Thực trạng đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm tại Tổng công ty Dệt - May Việt Nam

Các mặt hàng này sẽ được đầu tư theo hướng đầu tư theo hướng hình thành các mặt hàng chủ lực ở mỗi công ty Dệt, đẩy mạnh việc sản xuất theo hướng chuyên môn hoá, hình thành các trung tâm sản xuất các mặt hàng chiến lược chất lượng cao: vải bông, bông pha, vải PES chất lượng cao, vải may complet. Phát triển các mặt hàng có xử lý hoàn tất cao cấp: chống co, chống nhàu, chống thấm nước và xử lý hoàn tất các chức năng khác. Phát triển các mặt hàng vải len pha, vải từ sợi tơ tằm dạng Spunsilk, sợi Linen, sợi phức hợp, các mặt hàng rèm, hàng nội thất, các mặt hàng vải kỹ thuật.

doc87 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1241 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm tại Tổng công ty Dệt - May Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp xây dựng được cho mình một thương hiệu mạnh thì sản phẩm của doanh nghiệp sẽ giành được thiện cảm và niềm tin của khách hàng đối với sản phẩm của mình hay sản phẩm của doanh nghiệp được người tiêu dùng tin cậy và đánh giá cao. Đầu tư cho xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm mới chỉ được các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp Dệt-May nói riêng quan tâm trong thời gian gần đây sau một loạt các sự kiện về thương hiệu Việt Nam.Tổng công ty Dệt-May Việt Nam cũng đã có những hoạt động thiết thực trong lĩnh vực đầu tư xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm như: xây dựng, đăng ký, quảng cáo thương hiệu của các doanh nghiệp và tích cực quảng bá thương hiệu trên thị trường trong nước và quốc tế qua các hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước. Thương hiệu sản phẩm dệt may của nhiều doanh nghiệp thuộc Tổng công ty và VINATEX đã tìm được chỗ đứng trên thị trường trong nước và quốc tế: nhiều thương hiệu như May 10, May Việt Tiến... đã trở nên quen thuộc với người tiêu dùng, sản phẩm của nhiều doanh nghiệp được người tiêu dùng bình chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao. Trong tương lai đầu tư cho lĩnh vực này cần được thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú hơn: như xây dựng các bộ sưu tập thời trang, tổ chức các buổi trình diễn nhằm quảng bá mạnh mẽ hơn thương hiệu sản phẩm của Tổng công ty. Có thể nói trong thời gian từ khi thành lập tới nay hoạt động đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm của Tổng công ty Dệt-May Việt Nam trên tất cả các lĩnh vưc đều đã đạt được những thành công đáng kể góp phần nâng cao mức chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh của Tổng công ty trên cả thị trường trong nước và quốc tế. III. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM CỦA TỔNG CÔNG TY DỆT-MAY VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 1. Những kết quả đạt được 1.1 Những kết quả đạt được trên các lĩnh vực đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm Trong thời gian qua, các lĩnh vực đầu tư của hoạt động đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm của Tổng công ty Dệt-MayViệt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng trong việc nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao hiệu quả các hoạt động thị trường và hiệu quả của công tác quản lý qua đó góp phần nâng cao các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm: cả về các chỉ tiêu kinh tế-kỹ thuật cũng như mức độ thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Thứ nhất: Đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm đã đổi mới được một lượng lớn máy móc, thiết bị công nghệ, nâng cao khả năng và trình độ công nghệ của các doanh nghiệp, nâng cao các chỉ tiêu kinh tế-kỹ thuật, thẩm mỹ của các sản phẩm sản xuất ra. Nhờ tăng cường đầu tư cho máy móc, thiết bị công nghệ từ năm 1996 đến nay với tổng số vốn đầu tư là 4962,165 tỷ đồng đã cải thiện đáng kể trình độ máy móc, thiết bị, công nghệ của các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty. Cho đến nay, tính chung khoảng 25% thiết bị công nghệ Dệt thoi và 35% thiết bị công nghệ nhuộm hoàn tất của các doanh nghiệp Dệt được đổi mới, các dây chuyền kéo sợi cũng được đổi mới và bổ sung các dây chuyền kéo sợi mới chất lượng tốt. Vì vậy, chất lượng vải, sợi được cải thiện hơn: sản lượng sợi chỉ số cao (Ne>40) tăng, sản lượng sợi chải kỹ cũng tăng đáng kể (sản lượng sợi chải kỹ chỉ chiếm 3% năm 1997 đã tăng lên 16,8% năm 2002), một số loại sợi mới có chất lượng cao, nhiều tính năng mới phục vụ cho việc sản xuất các loại vải cho may xuất khẩu cũng được đưa vào sản xuất thử nghiệm: Cotton/Visco, cotton/Acrylic, Wool/Acrylic...chất lượng sợi nói chung về độ đều, độ sạch được nâng cao; nhiều loại sợi đạt chất lượng cao cấp ở đường 25% của thống kê UESTER thế giới. Các loại vải dệt thoi cũng phong phú hơn và chất lượng tốt hơn do có thêm các máy dệt thoi mới, hiện đại, khổ rộng; các nhà máy dệt thoi cũng đã sản xuất được một số loại vải mới chất lượng tốt phục vụ cho may xuất khẩu: vải Demin, Gabađin, Kaki... Vải dệt kim và sản phẩm dệt kim cũng phong phú hơn, kiểu dáng, mẫu mã đẹp hơn đáp ứng tốt nhu cầu của người tiêu dùng trong nước và quốc tế. Ngành May của Tổng công ty cũng đã đổi mới được 95% số thiết bị cũ với các máy may có chất lượng cao, khá hiện đại, chủ yếu là của Đức, Nhật; số máy chuyên dùng cũng tăng lên đáng kể có thể đáp ứng được yêu cầu về nhiều loại mặt hàng ở mức chất lượng cao. Ngành may được đánh giá là có trình độ ngang tầm với các nước trong khu vực. Một số sản phẩm May của Việt Nam được đánh giá cao trên thị trường quốc tế. Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp May thuộc Tổng công ty giữ được mức tăng trưởng cao trên 10% trong những năm qua với giá trị xuất khẩu hàng trăm triệu USD có sự đóng góp đáng kể của việc đầu tư cho thiết bị công nghệ may. Thứ hai: Đầu tư cho nghiên cứu thị trường, xúc tiến tiêu sản phẩm đã góp phần quan trọng trong việc gắn sản xuất với tiêu dùng, bởi vậy sản phẩm sản xuất ra ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Hoạt động nghiên cứu thị trường được đầu tư nhiều hơn trong vài năm gần đây đã đạt được những kết quả nhất định: nhiều văn phòng đại diện của VINATEX tại nước ngoài được thành lập, xây dựng được hệ thống xúc tiến thương mại với các thị trường trọng điểm, tham gia và tổ chức nhiều hộ chợ và triển lãm cả trong và ngoài nước... giúp cung cấp kịp thời các thông tin về thị trường cho các doanh nghiệp, nhờ đó các doanh nghiệp có thể nắm bắt kịp thời nhu cầu thị trường, tăng mức độ thỏa mãn của khách hàng khi tiêu dùng sản phẩm. Thứ ba: Đầu tư cho nghiên