Thực trạng kiến thức tự chăm sóc của người bệnh đái tháo đường típ 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện nội tiết tỉnh Yên Bái năm 2018

Theo khuyến cáo của Hội Đái tháo đường Hoa Kỳ (2017) và Hướng dẫn chế độ ăn cho người bệnh ĐTĐ của Bộ Y tế (2015), chế độ ăn uống đóng vai trò rất quan trọng và không thể thiếu trong quản lý bệnh ĐTĐ. Trong nghiên cứu này, kiến thức về chế độ ăn của người bệnh còn hạn chế. Tỷ lệ ĐTNC biết nên có bữa ăn phụ trước khi đi ngủ chỉ chiếm 24,4%; 54,6% ĐTNC biết phân loại thực phẩm theo chỉ số đường máu và 53,7% biết cần giữ đúng lịch các bữa ăn, không bỏ bữa ngay cả khi không muốn ăn. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Vũ Thị Tuyết Mai tại Bệnh viện Đa khoa Kiên Giang (2014): 70,2% người bệnh ĐTĐ týp 2 có kiến thức chưa đạt về chế độ dinh dưỡng của người bệnh; 26,7% người bệnh biết nên có thêm bữa ăn phụ và 62,6% người bệnh biết không nên bỏ bữa ăn [4]. Kiến thức về tự theo dõi đường máu của ĐTNC còn rất hạn chế. Chỉ có 22,2% biết không chỉ nhân viên y tế mới có thể kiểm tra được lượng đường máu, huyết áp của người bệnh và 26,9% biết được tần suất tự theo dõi đường máu. Qua quá trình phỏng vấn, hầu hết ĐTNC không thực hành tự theo dõi đường máu tại nhà,là do thiếu kiến thức về tự theo dõi đường máu dẫn đến người bệnh cho rằng kết quả khi tự theo dõi tại nhà không chính xác bằng đo tại các cơ sở y tế, do gánh nặng kinh tế, người bệnh không đủ để trả tiền que thử đường máu, bảo hiểm không chi trả chi phí tự theo dõi đường máu, trong khi hầu hết người bệnh có thu nhập thấp. Để khắc phục tình trạng này, nhân viên y tế cần tăng cường tư vấn, động viên, hướng dẫn để người bệnh tuân thủ thực hành tự theo dõi đường máu tại nhà.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng kiến thức tự chăm sóc của người bệnh đái tháo đường típ 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện nội tiết tỉnh Yên Bái năm 2018, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
T¹P CHÝ Y - d−îc HäC QU¢N Sù Sè 1-2020 20 THỰC TRẠNG KIẾN THỨC TỰ CHĂM SÓC CỦA NGƯỜI BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2 ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN NỘI TIẾT TỈNH YÊN BÁI NĂM 2018 Vũ Thị Hương Nhài1; Vũ Văn Thành2 TÓM TẮT Mục tiêu: mô tả thực trạng kiến thức tự chăm sóc của người bệnh đái tháo đường týp 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Nội tiết tỉnh Yên Bái năm 2018. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang. Thu thập số liệu bằng phỏng vấn trực tiếp 108 người bệnh đái tháo đường týp 2 đến khám và điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Nội tiết tỉnh Yên Bái từ tháng 01 đến 4 - 2018. Sử dụng bộ câu hỏi đánh giá kiến thức tự chăm sóc đái tháo đường được xây dựng dựa trên bộ công cụ Diabetes Self-Care Knowledge Questionnaire - DSCKQ 30 và tham khảo bản dịch sử dụng trong nghiên cứu của Nguyễn Vũ Huyền Anh tại Điện Biên năm 2016 với chỉ số hiệu lực CVI 0,83; hệ số Cronbach’s alpha 0,81. Kết quả: tỷ lệ người bệnh có kiến thức tự chăm sóc ở mức 19,4%. Điểm kiến thức trung bình 17,3 ± 3,6 trên tổng số 30 điểm. Thiếu hụt kiến thức người bệnh trong nghiên cứu chủ yếu liên quan đến chế độ ăn uống, tự theo dõi đường máu và nhận biết dấu hiệu của hạ đường máu. Người