Việc chăm sóc và điều trị bệnh NKHHCT
bắt đầu bằng việc nhận biết các dấu hiệu
bệnh của trẻ. Việc nhận biết các dấu hiệu
sớm của bệnh có thể làm giảm tỷ lệ tử vong
ở trẻ mắc NKHHCT. Trong nghiên cứu của
chúng tôi có 49,3% bà mẹ nhân biết đúng
dấu hiệu sớm của bệnh như ho, sốt, chảy
nước mũi. Kết quả này tương đồng với
nghiên cứu của Đỗ Thị Hoà (49,4%) [6].
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Sơn
năm 2013, tỷ lệ bà mẹ nhận biết được dấu
hiệu sốt là 93,3%, ho là 84,4% [10], nghiên
cứu của Chu Thị Thuỳ Linh cũng cho thấy
dấu hiệu ho và sốt được các bà mẹ biết đến
khá cao [9] . Việc nhận biết đúng các dấu
hiệu sớm của bệnh giúp bà mẹ có những
biện pháp can thiệp giúp trẻ không bị bệnh
tiến triển nặng hơn, trong đó tăng cường
dinh dưỡng là biện pháp hiệu quả và quan
trọng nhất trong việc hồi phục sức khoẻ cho
trẻ cũng như tránh được nguy cơ suy dinh
dưỡng nếu trẻ mắc nặng hơn. Do đó can
thiệp dinh dưỡng có ý nghĩa thiết thực trong
cả phòng suy dinh dưỡng và phòng bệnh
tiến triển cho trẻ.
Khi trẻ mắc bệnh, dinh dưỡng đóng vai
trò quan trọng giúp trẻ nâng cao thể trạng,
tăng cường sức đề kháng và sớm hồi phục.
Trong nghiên cứu có tới 88% bà mẹ cho
rằng khi trẻ mắc bệnh trẻ cần được tiếp tục
bú mẹ tuy nhiên chỉ có 78,7% bà mẹ cho
bú và thực hành về số lần cần cho trẻ bú
cũng như thời gian bú 1 lần đúng lần lượt
là 34,7% và 32,0%. Chỉ có 18,7% bà mẹ
biết khi trẻ ốm trẻ cần bú nhiều hơn bình
thường. Kết quả này tương tự như kết
quả trong nghiên cứu của Đỗ Trần Hùng
với kiến thức chăm sóc trẻ viêm phổi của
các bà mẹ cho trẻ ăn và bú nhiều hơn là
18% [8]. Điều này có thể giải thích là do đối
tượng nghiên cứu của chúng tôi có trình độ
học vấn tương tự như trong nghiên cứu của
Đỗ Trần Hùng, mà nghiên cứu cũng chỉ ra
rằng kiến thức của bà mẹ có mối liên quan
với trình độ học vấn.
Có mối liên quan giữa kiến thức của bà
mẹ với trình độ học vấn và số con của bà
mẹ. Những bà mẹ có trình độ học vấn từ
trung học phổ thông trở lên có điểm kiến
thức cao hơn các bà mẹ có trình độ học
vấn từ tiểu học trở xuống, bà mẹ có 2 con
trở lên có điểm kiến thức cao hơn so với bà
mẹ chỉ có 1 con. Điều này có thể giải thích
là do bà mẹ có từ 2 con trở lên có nhiều
kinh nghiệm chăm sóc con hơn do đó họ có
nhiều kiến thức đúng hơn.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng kiến thức và một số yếu tố liên quan đến chăm sóc dinh dưỡng của bà mẹ có con 6-24 tháng điều trị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính tại bệnh viện nhi tỉnh Nam Định năm 2020, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
73
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN
CHĂM SÓC DINH DƯỠNG CỦA BÀ MẸ CÓ CON 6-24 THÁNG ĐIỀU TRỊ
NHIỄM KHUẨN HÔ HẤP CẤP TÍNH TẠI BỆNH VIỆN NHI TỈNH NAM ĐỊNH NĂM 2020
Nguyễn Thị Lý1b, Trần Văn Long1, Đinh Thị Thu Huyền1,
Hoàng Thị Thu Hà1, Đỗ Thị Hoà1
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
Người chịu trách nhiệm: Nguyễn Thị Lý
Email: nguyenlydd@gmail.com
Ngày phản biện: 03/6/2020
Ngày duyệt bài: 15/6/2020
Ngày xuất bản: 29/6/2020
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả thực trạng chăm sóc
dinh dưỡng và xác định các yếu tố liên quan
