Kiến thức chung đúng về các
biện pháp dự phòng tổn thương do vật
sắc nhọn:
Qua khảo sát 300 sinh viên điều dưỡng
trong nghiên cứu của chúng tôi nhằm đánh
giá kiến thức của sinh viên về dự phòng tổn
thương do vật sắc nhọn cho thấy tỷ lệ sinh
viên có kiến thức chung đúng về dự phòng
tổn thương do vật sắc nhọn là 59,7%. Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so
với nghiên cứu của Hồ Văn Luyến (2014)
là 57,8% [5].
Theo nghiên cứu của Kulkarni và cộng
sự năm 2013 [14] tại Ấn Độ thực hiện trên
268 sinh viên y khoa ghi nhận kiến thức của
sinh viên về dự phòng tổn thương do kim
và vật sắc nhọn khi tham gia thực hành lâm
sàng là 56%.
Tuy nhiên kết quả nghiên cứu chúng tôi
thấp hơn so với nghiên cứu của Nguyễn
Thị Mai Thơ (2015) [6] với tỷ lệ 81% sinh
viên điều dưỡng có kiến thức đúng về dự
phòng tổn thương do vật sắc nhọn trong
thực tập lâm sàng và nghiên cứu của Mỵ
Thị Hải (2016) [2] với tỷ lệ sinh viên có kiến
thức chung đúng về dự phòng tổn thương
do vật sắc nhọn là 71,9%.
Như vậy, phần lớn sinh viên có kiến thức
đúng về dự phòng tổn thương do vật sắc
nhọn. Đây là một tín hiệu đáng mừng cho
thấy sinh viên đã biết tự bảo vệ sức khỏe
bản thân trong quá trình học tập. Tuy nhiên
để đảm bảo kiến thức đúng về phòng ngừa
tổn thương do vật sắc nhọn gây ra cần tiếp
tục tăng cường trang bị kiến thức về các
nguy cơ lây nhiễm trước khi sinh viên tham
gia thực hành lâm sàng và nhắc lại liên
tục trong suốt quá trình học tập. Đặc biệt
là tiêm an toàn nhằm nâng cao nhận thức,
kiến thức và kỹ thuật cho sinh viên về nguy
cơ tổn thương do vật sắc nhọn trong các
cơ sở y tế; đảm bảo an toàn cho sinh viên
và hạn chế tối đa những tổn thương có thể
gây ra do vật sắc nhọn trong quá trình thực
tập lâm sàng.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 19 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng kiến thức dự phòng tổn thương do vật sắc nhọn của sinh viên trường Đại học điều dưỡng Nam Định, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
93
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC DỰ PHÒNG TỔN THƯƠNG DO VẬT SẮC NHỌN
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH
Nguyễn Hải Lâm1 ,Nguyễn Phương Anh1a, Phạm Thị Thu1
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
phố Hà Nội, luận văn thạc sĩ y tế công cộng,
Trường đại học y tế công cộng, Hà Nội.
4. Trần Thị Quỳnh Anh, Phan Kim Huỳnh
(2016). Thực trạng kiểm soát huyết áp ở
bệnh nhân tăng huyết áp tại thành phố Mỹ
Tho, Tiền Giang. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí
Minh, 20 (5), tr. 154-158.
5. Trần Văn Long (2012). Tình hình
sức khỏe người cao tuổi và thử 3 nghiệm
can thiệp nâng cao kiến thức – thực hành
phòng chống bệnh tăng huyết áp tại 2 xã
huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định giai đoạn
2011 - 2012, luận án tiến sĩ y tế công cộng,
Trường đại học y tế công cộng, Hà Nội.
6. Trần Thiện Thuần, Nguyễn Đỗ Nguyên
(2007). Một số đặc điểm dịch tễ bệnh tăng
huyết áp ở người lớn tại cộng đồng dân cư
TP. HCM năm 2005. Tạp chí Y học TP. Hồ
Chí Minh. 11(1), tr. 136.
7. Laatikainen T, Nissinen A, Kastarinen
M, Jula A, Tuomilehto J. Blood Pressure,
Sodium Intake, and Hypertension Control:
Lessons From the North Karelia Project.
Global Heart. 2016;11(2):191–199.
8. Mills, K.T. Stefanescu, A. & He,
J. (2020). The global epidemiology of
hypertension. Nat Rev Nephrol 16, 223–
237.
