KIẾN NGHỊ
Thông qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi
kiến nghị các TYT xã tiếp tục duy trì hiệu quả
của các hoạt động tuyên truyền, giáo dục sức
khoẻ của NVYTTB vì kết quả khảo sát cho thấy
100% NVYTTB đều thực hiện đầy đủ các hoạt
động này. Ngoài ra TYT nên phân công
NVYTTB thực hiện các hoạt động giám sát chất
lượng nguồn nước, giám sát các công trình vệ
sinh nơi công cộng.Về thời gian giao ban và
giám sát hoạt động NVYTTB, TYT và Trung tâm
Y tế huyện cần đánh giá, xem xét về thời gian
giám sát và giao ban cụ thể cho từng hoạt động
của NVYTTB vì thời gian giám sát là một yếu tố
ảnh hưởng đến nhiều hoạt động trong nghiên
cứu này.
Đối với các cấp chính quyền chức năng nên
xem xét thay thế hoạt động hỗ trợ đẻ thường cho
sản phụ và xử trí đẻ rơi của NVYTTB bằng các
hoạt động khác phù hợp hơn với tình hình tại
địa phương. Ngoài ra chúng tôi cũng kiến nghị
UBND xã ngoài phụ cấp hàng tháng mà
NVYTTB được nhận nên có một nguồn kinh phí
hỗ trợ thêm dành cho NVYTTB nhằm khuyến
khích, tạo động lực hoạt động đối với NVYTTB
Đối với Trung tâm Y tế huyện Châu Thành,
cần trang bị đầy đủ túi y tế thôn bản cho
NVYTTB nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt
động sơ cấp cứu của NVYTTB trên địa bàn
huyện. Bên cạnh đó, Trung tâm Y tế huyện và
TYT cần tăng cường công tác tập huấn kiến thức
cho NVYTTB ít nhất 3 lần/năm.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 96 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng hoạt động và các yếu tố liên quan của nhân viên y tế thôn bản (ấp) tại huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh năm 2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 736
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ THÔN BẢN (ẤP) TẠI HUYỆN CHÂU THÀNH,
TỈNH TÂY NINH NĂM 2013
Trương Thị Tuyết Nhung*, Lê Vinh**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tại Việt Nam, mạng lưới y tế cơ sở trong đó có nhân viên y tế thôn bản (NVYTTB) là nền tảng
của hệ thống y tế quốc gia, đóng vai trò quan trọng trong công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân.
Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của mạng lưới y tế thôn, bản trong cả nước vẫn chưa cao. Tại huyện Châu Thành,
hiện nay 100% các ấp/khu phố trong huyện đều có NVYTTB phục vụ, nhưng cho tới nay chưa có nghiên cứu
nào đánh giá hoạt động của mạng lưới này.
Mục tiêu: Đánh giá thực trạng hoạt động và các yếu tố liên quan đến hoạt động của nhân viên y tế thôn bản
(ấp) tại huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang kết hợp định lượng và định tính được tiến hành từ tháng
12/2012‐9/2013 trên 75 NVYTTB và 223 nhân viên Trạm Y tế, cán bộ Ủy Ban nhân dân xã, Hội Liên hiệp Phụ
nữ, Ban quản lý ấp sống tại huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh.
Kết quả: Tổng cộng có 29 hoạt động của NVYTTB theo thông tư 39/2010/TT‐BYT được khảo sát trong
nghiên cứu này. Hầu hết các hoạt động đều có tỷ lệ nhân viên thực hiện cao (> 90%) trừ các hoạt động giám sát
chất lượng nguồn nước (36%), hỗ trợ sinh đẻ (5,3%), sơ cấp cứu (69,3%), hướng dẫn trồng thuốc nam (73,3%).
Các yếu tố phụ cấp nghề, thời gian lãnh phụ cấp, thời gian Trạm Y tế giám sát, số ngày làm việc đều có mối liên
quan có ý nghĩa thống kê với việc thực hiện hoạt động của nhân viên.
Kết luận: Hầu hết các hoạt động được quy định theo Thông tư 39/2010/TT‐BYT đều được NVYTTB thực
hiện tốt. Các ban ngành đoàn thể liên quan cần đề ra chính sách nhằm cải thiện hơn chế độ đãi ngộ, cách thức
quản lý đối với NVYTTB giúp họ gắn bó và hoạt động có hiệu quả hơn trong công tác y tế thôn bản.
Từ khóa: Nhân viên y tế thôn bản, huyện Châu Thành, thực hiện hoạt động, các yếu tố liên quan
ABSTRACT
COMMUNITY HEALTH WORKERS: A COMPREHENSIVE REVIEW ON ACTIVITY PERFORMANCE
AND RELATED FACTORS
Truong Thi Tuyet Nhung, Le Vinh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6 ‐ 2014: 737 ‐ 745
Background: In Vietnam, primary health care system, including community health workers, is the corner
stone of national health care system and plays a vital role in taking care of public health. However, the efficacy of
system is not quite high. In Chau Thanh district, there are now 100% of communes having community health
workers cooperating with health care stations. The evaluation of their performance, however, has not been
conducted yet.
Objectives: To evaluate performance and related factors of community health workers in Chau Thanh
district, Tay Ninh province.
Methods: A cross‐sectional study conducted from December 2012 to September 2013 and recruited 75
community health workers for face‐to face interview and 223 health care managers and workers of People’s
Committees, Women Associations and health care stations for in‐depth interview. The questionnaire for face‐to
* Trung tâm Y tế huyện Châu Thành, Tây Ninh ** Viện Y tế Công cộng TP. HCM
Tác giả liên lạc: BS. CKII Trương Thị Tuyết Nhung ĐT: 0984110669 Email: nhungytcc@yahoo.com.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 737
face interview was developed on the basis of Circular 39/2010/TT‐BYT.