bệnh có kiến thức tốt hơn về hoạt động thể lực, tuân thủ dùng thuốc, phát hiện và tự chăm sóc phòng biến chứng. Kết luận: kiến thức tự chăm sóc của người bệnh đái tháo đường týp 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Nội tiết tỉnh Yên Bái còn hạn chế: tỷ lệ người bệnh có kiến thức về tự chăm sóc ở mức thấp 19,4%. * Từ khóa: Đái tháo đường týp 2; Kiến thức; Tự chăm sóc. ĐẶT VẤN ĐỀ Đái tháo đường (ĐTĐ) là bệnh mạn tính không lây phổ biến và gia tăng nhanh nhất trên toàn cầu trong thế kỷ 21, trong đó chủ yếu là ĐTĐ týp 2 (chiếm khoảng 90%) [8]. ĐTĐ týp 2 liên quan chặt chẽ đến lối sống của người bệnh, thường khởi phát ở người lớn tuổi, nhưng hiện đang có xu hướng trẻ hóa, ngày càng có nhiều trẻ em, thanh thiếu niên phải điều trị căn bệnh này [12]. Theo báo cáo của Liên đoàn Đái tháo đường Quốc tế (IDF) năm 2017, toàn thế giới có khoảng 425 triệu người mắc bệnh ĐTĐ, tương đương cứ 11 người trưởng thành có 1 người mắc bệnh và có tới hơn 212 triệu người (50%) mắc bệnh ĐTĐ mà không được chẩn đoán [9]. Việt Nam là một trong bốn nước ở khu vực Đông Nam Á có tỷ lệ mắc ĐTĐ cao nhất với khoảng 3,5 triệu người trưởng thành (20 - 79 tuổi) mắc bệnh, nhưng có tới 54% không được chẩn đoán, 85% chỉ phát hiện bệnh khi đã có biến chứng nguy hiểm [9]. ĐTĐ đặt ra gánh nặng lớn cho cá nhân người bệnh, gia đình và toàn xã hội. Cứ 8 giây lại thêm một người tử vong và cứ 30 giây lại có một người bị cắt cụt chi vì bệnh ĐTĐ [9]. Phần lớn các quốc gia phải chi từ 5 - 20% tổng chi tiêu y tế cho bệnh ĐTĐ [9]. 1. Trường Cao đẳng Y tế Yên Bái 2. Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định Người phản hồi (Corresponding author): Vũ Văn Thành (vuthanhdhdd@gmail.com) Ngày nhận bài: 17/12/2019; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 25/12/2019 Ngày bài báo được đăng: 8/01/2020 t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2020 21 Những thiếu hụt kiến thức tự chăm sóc dẫn đến hành vi không đúng, làm giảm hiệu quả điều trị, góp phần làm tăng xuất hiện các biến chứng, tăng chi phí điều trị, tăng tỷ lệ tàn tật và tử vong [11]. Theo báo cáo của Bệnh viện Nội tiết tỉnh Yên Bái, tính đến tháng 4 - 2018, toàn tỉnh có 1.955 người bệnh ĐTĐ týp 2 đang điều trị ngoại trú tại bệnh viện và số người bệnh mắc ĐTĐ đang tăng lên nhanh chóng [2]. Yên Bái là một tỉnh miền núi có nhiều dân tộc ít người sinh sống, tỷ lệ mắc bệnh không tương đồng với những khu vực đã nghiên cứu. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm: Mô tả thực trạng kiến thức tự chăm sóc của người bệnh ĐTĐ týp 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Nội tiết tỉnh Yên Bái năm 2018. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu. * Tiêu chuẩn lựa chọn: Người bệnh ≥ 18 tuổi, được chẩn đoán mắc bệnh ĐTĐ týp 2 trong vòng một năm tính đến thời điểm thu thập số liệu; đang điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Nội tiết tỉnh Yên Bái tối thiểu 1 tháng (đã có đủ thời gian trải nghiệm tối thiểu để đánh giá phiếu điều tra); có khả năng tiếp nhận và trả lời các câu hỏi; đồng ý tham gia nghiên cứu. * Tiêu chuẩn loại trừ: Người bệnh có các biến chứng nghiêm trọng phải vào viện điều trị nội trú. * Thời gian và địa điểm nghiên cứu: - Thời gian thu thập số liệu: từ tháng 01 đến 4 - 2018. - Địa điểm nghiên cứu: Khoa Khám bệnh, Bệnh viện Nội tiết tỉnh Yên Bái. 2. Phương pháp nghiên cứu. * Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. * Mẫu và phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu thuận tiện. Lựa chọn tất cả người bệnh được chẩn đoán mắc ĐTĐ týp 2 đang điều trị ngoại trú đến khám tại Khoa Khám bệnh, Bệnh viện Nội tiết tỉnh Yên Bái, đáp ứng tiêu chuẩn chọn mẫu, trong thời gian từ tháng 01 - 2018 đến 04 - 2018; nghiên cứu lựa chọn được 108 người đồng ý tham gia. * Phương pháp thu thập số liệu: - Công cụ thu thập số liệu: Bộ công cụ thu thập số liệu được xây dựng dựa trên bộ công cụ Diabetes Self- Care Knowledge Questionnaire (DSCKQ 30) sau khi được tác giả cho phép và tham khảo bản dịch sử dụng trong nghiên cứu của Nguyễn Vũ Huyền Anh tại Điện Biên năm 2016 [1]. Bộ công cụ được 3 chuyên gia về lĩnh vực ĐTĐ kiểm tra, chỉnh sửa, đánh giá và tính giá trị. Sau đó, điều tra thử trên 30 người bệnh đáp ứng tiêu chuẩn chọn mẫu để hiệu chỉnh lại bộ công cụ cho phù hợp. Kết quả: bộ công cụ có chỉ số hiệu lực CVI là 0,83; hệ số Cronbach’s alpha 0,81; gồm 2 phần: + Phần I: thông tin chung: bao gồm các thông tin về đặc điểm nhân khẩu học như tuổi, giới, dân tộc, trình độ học vấn, tiền sử gia đình... + Phần II: kiến thức tự chăm sóc, gồm 30 câu được chia thành 3 lĩnh vực: thay đổi lối sống (18 câu hỏi); tuân thủ thực hành tự chăm sóc (8 câu hỏi) và hậu quả T¹P CHÝ Y - d−îc HäC QU¢N Sù Sè 1-2020 22 của việc không kiểm soát được mức đường máu (4 câu hỏi). - Thang đo và cách đánh giá: Mỗi câu trả lời đúng được 1 điểm, trả lời không đúng hoặc không biết đáp án được 0 điểm. Tổng số điểm tối đa là 30 điểm. Tổng điểm được trình bày dưới dạng phần trăm (%). Kiến thức tự chăm sóc được phân thành 2 mức: + Kiến thức đạt: đạt ≥ 21 điểm trên tổng số 30 điểm (trả lời đúng ≥ 70% tổng số điểm). + Kiến thức không đạt: trả lời đúng < 70% tổng số điểm. - Các bước thu thập số liệu: + Bước 1: tập huấn cho 3 cộng tác viên là 3 giảng viên của Khoa Điều dưỡng, Trường Cao đẳng Y tế Yên Bái về mục đích, nội dung và cách thức điều tra. + Bước 2: tiến hành điều tra, đánh giá kiến thức tự chăm sóc của đối tượng nghiên cứu (ĐTNC) bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp thông qua phiếu điều tra chuẩn bị sẵn trong khi người bệnh chờ kết quả xét nghiệm với thời gian khoảng 25 - 30 phút. * Phương pháp phân tích số liệu: Số liệu được làm sạch, nhập và phân tích bằng phần mềm SPSS 18.0. Sử dụng các thuật toán phù hợp để mô tả giá trị phù hợp với từng biến số. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN 1. Đặc điểm chung của ĐTNC. Tổng số 108 ĐTNC là người mắc ĐTĐ týp 2, độ tuổi từ 19 - 86, tuổi trung bình 59,4 ± 12,2. 51,8% nằm trong nhóm tuổi ≥ 60. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Thảo gặp độ tuổi trung bình 57,1 ± 12,8 [5]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ nữ (61,1%) cao hơn nam (38,9%). Đa số ĐTNC là người dân tộc Kinh (75%), còn lại là dân tộc thiểu số. Trong đó, dân tộc Dao chiếm 11,1%, điều này hoàn toàn phù hợp với tỷ lệ các dân tộc của tỉnh Yên Bái theo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở Yên Bái năm 2009 [3]. 