đến chăm sóc dinh dưỡng của bà mẹ có
con 6-24 tháng điều trị nhiễm khuẩn hô hấp
cấp tính tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu gồm 75 bà mẹ có
con từ 6-24 tháng tuổi điều trị nhiễm khuẩn
hô hấp cấp tính tại bệnh viện Nhi tỉnh Nam
Định. Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 75
bà mẹ. Kết quả: Điểm trung bình kiến thức
nuôi con bằng sữa mẹ cho trẻ 6-24 tháng
là 0,5 ± 0,7, điểm trung bình kiến thức cho
trẻ 6-24 tháng ăn bổ sung là 6,5 ± 1,8, điểm
trung bình kiến thức nuôi con bằng sữa mẹ
cho trẻ nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính là 1,1
± 0,5, điểm trung bình kiến thức cho trẻ
nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ăn bổ sung là
0,4 ± 0,6, điểm trung bình kiến thức của bà
mẹ về bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính là
3,5 ± 1,1, điểm trung bình chung kiến thức
của bà mẹ là 13,0 ± 4,7. Vẫn còn 42,7%
bà mẹ có kiến thức chưa đạt. Có mối liên
quan giữa kiến thức của bà mẹ với trình độ
học vấn và số con của bà mẹ. Nghiên cứu
bước đầu cho thấy kiến thức chăm sóc dinh
dưỡng của bà mẹ chưa tốt, cần có những
can thiệp giáo dục sức khoẻ cải thiện kiến
thức chăm sóc dinh dưỡng cho bà mẹ để
trẻ được chăm sóc tốt hơn, nhất là khi trẻ
bị bệnh. Kết luận: Kiến thức chăm sóc
dinh dưỡng của bà mẹ có con 6-24 tháng
tương đối thấp. Các yếu tố như trình độ học
vấn,số con của bà mẹ có ảnh hưởng đến
kiến thức của bà mẹ.
Từ khóa: Dinh dưỡng, nhiễm khuẩn hô
hấp cấp tính.
FACTORS RELATED TO NUTRITIONAL KNOWLEDGE AMONG MOTHERS
OF 6-24 MONTH BABIES WITH ACUTE RESPIRATORY
AT NAM DINH CHILDREN’S HOSPITAL IN 2020
ABSTRACT
Objective: To describe the real situation
of nutritional caring and to identify factors
related to nutritional caring of women who
have 6-24 months children treated acute
respiratory infections (ARI) at Children’s
Hospital in Nam Dinh. Method: The study
subjects include 75 women who have
children aged 6-24 months of treatment
for ARIs at Nam Dinh Children’s Hospital.
A descriptive study is conducted on 75
women. Results: The research showed
that the average score of breastfeeding
knowledge for children 6-24 months is 0,5
± 0,7, this score for children 6-24 months
with complementary feeding is 6,5 ±
74
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
1,8, the medium score of breastfeeding
knowledge for children with ARIs is 1,1 ±
0,5, this score for children with ARIs with
complementary feeding is 0,4 ± 0,6, the
average of women knowledge about ARIs
is 3,5 ± 1,1, the average of the general
knowledge of women is 13,0 ± 4,7. There
are still 42,7% of mothers who have not
enough knowledge. There is a correlation
between mother’s knowledge and
education and the number of children in the
mother.The research reveals that women’s
nutritional knowledge is not good, therefore
requires health education interventions to
improve nutritional caring knowledge for
women, especially when the children are
ill. Conclusion: nutritional knowledge of
women who have children 6-24 months
is relatively low. Factors such as mother’s
education and number of children influence
on their knowledge.