Results: Twenty‐nine activities based on the Circular 39/2010/TT‐BYT were evaluated in the study. Most of
activities were well performed (> 90%), except for surveillance of water sources (36%), childbirth delivery support
(5.3%), first aid (69.3%), instructions of planting traditional herbs (73.3%). Factors including allowances,
duration of receiving allowances, time interval of being monitored, and number of working days had statistically
significant associations with performance of community health workers.
Conclusion: The activity performance of community health workers in terms of the Circular 39/2010/TT‐
BYT was generally good. Health care managers should justify policies and management approaches so that
community health workers could maintain and enhance their performance.
Keywords: Community health workers, Chau Thanh district, activity performance, related factors
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tại Việt Nam, mạng lưới y tế cơ sở là nền
tảng của hệ thống y tế quốc gia, đóng vai trò
quan trọng trong công tác chăm sóc sức khỏe
ban đầu cho người dân. Theo Chỉ thị 06‐
CT/TW ngày 22/01/2002 của Ban chấp hành
trung Ương(1) về củng cố và hoàn thiện mạng
lưới y tế cơ sở thì mạng lưới y tế cơ sở bao
gồm y tế thôn, bản, xã, phường, quận, huyện,
thị xã phải bảo đảm cho mọi người dân được
chăm sóc sức khoẻ cơ bản với chi phí thấp, góp
phần thực hiện công bằng xã hội, xoá đói giảm
nghèo, xây dựng nếp sống văn hoá, trật tự an
toàn xã hội, tạo niềm tin của nhân dân với chế
độ xã hội chủ nghĩa. Trong mạng lưới này,
nhân viên y tế thôn bản (NVYTTB) là một
thành phần không thể thiếu trong việc triển
khai công tác y tế tại các cấp cơ sở.
Trong những năm gần đây, nhận thấy tầm
quan trọng của NVYTTB đối với công tác y tế
cấp cơ sở, Chính phủ không ngừng ban hành các
chính sách, chỉ thị nhằm củng cố nhân lực và
nâng cao trình độ chuyên môn cho lực lượng
này chẳng hạn Nghị quyết 37/1996/CP(6) và
Quyết định 35/2001/QĐ‐TTg về “Định hướng
chiến lược công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe
nhân dân đến năm 2010”, Thông tư số
39/2010/TT‐BYT ban hành năm 2010(3) quy định
tiêu chuẩn, chức năng, nhiệm vụ của NVYTTB,
bộ “Tiêu chí quốc gia về y tế xã giai đoạn 2011‐
2020”(4). Tuy nhiên, các báo cáo, đánh giá trên cả
nước cho thấy hiệu quả hoạt động của mạng
lưới y tế thôn, bản trong cả nước vẫn chưa cao.
Một số lý do có thể đưa đến hiện tượng này là
nhân viên y tế thôn bản bỏ việc vì mức phụ cấp
eo hẹp, NVYTTB được cho đi đào tạo nhưng về
địa phương lại không thể áp dụng hoặc chuyển
sang một công việc khác ổn định hơn(7).
Tại tỉnh Tây Ninh, việc phát triển và hoàn
thiện mạng lưới y tế thôn ấp trong những năm
qua đã đạt được một số thành công nhất định.
Hiện nay, 100% khu phố/ấp của tỉnh Tây Ninh
đều có NVYTTB phục vụ. Mặc dù vậy, việc đánh
giá hiệu quả hoạt động của mạng lưới này chưa
đầy đủ, do đó các cấp quản lý vẫn chưa đánh giá
được việc triển khai chương trình phát triển
mạng lưới y tế thôn ấp trên địa bàn tỉnh có đạt
được mục tiêu đề ra hay không.
Nghiên cứu này được tiến hành tại huyện
Châu Thành, tại thời điểm hiện nay 100% các
ấp/khu phố trong huyện đều có NVYTTB phục
vụ. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có nghiên cứu
nào đánh giá hoạt động của mạng lưới này mặc
dù trong thực tế nhiều báo cáo, số liệu cho thấy
hoạt động của mạng lưới không hiệu quả như
mong đợi.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỷ lệ NVYTTB (ấp) thực hiện các
hoạt động được quy định theo thông tư
39/2010/TT‐ BYT.
Xác định mối liên quan giữa việc thực hiện
các hoạt động và các yếu tố bao gồm đặc điểm
dân số‐xã hội học, được đào tạo tập huấn, phụ
cấp hoạt động, sự hỗ trợ của ban ngành đoàn
thể, giao ban định kỳ với Trạm Y tế xã, giám sát
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 738
của Trạm Y tế xã.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu gồm hai giai đoạn: giai đoạn 1:
khảo sát định lượng thông qua phỏng vấn trực
tiếp bằng bộ câu hỏi bán cấu trúc 75 NVYTTB
(ấp) tại 75 ấp trên địa bàn huyện. Giai đoạn 2
khảo sát định tính thông qua phỏng vấn sâu
bằng bộ câu hỏi mở 104 nhân viên của 15 Trạm
Y tế xã (TYT) (nhân viên và trưởng trạm), 18 chủ
tịch/phó chủ tịch Ủy Ban nhân dân xã, 17 đại
diện Hội Liên hiệp Phụ nữ, 84 trưởng ấp và cán
bộ ấp. Tổng cộng giai đoạn 2 khảo sát 223 nhân
viên và cán bộ quản lý trên địa bàn huyện.