64,8% ĐTNC chủ yếu sống ở nông thôn. ĐTNC có trình độ trung học cơ sở chiếm tỷ lệ cao nhất (30,6%) và có tới 9,3% không biết chữ. Như vậy, người mắc bệnh ĐTĐ týp 2 có trình độ văn hóa thấp chiếm tỷ lệ cao. Nghề nghiệp chủ yếu của ĐTNC là nông dân (37,0%) và hưu trí (36,1%). 2. Thực trạng kiến thức tự chăm sóc bệnh ĐTĐ týp 2 của ĐTNC. Bảng 1: Điểm kiến thức tự chăm sóc của ĐTNC (n = 108). Điểm trung bình (X ± SD) Điểm thấp nhất (min) Điểm cao nhất (max) Tổng điểm Tổng điểm kiến thức 17,3 ± 3,6 8 25 30 Điểm kiến thức tự chăm sóc của ĐTNC dao động từ 8 - 25 điểm. Tỷ lệ người bệnh có kiến thức tự chăm sóc ở mức đạt còn thấp (19,4%). Kết quả này thấp hơn nghiên cứu của Nguyễn Vũ Huyền Anh (2016) tại Điên Biên với 37,4% có kiến thức đạt [1]. Sự khác biệt này có thể do: tỷ lệ ĐTNC không biết chữ trong nghiên cứu của chúng tôi cao (9,3%) và chủ yếu sống ở nông thôn (64,8%), cao hơn so với nghiên cứu của t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2020 23 Nguyễn Vũ Huyền Anh; do đó có thể ảnh hưởng lớn đến khả năng tiếp cận kiến thức về tự chăm sóc dành cho người bệnh ĐTĐ týp 2. Theo Adibe và CS, người bệnh có thời gian mắc bệnh càng lâu, mức độ kiến thức tự chăm sóc càng cao [6]. Trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ chọn những người bệnh ĐTĐ týp 2 mới được chẩn đoán mắc bệnh trong vòng 1 năm, còn nghiên cứu của Nguyễn Vũ Huyền Anh, tỷ lệ ĐTNC có thời gian mắc bệnh ≤ 1 năm chỉ chiếm 11,7%, chủ yếu là người đã mắc bệnh từ 1 - 5 năm (60,8%), nên có thể có kiến thức đầy đủ hơn về tự chăm sóc [1]. Mặc dù kết quả của Nguyễn Vũ Huyền Anh tại Điện Biên cao hơn của chúng tôi, nhưng nhìn chung tỷ lệ người bệnh tham gia nghiên cứu có kiến thức tự chăm sóc ở mức đạt của cả hai nghiên cứu này vẫn còn thấp. Điện Biên là một tỉnh miền núi có nhiều điểm tương đồng với tỉnh Yên Bái, nhiều dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, điều kiện tiếp cận với kiến thức chăm sóc sức khỏe còn nhiều hạn chế. Hiện tại, chúng tôi mới chỉ tìm thấy nghiên cứu của Nguyễn Vũ Huyền Anh đánh giá về kiến thức tự chăm sóc của người bệnh ĐTĐ týp 2 được công bố tại Việt Nam, nên chưa so sánh được với mức độ kiến thức ở các khu vực khác trong cả nước cũng như khu vực đồng bằng... 19.4 80.6 0 20 40 60 80 100 Mức độ kiến thức Đạt Không đạt Biểu đồ 1: Mức độ kiến thức chung về tự chăm sóc của ĐTNC. Tỷ lệ người bệnh có kiến thức tự chăm sóc đạt ở mức thấp (19,4%). Tỷ lệ người bệnh có kiến thức tự chăm sóc không đạt cao (80,6%). So với các nghiên cứu nước ngoài, có sự chênh lệch đáng kể về mức độ kiến thức với kết quả của chúng tôi. Trong nghiên cứu của Jackson, 241/303 ĐTNC trả lời đúng ≥ 70% câu hỏi (79,5%) và chỉ 20,5% có kiến thức tự chăm sóc ở mức không đạt [11]. Kết quả của chúng tôi thấp hơn nghiên cứu của Dinesh và CS với 24% người bệnh có kiến thức tốt, 59% có kiến thức trung bình và 17% có kiến thức kém [7]. Sự khác biệt này có thể do khác nhau về địa điểm, thời gian và đặc điểm nhân khẩu học của ĐTNC. T¹P CHÝ Y - d−îc HäC QU¢N Sù Sè 1-2020 24 Bảng 2: Tỷ lệ ĐTNC có kiến thức đúng về hoạt động thể lực, chế độ ăn uống, phòng biến chứng và tự theo dõi đường máu (n = 108). Nội dung n Tỷ lệ (%) Hoạt động thể lực Mức đường máu nên được theo dõi thường xuyên hơn khi tăng hoạt động thể lực 78 72,2 Hiểu biết về tần suất hoạt động thể lực 101 93,5 Hiểu biết về