9. PT Son, Quang NN, Viet NL, Khai PG,
Wall S, Weinehall L, Bonita R and Byass P
(2012), “Prevalence, awareness, treatment
and control of hypertension in Vietnam-
results from a national survey”, J Hum
Hypertens, Volume 26(4), p.268-280.
10. Uzun S. & et al. (2009). The
assessment of adherence of hypertension
individuals to treatment and lifestyle change
recommendations, Anadolu Kardiyol Derg,
p. 102-109.
11. Wan He, Mark N. Muenchrath and
Paul Kowal (2012). Shades of Gray: A
Cross-Country Study of Health and Well-
Being of the Older Populations in SAGE
Countries, 2007–2010, International
Population Reports, U.S. Census Bureau,
Washington.
12. World Health Organization
(2013),”World Health Day: A global brief
on hypertension. Silent killer, global public
health crisis”, World Health Organization, p.
1-36.
TÓM TẮT:
Mục tiêu: Mục đích của nghiên cứu
này là đánh giá kiến thức dự phòng và
tổn thương do vật sắc nhọn của sinh viên.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
Thiết kế nghiên cứu mô tả được thực hiện
với 300 sinh viên Đại học Điều dưỡng chính
quy khóa 11, 12, 13 - Trường Đại học Điều
dưỡng Nam Định từ tháng 01/2019 đến
tháng 12/2019. Kết quả: Kết quả nghiên
cứu cho thấy chỉ có 11% sinh viên điều
dưỡng biết đến cả 6 nguyên nhân dẫn đến
tổn thương do vật sắc nhọn; 33% sinh viên
Người chịu trách nhiệm: Nguyễn Phương Anh
Email: panhndun97@gmail.com
Ngày phản biện: 12/6/2020
Ngày duyệt bài: 19/6/2020
Ngày xuất bản: 29/6/2020
94
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
kể tên được 3 loại bệnh truyền nhiễm phổ
biến; 29% sinh viên điều dưỡng có kiến thức
đúng về phương pháp xử lý kim an toàn;
67,3% sinh viên biết các bước xử lý sau khi
bị tổn thương và 85,3% sinh viên hiểu rằng
báo cáo sau khi bị tổn thương do vật sắc
nhọn là cần thiết. Kết luận: Tỷ lệ sinh viên
có kiến thức chung đúng về dự phòng tổn
thương do vật sắc nhọn là 59,7%.
Từ khóa: Sinh viên, kiến thức dự phòng
và tổn thương, vật sắc nhọn
AN INVESTIGATION OF STUDENTS' PREVENTIVE KNOWLEDGE
OF SHARP OBJECT INJURIES IN NAM DINH UNIVERSITY OF NURSING
ABSTRACT
Objective: The purpose of this study
is to assess knowledge preventive y and
injure by sharp objects from students of
Nam Dinh University of Nursing in 2019.
Method: Descriptive research design
was conducted with 300 nursing college
students, regular courses 11, 12, 13 - Nam
Dinh University of Nursing from January
2019 to December 2019. Results: research
shows that only 11% of nursing students
are aware of all 6 causes of sharp object
injuries; 33% of students named 3 common
infectious diseases; 29% of nursing
students have the right knowledge about
safe needle handling; 67,3% of students
know the steps to be taken after injury and
85,3% of students understand that a post-
injury report is necessary. Conclusion:
Prevention of damage caused by sharp
objects is 59,7%.
Keywords: Students, prevention and
injury knowledge, sharp objects
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tổn thương do vật sắc nhọn (TT do
VSN) là vết đâm xuyên thấu từ kim tiêm,
dao mổ hoặc vật sắc nhọn khác có thể dẫn
đến tiếp xúc với máu hoặc chất dịch cơ thể
khác. Tổn thương do vật sắc nhọn thường
là kết quả của việc sử dụng thiết bị nguy
hiểm trong môi trường có nhịp độ nhanh,
căng thẳng và không được bảo vệ [11].