Bộ câu hỏi bán cấu trúc được thiết kế dựa
trên Thông Tư 39/2010/TT‐BYT gồm 6 phần:
thông tin chung, hoạt động tuyên truyền giáo
dục sức khỏe tại cộng đồng, hoạt động chuyên
môn y tế tại cộng đồng, hoạt động chăm sóc sức
khỏe bà mẹ trẻ em và kế hoạch hóa gia đình, các
hoạt động khác mà NVYTTB đã thực hiện trong
năm 2012 và các yếu tố ảnh hưởng hoạt động
của NVYTTB.
Bộ câu hỏi mở gồm 6 câu hỏi liên quan đến
cách đánh giá của cán bộ quản lý về hoạt động
chung của NVYTTB, về cách quản lý, cơ chế
chính sách dành cho NVYTTB, hỗ trợ của các tổ
chức đối với NVYTTB, chính sách tập huấn nâng
cao năng lực của NVYTTB.
KẾT QUẢ
Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Bảng 1: Đặc điểm của mẫu nghiên cứu (n = 75)
Đặc tính Tần số Tỷ lệ (%)
Tuổi
< 30 6 8,0
30-49 32 42,7
≥ 50 37 49,3
Giới tính Nữ 55 73,3
Nam 20 26,7
Dân tộc Kinh 73 97,3
Hoa 2 2,7
Trình độ
học vấn
Không biết đọc,viết 2 2,7
Cấp I 4 5,3
Cấp II 31 41,3
Cấp III 35 46,7
Đại học/cao đẳng/trung 3 4,0
Đặc tính Tần số Tỷ lệ (%)
Tuổi
< 30 6 8,0
30-49 32 42,7
≥ 50 37 49,3
cấp
Trình độ
chuyên môn
Điều dưỡng sơ cấp 36 48,0
Y tế thôn bản 21 28,0
Dược tá 6 8,0
Dược sĩ trung cấp 5 6,7
Y sĩ đa khoa 4 5,3
Điều dưỡng trung cấp 3 4,0
Tình trạng
hôn nhân
Sống với vợ/chồng 59 78,7
Độc thân 9 12,0
Ly dị/ly thân 7 9,3
Số người
trong gia đình
≤ 2 người 21 28,0
3-4 người 48 64,0
≥ 5 người 6 8,0
Làm nghề
khác ngoài
NVYTTB
Nông dân 27 36,0
Nội trợ 20 26,7
Buôn bán 9 25,3
Về hưu/thất nghiệp 5 6,7
Cán bộ/viên chức 3 4,0
Công nhân 1 1,3
Tình trạng
kinh tế của gia
đình
Hộ không nghèo 66 88,0
Hộ nghèo 5 6,7
Hộ cận nghèo 4 5,3
Số ngày làm việc NVYTTB (TB ± ĐLC) 11,9 ± 2,8
Về độ tuổi, 49,3% NVYTTB có độ tuổi ≥ 50 và
42,7% có độ tuổi từ 30‐49. Nữ có tỷ lệ nhiều hơn
nam (73,3% so với 26,7%). Hầu hết (97,3%) các
đối tượng đều là người Kinh chỉ có 2,7% là
người Hoa. Trình độ học vấn của các đối tượng
chủ yếu là cấp III (46,7%) và cấp II (41,3%). Về
trình độ chuyên môn, 48% các NVYTTB là điều
dưỡng sơ cấp, 28% là y tế thôn bản. Các
NVYTTB có trình độ khác chiếm tỷ lệ không cao.
Có 78,7% các đối tượng hiện đang sống với
vợ/chồng và chỉ có 9,3% là đã ly dị/ly thân. Số
thành viên trong gia đình của NVYTTB từ 3‐4
người chiếm tỷ lệ 64% và ≤ 2 người là 28%.
Ngoài làm NVYTTB, 36% là nông dân, 26,7% đối
tượng là nội trợ, 25,3% là buôn bán. Tỷ lệ
NVYTTB là công nhân hoặc cán bộ viên chức rất
thấp chỉ có 1,3% và 4%. Về tình trạng kinh tế gia
đình 88% đối tượng thuộc diện gia đình thoát
nghèo, còn 12% còn lại thuộc diện hộ nghèo hoặc
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 739
hộ cận nghèo. Số ngày làm việc trung bình với
vai trò NVYTTB của các đối tượng là 11,9 ± 2,8.