Keywords: Nutrition, acute respiratory
infections.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT)
là một bệnh phổ biến ở trẻ em, chiếm vị
trí hàng đầu về tỷ lệ mắc bệnh và tử vong
trên thế giới [15]. Tại Việt Nam mỗi năm
có khoảng 20 đến 30 nghìn trẻ chết vì
NKHHCT, chủ yếu là do bệnh viêm phổi
[13]. Đối với trẻ NKHHCT việc hướng dẫn
cho bà mẹ cách chăm sóc trẻ rất quan trọng
đặc biệt là chăm sóc dinh dưỡng. Theo tác
giả Lê Văn An: có mối liên quan giữa nhiễm
khuẩn hô hấp cấp tính và suy dinh dưỡng:
Suy dinh dưỡng làm cho tình trạng nhiễm
khuẩn nặng hơn, dễ gây tử vong hơn và
ngược lại khi trẻ bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp
tính dễ bị suy dinh dưỡng hơn [1]. Việc nuôi
dưỡng trẻ trong giai đoạn trẻ bệnh sẽ giúp
trẻ chóng khỏi bệnh, giảm mức độ nặng
của bệnh và trẻ phục hồi nhanh hơn, phòng
nguy cơ trẻ bị suy dinh dưỡng. Góp phần
giảm các chi phí cho gia đình và ngành y tế.
Đặc biệt là trẻ trong giai đoạn 6 – 24 tháng
vì giai đoạn này trẻ bị suy dinh dưỡng cao
nhất [1] và cũng giai đoạn này có tỷ lệ mắc
NKHHCT cao nhất [7], [14].
Kiến thức về dinh dưỡng của bà mẹ
đóng vai trò quan trọng trong việc phòng
bệnh cũng như chóng khỏi bệnh, giảm mức
độ nặng của bệnh và trẻ phục hồi nhanh
hơn [11]. Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho
thấy kiến thức của bà mẹ về dinh dưỡng
cho trẻ NKHHCT còn thấp [2], [5].
Để có số liệu phục vụ cho công tác chăm
sóc bệnh nhi và có đề xuất phù hợp với công
tác tư vấn GDSK, đề tài: “Thực trạng kiến
thức của bà mẹ về chăm sóc dinh dưỡng
cho trẻ 6-24 tháng mắc NKHHCT điều trị
tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2020”
được tiến hành với mục tiêu: Mô tả thực
trạng chăm sóc dinh dưỡng và xác định các
yếu tố liên quan đến chăm sóc dinh dưỡng
của bà mẹ có con 6-24 tháng điều trị tại
Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các bà mẹ có con từ 6-24 tháng
đang điều trị tại bệnh viện Nhi tỉnh Nam
Định.
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: khoa hô hấp,
bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định
- Thời gian thu thập số liệu: Từ tháng
12/2019 đến tháng 3/2020
2.3. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.4. Mẫu và phương pháp chọn mẫu
Sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận
tiện nhóm nghiên cứu đã chọn ra 75 bà mẹ
đủ tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu.
2.5. Xử lý số liệu: Sử dụng phần mềm
SPSS 16.0
2.6. Bộ công cụ đánh giá
Công cụ thu thập số liệu được xây dựng
dựa trên tài liệu: Nuôi dưỡng trẻ nhỏ - dành
75
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
cho đối tượng cán bộ y tế công tác trong
lĩnh vực chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em
tại các tuyến [11], tài liệu hướng dẫn xử trí
lồng ghép chăm sóc trẻ bệnh của Bộ Y tế
năm 2019 [3], gồm 2 phần:
Phần A: Thông tin chung về đối tượng
nghiên cứu: gồm 12 câu hỏi được đánh số
từ A1 đến A12.
Phần B: Đánh giá kiến thức của bà mẹ về
chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ NKHHCT gồm
14 câu hỏi lựa chọn, được đánh số từ B1
đến B14. Bao gồm 3 nội dung: kiến thức của
bà mẹ về dinh dưỡng cho trẻ 6-24 tháng từ
câu B1 đến câu B7, kiến thức của bà mẹ về
bệnh NKHHCT từ câu B8 đến câu B10, kiến
thức chăm sóc trẻ mắc NKHHCT từ câu B11
đến câu B14. Bà mẹ tham gia trả lời phỏng
vấn với mỗi ý trả lời đúng được 1 điểm, trả
lời không đúng hoặc không biết là 0 điểm.