Tổn thương do vật sắc nhọn có thể gây
ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe
người. E. A. Bolyard và các cộng sự đã chỉ
ra rằng có khoảng 20 mầm bệnh truyền qua
máu khác nhau được truyền qua vết thương
do kim tiêm và phổ biến nhất là viêm gan
B, viêm gan C và HIV [7]. NVYT có thể gặp
các ảnh hưởng nghiêm trọng về cảm xúc và
rối loạn sức khỏe tâm thần sau khi gặp TT
do VSN, dẫn đến mất việc và rối loạn căng
thẳng. Trong năm 2015, chi phí trung bình
(cả trực tiếp và gián tiếp) để xử lý cho một
ca tổn thương do vật sắc nhọn là $ 747 [8].
Trong quá trình thực hành nghề nghiệp,
sinh viên ngành y và sinh viên điều dưỡng
cũng là những nhóm người có nguy cơ bị
tổn thương nghề nghiệp do vật sắc nhọn.
Một nghiên cứu tại Palestine cho thấy có
hơn 40% sinh viên y khoa đã trải qua ít nhất
một tổn thương do kim tiêm hoặc vật sắc
nhọn khi thực hành. Tại Trung Quốc, năm
2018, có 60,3% sinh viên điều dưỡng bị tổn
thương do vật sắc nhọn, trong đó có 59,9%
bị thương do kim tiêm, 21,9% do bẻ ống
thuốc và 3,4% do kéo [18]. Một số báo cáo
tại Việt Nam cũng cho thấy tình trạng tương
tự: Tỷ lệ sinh viên điều dưỡng bị tổn thương
do vật sắc nhọn tại Trường Đại học Y khoa
Vinh năm 2012 và năm 2015 lần lượt là
45% và 60%, số lần mắc trung bình là 1,46
lần/6 tháng [6]. Năm 2016, tại Trường Đại
học Y Dược Thái Bình, tỷ lệ sinh viên điều
dưỡng có tổn thương do vật sắc nhọn gây
ra là 68,9% trong số các sinh viên bị tổn
thương có 90,3% sinh viên bị tổn thương
95
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
từ 1-4 lần và 9,7% sinh viên bị tổn thương
trên 4 lần [2].
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến TT do
VSN như: lạm dụng mũi tiêm, thiếu vật tư,
thiết bị, nhân sự không đáp ứng đủ, thiếu kỹ
năng, thiếu nhận thức và đào tạo [15]. Kiến
thức, thái độ đúng về TT do VSN và thực
hành đúng các biện pháp dự phòng được
xem là một yếu tố quan trọng giúp sinh viên
điều dưỡng giảm nguy cơ phơi nhiễm bệnh
lây truyền qua đường máu [12], [9]. Mặc dù
đã có nhiều báo cáo đánh giá kiến thức về
dự phòng tổn thương do vật sắc nhọn, tuy
nhiên số liệu trên sinh viên điều dưỡng còn
hạn chế. Với mục đích cung cấp thông tin
về thực trạng của vấn đề làm minh chứng
cho việc xây dựng các chương trình can
thiệp, đào tạo tăng cường kiến thức dự
phòng tổn thương do vật sắc nhọn cho sinh
viên điều dưỡng, nghiên cứu này đã được
tiến hành với mục tiêu “Mô tả thực trạng
kiến thức của sinh viên điều dưỡng về dự
phòng tổn thương do vật sắc nhọn”.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1: Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trong năm
2019 trên các sinh viên Đại học Điều dưỡng
chính quy khóa 11, 12, 13 - Trường Đại học
Điều dưỡng Nam Định.
2.2. Cỡ mẫu: Cỡ mẫu của nghiên cứu
được xác định bởi công thức:
n= (Z21-α/2 x p(1-p))/d
2. Với p là tỷ lệ sinh
viên có kiến thức thực hành dự phòng tổn
thương do vật sắc nhọn, theo nghiên cứu
tham khảo chọn p = 0.45. d là khoảng sai
lệch cho phép giữa tỷ lệ của mẫu nghiên
cứu và tỷ lệ thực trong quần thể, chọn d
= 0,06. Thay vào công thức tính được n =
265. Thực tế chúng tôi đã nghiên cứu trên
300 sinh viên.
2.3. Phương pháp chọn mẫu:
Theo thống kê của Phòng đào tạo Đại
học - Trường Đại học Điều dưỡng Nam
Định, tổng số sinh viên Đại học Điều dưỡng
chính quy Khóa 11,12,13 là 1766 sinh viên.