Hoạt động của nhân viên y tế thôn bản
Bảng 2: Hoạt động của nhân viên y tế thôn bản (n
=75)
Biến số Tần số Tỷ lệ (%)
Tuyên truyền kiến thức về sức khoẻ 75 100
Hướng dẫn người dân phòng chống dịch
bệnh
75 100
Vận động người dân thực hiện KHHGĐ 75 100
Tư vấn các biện pháp KHHGĐ 75 100
Hướng dẫn các biện pháp theo dõi, chăm
sóc sức khoẻ trẻ em và phòng chống suy
dinh dưỡng trẻ em < 5 tuổi
75 100
Báo cáo hoạt động cho trạm y tế xã 75 100
Vận động sản phụ đi khám thai 75 100
Hướng dẫn người dân chăm sóc sức khoẻ 74 98,7
Tham gia thực hiện các chương trình y tế 74 98,7
Tham gia báo cáo vụ dịch bệnh 72 96,0
Tham gia phong trào y tế tại địa phương 71 94,7
Tham gia giám sát vụ dịch bệnh 71 94,7
Tham gia phát hiện vụ dịch bệnh 70 93,3
Thực hiện chăm sóc một số bệnh thường
gặp
68 90,7
Hướng dẫn chăm sóc người mắc bệnh
không lây tại nhà
68 90,7
Tham gia giám sát công trình vệ sinh hộ gia
đình
66 88,0
Tham gia giám sát thực hiện an toàn vệ
sinh thực phẩm
65 86,7
Hướng dẫn chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh
tại nhà trong 6 tuần đầu sau sinh
61 81,3
Theo dõi bà mẹ và trẻ sơ sinh tại nhà trong
6 tuần đầu sau sinh
60 80,0
Vận động người dân trồng thuốc nam tại gia
đình
60 80,0
Cung cấp và hướng dẫn sử dụng bao cao
su, viên thuốc tránh thai
59 78,7
Hướng dẫn người dân trồng thuốc nam tại
gia đình
59 78,7
Được cấp phát túi y tế thôn bản (ấp) 55 73,3
Đăng ký quản lý thai cho sản phụ 55 74,3
Thực hiện vụ sơ cấp cứu ban đầu 52 69,3
Tham gia giám sát công trình vệ sinh nơi
công cộng
37 49,3
Tham gia giám sát chất lượng nguồn nước 27 36,0
Hỗ trợ sinh thường cho sản phụ 4 5,3
Xử trí sinh rơi 2 2,7
Đối với các hoạt động tuyên truyền, phổ
biến kiến thức thì tỷ lệ NVYTTB thực hiện các
hoạt động tuyên truyền, phổ biến kiến thức cho
người dân hầu hết đều đạt 100%. Có 98,7% nhân
viên có hướng dẫn người dân cách chăm sóc sức
khỏe trong đó các biện pháp phòng chống bệnh
truyền nhiễm được nhân viên hướng dẫn người
dân thực hiện nhiều nhất (69,3%). Tỷ lệ nhân
viên hướng dẫn người dân phòng chống dịch
bệnh đạt 100%. Tỷ lệ nhân viên có vận động và
hướng dẫn người dân thực hiện các biện pháp
KHHGĐ cũng đạt 100%.
Đối với các hoạt động chuyên môn y tế, tỷ lệ
nhân viên tham gia phát hiện vụ dịch bệnh đạt
93,3%. Tỷ lệ nhân viên tham gia giám sát dịch
bệnh cũng rất cao đạt 94,7% trong đó chủ yếu là
giám sát bệnh truyền nhiễm (93%). Tỷ lệ nhân
viên tham gia giám sát nguồn nước và giám sát
công trình vệ sinh nơi công cộng có tỷ lệ thấp chỉ
có 36% và 49,3%. Các hoạt động còn lại bao gồm
giám sát công trình vệ sinh hộ gia đình, giám sát
thực hiện ATTP, và tham gia phong trào y tế tại
địa phương có tỷ lệ đạt cũng khá cao (lần lượt là
88%, 86,7% và 94,7%).
Đối với hoạt động chăm sóc sức khỏe bà mẹ
và trẻ em, 100% nhân viên đã đi vận động sản
phụ khám thai tại cơ sở y tế. Tỷ lệ nhân viên
đăng ký quản lý thai sản cho sản phụ chỉ đạt
74,3%. Tỷ lệ nhân viên thực hiện hỗ trợ đẻ
thường và đẻ rớt rất thấp chỉ đạt 5,3% và 2,7%.
Tỷ lệ nhân viên theo dõi bà mẹ và trẻ sơ sinh tại
nhà đạt 80%. Tỷ lệ nhân viên hướng dẫn chăm
sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh tại nhà đạt 81,3%. Tỷ lệ
nhân viên hướng dẫn các biện pháp theo dõi,
chăm sóc sức khoẻ trẻ và phòng chống suy dinh
dưỡng trẻ < 5 tuổi đạt tuyệt đối 100%. Tỷ lệ nhân
viên cung cấp và hướng dẫn sử dụng bao cao su,
viên thuốc tránh thai đạt 78,7%.
Đối với các hoạt động khác, kết quả cho
thấy 100% nhân viên đều báo cáo hoạt động
cho TYT xã. 98,7% nhân viên đều tham gia các
chương trình y tế do TYT quản lý. Các hoạt
động chăm sóc một số bệnh thông thường,
hướng dẫn chăm sóc người mắc bệnh xã hội
và vận động người dân trồng thuốc nam tại
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 740
gia đình cũng có tỷ lệ khá cao (90,7%, 90,7% và
80%). Các hoạt động còn lại là hướng dẫn
người dân trồng thuốc nam là 78,7%, và thực
hiện sơ cấp cứu ban đầu đạt 69,3%.
Các đặc điểm công tác của nhân viên y tế thôn bản
Bảng 3: Các đặc điểm công tác của nhân viên y tế thôn bản (n=75)
Biến số Tần số Tỷ lệ (%)
Được trung tâm y tế huyện tập huấn 73 97,3
Được trạm y tế xã tập huấn 75 100
Giao ban với trạm y tế xã 75 100
Thời gian giao ban
với trạm y tế xã
Một tháng một lần 73 97,3
Một quý một lần 2 2,7
Trạm y tế giám sát hoạt động của NVYTTB 75 100
Thời gian giám sát
của trạm y tế xã
Một tháng một lần 36 48,0
Một quý một lần 39 52,0
Nhận sự giúp đỡ của trưởng ấp trong công tác 71 94,7
Nhận được sự giúp đỡ của ban ngành, đoàn thể, hội 63 85,1
Hưởng phụ cấp
nhân viên y tế thôn bản
249.000 đ/tháng 1 1,3
262.500 đ/tháng 4 5,4
315.000 đ/tháng 35 46,7
415.000 đ/tháng 1 1,3
525.000 đ/tháng 34 45,3
Thời gian được lãnh phụ cấp
nhân viên y tế thôn bản
Hàng tháng 9 12,0
Hàng quý 66 88,0
Tỷ lệ nhân viên được trung tâm y tế huyện
tập huấn đạt 97,3% và tỷ lệ nhân viên được TYT
xã tập huấn đạt 100%. Có 100% nhân viên đều
được giao ban với trạm y tế xã và thời gian giao
ban chủ yếu là hàng tháng (97,3%). Tỷ lệ nhân
viên được TYT giám sát cũng đạt 100% với thời
gian giám sát chủ yếu là hàng quý (52%). Tỷ lệ
nhân viên nhận được sự trợ giúp của trưởng ấp
và các ban ngành, đoàn thể, hiệp hội cũng khá
cao lên đến 94,7% và 85,1%. Về phụ cấp công
việc, 45,3% nhận phụ cấp là 525.000 đ/tháng và
46,7% nhận 315.000 đ/tháng. Phụ cấp của nhân
viên chủ yếu được trả hàng quý (88%).
Mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa hoạt động và các yếu tố khảo sát trong nghiên cứu
Bảng 4: Các mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa hoạt động và các yếu tố khảo sát (n = 75)
Tham gia
phát hiện
dịch bệnh
Tham gia
giám sát
vụ dịch
Theo dõi
BM&TE 6
tuần đầu
sau sinh
Hướng dẫn
BM&TE 6 tuần
đầu sau sinh
Chăm sóc
bệnh thông
thường
Hướng dẫn
chăm sóc người
mắc bệnh xã hội
Vận động
trồng
thuốc nam
Hướng dẫn
trồng thuốc
nam
Số ngày
làm việc
1 tuần 5 (100)
2 tuần 49 (96,1)
> 2 tuần 14 (73,7)
Thời gian
TYT xã
giám sát
Một quý 27 (69,2) 28 (71,8) 30 (83,3)
Một tháng 33 (91,7) 33 (91,7) 38 (97,4)
Được
hưởng phụ
cấp
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 741
Tham gia
phát hiện
dịch bệnh
Tham gia
giám sát
vụ dịch
Theo dõi
BM&TE 6
tuần đầu
sau sinh
Hướng dẫn
BM&TE 6 tuần
đầu sau sinh
Chăm sóc
bệnh thông
thường
Hướng dẫn
chăm sóc người
mắc bệnh xã hội
Vận động
trồng
thuốc nam
Hướng dẫn
trồng thuốc
nam
Phụ cấp
khu vực
khác
41 (100) 37 (90,2) 37 (90,2)
Phụ cấp
vùng sâu
30 (88,2) 23 (67,7 22 (64,7)
Thời gian
lãnh phụ
cấp
Hàng tháng 64 (97) 64 (97)
Hàng quý 6 (66,7 4 (44,4)
Giữa thời gian lãnh phụ cấp và hoạt động
tham gia phát hiện vụ dịch có mối liên quan có
ý nghĩa thống kê (p<0,001) trong đó nhân viên
lãnh phụ cấp hàng quý có khả năng tham gia
phát hiện vụ dịch bằng 0,7 lần so với nhân
viên lãnh phụ cấp hàng tháng (PR: 0,7;
KTC95%: 0,4‐0,99).
Giữa phụ cấp được hưởng và hoạt động
tham gia giám sát vụ dịch bệnh có mối liên quan
có ý nghĩa thống kê (p = 0,02) trong đó nhân viên
được hưởng phụ cấp vùng sâu, vùng xa (525.000
đ/tháng) có khả năng thực hiện hoạt động này
chỉ bằng 0,8 lần so với nhân viên được hưởng
phụ cấp khu vực khác (< 525.000 đ/tháng) (PR:
0,8; KTC95%: 0,8‐0,99).
Giữa thời gian giám sát của TYT xã và hoạt
động theo dõi sức khoẻ bà mẹ và trẻ sơ sinh tại
nhà trong 6 tuần đầu sau sinh có mối liên quan
có ý nghĩa thống kê (p = 0,02) trong đó nhân
viên được giám sát hàng tháng sẽ có khả năng
thực hiện hoạt động này cao gấp 1,3 lần so với
nhân viên được giám sát hàng quý (PR: 1,3;
KTC: 1,1‐1,7).
Giữa thời gian giám sát của trạm y tế xã và
hoạt động hướng dẫn chăm sóc sức khoẻ bà mẹ
và trẻ sơ sinh tại nhà trong 6 tuần sau sinh có
mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p = 0,04)
trong đó nhân viên được giám sát hàng tháng sẽ
có khả năng thực hiện hoạt động này cao gấp 1,3
lần so với nhân viên không được hỗ trợ (PR: 1,3;
KTC: 1,1‐1,6).
Giữa thời gian giám sát của TYT xã và hoạt
động chăm sóc một số bệnh thông thường của
nhân viên có mối liên quan có ý nghĩa thống kê
(p = 0,03) trong đó nhân viên được giám sát hàng
tháng sẽ có khả năng thực hiện hoạt động này
gấp 1,2 lần so với nhân viên được giám sát hàng
quý (PR: 1,2; KTC: 0,7‐0,9).
Giữa số ngày làm việc và hoạt động chăm
sóc một số bệnh thông thường của nhân viên có
mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p = 0,03)
trong đó nhân viên làm việc 2 tuần sẽ có khả
năng thực hiện hoạt động này bằng 0,8 lần so
với nhân viên làm việc 1 tuần (PR: 0,8; KTC: 0,7‐
0,9). Hay nói cách khác, nhân viên càng làm việc
nhiều ngày sẽ ít có khả năng thực hiện hoạt
động này.