cứu và thiết kế sản phẩm đã đưa vào sản xuất nhiều loại sản phẩm mới, hoàn thiện sản phẩm và nâng cao chỉ tiêu thẩm mỹ cho các sản phẩm dệt may của Tổng công ty. Khâu nghiên cứu và thiết kế sản phẩm cũng đạt được một số thành công nhất định: nhờ trang bị thêm cơ sở vật chất cho các Viện nghiên cứu Kinh tế-Kỹ thuật dệt may, Viện nghiên cứu thời trang dệt may mà khả năng nghiên cứu và ứng dụng được tăng lên đáng kể. Do đó nhiều loại sản phẩm mới đã được đưa vào sản xuất, nhiều thành tựu khoa học công nghệ được ứng dụng vào sản xuất, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Khâu thiết kế sản phẩm tại các doanh nghiệp May đã được đầu tư hệ thống thiết kế bằng máy tính, thiết kế nhanh các mẫu sản phẩm đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng. Các doanh nghiệp May từ chỗ chỉ xuất khẩu quần áo bảo hộ lao động và các loại quần áo đơn giản đến nay đã may được nhiều mặt hàng cao cấp kiểu dáng phong phú, hợp thời trang được khách hàng trong và ngoài nước rất ưa chuộng như: sơmi, quần âu, jacket, áo khoác, T-shirt, poloshirt, jeans, quần áo trẻ em... Thứ tư: Đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực cũng góp phần nâng cao trình độ tay nghề, nâng cao thu nhập cho người lao động. Với việc tăng cường đầu tư cho công tác đào tạo và trang bị thêm cơ sở vật chất cho các cơ sở đào tạo đã tăng đáng kể số lượng học viên tại các trung tâm đào tạo và các trường đào tạo nghề thuộc Tổng công ty Dệt-May Việt Nam góp phần nâng cao trình độ tay nghề cho đội ngũ công nhân sản xuất , nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ quản lý và các cán bộ kỹ thuật tạo thuận lợi cho việc thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Thứ năm: Đầu tư cho nguyên phụ liệu: như đầu tư phát triển các vùng trồng bông, các nhà máy chế biến bông nhằm tạo dựng nguồn cung cấp nguyên liệu có chất lượng, ổn định, từ trong nước đang được tăng cường thực hiện, phát triển ngành Dệt và tăng cường mối liên kết giữa các doanh nghiệp Dệt và May để các doanh nghiệp Dệt có thể cung cấp nguyên liệu kịp thời cho các doanh nghiệp May trong thời gian vừa qua cũng bắt đầu phát huy hiệu quả tại Tổng công ty Dệt-May Việt Nam. Một loạt các dự án của Công ty Bông Việt Nam thực hiện trong thời gian gần đây (2001-2003): nghiên cứu và phát triển những giống Bông và cây kéo sợi mới, xây dựng nhà máy chế biến Bông, phối hợp với chính phủ quy hoạch các vùng trồng Bông mở ra triển vọng về nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định và có chất lượng thay thế dần nguyên liệu ngoại nhập cho các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty và toàn ngành Dệt-May Việt Nam. Các dự án đầu tư phát triển các mặt hàng sợi, vải mới phục vụ cho may xuất khẩu cũng đạt kết quả khả quan: một số loại vải dệt thoi mới như: vải Demin, vải pha sợi Lycra...và vải dệt kim làm nguyên liệu tốt cho may xuất khẩu. Thứ sáu: Đầu tư cho hệ thống quản lý đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý, hiệu quả sản xuất kinh doanh và nâng cao chất lượng sản phẩm. Đến nay, Tổng công ty đang tiếp tục triển khai áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng, môi trường và trách nhiệm xã hội rộng rãi cho các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty và đã có nhiều doanh nghiệp được cấp chứng chỉ về hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000, một số doanh nghiệp được cấp chứng chỉ ISO 14000 và SA 8000 nhờ đó mà sản phẩm của Tổng công ty đã đáp ứng được nhu cầu của các thị trường khó tính như: Mỹ, EU. Thứ bảy: Đầu tư cho xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm góp phần làm tăng uy tín của sản phẩm dệt may Việt Nam. Do đó nhiều thương hiệu sản phẩm của Tổng công ty Dệt-May Việt Nam đã trở nên gần gũi với người tiêu dùng như: May 10, May Việt Tiến, May Đức Giang, Dệt Phong Phú... 1.2 Đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm đã cải thiện đáng kể chất lượng sản phẩm góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả sản xuất kinh doanh của Tổng công ty Hoạt động đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm của Tổng công ty Dệt-May Việt Nam trong thời gian qua đã cải thiện đáng kể mức chất lượng sản phẩm của Tổng công ty. Sản phẩm của các doanh nghiệp từ chỗ chỉ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu sang thị trường các nước Đông Âu và Liên Xô, đến nay sản phẩm dệt may của các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty đã có mặt tại hầu hết các thị trường lớn và khó tính trên thế giới: như Mỹ, EU, Canada... Doanh thu tiêu thụ sản phẩm của Tổng công ty tăng trưởng liên tục trong những năm qua năm 2003 doanh thu thực hiện của Tổng công ty là 12357 tỷ đồng tăng gấp 2,5 lần so với năm 1996, tốc độ tăng trưởng bình quân của thời kỳ 2001-2003 là 19,3%; kim ngạch xuất khẩu (tính cả nguyên phụ liệu) của Tổng công ty năm 2003 đạt 710 triệu USD gấp gần 2 lần so với năm 1996. Từ năm 1996 đến nay tuy mức lợi nhuận đạt được của toàn Tổng công ty chưa cao nhưng vẫn được đánh giá là có hiệu quả cao hơn rất nhiều so với thời kỳ trước. Một số doanh nghiệp của Tổng công ty đạt được các chỉ tiêu hiệu quả khá cao như: May 10, May Việt Tiến, Dệt Phong Phú... Tuy hiệu quả hoạt động của toàn Tổng công ty chưa cao song Tổng công ty Dệt-May Việt Nam đã thực hiện khá tốt vai trò của mình: chỉ đạo, điều tiết các doanh nghiệp thành viên trong đầu tư, sản xuất kinh doanh từng bước tháo gỡ những khó khăn cho các doanh nghiệp dệt may quốc doanh trước đây, giúp các doanh nghiệp đứng vững trong điều kiện kinh doanh mới. Tổng công ty Dệt-May Việt Nam từ khi thành lập đến nayđã góp phần tạo việc làm cho hàng chục nghìn lao động và đóng góp đáng kể cho Ngân sách Nhà nước. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty Dệt-May Việt Nam giai đoạn 2001-2003 Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2001 2002 2003 Giá trị tổng sản lượng Tỷ đồng 5610 6297 7520 Doanh thu Tỷ đồng 8452,6 9695 12357 Lợi nhuận Tỷ đồng 70,9 37,4 62,7 KNXK (cả nguyên phụ liệu) Triệu USD 517 530,5 710 Nộp ngân sách Tỷ đồng 269 315 Thu nhập bình quân Nghìn đồng 1114,652 1162,274 1274,005 (Nguồn: Tổng công ty Dệt-May Việt Nam) 2. Những hạn chế và nguyên nhân Hoạt động đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm của Tổng công ty Dệt-May Việt Nam trong thời gian qua mặc dù đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, song còn tồn tại một số vấn đề bất cập hạn chế những kết quả đạt được. Thứ nhất: Trong lĩnh vực đầu tư cho máymóc, thiết bị, công nghệ Vốn đầu tư cho máy móc, thiết bị, công nghệ giai đoạn 2001-2003 là 3368 tỷ đồng gấp hơn 2 lần so với giai đoạn 1996-2000. Nhưng đến nay chỉ có ngành May là được đánh giá là có trình độ ngang tầm với các nước trong khu vực còn lại phần lớn máy móc, thiết bị của ngành Dệt khoảng 70% có trình độ công nghệ của những năm 80 của thế kỷ trước, số thiết bị mới chủ yếu có xuất sứ từ Trung Quốc, ấn Độ, Đài Loan, Hàn Quốc, chỉ có một số ít máy có xuất sứ từ Tây Âu; các thiết bị kéo sợi chỉ số Ne cao con ít, sản lượng sợi chải kỹ còn thấp, các thiết bị dệt còn thiếu đồng bộ giữa các khâu, thiết bị nhuộm hoàn tất có xuất sứ từ nhiều nguồn khác nhau. Hiện nay, sản phẩm Dệt vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của May xuất khẩu cả về chủng loại, số lượng và chất lượng vải. Trong năm 2002 chúng ta vẫn phải nhập tới 260165 tấn sợi và 1960 triệu USD vải cho ngành May. Vải dệt thoi chất lượng còn thấp, tiếp thị hậu mãi còn hạn chế do đó mới chỉ đáp ứng được 13-14% nhu cầu cho may xuất khẩu. Điều này làm hạn chế khả năng cạnh tranh và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty. Hạn chế này là do vốn đầu tư cho đổi mới máy móc, thiết bị của ngành Dệt yêu cầu lớn hơn nhiều so với ngành May. Do đó, chỉ có những doanh nghiệp lớn mới đủ sức đầu tư thay mới cả dây chuyền sản xuất hoặc mua sắm những thiết bị, công nghệ có trình độ tiên tiến; các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ chỉ có thể đầu tư thay thế những thiết bị cũ kỹ lạc hậu bằng các máy đã qua sử dụng hoặc bổ sung vào dây chuyền sản xuất một số máy hiện đại để nâng cao chất lượng sản phẩm. Song việc đầu tư này chưa hiệu quả bởi các thiết bị được đầu tư thiếu đồng bộ, có xuất sứ từ nhiều nguồc khác nhau gây khó khăn cho việc vận hành và quản lý kỹ thuật dẫn đến chất lượng sản phẩm không cao. Do vậy, trong thời gian tới Tổng công ty cần có các biện pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp vưa và nhỏ trong các dự án đầu tư cho thiết bị, công nghệ. Thứ hai: Trong lĩnh vực đầu tư cho nghiên cứu thị trường, xúc tiến tiêu thụ sản phẩm và nghiên cứu thiết kế sản phẩm mới. Đầu tư cho các lĩnh vực này mặc dù đã được quan tâm hơn trong những năm gần đây, song hoạt động đầu tư còn manh mún, thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các doanh nghiệp trong Tổng công ty gây lãng phí, kém hiệu quả. Hoạt động thị trường đôi khi còn chậm chạp dẫn đến tình trạng sản xuất nhiều khi vượt quá nhu cầu của thị trường. Khâu nghiên cứu và thiết kế sản phẩm đã được đổi mới nhưng vẫn chủ yếu thiết kế theo mẫu đặt trước của khách hàng hoặc sao chép những mẫu mã sẵn có của nước ngoài, các doanh nghiệp còn yếu kém trong việc xây dựng mẫu mã riêng cho mình. Do đó, sản phẩm dệt may Việt Nam mẫu mã chủng loại còn nghèo nàn mới chủ yếu hướng vào thị trường nội địa chưa có tầm vóc quốc tế. Để đáp ứng yêu cầu hội nhập, cạnh tranh mạnh mẽ và sự thay đổi nhanh chóng của nhu cầu trong thời gian tới thì các lĩnh vực này cần được tăng cường đầu tư hơn nữa. Thứ ba: Trong lĩnh vực đầu tư cho xây dựng nguồn nguyên phụ liệu trong nước. Đầu tư cho xây dựng nguồn nguyên phụ liệu trong nước được đẩy mạnh hơn sau chiến lược đầu tư tăng tốc nhưng mới chỉ chú ý đầu tư cho nguyên liệu bông, xơ thông qua các dự án trồng bông, chế biến bông; việc phát triển nguyên liệu dâu tằm chưa được quan tâm thoả đáng trong khi Việt Nam rất có tiềm năng trong việc phát triển nguồn nguyên liệu này. Các loại phụ liệu cho dệt và may như: thuốc nhuộm, hoá chất, chất trợ vải, chỉ may phần lớn đều phải nhập, trong số đó có những loại sản xuất không quá phức tạp như: chỉ may, cúc áo, vải đệm...mà trình độ các doanh nghiệp trong nước có thể sản xuất được. Hiện nay, mới chỉ có khoảng 15000 tấn bông xơ cho ngành Dệt là được cung cấp bởi các nhà trồng Bông trong nước còn lại phải nhập tới 100000 tấn từ nhiều nguồn khác nhau; chúng ta còn chưa sản xuất sợi Polyeste nên năm 2002 phải nhập tới 97000 tấn. Nguyên liệu cho ngành May được cung cấp bởi các doanh nghiệp Dệt trong Tổng công ty còn thấp. Trong thời gian tới cần tập trung triển khai các dự án đầu tư cho phát triển nguồn nguyên liệu Bông và quan tâm hơn đến nguồn nguyên liệu dâu tằm, đầu tư thoả đáng cho việc sản xuất các phụ liệu dệt may để có thể tạo lập được nguồn nguyên liệu ổn định, có chất lượng cao từ trong nước. Thứ tư: Trong lĩnh vực đầu tư phát triển nguồn nhân lực Đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực trong mấy năm gần đây đã có những chuyển biến tích cực song với trình độ nguồn nhân lực như hiện nay vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển trong thời gian tới. Đội ngũ lao động có trình độ tay nghề cao còn thấp, phần lớn lao động được đào tạo theo hình thức vừa học vừa làm (đặc biệt là lao động trong các doanh nghiệp May), số cán bộ quản lý yếu kém về trình độ chuyên môn, thiếu tác phong quản lý công nghiệp vẫn còn tồn tại. Vì vậy, đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực cần tiếp tục được quan tâm trong thời gian tới. Thứ năm: Trong lĩnh vực đầu tư cho hoàn thiện hệ thống quản lý Đến nay, Tổng công ty đã triển khai áp dụng các mô hình quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000, môi trường ISO 14000, trách nhiệm xã hội SA8000. Nhưng vẫn còn một số doanh nghiệp chưa được cấp chứng chỉ cần được tiếp tục triển khai trong thời gian tới. Thứ sáu: Trong lĩnh vực đầu tư cho xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm Hiện nay, bên cạnh một số doanh nghiệp dệt may thuộc Tổng công ty tạo dựng cho mình một thương hiệu mạnh như May 10, May Việt Tiến tương đối có uy tín trên thị trường trong và ngoài nước, Dệt Phong Phú số còn lại mới chỉ dừng lại ở mức độ đăng ký nhãn hiệu. Để tạo dựng được một thương hiệu mạnh là cả một quá trình xây dựng và không ngừng quảng bá và phát triển nó để giành được sự tín nhiệm của người tiêu dùng. Trong thời gian tới các doanh nghiệp cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động quảng bá thương hiệu cho sản phẩm của mình. CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẦU TƯ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM TẠI TỔNG CÔNG TY DỆT-MAY VIỆT NAM I. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐẶT RA CHO NGÀNH DỆT-MAY VIỆT NAM VÀ TỔNG CÔNG TY DỆT-MAY VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI Các mặt hàng dệt may hiện nay đang giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam (đứng thứ hai sau công nghiệp dầu khí), năm 2003 kim ngạch xuất khẩu đạt 3200 triệu USD.Trong 5 năm qua toàn ngành dệt may đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 15%/năm, ngành dệt may hiện là một trong 5 ngành có nhiều lợi thế nhất của Việt Nam. Với chiến lược phát triển “tăng tốc” ngành Dệt-May Việt Nam được phê duyệt tại quyết định 55/2001/QĐ-TTg dành rất nhiều ưu đãi cho đầu tư phát triển ngành. Mặt khác, Việt Nam đang tích cực tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực: ký kết hiệp định thương mại tự do với các nước Đông Nam Á (AFTA), diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương APEC, chuẩn bị gia nhập WTO, mở ra cơ hội thị trường rộng lớn cho hàng dệt may Việt Nam. Việc ký hiệp định thương mại với Hoa Kỳ 7/2000 là một cơ hội lớn đối với ngành Dệt-May Việt Nam và Tổng công ty Dệt-May Việt Nam, bởi thị trường Mỹ được đánh giá là thị trường rất tiềm năng (hàng năm nhập tới 70 tỷ USD hàng dệt may). Ngoài ra, hiện nay tại Châu Á làn sóng chuyển dịch ngành dệt may đã chuyển sang giai đoạn 2, tức là từ các nước mới phát triển (NICs) Châu Á sang các nước Trung Quốc, Lào, Việt Nam …có lao động rẻ. Đời sống ngày càng nâng cao, các nhu cầu về hàng dệt may trên thị trường nội địa ngày càng lớn, xu hướng mở rộng của thị trường nội địa cũng là một cơ hội lớn đối với ngành Dệt-May Việt Nam nói chung và đối với Tổng công ty Dệt-May Việt Nam nói riêng. Có thể nói rằng trong tương lai ngành Dệt-May Việt Nam và Tổng công ty Dệt-May Việt Nam có rất nhiều cơ hội để phát triển, khai thác tiềm năng và thế mạnh của ngành, đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi ngành Dệt-May Việt Nam phải đối mặt với không ít những khó khăn thách thức: Mặc dù, đạt được rất nhiều thành tựu trong những năm qua, song nhìn rộng ra thế giới quả thực ngành Dệt-May Việt Nam còn quá khiêm tốn về quy mô, sản lượng lẫn kim ngạch xuất khẩu. So với các nước ASEAN thì riêng kim ngạch xuất khẩu của các nước ASEAN cũng gấp 2-4 lần. Theo số liệu khảo sát tại 20 doanh nghiệp May quy mô vừa và lớn của Việt Nam (vốn trên 10 tỷ đồng) thì giá trị thực thu so với kim ngạch xuất khẩu chỉ có từ 25%-30% tuỳ theo giá gia công trực tiếp hay qua trung gian. Ngoài đội ngũ lao động cần cù khéo léo thì ngành Dệt-May Việt Nam phải phụ thuộc gần như hoàn toàn vào thị trường thế giới từ nguyên phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm đến thiết bị, máy móc. Chưa kể ngành thiết kế thời trang, mẫu mốt còn quá hạn chế. Bên cạnh đó, sau khi đạt được thoả thuận thương mại với Mỹ tại Bắc Kinh vào ngày 15/11/1999, Trung Quốc nhanh chóng ký được hiệp định Thương mại với các nước thành viên WTO, năm 2000 Trung Quốc chính thức trở thành thành viên của WTO. Trong khi đó, Việt Nam đang nỗ lực đàm phán gia nhập WTO. Ngành dệt may Trung Quốc với nhiều lợi thế hơn về nguyên liệu, lao động lại có lịch sử phát triển lâu dài, được qua tâm đầu tư phát triển từ rất sớm. Ngành Dệt-May Trung Quốc là ngành có nhiều lợi thế cạnh tranh nhất trên thị trường thế giới vì ngành có lợi thế từ nguồn nguyên liệu bông, xơ, hoá chất, thuốc nhuộm đến máy móc, thiết bị sợi-dệt-hoàn tất đều do các ngành sản xuất trong nước cung cấp với giá nhân công thấp. Do vậy mà Trung Quốc giữ được vị trí hàng đầu trong ngành dệt may thế giới: Trung Quốc luôn là nước đứng đầu thế giới về kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may. Bởi vậy, áp lực cạnh tranh với hàng dệt may Trung Quốc là rất lớn trên cả thị trường nội địa và thị trường quốc tế. Quá trình hội nhập kinh tế đem lại cho ngành dệt may và Tổng công ty Dệt-May Việt Nam nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn thách thức. Theo các nguyên tắc về tự do thương mại được thể hiện trong các định chế AFTA, APEC, WTO…thì các thành viên phải mở cửa thị trường cho nhau và dành cho nhau quy chế thương mại bình thường, đồng các định chế này được kiểm tra giám sát chặt chẽ. Quá trình hội nhập đồng nghĩa với việc xoá bỏ các hàng rào bảo hộ, điều đó đặt các doanh nghiệp Việt Nam trước áp lực cạnh tranh gay gắt. Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ cũng đặt ra cho ngành Dệt-May Việt Nam những thách thức, xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải tiếp cận với phương thức sản xuất và xuất khẩu FOB bởi lẽ hàng dệt may vào Mỹ bị ràng buộc bởi điều kiện xuất sứ và tỷ lệ nội địa hoá trên sản phẩm đó khi xuất vào thị trường này. Hiệp định này buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải tạo ra nguồn nguyên phụ liệu chất lượng cao ở trong nước nhằm đáp ứng yêu cầu trên. Đối với Tổng công ty Dệt-May Việt Nam, ngoài những khó khăn chung mà ngành dệt may phải đối mặt, Tổng công ty còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, mà đặc biệt là thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có cơ chế quản lý linh hoạt hơn, dễ dàng thích ứng với những thay đổi của nhu cầu thị trường. Có thể đánh giá những mặt mạnh, yếu, cơ hội và thách thức đặt ra đối với ngành Dêt-May Việt Nam và Tổng công ty Dệt-May Việt Nam trong thời gian tới trên giản đồ SWOT như sau: Cơ hội: - Cơ hội thị trường mở rộng và đa dạng, tham gia AFTA. - Xu thế chuyển dịch ngành dệt may sang các nước đang phát triển. - Ngành May trong nước phát triển - Ngành Dệt được quan tâm phát triển với những ưu đãi đầu tư. - Việt Nam là nước ổn định về chính trị, là địa điểm thu hút đầu tư. Điểm mạnh: - Nhân lực dồi dào, ngành May có khả năng cạnh tranh. - Sự phát triển nhanh của ngành May tạo thị trường cho ngành Dệt. - Có khả năng phát triển nguyên liệu bông, tơ tằm - Ngành Dệt đang triển khai các dự án đầu tư lớn để cải thiện chất lượng vải. Thách thức: - Trung Quốc tham gia WTO và tăng cường đầu tư cho ngành dệt may. - Hiệp định hàng dệt may ATC, hiệp định AFTA có hiệu lực tạo áp lực lớn đối với ngành Dệt. - Các rào cản về kỹ thuật, môi trường, sinh thái, trách nhiệm xã hội được áp dụng từ các nước nhập khẩu. Điểm yếu: - Chất lượng nhân lực thấp - Thiếu vốn trầm trọng, chưa khai thác được vốn FDI. - Điểm xuất phát thấp, công nghệ dệt lạc hậu, thiết bị thiếu đồng bộ; kỹ năng tiếp thị, quản lý sản xuất, nghiên cứu phát triển, đào tạo nhân lực còn yếu. - Chưa chủ động về nguyên phụ liệu - Chất lượng, chủng loại, thời gian cung ứng vải cho ngành May còn hạn chế. - Tính hợp tác giữa ngành Dệt và ngành May chưa cao - Thị trường xuất khẩu của ngành May chưa ổn định Trước những khó khăn thách thức trên các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nói chung và Tổng công ty Dệt-may Việt Nam nói riêng phải nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh trong đó đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm là một trong những giải pháp quan trọng. Đặc biệt là sau ngày 1/1/2005, khi hiệp định AFTA bắt đầu có hiệu lực sản phẩm dệt từ các nước ASEAN có tính cạnh tranh cao hơn, sẽ xâm nhập mạnh vào thị trường Việt Nam làm tính cạnh tranh và rủi ro với các dự án cho sản phẩm vải dệt thoi, chỉ các dự án đầu tư gắn liền với các sản phẩm có chất lượng cao mới có khả năng khả thi. II. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA TỔNG CÔNG TY TRONG NHỮNG NĂM TỚI 1. Quan điểm phát triển của Tổng công ty Để tiếp tục khẳng định vị trí của mình trong những giai đoạn phát triển tiếp theo của ngành dệt may Việt Nam, Tổng công ty đưa ra mục tiêu phát triển của mình là: “ trở thành tập đoàn kinh tế Nhà nước mạnh, giữ vai trò chủ đạo trong phát triển ngành Dệt-May Việt Nam”. Mục tiêu phát triển ngành dệt may VINATEX đến năm 2010 được chính phủ phê duyệt tại quyết định 55/2001/QĐ-TTg: Chỉ tiêu Đơn vị Mục tiêu VINATEX đến năm 2010 1. GTSX (theo giá cố định năm 1994) tỷ đồng 19000 2. Sản phẩm chính: -Bông xơ - xơ tổng hợp - Sợi - Vải lụa - Sản phẩm dệt kim - Sản phẩm may 1000 tấn 1000 tấn 1000 tấn triệu m2 triệu SP triệu SP 80 30 166 555 80 250 3. Doanh thu tỷ đồng 26000 4. KNXK triệu USD 2000 (Nguồn: Chiến lược tăng tốc phát triển ngành Dệt-May Việt Nam) Để đạt được những mục tiêu trên, Tổng công ty coi đầu tư là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu với phương châm: “có đầu tư thì mới có đổi mới”. Bên cạnh việc đầu tư mở rộng sản xuất tăng số lượng và chủng loại các mặt hàng sản xuất ra thì đầu tư nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm góp phần quyết định trong viêc thực hiện các mục tiêu về doanh thu, giá trị kim ngạch xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty. 2. Các quan điểm về đầu tư và phương hướng đầu tư sản xuất đối với một số mặt hàng chủ lực của Tổng công ty Dệt-May Việt Nam trong thời gian tới 2.1 Các quan điểm về đầu tư của Tổng công ty Dệt-May Việt Nam Tổng công ty đã đưa ra một số quan điểm cho hoạt động đầu tư của mình trong thời gian tới như sau: Thứ nhất: Đầu tư nhằm nâng cao đẳng cấp mặt hàng, xây dựng các thương hiệu dệt may có tính cạnh tranh cao tránh trùng lặp với các mặt hàng phổ thông, giá thấp. Thứ hai: Đầu tư tại các doanh nghiệp May nhằm đáp ứng yêu cầu chính là tăng kim ngạch xuất khẩu và tạo việc làm cho người lao động. Thứ ba: Đầu tư tại các doanh nghiệp Dệt có tính chuyên môn hoá cao nhằm tăng tỷ lệ nội địa hoá, cung cấp vải đạt chất lượng cao phục vụ cho may xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. 2.2 Phương hướng đầu tư sản xuất đối với một số mặt hàng chủ lực của Tổng công ty trong thời gian tới Đối với mặt hàng sợi: Mục tiêu phát triển sản xuất mặt hàng sợi như sau: Từ nay đến năm 2005, bên cạnh các mặt hàng sợi bông, sợi PES dạng cắt ngắn vẫn là các mặt hàng sợi chủ lực chiếm tỷ trọng lớn. Chú trọng đầu tư tăng tỷ lệ sợi chải kỹ từ 13% lên 35% để cung ứng sợi cho dệt vải chất lượng cao. Các sản phẩm sợi còn lại phát triển theo định hướng: - Phát triển các mặt hàng sợi mới (len pha polyester, tơ tằm spunsilk, sợi kiểu, sợi pha Spandex…) với quy mô và bước đi phù hợp. - Nâng cao sản lượng sợi OE cho dệt khăn, sợi OE cho chỉ may - chuẩn bị nghiên cứu khả thi dự án đầu tư sản xuất sợi bông tổng hợp Philamăng với công suất thiết kế 60.000-100.000 tấn/ năm và sẽ triển khai dự án trong thời gian tới. Tổng công ty cũng đưa ra kế hoạch đầu tư thiết bị kéo sợi và thiết bị xe sợi cho giai đoạn 2003-2005 như sau: Thiết bị kéo sợi dự kiến đầu tư trong giai đoạn 2003-2005 của Tổng công ty Dệt-May Việt Nam Đơn vị đầu tư Số cọc sợi dự kiến đầu tư Dệt May Hà Nội 11000 Dệt Nam Định 20000 Dệt 8/3 22176 Sợi Trà Lý 11088 Sợi Phú Bài 20000 Dệt Phong Phú 13955 Dệt May Thành Công 20000 Dệt Nha Trang 30000 Dệt Đông Nam 14784 Dệt Kim Phương Đông 20000 Dệt May Hoà Thọ 10900 Toàn Tổng công ty 40320 (Nguồn: Quy hoạch chi tiết đầu tư của Tổng công ty Dệt-May Việt Nam) Thiết bị xe sợi dự kiến đầu tư của Tổng công ty Dệt-May Việt Nam giai đoạn 2003-2005 Đơn vị đầu tư Số cọc dự kiến đầu tư Dệt May Hà Nội 300 Dệt 8/3 4544 Dệt Lụa Nam Định 288 Sợi Trà Lý 1920 Dệt Việt Thắng 240 Dệt Đông Nam 384 Dệt May Hoà Thọ 1760 Toàn Tổng công ty 9436 (Nguồn: Quy hoạch chi tiết đầu tư của Tổng công ty Dệt-May Việt Nam) Đối với mặt hàng vải dệt thoi: Các mặt hàng này sẽ được đầu tư theo hướng đầu tư theo hướng hình thành các mặt hàng chủ lực ở mỗi công ty Dệt, đẩy mạnh việc sản xuất theo hướng chuyên môn hoá, hình thành các trung tâm sản xuất các mặt hàng chiến lược chất lượng cao: vải bông, bông pha, vải PES chất lượng cao, vải may complet... Phát triển các mặt hàng có xử lý hoàn tất cao cấp: chống co, chống nhàu, chống thấm nước và xử lý hoàn tất các chức năng khác. Phát triển các mặt hàng vải len pha, vải từ sợi tơ tằm dạng Spunsilk, sợi Linen, sợi phức hợp, các mặt hàng rèm, hàng nội thất, các mặt hàng vải kỹ thuật. Số lượng thiết bị dệt thoi dự kiến đầu tư giai đoạn 2003-2005 của Tổng công ty Dệt-May Việt Nam (Số thiết bị dệt thoi được đầu tư ở đây là các máy dệt không thoi, khổ rộng sản xuất ra loại vải dệt thoi chất lượng cao) Đơn vị đầu tư Số thiết bị dự kiến đầu tư Dệt Nam Định 100 Dệt 8/3 100 Dệt Phong Phú 100 Công ty len 50 Dệt Sơn Trà 200 Toàn Tổng công ty 550 (Nguồn: Quy hoạch chi tiết đầu tư của Tổng công ty Dệt-May Việt Nam) Số máy dệt không thoi được đầu tư giai đoạn 2003-2005 sẽ tăng năng lực sản xuất vải dệt thoi, cả về số lượng lẫn chất lượng, chủng loại. Đáp ứng tốt hơn nhu cầu cho may xuất khẩu và tiêu dùng. Đối với mặt hàng dệt kim: Trong thời gian tới các Công ty sản xuất vải dệt kim trong Tổng công ty vẫn tập trung bổ sung năng lực, đồng bộ hoá thiết bị hiện có, nâng cao chất lượng vải dệt kim đáp ứng nhu cầu cho may xuất khẩu. Các mặt hàng vải chính vẫn từ nguyên liệu bông, PE biến tính, bông pha PES, sợi Spandex cho may các sản phẩm T-Shirt, poloshirt, đồng thời quan tâm sản xuất các mặt hàng dệt kim dùng cho thể thao, trượt tuyết, điền kinh, vải dùng trong kỹ thuật và công nghiệp. Nghiên cứu hướng đầu tư phát triển các mặt hàng dệt kim dọc. Tổng công ty dự kiến đầu tư bổ sung năng lực 3957 tấn sản xuất trong giai đoạn 2003-2005 và 10780 tấn trong giai đoạn 2005-2010 đưa tổng năng lực vải dệt kim của các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty đạt 16593 tấn vào năm 2005 và đạt 26383 tấn vào năm 2010. Số lượng thiết bị dệt kim dự kiến đầu tư giai đoạn 2003-2005 của Tổng công ty Dệt May Việt Nam Đơn vị đầu tư Số thiết bị dự kiến đầu tư Dệt May Thành Công 85 máy dệt kim tròn Dệt Đông Nam 2 máy dệt kim tròn 10 máydệt kim phẳng (Nguồn: Quy hoạch chi tiết đầu tư của Tổng công ty Dệt-May Việt Nam) Tổng công ty cũng dự kiến tăng cường đầu tư cho khâu nhộm hoàn tất nhằm nâng cao năng lực xử lý hoàn tất vải dệt kim và dệt