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng
phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên đa tầng
được tóm tắt trong Sơ đồ qui trình chọn
mẫu như sau:
Bước 1: Chọn ngẫu nhiên mỗi khóa 2
lớp (2 lớp x 3 khóa)
Bước 2: Chọn tất cả sinh viên trong lớp
(Dự kiến mỗi lớp có 50 sinh viên).
Với quy trình này tổng số mẫu lấy được
là 300 sinh viên.
2.4: Công cụ và phương pháp thu
thập số liệu:
2.4.1. Công cụ thu thập số liệu
Bộ công cụ sử dụng trong nghiên cứu
được xây dựng dựa trên các tài liệu: (i) Tài
liệu kiểm soát nhiễm khuẩn của Bộ Y tế
Việt Nam [4]; (ii) Hướng dẫn tiêm an toàn
của Bộ Y tế Việt Nam [1] ; (iii) Practical
Guidelines for Infection Control in Health
Care Facilities của WHO [17]. Bộ câu hỏi
bao gồm hai phần:
+ Phần A: Thông tin cơ bản của sinh
viên điều dưỡng gồm có 4 câu hỏi (từ
1-4): những thông tin tuổi, giới, lớp đang
học, thời gian gần nhất học/đọc tài liệu liên
quan đến tổn thương do vật sắc nhọn, vị
trí chương trình phòng chống phơi nhiễm
nghề nghiệp được hướng dẫn.
+ Phần B: Thông tin kiến thức của sinh
điều dưỡng về tổn thương do vật sắc nhọn,
gồm có 16 câu hỏi (từ 5-20) với những nội
dung bao gồm: kiến thức về nguyên nhân
và yếu tố nguy cơ, hậu quả của tổn thương
do vật sắc nhọn, kiến thức về các biện pháp
phòng ngừa tổn thương do vật sắc nhọn và
kiến thức về xử lý khi bị tổn thương do vật
sắc nhọn. Mỗi câu trả lời đúng tương ứng
với 1 điểm. Tổng điểm cao nhất cho phần
kiến thức là 25 điểm. Đánh giá mức độ kiến
thức về tổn thương do vật sắc nhọn được
chia thành 2 mức độ:
+ Sinh viên có kiến thức đúng về phòng
ngừa tổn thương do vật sắc nhọn đạt từ
15-25 điểm.
+ Sinh viên có kiến thức chưa đúng về
phòng ngừa tổn thương do vật sắc nhọn
đạt từ 0-14 điểm.
96
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
2.4.2. Phương pháp thu thập số liệu
Sử dụng phương pháp tự điền. Người
nghiên cứu sẽ đến từng lớp để gửi phiếu
cho đối tượng nghiên cứu và hướng dẫn
đối tượng nghiên cứu tự điền phiếu theo
hiểu biết của họ trong khoảng thời gian 30
phút sau đó thu phiếu luôn.
3. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm chung của sinh viên điều dưỡng:
Bảng 3.1 Đặc điểm chung của sinh viên điều dưỡng (n=300)
Đặc điểm SL TL %
Giới
Nam 22 7,3
Nữ 278 92,7
Năm học
Sinh viên năm 2 100 33,3
Sinh viên năm 3 100 33,3
Sinh viên năm 4 100 33,3
Thời gian gần nhất học/đọc tài
liệu tổn thương do vật sắc nhọn
≤ 3 tháng 128 42,7
6 tháng 90 30
>1 năm 51 17
Chưa bao giờ học/đọc 31 10,3
Nội dung phòng chống phơi
nhiễm nghề nghiệp được hướng
dẫn trong
Bài học trong chương trình đào tạo 247 82,3
Phòng thực hành kỹ năng 79 26,3
Khi thực hành lâm sàng 101 33,7
Chưa được hướng dẫn 10 3,3
3.2. Kiến thức của sinh viên điều dưỡng về tổn thương do vật sắc nhọn
Bảng 3.2: Kiến thức về nguyên nhân và yếu tố nguy cơ dẫn đến tổn thương do
vật sắc nhọn (n=300)
Nội dung SL TL %
Đóng nắp kim trước và sau khi sử dụng 181 60,3
Chuyển dụng cụ từ tay này sang tay khác trong quá
trình thực hiện 147 49
Phản ứng bất ngờ của bệnh nhân 177 59
Tính khẩn cấp của thao tác 88 29,3
Thiếu chú ý khi thao tác 175 58,3
Không tuân thủ đúng quy trình 151 50,3
Trả lời đúng tất cả 6 ý 33 11
2.5. Phương pháp xử lý số liệu:
Trước khi tiến hành phân tích, người
nghiên cứu kiểm tra thông tin ghi nhận sau
khi sinh viên trả lời bộ câu hỏi để đảm bảo
tính chính xác của những số liệu thu thập.