Giữa thời gian lãnh phụ cấp và hoạt động
hướng dẫn chăm sóc người mắc bệnh xã hội,
bệnh không lây có mối liên quan có ý nghĩa
thống kê (p < 0,001) trong đó nhân viên lãnh phụ
cấp hàng quý sẽ có khả năng thực hiện hoạt
động này chỉ bằng 0,5 lần so với nhân viên lãnh
phụ cấp hàng tháng (PR: 0,5; KTC95%: 0,2‐0,9).
Giữa phụ cấp được lãnh và hoạt động vận
động trồng cây thuốc nam có mối liên quan có
ý nghĩa thống kê (p = 0,01) trong đó nhân viên
được lãnh phụ cấp vùng sâu (525.000 đ/tháng)
sẽ có khả năng thực hiện hoạt động này bằng
0,7 lần so với nhân viên được lãnh phụ cấp
khu vực khác (< 525.000 đ/tháng) (PR: 0,7;
KTC95%: 0,6‐0,9).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 742
Giữa phụ cấp được lãnh và hoạt động
hướng dẫn trồng cây thuốc nam có mối liên
quan có ý nghĩa thống kê (p = 0,01) trong đó
nhân viên được lãnh phụ cấp vùng sâu (525.000
đ/tháng) sẽ có khả năng thực hiện hoạt động này
bằng 0,7 lần so với nhân viên được lãnh phụ cấp
khu vực khác (< 525.000 đ/tháng) (PR: 0,7;
KTC95%: 0,6‐0,9).
BÀN LUẬN
Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Các đặc điểm của mẫu nghiên cứu cho thấy
các NVYTTB có những đặc điểm phù hợp với
công tác y tế cấp cơ sở trên địa bàn huyện. Cụ
thể, độ tuổi của các đối tượng tương đối cao
giúp công tác tuyên truyền được thuyết phục
hơn, nữ giới chiếm đa số so với nam giới thuận
lợi cho các công tác kế hoạch hóa gia đình, chăm
sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, trình độ chuyên từ
cấp II‐cấp III đáp ứng được các yêu cầu về đào
tạo tập huấn NVYTTB, và nghề nghiệp của đối
tượng chủ yếu là nội trợ và buôn bán tạo điều
kiện thuận lợi trong việc thiết lập mối quan hệ
với người dân giúp công tác tuyên truyền hiệu
quả hơn.
Hoạt động của nhân viên y tế thôn bản
Trong các hoạt động được quy định theo
Thông tư 39/2010/TT‐BYT thì hầu hết các hoạt
động đều có tỷ lệ NVYTTB thực hiện từ khá cao
(≥ 69,3%) cho đến rất cao (100%). Các hoạt động
tham gia giám sát công trình vệ sinh nơi công
cộng, tham gia giám sát chất lượng nguồn nước
có tỷ lệ thực hiện thấp vì hầu hết các NVYTTB
đều không được phân công làm các nhiệm vụ
này. Riêng hoạt động hỗ trợ sinh thường sản
phụ và xử trí sinh rơi có tỷ lệ thực hiện rất thấp
(lần lượt 5,3% và 2,7%) là do trên địa bàn huyện
hầu như không có trường hợp sinh tại nhà hoặc
đẻ rơi. Kết quả này cho thấy sự bất hợp lý của
Thông tư 39/2010/TT‐BYT trong việc quy định
hoạt động chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em (hoạt
động hỗ trợ sinh thường hoặc xử trí đẻ rơi phổ
biến hơn tại các tỉnh miền núi và trung du so với
tỉnh đồng bằng như Tây Ninh(8,9) vì vậy cần có sự
chỉnh sửa bổ sung cho hợp lý với bối cảnh chăm
sóc y tế tại tỉnh Tây Ninh.
Các đặc điểm công tác của nhân viên y tế
thôn bản
Theo Thông tư 39/2010/TT‐BYT hoạt động
của NVTTB sẽ chịu sự quản lý của TYT xã thông
qua các buổi họp giao ban và các buổi giám sát
hoạt động của NVYTTB hàng tháng hoặc hàng
quý. Kết quả khảo sát cho thấy hầu hết các
NVYTTB đều được giao ban với TYT xã một
tháng một lần (97,3%) và 52% NVYTTB được
TYT xã giám sát một quý một lần. Các nghiên
cứu cho thấy việc được giám sát thường xuyên
của cấp quản lý sẽ giúp cho hoạt động của
NVYTTB được hiệu quả hơn.
Trong quá trình hoạt động, NVYTTB luôn
được sự quan tâm của Trung tâm Y tế huyện
Châu Thành và Trạm y tế xã thông qua việc tổ
chức các lớp tập huấn nâng cao năng lực cho
NVYTTB. Ngoài ra NVYTTB còn được sự hỗ
trợ từ các ban ngành đoàn thể (khích lệ tinh
thần, chỉ đạo hoạt động, hỗ trợ nhân lực) và
ban quản lý ấp (phối hợp với NVYTTB tìm
nhà, dẫn đường, lựa chọn địa điểm, phát loa
tuyên truyền.
Mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
hoạt động và các yếu tố khảo sát trong
nghiên cứu
Trong nghiên cứu này các đặc điểm của mẫu
nghiên cứu (tuổi, giới, trình độ học vấn) và các
đặc điểm công tác của NVYTTB đều được khảo
sát mối liên quan với các hoạt động của
NVYTTB. Kết quả phân tích cho thấy NVYTTB
được hưởng phụ cấp vùng sâu ít có khả năng
thực hiện hoạt động tham gia giám sát vụ dịch
(PR: 0,8; KTC95%: 0,8‐0,99), hoạt động vận động
và hướng dẫn trồng thuốc nam (PR: 0,7;
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 743
KTC95%: 0,6‐0,9) so với NVYTTB được hưởng
phụ cấp khu vực khác (p<0,05). Lý do giải thích
cho kết quả này là NVYYTB lãnh phụ cấp vùng
sâu sinh sống tại các xã vùng sâu, vùng xa đi lại
khó khăn do đó công tác y tế cơ sở cũng ít thực
hiện hơn so với NVYTTB sinh sống tại các khu
vực khác.
Thời gian lãnh phụ cấp cũng có mối liên
quan có ý nghĩa thống kê với các hoạt động
tham gia phát hiện vụ dịch bệnh (PR: 0,7;
KTC95%: 0,4‐0,99), hoạt động hướng dẫn chăm
sóc người mắc bệnh xã hội (PR: 0,5; KTC95%:
0,2‐0,9). Hay nói cách khác, NVYTTB được
lãnh phụ cấp hàng quý sẽ ít có khả năng thực
hiện các hoạt động trên so với các NVYTTB
được lãnh phụ cấp hàng tháng. Kết quả này
phù hợp với các nghiên cứu khác(2,5) và điều
này cho thấy rằng phụ cấp cũng như thời gian
lãnh phụ cấp có tác động đến hiệu quả hoạt
động của NVYTTB.
Thời gian TYT xã giám sát có mối liên quan
có ý nghĩa thống kê với hoạt động theo dõi và
hoạt động hướng dẫn chăm sóc sức khỏe bà mẹ
và trẻ em trong 6 tuần sau sinh (PR: 1,3;
KTC95%: 1,1‐1,6), hoạt động chăm sóc bệnh
thông thường (PR: 1,2; KTC95%: 0,7‐0,9). Hay
nói cách khác NVYTTB được TYT giám sát hàng
tháng sẽ có khả năng thực hiện các hoạt động
nhiều hơn so với các NVYTTB được giám sát
hàng quý.
Số ngày làm việc có mối liên quan có ý nghĩa
thống kê với hoạt động chăm sóc bệnh thông
thường (PR: 0,8; KTC95%: 0,7‐0,9). Những
NVYTTB có số ngày làm việc càng nhiều thì hoạt
động chăm sóc bệnh thông thường càng ít. Điều
này được lý giải là do NVYTTB phải dành thời
gian cho nhiều hoạt động khác nên thời gian
dành cho hoạt động chăm sóc bệnh ít hơn.
Hoạt động NVYTT dưới góc nhìn của nhân
viên TYT và cán bộ ban ngành đoàn thể
Bên cạnh phỏng vấn trực tiếp NVYTTB,
trong nghiên cứu này, chúng tôi còn phỏng vấn
sâu các cán bộ quản lý ban ngành đoàn thể
nhằm thu thập ý kiến về hiệu quả hoạt động của
NVYTTB. Hầu hết các nhân viên y tế TYT và cán
bộ quản lý Ủy ban Nhân dân, cán bộ Hội Liên
hiệp Phụ nữ NVYTTB đều cho rằng NVYTTB rất
cần thiết cho hoạt động y tế tuyến cơ sở. Họ là
cánh tay đắc lực giúp TYT thực hiện các chương
trình y tế quốc gia trên địa bàn TYT xã quản lý.
Đối với công tác quản lý NVYTTB, TYT xã là
cơ quan y tế chịu trách nhiệm chính trong quản
lý, điều phối hoạt động của NVYTTB. Qua các
cuộc phỏng vấn các nhân viên y tế tại 75 TYT xã,
chúng tôi nhận thấy công tác quản lý NVYTTB
vừa có những thuận lợi nhưng cũng có nhiều
khó khăn. Thuận lợi đầu tiên là TYT luôn nhận
được sự quan tâm của Ủy Ban nhân dân trong
việc quản lý NVYTTB thông qua các buổi họp
giao ban, giám sát của cán bộ quản lý Ủy Ban
nhân dân. Tuy nhiên trong quá trình làm việc
cùng với NVYTTB, TYT cũng gặp một số khó
khăn như một số NVYTTB không nhiệt tình với
công việc vì lo kiếm sống, số khác phải đi làm ăn
xa nên TYT xã không thể giám sát hoạt động,
không thể liên lạc với NVYTTB khi cần họp giao
ban. Mặc dù có khó khăn, nhưng theo đa số ý
kiến của nhân viên TYT thì hoạt động của
NVYTTB nhìn chung được quản lý tốt, mang lại
hiệu quả cao trong công việc.
Khi được hỏi về chế độ dành cho NVYTTB,
hầu hết (> 95%) cán bộ nhân viên đều cho rằng
chế độ đãi ngộ cho NVYTTB còn rất thấp, không
thể tạo động lực cho NVYTTB gắn bó lâu dài với
công tác y tế thôn bản. Chính từ bất cập này, một
số đề nghị từ phía cán bộ nhân viên là chính
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 744
quyền nên tăng phụ cấp cho NVYTTB, cấp thẻ
bảo hiểm y tế miễn phí cho NVYTTB từ đó giúp
NVYTTB có thể an tâm công tác.