Sau đó tính tổng điểm kiến thức của bà mẹ
đạt được và lấy điểm cut off 50% để phân
loại kiến thức của bà mẹ. Tổng số điểm 26
điểm. Bà mẹ có điểm kiến thức ≥ 50% tổng
số điểm thì được xếp vào nhóm có kiến thức
mức độ đạt và ngược lại các bà mẹ có điểm
kiến thức < 50 tổng số điểm thì được đánh
giá là kiến thức mức độ chưa đạt.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Thông tin SL TL %
Nhóm tuổi
≤ 25 26 34,7
26 – 35 41 54,7
>35 tuổi 8 10,7
Nơi cư trú
Thành thị 37 49,3
Nông thôn 38 50,7
Số con của bà mẹ
1 con 27 36,0
≥ 2 con 48 64,0
Trình độ học vấn
Tiểu học trở xuống 6 8,0
Trung học cơ sở 27 36,0
Trung học phổ thông 23 30,7
Trung cấp trở lên 19 25,3
Tổng 75 100
Từ kết quả trên cho thấy đa số các bà mẹ tham gia nghiên cứu thuộc nhóm tuổi từ 26
đến 35 tuổi (54,7%). Số bà mẹ có từ 2 con trở lên chiếm tỷ lệ cao hơn (64%) so với bà mẹ
có 1 con (36%). Phần lớn các bà mẹ có trình độ học vấn là trung học cơ sở và trung học
phổ thông.
76
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
3.2. Thực trạng kiến thức của mẹ về dinh dưỡng cho trẻ 6-24 tháng mắc NKHHCT
Bảng 3.2. Kiến thức của bà mẹ về dinh dưỡng cho trẻ 6-24 tháng
Kiến thức của bà mẹ về dinh dưỡng
cho trẻ 6-24 tháng
Trả lời của bà mẹ
(n = 75)
Trả lời đúng Trả lời sai
SL TL % SL TL %
Kiến thức nuôi
con bằng sữa mẹ
Thời gian mẹ nên cho trẻ bú 15 20,0 60 80,0
Thời điểm cai sữa cho trẻ 25 33,3 50 66,7
Kiến thức cho trẻ
ăn bổ sung
Thời điểm trẻ cần ăn bổ sung 21 28,0 54 72,0
Lí do trẻ từ 6 tháng cần ăn bổ sung 18 24,0 57 76,0
Nguyên tắc cho ăn bổ sung 31 41,3 44 58,7
Những thực phẩm cần dùng cho trẻ 5 6,7 70 93,3
Hoạt động cần tránh khi cho trẻ ăn 6 8,0 69 92,0
Bảng 3.2 cho thấy kiến thức nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ còn thấp, trong
đó kiến thức về thời gian cho trẻ bú nên kéo dài đến 24 tháng chỉ có 20% bà mẹ trả lời
đúng. Chỉ có 6,7% bà mẹ trả lời đúng hết những thực phẩm cần dùng cho trẻ và có tới
92% bà mẹ không biết những hoạt động cần tránh khi cho trẻ ăn.
3.3. Thực trạng kiến thức của mẹ về bệnh NKHHCT
Bảng 3.3. Kiến thức của bà mẹ về bệnh NKHHCT
Kiến thức của bà mẹ về NKHHCT ở trẻ
Trả lời của bà mẹ (n=75)
Trả lời đúng Trả lời sai
SL TL % SL TL %
Khái niệm NKHHCT 10 13,3 65 86,7
Yếu tố nguy cơ NKHHCT 13 17,3 62 82,7
Dấu hiệu bệnh NKHHCT 37 49,3 38 50,7
Kết quả: Kiến thức của bà mẹ về bệnh NKHHCT còn nhiều hạn chế, trong đó chỉ có
13,3% bà mẹ trả lời đúng về khái niệm bệnh, 17,3% bà mẹ biết chính xác các yếu tố nguy
cơ của bệnh.