Số liệu sau khi kiểm tra được nhập liệu và
xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0.
97
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
Bảng 3.3: Kiến thức đúng về hậu quả của tổn thương do vật sắc nhọn (n=300)
Nội dung SL TL %
Những bệnh phổ biến nào có thể lây qua
tổn thương do vật sắc nhọn
Viêm gan B 273 91
Viêm gan C 112 37,3
HIV 231 77
Trả lời được cả 3 bệnh phổ biến 99 33
Nguy cơ lây truyền viêm gan B, C nhiều hơn so với HIV 88 29,3
Bảng 3.4: Kiến thức đúng về các biện pháp dự phòng tổn thương do vật sắc nhọn (n=300)
Nội dung SL TL %
Tổn thương do vật sắc nhọn có thể ngăn ngừa được hoàn toàn 32 10,7
Phương pháp để bẻ ống thuốc bằng thủy tinh là dùng bông/ gạc quấn
xung quanh rồi mới bẻ 207 69
Phương pháp an toàn khi trao vật sắc nhọn cho người khác là:
Đặt trong khay và sau đó người nhận cầm khay lên
277 92,3
Khi chuyển đến nơi khác với kim tiêm, kim khâu trong tay thì cần phải đặt
vật sắc nhọn trong khay sau đó mới cầm khay theo 272 90,7
Để không xảy ra tổn thương
do vật sắc nhọn, trong quá
trình thao tác với kimtiêm
trên cơ thể người bệnh:
Tập trung vào quá trình thao tác 224 74,7
Không đưa tay trước mũi kim 139 46,3
Đảm bảo tư thế người bênh tránh giãy
dụa, cử động đột ngột 233 77,7
Phương pháp an toàn nhất xử lý vật sắc nhọn sau khi tiêm là không đóng
nắp kim, không tháo rời kim, cô lập ngay vào thùng đựng vật sắc nhọn 87 29
Phương pháp đóng nắp kim an toàn được Bộ Y tế khuyến cáo là xúc nắp
bằng một tay 151 50,3
Mức chứa tối đa của hộp/ thùng đựng vật sắc nhọn được khuyên dung là
3/4 hộp 156 52
Bảng 3.5: Kiến thức đúng về xử lý khi bị tổn thương do vật sắc nhọn (n=300)
Nội dung SL TL %
Khi bị tổn thương do vật sắc nhọn biện pháp xử lý đầu tiên được khuyến
nghị là rửa tổn thương với xà phòng dưới vòi nước chảy 231 77
Khi bị tổn thương do vật sắc nhọn có cần thiết phải báo cáo 256 85,3
Các bước xử lý sau khi bị tổn thương do vật sắc nhọn là xử lý vết thương
→ Báo cáo người phụ trách → Đánh giá nguy cơ phơi nhiễm → Đánh giá
nguồn phơi nhiễm → Điều trị dự phòng (nếu cần)
202 67,3
Thời gian tốt nhất được khuyến cáo dự phòng nghi ngờ phơi nhiễm HIV là
24 giờ 105 35
98
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
Biểu đồ 3.1: Phân loại mức độ kiến
thức của sinh viên về tổn thương
do vật sắc nhọn
4. BÀN LUẬN
4.1. Kiến thức của sinh viên điều
dưỡng về tổn thương do vật sắc nhọn:
Kết quả nghiên cứu cho thấy số sinh viên
điều dưỡng biết đến cả 6 nguyên nhân dẫn
đến tổn thương do vật sắc nhọn là rất thấp
chiếm 11%. Trong đó, nguyên nhân gây ra
tổn thương do vật sắc nhọn phần lớn là do
đóng nắp kim trước và sau khi sử dụng và
thiếu chú ý với tỷ lệ lần lượt là 60,3% và
58,3%, không tuân thủ đúng quy trình cũng
là một trong những nguyên nhân quan trọng
gây ra chấn thương chiếm 50,3%. Ngoài ra,
việc phản ứng bất ngờ của bệnh nhân và
tính khẩn cấp của thao tác cũng chiếm tỷ lệ
đáng lưu ý gây ra các tổn thương. Nghiên
cứu của Mỵ Thị Hải (2016) [2] cũng cho kết
quả tương tự: 88,9% thiếu chú ý khi thực
hiện công việc, 77,8% không tuân thủ đúng
quy trình và 59,3% do tính khẩn cấp của
thao tác.