cường độ hoạt động thể lực 47 43,5 Chế độ ăn uống Nên có bữa ăn phụ trước khi đi ngủ 26 24,1 Phân loại thực phẩm theo chỉ số đường máu 59 54,6 Thực hiện đúng lịch các bữa ăn 58 53,7 Phòng biến chứng Cần chăm sóc cẩn thận bàn chân 90 83,3 Nên sử dụng các loại tất mềm, có độ đàn hồi tốt 77 71,3 Chăm sóc răng miệng hàng ngày là rất cần thiết 93 86,1 Tự theo dõi đường máu Không chỉ nhân viên y tế mới có thể kiểm tra được lượng đường máu và huyết áp cho người bệnh 24 22,2 Tần suất tự theo dõi đường máu 29 26,9 Theo khuyến cáo của Hội Đái tháo đường Hoa Kỳ (2017) và Hướng dẫn chế độ ăn cho người bệnh ĐTĐ của Bộ Y tế (2015), chế độ ăn uống đóng vai trò rất quan trọng và không thể thiếu trong quản lý bệnh ĐTĐ. Trong nghiên cứu này, kiến thức về chế độ ăn của người bệnh còn hạn chế. Tỷ lệ ĐTNC biết nên có bữa ăn phụ trước khi đi ngủ chỉ chiếm 24,4%; 54,6% ĐTNC biết phân loại thực phẩm theo chỉ số đường máu và 53,7% biết cần giữ đúng lịch các bữa ăn, không bỏ bữa ngay cả khi không muốn ăn. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Vũ Thị Tuyết Mai tại Bệnh viện Đa khoa Kiên Giang (2014): 70,2% người bệnh ĐTĐ týp 2 có kiến thức chưa đạt về chế độ dinh dưỡng của người bệnh; 26,7% người bệnh biết nên có thêm bữa ăn phụ và 62,6% người bệnh biết không nên bỏ bữa ăn [4]. Kiến thức về tự theo dõi đường máu của ĐTNC còn rất hạn chế. Chỉ có 22,2% biết không chỉ nhân viên y tế mới có thể kiểm tra được lượng đường máu, huyết áp của người bệnh và 26,9% biết được tần suất tự theo dõi đường máu. Qua quá trình phỏng vấn, hầu hết ĐTNC không thực hành tự theo dõi đường máu tại nhà, t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2020 25 là do thiếu kiến thức về tự theo dõi đường máu dẫn đến người bệnh cho rằng kết quả khi tự theo dõi tại nhà không chính xác bằng đo tại các cơ sở y tế, do gánh nặng kinh tế, người bệnh không đủ để trả tiền que thử đường máu, bảo hiểm không chi trả chi phí tự theo dõi đường máu, trong khi hầu hết người bệnh có thu nhập thấp. Để khắc phục tình trạng này, nhân viên y tế cần tăng cường tư vấn, động viên, hướng dẫn để người bệnh tuân thủ thực hành tự theo dõi đường máu tại nhà. Bảng 3: Tỷ lệ ĐTNC có kiến thức đúng về tuân thủ dùng thuốc (n = 108). Nội dung n Tỷ lệ (%) Việc sử dụng thuốc điều trị ĐTĐ không cần phải duy trì suốt đời 92 85,2 Cần dùng thuốc điều trị ĐTĐ ngay cả khi cảm thấy khỏe 93 86,1 Uống rượu bia trong khi đang sử dụng các loại thuốc điều trị ĐTĐ là một vấn đề nghiêm trọng 82 75,9 Chế độ ăn uống và tập thể dục không quan trọng bằng thuốc điều trị ĐTĐ 68 63,0 Cần khám sức khỏe định kỳ ngay cả khi cảm thấy khỏe 104 96,3 Phần lớn ĐTNC có kiến thức đúng về tuân thủ dùng thuốc. Qua quá trình phỏng vấn trực tiếp, tất cả người bệnh đều đã trải qua những biểu hiện run rẩy, bồn chồn, lú lẫn, vã mồ hôi, nhưng chỉ có 24,1% biết đó là dấu hiệu của hạ đường máu, tương đương kết quả nghiên cứu của Adibe là 26,9%, nhưng cao hơn kết quả của Nguyễn Vũ Huyền Anh là 17,5% [1, 6]. Như vậy, tỷ lệ ĐTNC có kiến thức đúng về hậu quả không kiểm soát mức đường máu rất thấp; do đó, nhân viên y tế cần tư vấn thường xuyên cho người bệnh những kiến thức giúp nhận biết và phát hiện sớm các biến chứng để có cách xử trí kịp thời. * Tỷ lệ ĐTNC có kiến thức đúng về hậu quả