thoi, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng vải. Số lượng thiết bị nhuộm hoàn tất dự kiến đầu tư giai đoạn 2003-2005 của Tổng công ty Dệt-May Việt Nam Thiết bị nhuộm hoàn tất cho vải dệt thoi: Đơn vị đầu tư Số thiết bị dự kiến đầu tư Dệt Nam Định 5 máy nhuộm gián đoạn 1 máy nhuộm sợi Dệt Phong Phú 1 dây chuyền nhuộm liên tục Dệt May Thành Công 4 máy nhuộm gián đoạn Nhuộm Yên Mỹ 1 dây chuyền nhuộm liên tục 2 máy nhuộm sợi Dệt Nhuộm Sơn Trà 1 dây chuyền nhuộm liên tục 1 máy in hoa 2 máy nhuộm sợi (Nguồn: Quy hoạch chi tiết đầu tư của Tổng công ty Dệt-May Việt Nam) Thiết bị nhuộm hoàn tất cho vải dệt kim: Đơn vị đầu tư Số thiết bị dự kiến đầu tư Dệt May Hà Nội 2 máy nhuộm gián đoạn Dệt May Huế 5 máy nhuộm gián đoạn Dệt May thành Công 4 máy nhuộm gián đoạn (Nguồn: Quy hoạch chi tiết đầu tư của Tổng công ty Dệt-May Việt Nam) Đối với mặt hàng May: Trong giai đoạn 2003-2005 bổ sung năng lực 49 triệu sản phẩm may/năm, gồm 17 triệu sản phẩm dệt kim và 32,4 triệu sản phẩm dệt thoi. Tới năm 2005 năng lực sản xuất các sản phẩm may của các doanh nghiệp thuộc VINATEX sẽ đạt 258 triệu sản phẩm/năm gồm 67 triệu sản phẩm dệt kim và 191 triệu sản phẩm dệt thoi. Đối với việc sản xuất nguyên liệu bông xơ Quy hoạch về diện tích bông vải của Tổng công ty Dệt-May Việt Nam như sau: diện tích trồng bông 50000 ha, sản lượng bông xơ 25190 tấn/năm đến năm 2005 và diện tích trồng bông là 120000 ha, sản lượng bông xơ 80000 tấn vào năm 2010. Đối với phụ liệu may mặc: Mục tiêu phát triển các loại phụ liệu chính phục vụ sản xuất may mặc cụ thể như sau: Tên sản phẩm Đơn vị Sản lượng Năm 2005 Năm 2010 Chỉ may tấn/năm 1400 3000 Chỉ thêu tấn/năm 300 500 Vải mex triệu mét/năm 6 15 Cúc nhựa triệu chiếc 150 300 Dây kéo nhựa và kim loại triệu mét 0 10 Nhãn dệt triệu chiếc 45 100 Băng chun triệu mét 12 30 Băng gai triệu mét 0 4 Bao bì m2/5 lớp sóng 1000000 2000000 (Nguồn: Quy hoạch chi tiết đầu tư của Tổng công ty Dệt-May Việt Nam) Để thực hiện được những mục tiêu phát triển đã đề ra Tổng công ty cần đẩy mạnh hoạt động đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời gian tới. Mặt khác, trong thời gian tới bên cạnh nhưng cơ hội phát triển thì những khó khăn thách thức đặt ra đối với toàn ngành và với Tổng công ty là không nhỏ. Chính vì vậy, yêu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh lại càng trở nên cấp thiết. Căn cứ vào những vấn đề còn tồn tại trong hoạt động đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm của Tổng công ty trong thời gian qua, mục tiêu phát triển và phương hướng đầu tư của Tổng công ty, trong thời gian tới Tổng công ty cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp về đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm sau: III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ ĐẦU TƯ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM TẠI TỔNG CÔNG TY DỆT-MAY VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 1.Giải pháp về thu hút vốn Thiếu vốn đầu tư vẫn là một trong những khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty hiện nay. Có vốn đầu tư thì mới có thể thực hiện được các phương án đầu tư phát triển nói chung và đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm nói riêng. Để các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Dệt-May Việt Nam có thể huy động vốn một cách có hiệu quả cần thực hiện các biện pháp sau đây: Thứ nhất: Xây dựng các dự án đầu tư và phương án kinh doanh có tính khả thi cao Một trong những khó khăn lớn nhất khi huy động vốn là thiếu các dự án, phương án kinh doanh khả thi. Trong điều kiện hiện nay, tiềm lực vốn nhàn rỗi ở Việt Nam vẫn được đánh giá là chưa khai thác hết, nhưng nhiều nhà đầu tư không dám cho vay vốn hoặc ngần ngại khi góp vốn vào doanh nghiệp vì không tin tưởng vào tính khả thi của các dự án đầu tư. Chính vì vậy, các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty cần đưa ra các dự án có tính khả thi cao trên cơ sở các căn cứ chắc chắn, có đủ sức thuyết phục. Để làm được điều đó các doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ lưỡng các yếu tố về thị trường, nguồn nguyên liệu, địa điểm xây dựng, kỹ thuật công nghệ…đảm bảo dự án có tính khả thi cao. Thứ hai: Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn Trong thời gian tới các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty cần tiếp tục đẩy mạnh việc huy động mọi nguồn lực sẵn có như: khấu hao cơ bản, bán, khoán, cho thuê các tài sản không dùng đến, giải phóng hàng tồn kho…để phục vụ cho đầu tư. Bên cạnh đó các hình thức huy động vốn như: huy động vốn thông qua các ngân hàng, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, thị trường chứng khoán cũng là các hình thức huy động đáng chú ý. Ngoài ra, hình thức huy động vốn theo dự án, phát hành trái phiếu công trình đối với các dự án lớn cũng nên được xem xét trong thời gian tới. - Huy động vốn thông qua ngân hàng là hình thức huy động vốn phổ biến nhất đối với các nhu cầu vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Tuy nhên, hiện nay huy động vốn trung và dài hạn qua ngân hàng còn hạn chế, do nhiều nguyên nhân. Do đó, bên cạnh nguồn vốn tín dụng ngân hàng, có thể huy động thêm vốn của ngân hàng dưới hình thức góp vốn (vốn cổ phần) theo quyết định mới của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Cách huy động vốn này, ngoài tác dụng đáp ứng nhu cầu về vốn, còn tạo ra sự gắn bó giữa ngân hàng và doanh nghiệp, tạo điều kiện giảm bớt thông tin không cân xứng giữa ngân hàng và doanh nghiệp, do đó giảm bớt độ rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng và tăng cơ hội vay vốn trung và dài hạn của doanh nghiệp. - Huy động vốn thông qua các tổ chức tài chính phi ngân hàng: các tổ chức tài chính phi ngân hàng ở Việt Nam hiện nay chủ yếu bao gồm các Công ty tài chính và các công ty Bảo hiểm hoạt động khá khiêm tốn, phạm vi hẹp, đối tượng phục vụ có giới hạn. Tuy vậy, nhiều doanh nghiệp bắt đầu quan tâm đến hình thức này. Việc huy động vốn thông qua hình thức này khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng hình thức huy động vốn mới, đa dạng hoá nguồn vốn nhằm tăng khả năng đảm bảo nhu cầu về vốn, đồng thời thúc đẩy tính cạnh tranh giữa các tổ chức ngân hàng và phi ngân hàng. Một trong những hình thức huy động vốn qua các công ty tài chính rất đáng quan tâm là hình thức tín dụng thuê mua. - Huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán: Thị trường chứng khoán ở Việt Nam đã đi vào hoạt động từ tháng 7/2000, nhưng quy mô hoạt động còn nhỏ bé, dung lượng giao dịch không đáng kể, hơn nữa mới mang tính chất thu lợi ngắn hạn. Vì vậy, trong tương lai gần khó có thể coi đây là hình thức huy động vốn có nhiều triển vọng. Mặc dù vậy, thị trường chứng khoán vẫn là một kênh dẫn vốn quan trọng tạo điều kiện luân chuyển vốn dễ dàng hơn. Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, cần nghiên cứu khả năng phát hành trái phiếu, cổ phiếu nhằm huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển Tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích và kêu gọi đầu tư nước ngoài nhằm huy động mọi nguồn vốn từ bên ngoài và của mọi thành phần kinh tế. Tích cực triển khai huy động vốn qua Quỹ hỗ trợ phát triển đối với các dự án có vai trò quan trọng: như xây dựng cơ sở hạ tầng… vì nguồn vốn này được hưởng mức lãi suất ưu đãi, thời hạn vay vốn dài. 2.Giải pháp về sử dụng vốn cho đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm 2.1 Đầu tư cho máy móc, thiết bị, công nghệ Đầu tư nâng cao khả năng về máy móc, thiết bị và trình độ công nghệ là một trong những giải pháp quan trọng nhất nâng cao chất lượng sản phẩm dệt may của Tổng công ty Dệt-May Việt Nam hiện nay, đặc biệt là đối với ngành Dệt. Đầu tư cho máy móc, thiết bị, công nghệ của Tổng công ty trong thời gian tới cần được tập trung theo những hướng sau: Đối với ngành Dệt: Tăng cường đầu tư máy móc, thiết bị, công nghệ theo hướng kết hợp đầu tư mới những thiết bị công nghệ hiện đại ở những khâu quyết định đến nâng cao chất lượng sản phẩm với đầu tư nâng cấp những thiết bị hiện có; chú trọng đầu tư đồng bộ hoá dây chuyền công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chí phí quản lý và vận hành. Ở khâu kéo sợi: Hiện tại năng lực sản xuất khá nhưng chất lượng chưa cao do máy móc, thiết bị cũ kỹ, vẫn còn trên 60% là sợi chải thô nên việc cung cấp sợi cho dệt kim và dệt vải cao cấp còn khó khăn. Cần chọn lọc và thay thế dần những cọc sợi đã sử dụng trên 20 năm và nâng cấp cho số cọc sợi mới được đầu tư trong thập kỷ 80. Đầu tư tập trung theo hướng chuyên môn hoá cho một số doanh nghiệp để có được các loại sợi chất lượng cao cung cấp cho khâu dệt. Ở khâu dệt vải: Cần tập trung đầu tư mạnh để cân đối với năng lực kéo sợi và tạo ra các loại vải cao cấp phục vụ cho xuất khẩu, tạo sự gắn kết giữa ngành Dệt với ngành May, nâng cao chất lương và giá trị gia tăng của sản phẩm may. Hiện nay, đây vẫn là khâu yếu nhất trong quy trình sợi-dệt-may mặc. Do đó, phải đầu tư theo hướng chuyên môn hoá cao cho một số doanh nghiệp Dệt. Trong thời gian tới cần hoàn thành việc thay thế các máy dệt thoi tốc độ thấp, chất lượng kém bằng các máy dệt không thoi, tốc độ và chất lượng cao tới năm 2010. Việc đầu tư các thiết bị dệt thoi chất lượng cao cần đồng bộ với các thiết bị mắc, hồ sợi dọc, đánh ống. Bổ sung thêm năng lực sản xuất vải dệt kim, bằng việc đầu tư thêm các thiết bị mới; căn cứ vào định hướng thị trường để đầu tư. Chú trọng đầu tư đồng bộ hoá các thiết bị hiện có để nâng cao chất lượng vải dệt kim đáp ứng nhu cầu cho may xuất khẩu. Trong khâu nhuộn hoàn tất: Cần thay thế khoảng 50% thiết bị để đồng bộ, làm ra các mặt hàng cao cấp như: các loại vải dùng để may sơmi, jacket, quần âu…Khôi phục nâng cấp, bổ sung các thiết bị đơn lẻ để hoàn thiện dây chuyền. Nhuộm hoàn tất là khâu có công nghệ phức tạp và yêu cầu vốn đầu tư lớn. Vì vậy, cần đầu tư tập trung, quy mô lớn theo hướng hình thành các trung tâm in nhuộm, xử lý hoàn tất hiện đại, chất lượng cao. Đầu tư theo hình thức này có điều kiện để tập trung vốn cho công nghệ hiện đại, đồng thời giải quyết được cả vấn đề xử lý ô nhiễm môi trường. Đối với ngành May: Tiếp tục đổi mới những thiết bị may đã cũ vẫn còn tồn tại trong các doanh nghiệp, tiếp tục đầu tư các thiết bị hoàn thiện sản phẩm sau may như: giặt, là, gấp… ở các doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Tích cực đầu tư hơn nữa cho khâu thiết kế, cắt sản phẩm may bằng hệ thống vi tính, đáp ứng nhanh chóng nhu cầu của khách hàng. 2.2 Đầu tư cho nghiên cứu thị trường và xúc tiến tiêu thụ sản phẩm Trong thời gian tới cần đẩy mạnh đầu tư cho nghiên cứu thị trường và xúc tiến tiêu thụ sản phẩm, Tổng công ty cần đứng ra tổ chức phối hợp hoạt động này của các doanh nghiệp thành viên tránh tình trạng đầu tư manh mún, thiếu đồng bộ gây lãng phí. Cần nhanh chóng thiết lập thêm các văn phòng đại diện ở một số thị trường như: EU, Bắc Mỹ, các nước SNG…Công việc này đòi hỏi chi phi phí cao, Tổng công ty nên đứng ra làm đầu mối. Công tác nghiên cứu nhu cầu của thị trường ở hiện tại và dự báo nhu cầu thị trường cần được triển khai thường xuyên hơn nữa, thông qua việc tích cực tham gia các hội trợ triển lãm trong nước và quốc tế, tăng cường khai thác thông tin trên các phương tiện thông tin đặc biệt là hệ thống thông tin trên mạng INTERNET nhằm nắm bắt nhanh chóng nhu cầu của thị trường, phản ứng một cách linh hoạt trước những thay đổi của nhu cầu tránh tình trạng sản xuất vượt quá nhu cầu hay sản phẩm sản xuất ra không còn phù hợp với nhu cầu. Hoạt động quảng cáo tiếp thị cũng cần được tiến hành thường xuyên hơn: quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức các hội trợ triển lãm, các đợt khuyến mại, hội nghị khách hàng…vừa tăng được mức tiêu thụ vừa có thể thăm dò được nhu cầu của khách hàng. Tăng cường đào tạo bổ sung đội ngũ nhân viên tiếp thị có trình độ chuyên môn theo từng mặt hàng (sợi, vải, may) 2.3 Đầu tư cho nghiên cứu và thiết kế sản phẩm Đẩy mạnh đầu tư cho hoạt động thiết kế mẫu tại các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty: triển khai áp dụng rộng rãi hệ thông thiết kế mẫu và giác sơ đồ bằng máy tính; tăng cường đầu tư cho viện nghiên cứu thời trang dệt may, đầu tư cho đào tạo bổ sung và nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ làm việc trong lĩnh vực thiết kế thời trang. Hình thành trung tâm nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, mà sản phẩm là các bộ sưu tập dệt may mang tên VINATEX. Trong đó công việc thiết kế bao gồm: thiết kế chất liệu, thiết kế sợi, thiết kế dệt, thiết kế màu và hoa văn, thiết kế kiểu dáng và bao gói. Các sản phẩm thiết kế không chỉ dừng lại ở việc hướng vào thị trường nội địa mà phải hướng dần ra thị trường quốc tế. Dành nguồn vốn thích đáng để nhanh chóng triển khai các đề tài nghiên cứu của các viện nghiên cứu, đầu tư thêm trang thiêt bị cho viện nghiên cứu Kinh tế-Kỹ thuật dệt may ứng dụng tăng cường khả năng nghiên cứu và thực nghiệm của viện. 2.4 Đầu tư cho xây dựng và phát triển nguồn nguyên phụ liệu dệt may Trong thời gian tới Tổng công ty cần tích cực triển khai các dự án đầu tư của Công Ty Bông để thực hiện tốt mục tiêu phát triển nguyên liệu bông xơ cho