Khác với kiến thức về nguyên nhân và
yếu tố nguy cơ dẫn đến tổn thương do
vật sắc nhọn, kiến thức của sinh viên điều
dưỡng về các bệnh có thể lây truyền do vật
sắc nhọn là cao hơn nhiều. Các bệnh lây
truyền được liệt kê bao gồm HBV (91%),
HCV (37,3%) và HIV (77%). Kết quả này
cũng đã được chứng minh trong nhiều
nghiên cứu trước đây [10], [16]. Tuy nhiên
chỉ có 37,3% biết về HCV và tỷ lệ sinh viên
điều dưỡng biết về cả 3 bệnh còn ở mức
thấp là 33%, chỉ có 29,3% sinh viên điều
dưỡng biết rằng HBV, HCV có khả năng lây
truyền cao hơn HIV.
Kiến thức đúng của sinh viên điều dưỡng
về các biện pháp dự phòng tổn thương
do vật sắc nhọn còn ở mức thấp: Chỉ có
10,7% sinh viên điều dưỡng cho rằng tổn
thương do vật sắc nhọn có thể ngăn ngừa
hoàn toàn. Kết quả này cho thấy sinh viên
điều dưỡng còn nhận thức chưa đúng về
khả năng ngăn chặn tổn thương do vật sắc
nhọn là hoàn toàn ngăn ngừa được, điều
này có thể do chưa nhận thức đầy đủ về
các biện pháp phòng ngừa tổn thương do
vật sắc nhọn. Có 29% sinh viên điều dưỡng
có kiến thức đúng rằng phương pháp xử lý
kim an toàn là không đóng nắp kim, không
tháo rời kim, cô lập ngay vào thùng đựng
vật sắc nhọn. Tỷ lệ kiến thức đúng về vấn
đề này cao hơn nghiên cứu của Mỵ Thị
Hải (2016) [2] khi có 28,9% sinh viên điều
dưỡng cho rằng đóng nắp kim sau khi tiêm
là cần thiết. Trong hướng dẫn của Bộ Y tế
về tiêm an toàn, phương pháp xử lý an toàn
nhất được khuyến cáo là không đậy nắp và
không tháo rời kim tiêm mà cô lập ngay
vào thùng đựng vật sắc nhọn, trong trường
hợp thiếu thiết bị hủy và chứa bơm tiêm
an toàn thì có thể dùng Panh hoặc nút nắp
bằng một tay để đóng nắp. Trong thực tế,
do thiếu dụng cụ nên sinh viên điều dưỡng
thường áp dụng biện pháp đóng nắp bằng
một tay, vì vậy họ cho rằng đây là phương
pháp an toàn nhất. Có 52% điều dưỡng cho
rằng mức chứa tối đa của hộp đựng vật sắc
nhọn là 3/4. Tỷ lệ này cao hơn nghiên cứu
của Mỵ Thị Hải (2016) tỷ lệ là 22,2% [2].
Theo hướng dẫn tiêm an toàn (2012), mức
chứa tối đa cho phép của Hộp đựng vật
sắc nhọn là ¾ thay vì mức chứa 2/3 trước
đây. Một phần sinh viên điều dưỡng chọn
mức 2/3. Điều này cho thấy kiến thức của
sinh viên điều dưỡng còn thiếu sự cập nhật
hoặc còn nhầm lẫn.