của không kiểm soát mức đường máu: Các biểu hiện của biến chứng thần kinh chỉ xuất hiện ở bàn chân: 53 người (49,1%); các dấu hiệu của hạ đường máu: 26 người (24,1%); mức đường máu cao có thể gây ra các biến chứng về mắt: 100 người (92,6%); mức đường máu cao có thể gây ra các biến chứng về tim mạch và thận: 92 người (85,2%). KẾT LUẬN Kiến thức tự chăm sóc của người bệnh ĐTĐ týp 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Nội tiết tỉnh Yên Bái năm 2018 còn hạn chế: 19,4% người bệnh có kiến thức về tự chăm sóc ở mức đạt. Điểm kiến thức trung bình 17,3 ± 3,6 trên tổng số 30 điểm, thấp nhất 8 điểm, cao nhất 25 điểm. Các thiếu hụt kiến thức của người bệnh trong nghiên cứu chủ yếu liên quan đến chế độ ăn uống, tự theo dõi đường máu và nhận biết dấu hiệu của hạ đường máu (24,1%). T¹P CHÝ Y - d−îc HäC QU¢N Sù Sè 1-2020 26 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Vũ Huyền Anh. Đánh giá kiến thức tự chăm sóc của người bệnh đái tháo đường týp 2 tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Điện Biên. Luận văn Thạc sỹ Điều dưỡng. Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định. 2016. 2. Bệnh viện Nội tiết tỉnh Yên Bái. Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ 6 tháng đầu năm 2017. Yên Bái, tháng 10 - 2017. 2017. 3. Cổng thông tin điện tử tỉnh Yên Bái. Các dân tộc Yên Bái, tại trang web Yen-Bai.aspx?l=CacdantocYenBai, truy cập ngày 28/5/2018. 2016. 4. Vũ Thị Tuyết Mai, Jane Dimmitt Champion, Trần Thiện Trung. Kiến thức, thái độ và thực hành về chế độ ăn của người bệnh đái tháo đường týp 2. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh. 2014, 18 (5), tr.136-141. 5. Nguyễn Thị Thu Thảo, Nguyễn Thanh Minh. Đánh giá ảnh hưởng truyền thông giáo dục về kiến thức, thái độ thực hành và các chỉ số kiểm soát trên người bệnh đái tháo đường týp 2. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh. 2009, 13 (6), tr.71-78. 6. Adibe M, Aguwa C, Ukwe C et al. Diabetes self-care knowledge among type 2 diabetic outpatients in south-eastern Nigeria. J Drug Dev Res. 2009, 1 (1), pp.85-104. 7. Dinesh P.V, Kulkarni A.G, Gangadhar N.K. Knowledge and self-care practices regarding diabetes among patients with type 2 diabetes in rural Sullia, Karnataka: A community-based, cross-sectional study. Journal of Family Medicine and Primary Care. 2016, 5 (4), pp.847. 8. International Diabetes Federation. IDF diabetes atlas seventh edition. 1st ed. Karakas Print. Brussels. 2015, 350, pp.362-367. 9. International Diabetes Federation. IDF diabetes atlas eighth edition. 1st ed. Brussels, Belgium. 2017, pp.9-48. 10. Jackson I.L, Adibe M.O, Okonta M.J et al. Knowledge of self-care among type 2 diabetes patients in two states of Nigeria. Pharmacy Practice. 2014, 12 (3), pp.404. 11. Pereira D.A, Costa N.M, Sousa A.L et al. The effect of educational intervention on the disease knowledge of diabetes mellitus patients. Revista Latino-Americana de Enfermagem. 2012, 20, pp.478-485. 12. World Health Organization. Global action plan for the prevention and control of noncommunicable diseases 2013 - 2020. 1st ed. WHO Press. Switzerland. 2013.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthuc_trang_kien_thuc_tu_cham_soc_cua_nguoi_benh_dai_thao_duo.pdf
Tài liệu liên quan