77
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
3.4. Thực trạng kiến thức của mẹ về dinh dưỡng cho trẻ 6-24 tháng mắc NKHHCT
Bảng 3.4. Kiến thức của bà mẹ về dinh dưỡng cho trẻ 6-24 tháng mắc NKHHCT
Kiến thức của bà mẹ về dinh dưỡng
cho trẻ NKHHCT
Trả lời của bà mẹ
(n = 75)
Trả lời đúng Trả lời sai
SL TL % SL TL %
Kiến thức nuôi
con bằng sữa mẹ
Trẻ NKHHCT cần tiếp tục được bú
mẹ 66 88,0 9 12,0
Trẻ NKHHCT nên được bú nhiều
hơn bình thường 14 18,7 61 81,3
Kiến thức cho trẻ
ăn bổ sung
Thức ăn hợp lý cho trẻ NKHHCT 16 21,3 59 78,7
Dinh dưỡng sau khi khỏi bệnh 15 20,0 60 80,0
Chỉ có 18,7% bà mẹ biết khi trẻ bị bệnh trẻ cần được bú nhiều hơn bình thường và có
số ít bà mẹ (20%) trả lời đúng khi cho rằng giai đoạn hồi phục trẻ cần được ăn đa dạng,
thức ăn mềm và giàu dinh dưỡng.
3. 5. Điểm kiến thức của bà mẹ về dinh dưỡng cho trẻ mắc NKHHCT
Bảng 3.5. Điểm kiến thức của bà mẹ về dinh dưỡng cho trẻ mắc NKHHCT
Thông số
Kiến thức
Min Max Median Mode
Nuôi con bằng sữa mẹ cho trẻ 6-24 tháng 0 2 0 0
Ăn bổ sung cho trẻ 6-24 tháng 2 10 7 7
Nuôi con bằng sữa mẹ cho trẻ NKHHCT 0 2 1 1
Ăn bổ sung cho trẻ NKHHCT 0 2 0 0
Bệnh NKHHCT 2 6 3 3
Điểm trung bình ± Độ lệch chuẩn 13,0 ± 4,7
Kết quả bảng 3.5 cho thấy điểm trung bình kiến thức của bà mẹ về dinh dưỡng cho trẻ
mắc NKHHCT tương đối thấp với điểm trung bình kiến thức đạt được là 13,0 ± 4,7. Trong
đó, điểm trung bình kiến thức về ăn bổ sung cho trẻ 6-24 tháng và trẻ NKHHCT là thấp nhất.
3.6. Mối liên quan giữa kiến thức và trình độ văn hoá của bà mẹ
Bảng 3.6. Mối liên quan giữa kiến thức và trình độ văn hoá của bà mẹ
Biến Mean ± std F p
Trình độ học vấn 2,73 ± 0,94
4,69 0,034
Điểm kiến thức 12 ± 3,3
78
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
Trình
độ học
vấn (I)
Trình độ học
vấn (J)
Khác biệt
giá trị
trung bình
(I-J)
p
Tiểu
học trở
xuống
Trung học cơ
sở -2,148 0,4
Trung học
Phổ Thông
-3,913* 0,04
Trung cấp trở
lên -4,053
* 0,03
Trung
học cơ
sở
Trung học
Phổ thông
-1,765 0,8
Trung cấp trở
lên -1, 904 0,9
Trung
học phổ
thông
Trung cấp trở
lên -140 0,9
* ANOVA
Có sự khác biệt về kiến thức giữa các
nhóm bà mẹ có trình độ học vấn khác nhau,
trong đó bà mẹ có trình độ học vấn từ trung
học phổ thông trở lên có điểm kiến thức cao
hơn các bà mẹ có trình độ học vấn từ tiểu
học trở xuống (p <0,05).