các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty và cho toàn ngành dệt may Việt Nam. Trong các dự án đầu tư trồng bông của Công Ty Bông Việt Nam ngoài việc tập trung đầu tư phát triển các giống Bông cho năng suất cao, chịu sâu bệnh còn cần phát triển, lai tạo các giống Bông xơ dài, chất lượng cao để có thể kéo được các loại Bông chải kỹ chỉ số cao từ Ne 40 trở lên. Đặc biệt là quản lý tốt phần thu hoạch bông, chú trọng đầu tư cho thiết bị cán bông đạt tiêu chuẩn bông xơ loại 1 đạt 80-85%, còn lại là bông loại 2, đảm bảo chất lượng bông xơ cung cấp cho các Công ty Dệt. Trong thời gian tới nên xem xét khả năng đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu dâu tằm kết hợp với xây dựng các nhà máy chế biến loại nguyên liệu này để đạt hiệu quả kinh tế cao. Đẩy mạnh việc đầu tư sản xuất các loại vải sợi mới, chất lượng cao để phục vụ nhu cầu cho may xuất khẩu. Hiện nay, hầu hết các phụ liệu cho dệt may đều phải nhập khẩu trong thời gian tới Tổng công ty cần nghiên cứu triển khai các dự án sản xuất thay thế nhập khẩu dần dần một số phụ liệu đơn giản và sử dụng với số lượng lớn như: khuy, cúc, móc các loại khoá kéo, nhãn mác… có thể phối hợp đầu tư sản xuất giữa nhiều doanh nghiệp thuộc Tổng công ty. Nghiên cứu khả năng đầu tư, liên doanh, liên kết với các đối tác khác sản xuất các loại sơ sợi tổng hợp, hoá chất, thuốc nhuộm, chất trợ thay thế nhập khẩu trong tương lai. 2.5 Đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực Tổng công ty cần quan tâm hơn nữa cho công tác đầu tư phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn tới. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang bị thiết bị phục vụ cho đào tạo tại các trường và các cơ sở đào tạo của Tổng công ty nhằm nâng cao khả năng đào tạo; thường xuyên đổi mới chương trình đào tạo cho phù hợp với thực tiễn sản xuất và xu hướng phát triển của khoa học-công nghệ. Tích cực tuyển dụng, nâng cao lượng học viên tại các cơ sở đào tạo đáp ứng yêu cầu về nhân lực cho các dự án mới của Tổng công ty cho toàn ngành, hình thành hệ thống liên kết đào tạo với các trường đại học trong và ngoài nước theo từng chuyên ngành. Tăng cường các hình thức đào tạo cả bên trong và bên ngoài tại các doanh nghiệp, thường xuyên bồi dưỡng và nâng cao trình độ tay nghề, cập nhật kiến thức về công nghệ mới cho người lao động. Trung tâm đào tạo của Tổng công ty tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo: tiếp tục mở các lớp đào tạo Công nhân kỹ thuật, Tài chính kế toán, cán bộ quản trị doanh nghiệp nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật; cập nhật công nghệ và các phương pháp quản lý hiện đại. Nâng cấp trung tâm đào tạo của Tổng công ty thành Trường Đào tạo Cán bộ Quản lý Dệt May. Tiếp tục triển khai hình thức đưa người lao động đi học tập và làm việc ở nước ngoài. Thực hiện tốt chế độ khen thưởng, khuyến khích hợp đối với người lao động tại các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty động viên họ phát huy khả năng sáng tạo, nâng cao trình độ tay nghề và năng suất lao động. Nâng dần mức thu nhập cho phù hợp với sức lao động bị hao phí, sự thay đổi của giá cả và điều kiện sống nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động. Lao động dệt may là loại lao động nặng nhọc, môi trường lao động bị ô nhiễm do bụi, nóng, ồn…nhiều loại bệnh nghề nghiệp xuất hiện, trong khi đó thu nhập chưa cao chưa tương xứng với sức lao động bị hao phí. Do đó, trong thời gian tới Tổng công ty Dệt-May Việt Nam và toàn ngành dệt may cần kiến nghị với cấp trên và các cơ quan có liên quan có các chế độ đãi ngộ thích hợp với người lao động như: các chế độ tiền lương, bồi dưỡng độc hại… 2.6 Đầu tư cho hoàn thiện hệ thống quản lý Tiếp tục triển khai xây dựng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000, môi trường 14000 và SA 8000 cho các đơn vị còn lại trong Tổng công ty, hoàn thiện các mô hình này trong các doanh nghiệp để tất cả các doanh nghiệp đều được cấp các chứng chỉ này, đáp ứng yêu cầu hội nhập trong thời gian tới. Nghiên cứu áp dụng các phương pháp quản lý tốt, hiện đại vào các doanh nghiệp. 2.7 Đầu tư cho xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm Trong thời gian tới, Tổng công ty cần nỗ lực hơn nữa việc quảng bá thương hiệu sản phẩm của mình dưới nhiều hình thức khác nhau: tham gia và tổ chức các hội chợ, triển lãm trong nước và quốc tế, giới thiệu rộng rãi hình ảnh sản phẩm của mình trên các phương tiện thông tin đại chúng…Tổng công ty đẩy mạnh việc xây dựng các bộ sưu tập mang tên VINATEX với các sản phẩm được thiết kế bởi chính VINATEX phù hợp thời trang và thị hiếu người tiêu dùng trong và ngoài nước. Thông qua hệ thống xúc tiến thương mại với thị trường quốc tế không ngừng quảng bá thương hiệu sản phẩm của Tổng công ty và sản phẩm dệt may Việt Nam. Bản thân các doanh nghiệp dệt may thuộc Tổng công ty, đặc biệt là các doanh nghiệp May cần đẩy mạnh việc đăng ký và khẳng định thương hiệu của mình trên thị trường trong và ngoài nước để có được thương hiệu, nhãn hiệu riêng của mình khi xuất khẩu sản phẩm. KẾT LUẬN Qua sự phân tích về mặt lý luận các vấn đề có liên quan đến đầu tư và đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm. Hy vọng bài viết này phần nào làm sáng tỏ được vai trò của Đầu tư phát triển nói chung và Đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm nói riêng đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp trong điều kiện kinh doanh hiện nay. Đối với Tổng công ty Dệt-May Việt Nam vấn đề Đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm đã được Tổng công ty quan tâm thực hiện từ khi mới thành lập, nhằm đáp ứng những yêu cầu đặt ra và nhiệm vụ phát triển của Tổng công ty. Trong bài bài viết này đã giới thiệu một cách khái quát về hoạt động đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm của Tổng công ty Dệt-May Việt Nam trong thời gian qua, đánh giá những kết quả đạt được cũng như những mặt còn hạn chế, đồng thời phân tích những khó khăn và thuận lợi trong giai đoạn phát triển sắp tới của Tổng công ty. Từ đó, đề cập một số giải pháp về Đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm mà Tổng công ty cần thực hiện trong thời gian tới nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm, năng lực cạnh tranh, đáp ứng những mục tiêu phát triển đặt ra. Chuyên đề tốt nghiệp được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú trong Ban Kỹ thuật-Đầu tư, Tiến sỹ Trần Văn Quyến và sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo Nguyễn Thu Hà. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0059.doc
Tài liệu liên quan