Để dự phòng được tổn thương do vật
59.7%
40.3%
Kiến thức đạt
Kiến thức chưa đạt
99
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
sắc nhọn không chỉ cần có các kiến thức
về biện pháp phòng ngừa mà còn phải có
những hiểu biết đúng về cách xử lý khi sự
kiện xảy ra. Việc xử lý đúng quy trình và
kịp thời có thể giúp ngăn ngừa đáng kể sự
xuất hiện các hậu quả xấu [13]. Kết quả
nghiên cứu cho thấy có 85,3% sinh viên
điều dưỡng biết rằng việc khai báo là cần
thiết. Con số này cao hơn so với nghiên
cứu khác tại Việt Nam, khi mà tỷ lệ tương
ứng chỉ là 21,5% [3]. Bên cạnh đó, tỷ lệ sinh
viên điều dưỡng biết cách xử lý ban đầu
sau khi bị tổn thương do vật sắc nhọn là
77%, tỷ lệ sinh viên biết các bước xử lý sau
khi bị tổn thương do vật sắc nhọn là 67,3%
và chỉ có 35% sinh viên biết đến thời gian
tốt nhất để bắt đầu điều trị dự phòng HIV
sau phơi nhiễm.
4.2. Kiến thức chung đúng về các
biện pháp dự phòng tổn thương do vật
sắc nhọn:
Qua khảo sát 300 sinh viên điều dưỡng
trong nghiên cứu của chúng tôi nhằm đánh
giá kiến thức của sinh viên về dự phòng tổn
thương do vật sắc nhọn cho thấy tỷ lệ sinh
viên có kiến thức chung đúng về dự phòng
tổn thương do vật sắc nhọn là 59,7%. Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so
với nghiên cứu của Hồ Văn Luyến (2014)
là 57,8% [5].
Theo nghiên cứu của Kulkarni và cộng
sự năm 2013 [14] tại Ấn Độ thực hiện trên
268 sinh viên y khoa ghi nhận kiến thức của
sinh viên về dự phòng tổn thương do kim
và vật sắc nhọn khi tham gia thực hành lâm
sàng là 56%.
Tuy nhiên kết quả nghiên cứu chúng tôi
thấp hơn so với nghiên cứu của Nguyễn
Thị Mai Thơ (2015) [6] với tỷ lệ 81% sinh
viên điều dưỡng có kiến thức đúng về dự
phòng tổn thương do vật sắc nhọn trong
thực tập lâm sàng và nghiên cứu của Mỵ
Thị Hải (2016) [2] với tỷ lệ sinh viên có kiến
thức chung đúng về dự phòng tổn thương
do vật sắc nhọn là 71,9%.
Như vậy, phần lớn sinh viên có kiến thức
đúng về dự phòng tổn thương do vật sắc
nhọn. Đây là một tín hiệu đáng mừng cho
thấy sinh viên đã biết tự bảo vệ sức khỏe
bản thân trong quá trình học tập. Tuy nhiên
để đảm bảo kiến thức đúng về phòng ngừa
tổn thương do vật sắc nhọn gây ra cần tiếp
tục tăng cường trang bị kiến thức về các
nguy cơ lây nhiễm trước khi sinh viên tham
gia thực hành lâm sàng và nhắc lại liên
tục trong suốt quá trình học tập. Đặc biệt
là tiêm an toàn nhằm nâng cao nhận thức,
kiến thức và kỹ thuật cho sinh viên về nguy
cơ tổn thương do vật sắc nhọn trong các
cơ sở y tế; đảm bảo an toàn cho sinh viên
và hạn chế tối đa những tổn thương có thể
gây ra do vật sắc nhọn trong quá trình thực
tập lâm sàng.
5. KẾT LUẬN
Tỷ lệ sinh viên có kiến thức chung đúng
về dự phòng tổn thương do vật sắc nhọn là
59,7%. Tỷ lệ sinh viên điều dưỡng biết đến
cả 6 nguyên nhân dẫn đến tổn thương do
vật sắc nhọn là 11% ; 33% sinh viên kể tên
được 3 loại bệnh truyền nhiễm phổ biến;
29% sinh viên điều dưỡng có kiến thức
đúng về phương pháp xử lý kim an toàn;
67,3% sinh viên biết các bước xử lý sau khi
bị tổn thương và 85,3% sinh viên hiểu rằng
báo cáo sau khi bị tổn thương do vật sắc
nhọn là cần thiết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2012), Hướng dẫn tiêm an
toàn trong các cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh Ban hành kèm theo Quyết định số:
3671/QĐ-BYT ngày 27 tháng 9 năm 2012
của Bộ Y tế, chủ biên.