3.7. Mối liên quan giữa kiến thức và
số con của bà mẹ
Bảng 3.7. Liên quan giữa kiến thức
và số con của bà mẹ
Điểm kiến
thức
Số con
của bà mẹ
Đạt Chưa đạt
OR p
SL TL % SL
TL
%
1 con 7 9,3 20 26,7
8,5 0,00
Từ 2 con trở
lên 36 48,0 12 16,0
* Test
Bà mẹ có từ 2 con trở lên có điểm kiến
thức cao hơn những bà mẹ chỉ có 1 con,
sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p
< 0,01.
4. BÀN LUẬN
Kiến thức của bà mẹ về dinh dưỡng cho
trẻ 6-24 tháng tuổi bao gồm kiến thức nuôi
con bằng sữa mẹ và kiến thức cho trẻ ăn
bổ sung. Kiến thức nuôi con bằng sữa mẹ
và ăn bổ sung của bà mẹ rất quan trọng
trong việc chăm sóc trẻ của bà mẹ, vấn đề
có ảnh hưởng lớn nhất và trực tiếp nhất
đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ em đặc
biệt là nhóm tuổi 6 - 24 tháng. Tuy nhiên tỷ
lệ bà mẹ biết đúng về thời gian cần cho trẻ
bú từ 18-24 tháng chỉ chiếm 20,0%, tức là
có tới 80,0% bà mẹ cai sữa quá sớm hoặc
quá muộn. Kết quả này cao hơn kết quả
của tác giả Huỳnh Văn Dũng với tỷ lệ bà
mẹ biết đúng về thời gian cho trẻ bú kéo dài
đến 2 tuổi là 12,3% [4]. Tuy nhiên tỷ lệ này
lại tương ứng so với những phát hiện trong
cuộc khảo sát của A&T tại 11 tỉnh thành
trong cả nước (18,2%) [12] và trong nghiên
cứu của MICS5 (21,8%) [16].
Việc chăm sóc và điều trị bệnh NKHHCT
bắt đầu bằng việc nhận biết các dấu hiệu
bệnh của trẻ. Việc nhận biết các dấu hiệu
sớm của bệnh có thể làm giảm tỷ lệ tử vong
ở trẻ mắc NKHHCT. Trong nghiên cứu của
chúng tôi có 49,3% bà mẹ nhân biết đúng
dấu hiệu sớm của bệnh như ho, sốt, chảy
nước mũi. Kết quả này tương đồng với
nghiên cứu của Đỗ Thị Hoà (49,4%) [6].
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Sơn
năm 2013, tỷ lệ bà mẹ nhận biết được dấu
hiệu sốt là 93,3%, ho là 84,4% [10], nghiên
cứu của Chu Thị Thuỳ Linh cũng cho thấy
dấu hiệu ho và sốt được các bà mẹ biết đến
khá cao [9] . Việc nhận biết đúng các dấu
hiệu sớm của bệnh giúp bà mẹ có những
biện pháp can thiệp giúp trẻ không bị bệnh
tiến triển nặng hơn, trong đó tăng cường
dinh dưỡng là biện pháp hiệu quả và quan
trọng nhất trong việc hồi phục sức khoẻ cho
trẻ cũng như tránh được nguy cơ suy dinh
dưỡng nếu trẻ mắc nặng hơn. Do đó can
thiệp dinh dưỡng có ý nghĩa thiết thực trong
cả phòng suy dinh dưỡng và phòng bệnh
tiến triển cho trẻ.
79
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
Khi trẻ mắc bệnh, dinh dưỡng đóng vai
trò quan trọng giúp trẻ nâng cao thể trạng,
tăng cường sức đề kháng và sớm hồi phục.
Trong nghiên cứu có tới 88% bà mẹ cho
rằng khi trẻ mắc bệnh trẻ cần được tiếp tục
bú mẹ tuy nhiên chỉ có 78,7% bà mẹ cho
bú và thực hành về số lần cần cho trẻ bú
cũng như thời gian bú 1 lần đúng lần lượt
là 34,7% và 32,0%. Chỉ có 18,7% bà mẹ
biết khi trẻ ốm trẻ cần bú nhiều hơn bình
thường. Kết quả này tương tự như kết
quả trong nghiên cứu của Đỗ Trần Hùng
với kiến thức chăm sóc trẻ viêm phổi của
các bà mẹ cho trẻ ăn và bú nhiều hơn là
18% [8]. Điều này có thể giải thích là do đối
tượng nghiên cứu của chúng tôi có trình độ
học vấn tương tự như trong nghiên cứu của
Đỗ Trần Hùng, mà nghiên cứu cũng chỉ ra
rằng kiến thức của bà mẹ có mối liên quan
với trình độ học vấn.