Đối với hoạt động tập huấn cho NVYTTB, đa
số cán bộ đều thừa nhận mặc dù công tác tập
huấn vẫn được tổ chức hàng năm, nhưng chưa
đồng bộ, thống nhất trên địa bàn toàn huyện. Từ
thực tế này nhiều cán bộ nhân viên đề xuất nên
tập huấn cho NVYTTB thường xuyên hơn.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thực hiện các hoạt
động theo Thông Tư 39/2010/TT‐BYT của
NVYTTB đều khá cao, tuy nhiên một số hoạt
động có tỷ lệ thực hiện thấp bao gồm tham gia
giám sát chất lượng nguồn nước, tham gia giám
sát công trình vệ sinh nơi công cộng (tỷ lệ thực
hiện 36% và 49,3%), hoạt động hỗ trợ đẻ thường
và xử trí đẻ rơi (tỷ lệ thực hiện 5,3% và 2,7%).
Khi phân tích mối liên quan giữa các yếu tố
khảo sát và việc thực hiện hoạt động của
NVYTTB, chúng tôi nhận thấy các yếu tố phụ
cấp nghề, thời gian lãnh phụ cấp, thời gian TYT
xã giám sát, số ngày làm việc có mối liên quan có
ý nghĩa thống kê với một số hoạt động của
NVYTTB. Kết quả này cho thấy đây là các yếu tố
có thể ảnh hưởng đến hoạt động của NVYTTB vì
vậy cán bộ quản lý cần phải quan tâm và điều
chỉnh sao cho phù hợp với hoạt động tại địa
phương nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
NVYTTB trong thời gian sắp tới.
KIẾN NGHỊ
Thông qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi
kiến nghị các TYT xã tiếp tục duy trì hiệu quả
của các hoạt động tuyên truyền, giáo dục sức
khoẻ của NVYTTB vì kết quả khảo sát cho thấy
100% NVYTTB đều thực hiện đầy đủ các hoạt
động này. Ngoài ra TYT nên phân công
NVYTTB thực hiện các hoạt động giám sát chất
lượng nguồn nước, giám sát các công trình vệ
sinh nơi công cộng.Về thời gian giao ban và
giám sát hoạt động NVYTTB, TYT và Trung tâm
Y tế huyện cần đánh giá, xem xét về thời gian
giám sát và giao ban cụ thể cho từng hoạt động
của NVYTTB vì thời gian giám sát là một yếu tố
ảnh hưởng đến nhiều hoạt động trong nghiên
cứu này.
Đối với các cấp chính quyền chức năng nên
xem xét thay thế hoạt động hỗ trợ đẻ thường cho
sản phụ và xử trí đẻ rơi của NVYTTB bằng các
hoạt động khác phù hợp hơn với tình hình tại
địa phương. Ngoài ra chúng tôi cũng kiến nghị
UBND xã ngoài phụ cấp hàng tháng mà
NVYTTB được nhận nên có một nguồn kinh phí
hỗ trợ thêm dành cho NVYTTB nhằm khuyến
khích, tạo động lực hoạt động đối với NVYTTB
Đối với Trung tâm Y tế huyện Châu Thành,
cần trang bị đầy đủ túi y tế thôn bản cho
NVYTTB nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt
động sơ cấp cứu của NVYTTB trên địa bàn
huyện. Bên cạnh đó, Trung tâm Y tế huyện và
TYT cần tăng cường công tác tập huấn kiến thức
cho NVYTTB ít nhất 3 lần/năm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chính Trị Trung Ương (2002). ʺChỉ thị số 06‐CT/TƯ về
củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sởʺ. Hà Nội. Tr. 2‐5
2. Bhattacharyya K, Winch P, LeBan K, Tien M (2001).
Community health worker incentives and disincentives: how
they affect motivation, retention and sustainabilityʺ.
Arlington, Virginia, BASICS/USAID, 34‐36.
3. Bộ Y Tế (2010) ʺThông Tư Quy Định Tiêu Chuẩn, Chức Năng,
Nhiệm Vụ Của Nhân Viên Y Tế Thôn, Bảnʺ. Hà Nội. Tr. 2‐4.
4. Bộ Y Tế (2011) ʺBộ Tiêu Chí Quốc Gia Về Y Tế Xã Giai Đoạn
2011‐2020ʺ. Hà Nội. Tr. 4‐7.
5. Charles H, Charles N. Chapter 71. Health Workers: Building
and Motivating the Workforce. Disease Control Priorities in
Developing Countries. 2nd edition, 78‐98
6. Chính Phủ (1996) ʺNghị quyết của Chính Phủ về 37/CP ngày
20 tháng 6 năm 1996 về định hướng chiến lược công tác chăm
sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân trong thời gian 1996‐2000ʺ.
Hà Nội. Tr. 2‐3.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 745
7. Điện Biên Phủ Online (2011), Nỗi niềm y tế thôn bản,
‐
t%E1%BA%BF/n%E1%BB%97i‐ni%E1%BB%81m‐y‐
t%E1%BA%BF‐th%C3%B4n‐b%E1%BA%A3n. Truy cập ngày
12/5/2013.
8. Rơ Mah Huân (2008) Đánh giá thực hiện chức năng nhiệm vụ
của y tế thôn, bản tại huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh năm
2008. Luận văn tốt nghiệp cao học y tế công cộng, Đại học Y tế
công cộng Hà Nội, 56‐76.
9. Trần Huy Dương (2001) Nghiên cứu thực trạng tổ chức và
hoạt động của mạng lưới y tế thôn huyện Tiên Du‐tỉnh Bắc
Ninhʺ. Luận văn thạc sĩ y tế công cộng, Trường Đại học Y tế
công cộng, Hà Nội. Tr. 34‐36.
Ngày nhận bài báo: 23/5/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 3/6/2014
Ngày bài báo được đăng: 14/11/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_hoat_dong_va_cac_yeu_to_lien_quan_cua_nhan_vien_y.pdf