2. Mỵ THị Hải (2016), Khảo sát vết
thương do dụng cụ y tế sắc nhọn gây ra
cho sinh viên điều dưỡng Trường Đại học Y
dược Thái Bình thực tập tại bệnh viện Luận
văn Thạc sĩ Điều dưỡng, Trường Đại học Y
dược TP HCM.
100
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
3. Hoàng Văn Khuê (2015), Thực trạng
và một số yếu tố liên quan đến tổn thương
do vật sắc nhọn ở điều dưỡng tại bệnh viện
Đa khoa tỉnh Bắc Giang trong 6 tháng từ
tháng 9/2014 đến tháng 2/2015, Luận văn
Thạc sỹ Y tế công cộng, Trường Đại học Y
tế công cộng, Việt Nam.
4. Lương Ngoc Khuê và Phạm Đức Mục
(2012), Tài liệu đào tạo kiểm soát nhiễm
khuẩn, Ministry of Health Viet Nam, Hà Nội,
Việt Nam, 107-109.
5. Hồ Văn Luyến (2014), Tỷ lệ sang
chấn do vật sắc nhọn và kiến thức, thực
hành phòng ngừa xử lý của sinh viên khoa
y Trường Cao đẳng Y tế Kiến Giang, Luận
văn thạc sĩ Y tế công cộng, Trường Đại học
Y Dược thành phố Hồ Chí Minh.
6. Nguyễn Thị Mai Thơ và Cao Thị Phi
Nga (2012), “Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm và
kiến thức thực hành của học sinh sinh viên
Trường đại học Y khoa Vinh phòng chống
bệnh viêm gan virus B”, Tạp chí Y học thực
hành. 818+819, tr. 15-19.
7. E. A. Bolyard et al. (1998), “Guideline
for infection control in healthcare personnel,
1998. Hospital Infection Control Practices
Advisory Committee”, Infect Control Hosp
Epidemiol. 19(6), page. 407-63.
8. Catherine E. Cooke and Jennifer M.
Stephens (2017), “Clinical, economic, and
humanistic burden of needlestick injuries
in healthcare workers”, Medical devices
(Auckland, N.Z.). 10, page. 225-235.
9. Farahnaz Joukar et al. (2018),
“Needlestick Injuries among Healthcare
Workers: Why They Do Not Report their
Incidence?”, Iranian journal of nursing and
midwifery research. 23(5), page. 382-387.
10. Gawad Alwabr (2018), “Knowledge
and practice of needlestick injury preventive
measures among nurses of Sana’a city
hospitals in Yemen”, Indian Journal of
Health Sciences and Biomedical Research
(KLEU). 11.
11. Centers for Disease Control and
Prevention (2019), Stop sticks campaign,
https://www.cdc.gov/nora/councils/hcsa/
stopsticks/default.html, truy cập ngày
12/8/2019, tại trang.
12. Jurimoni Gogoi et al. (2017), “A
study on knowledge, attitude, practice and
prevalence of needle stick injuries among
health care workers in a tertiary care
hospital of Assam”, International Journal
Of Community Medicine And Public Health.
4(6), page. 2031-2035.
13. Heiko Himmelreich et al. (2013),
“The management of needlestick injuries”,
Deutsches Arzteblatt international. 110(5),
page. 61-67.
14. V. Kulkarni et al. (2013), “Awareness
of medical students in a medical college in
Mangalore, Karnataka, India concerning
infection prevention practices”, J Infect
Public Health. 6(4), page. 261-8.
15. Annette Prüss-Üstün, Elisabetta
Rapiti and Yvan Hutin (2003), Global burden
of disease from sharps injuries to health-
care workers, World Health Organization,
Geneva.
16. Asgad Suliman et al. (2016),
“Knowledge, Attitude and Practice Towards
Needle Stick Injury Among Health Care
Workers in a Tertiary Sudanese Hospital”,
South American Journal of Clinical
Research. 1.
17. World Health Organization (2004),
Practical Guidelines for Infection Control in
Health Care Facilities, Regional Office for
Western Pacific, Manila and Regional Office
for South-East Asia, New Delhi, India.
18. Xujun Zhang et al. (2017),
“Needlestick and Sharps Injuries Among
Nursing Students in Nanjing, China”,
Workplace Health & Safety. 66, page.
216507991773279.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
thuc_trang_kien_thuc_du_phong_ton_thuong_do_vat_sac_nhon_cua.pdf