Có mối liên quan giữa kiến thức của bà
mẹ với trình độ học vấn và số con của bà
mẹ. Những bà mẹ có trình độ học vấn từ
trung học phổ thông trở lên có điểm kiến
thức cao hơn các bà mẹ có trình độ học
vấn từ tiểu học trở xuống, bà mẹ có 2 con
trở lên có điểm kiến thức cao hơn so với bà
mẹ chỉ có 1 con. Điều này có thể giải thích
là do bà mẹ có từ 2 con trở lên có nhiều
kinh nghiệm chăm sóc con hơn do đó họ có
nhiều kiến thức đúng hơn.
5. KẾT LUẬN
Kiến thức chăm sóc dinh dưỡng của bà
mẹ có con 6-24 tháng mắc NKHHCT tương
đối thấp. Bà mẹ có điểm trung bình về kiến
thức là 13 ± 4,7 và chỉ có 57,3% bà mẹ có
kiến thức đạt. Có mối liên quan giữa kiến
thức của bà mẹ với trình độ học vấn và số
con của bà mẹ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Văn An (2008), Chăm sóc trẻ
nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. Điều dưỡng
Nhi khoa, NXB Y học, Hà Nội, 166-174.
2. Thái Lan Anh (2015), Thực trạng về
chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ nhiễm khuẩn hô
hấp cấp tính của các bà mẹ có con dưới
5 tuổi tại xã Nghĩa Đoan - Kiến Thụy - Hải
Phòng, Tạp chí Dinh dưỡng và thực phẩm.
11, tr. 45-52.
3. Bộ Y tế (2019). Hướng dẫn xử trí lồng
ghép chăm sóc trẻ bệnh, Nhà xuất bản y
học, Hà Nội.
4. Huỳnh Văn Dũng (2019). Hiệu quả
của truyền thông giáo dục dinh dưỡng sử
dụng thực phẩm giàu vi chất sẵn có từ địa
phương đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ
6-23 tháng tuổi tại một huyện trung du phía
bắc,Luận án tiến sĩ dinh dưỡng, Viện dinh
dưỡng Quốc gia.
5. Nguyễn Thị Minh Hiếu (2012). Đánh
giá hiệu quả can thiệp cộng đồng trong thực
hành xử trí nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở
trẻ dưới 5 tuổi huyện Đan Phượng - Ba Vì _
Hà Nội, Luận án tiến sĩ y tế công cộng, Viện
vệ sinh dịch tễ Trung ương.
6. Đỗ Thị Hoà (2017). Thay đổi kiến thức
và thái độ về nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính
sau giáo dục sức khỏe của các bà mẹ có
con dưới 5 tuổi điều trị tại bệnh viện Nhi tỉnh
Nam Định, Luận văn thạc sĩ điều dưỡng,
ĐH Điều dưỡng Nam Định.
7. Thanh Minh Hùng (2016), Đặc điểm
NKHHCT ở trẻ em dưới 5 tuổi điều trị tại
khoa Nhi bệnh viện đa khoa khu vực Ngọc
Hồi, Đề tài cấp tỉnh, UBND tỉnh KonTum.
8. Trần Đỗ Hùng (2013). Khảo sát kiến
thức về chăm sóc của bà mẹ có con bị viêm
phổi tại bệnh viện Nhi đồng Cần Thơ, Y học
thực hành. 872(6), tr. 16-21.
