Đầu tư địa phương có
chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về trợ
giúp phát triển DNNVV; làm đầu mối phối
hợp với các cơ quan liên quan xây dựng
chương trình, kế hoạch trợ giúp phát triển
DNNVV, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt,
ban hành và chỉ đạo tổ chức thực hiện. Tuy
nhiên, hiện tại, theo báo cáo mới chỉ có
16/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
có đơn vị đầu mối trực thuộc Sở Kế hoạch
và Đầu tư hoặc cấp tương đương thực hiện
chức năng trợ giúp phát triển DNNVV trên
địa bàn tỉnh.
Bốn là, sự quan tâm và đầu tư của các địa
phương đối với công tác trợ giúp phát triển
DNNVV còn thấp trong khi nguồn ngân sách
Trung ương hạn chế. Hầu hết các địa phương
chưa chủ động bố trí ngân sách để hỗ trợ cho
DNNVV, nếu có thì cũng rất hạn chế so với
nhu cầu hỗ trợ cao từ phía cộng đồng
DNNVV (chỉ mới 19% tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương bố trí ngân sách riêng thực
hiện công tác hỗ trợ cho doanh nghiệp).
Việc khắc phục những hạn chế nêu trên là
một trong những mục tiêu cơ bản mà Luật Hỗ
trợ DNNVV đã hướng tới. Luật đã ghi nhận
trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, các Bộ, ngành, địa phương trong việc
cấp kinh phí từ ngân sách cho hoạt động hỗ
trợ, qua đó phần nào chấm dứt tình trạng các
Bộ, ngành, địa phương có thái độ tùy tiện
dành kinh phí hợp lý cho công tác này. Luật
đã quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan nhà nước, cơ chế phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước với nhau và giữa các cơ
quan nhà nước với các tổ chức đại diện của
doanh nghiệp, qua đó góp phần khắc phục
tình trạng cắt khúc, biệt lập, mạnh ai lấy làm,
đặc biệt là sự không phối hợp trong công tác
hỗ trợ DNNVV. Luật cũng đã xây dựng cơ
chế giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các
chương trình hỗ trợ, qua đó góp phần khắc
phục một trong những hạn chế cơ bản của
công tác hỗ trợ hiện nay là Nhà nước đã bỏ ra
nhiều tiền nhưng không đạt được hiệu quả
như mong muốn.
Kết luận:
Việc hỗ trợ DNNVV đã được Đảng và Nhà
nước rất quan tâm. Tuy nhiên, do hạn chế về
mặt nhận thức cũng như do điều kiện tài chính
còn hạn hẹp nên công tác này chưa đem lại kết
quả như mong muốn. Nguyên nhân của các
hạn chế trong công tác hỗ trợ DNNVV không
phải chỉ do nhận thức chưa đúng của cán bộ
nhà nước cũng như các DNNVV về công tác
hỗ trợ cho DNNVV và sự eo hẹp về tài chính
của Nhà nước mà còn có rất nhiều nguyên
nhân khác. Trong số các nguyên nhân đó có
việc Nhà nước chưa ban hành được một đạo
luật để làm cơ sở pháp lý nền tảng,ổn định,
cho việc xây dựng và triển khai thực hiện công
tác hỗ trợ cho DNNVV. Vì vậy, việc ban hành
Luật Hỗ trợ DNNVV vừa qua sẽ góp phần tạo
điều kiện cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tồn tại,
phát triển và phát huy được vai trò to lớn của
mình trong nền kinh tế nước ta./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_cong_tac_ho_tro_doanh_nghiep_nho_va_vua.pdf