9. Chu Thị Thuỳ Linh (2016). Kiến thức,
thái độ và thực hành chăm sóc trẻ Nhiễm
khuẩn hô hấp cấp tính dưới 5 tuổi của các
bà mẹ tại bệnh viện đa khoa trung ương
Thái Nguyên năm 2016, Luận văn thạc sĩ
điều dưỡng, ĐH Điều dưỡng Nam Định.
10. Nguyễn Thị Kim Sơn (2013). Tìm
hiểu kiến thức và thái độ xử trí chăm sóc
của bà mẹ về nhiễm khuẩn hô hấp cấp
tính ở trẻ 5 tuổi tại khoa nhi hô hấp bệnh
80
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG BÌNH HÍT ĐỊNH LIỀU
CỦA NGƯỜI BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH NAM ĐỊNH NĂM 2020
Đinh Thị Thu Huyền1, Đỗ Thị Hòa1, Hoàng Thị Thu Hà1,
Phạm Thị Hoàng Yến1, Nguyễn Thị Lý1
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
viện trung ương Huế, Luận văn thạc sĩ điều
dưỡng, ĐH Y dược Huế.
11. Trương Thị Tân (2015). Nuôi dưỡng
trẻ nhỏ - Tài liệu dùng cho Cán bộ Y tế công
tác trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe bà
mẹ trẻ em tại các tuyến, Bộ Y tế, Hà Nội.
12. Alive & Thrive (2012). Báo cáo điều
tra ban đầu: báo cáo toàn văn điều tra 11
tỉnh năm 2012.
13. Đàm Thị Tuyết (2010). Một số đặc
điểm về dịch tễ và hiệu quả can thiệp đối
với nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ em
huyện Chợ Mới - Bắc Kạn, Luận án tiến sĩ y
học, ĐH Thái Nguyên.
14. Gebretsadik A. et al (2015). Factors
associated with acute respiratory infection in
children under the age of 5 years: evidence
from the 2011 Ethiopia demographic and
health survey, Neuropsychiatr Dis Treat. 11,
pp. 2159-2175.
15. Regamey N et al (2008). Viral Etiology
of Acute Respiratory Infections With Cough
in Infancy: A Community-Based Birth Cohort
Study. Pediatric Infectious Disease Journal.
27(2), pp. 100-105.
16. UNICEF (2014), MICS 5 Việt Nam -
Key Finding.
Người chịu trách nhiệm: Đinh Thị Thu Huyền
Email: dinhhuyendd@gmai.com
Ngày phản biện: 09/6/2020
Ngày duyệt bài: 15/6/2020
Ngày xuất bản: 29/6/2020
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả thực trạng sử dụng bình
hít định liều của người bệnh phổi tắc nghẽn
mạn tính điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa
khoa tỉnh Nam Định năm 2020. Đối tượng
và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt
ngang trên 60 người bệnh phổi tắc nghẽn
mạn tính đang điều trị ngoại trú tại Bệnh
viện Đa khoa tỉnh Nam Định về việc sử
dụng bình hít định liều từ tháng 1/2020 đến
5/2020. Sử dụng phương pháp phỏng vấn
bằng bảng câu hỏi để thu thập thông tin
cá nhân, quan sát và đánh giá thực hành
bình hít định liều của người bệnh bằng
bảng kiểm quy trình sử dụng bình hít định
liều. Kết quả: Người bệnh sử dụng bình hít
định liều mức độ không đạt chiếm 86,7%,
chỉ có 13,3% người bệnh sử dụng bình hít
mức độ đạt. Trong đó, bước 3: thở ra chậm
thật hết có 60% người bệnh thực hiện
đúng, bước 6: nín thở trong vòng 10 giây,
sau đó thở ra qua miệng hoặc mũi chỉ có
15% người bệnh thực hiện đúng, bước 9:
lưu ý súc miệng sau khi hít thuốc có 51,7%
người bệnh thực hiện đúng. Kết luận: Đa
số người bệnh sử dụng bình hít định liều ở
mức độ không đạt.
Từ khoá: Bình hít định liều, bệnh phổi
tắc nghẽn mạn tính.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
thuc_trang_kien_thuc_va_mot_so_yeu_to_lien_quan_den_cham_soc.pdf