Khi trẻ đến thời điểm ăn bổ sung, bà mẹ
cần biết lựa chọn loại thức ăn phù hợp với
đặc điểm phát triển của trẻ ở mỗi giai đoạn,
điều này có ý nghĩa quan trọng giúp trẻ có
thể hấp thu được một cách tốt nhất các
chất dinh dưỡng. Các trẻ trên 9 tháng tuổi
đã có sự phát triển về vận động và ngôn
ngữ nhiều hơn nên nhu cầu dinh dưỡng
đòi hỏi cao hơn. Hơn nữa, trẻ đã có mọc
răng và có thể ăn được một vài thức ăn
lơn cợn khác ngoài bột để tập nhai, giúp
không biếng ăn về sau. Đây là thời điểm
có thể tập cho trẻ ăn cháo. Thời điểm ăn
cháo của trẻ cũng đóng một vai trò không
nhỏ đối với tình trạng dinh dưỡng. Nếu ăn
cháo quá sớm cũng có thể chậm lên cân
do đậm độ năng lượng thấp hơn trong bột.
Đối với trẻ ở lứa tuổi từ 18 tháng tuổi trở
lên là thời điểm thích hợp cho trẻ ăn cơm
là khi trẻ đã có răng hàm và có khả năng
nhai cơm. Nếu ăn cơm quá sớm sẽ gây cho
trẻ bị rối loạn tiêu hóa, kém hấp thu, biếng
ăn dẫn đến suy dinh dưỡng vì hệ tiêu hóa
của trẻ chưa hoàn thiện. Còn nếu ăn cơm
trễ trẻ sẽ bị thiếu chất và suy dinh dưỡng.
Kết quả nghiên cứu đã cho thấy kiến thức
của bà mẹ chưa tốt: 64.8% bà mẹ biết đúng
thời điểm cho trẻ ăn cháo là > 9 tháng - <
18 tháng và 20.4% bà mẹ biết đúng về thời
điểm cho trẻ ăn cơm là từ 18 – 24 tháng
và 79.6% bà mẹ cho trẻ ăn cơm sớm. Kết
quả này tương đồng với nghiên cứu của
Nguyễn Thị Thu Hậu và cộng sự (2010), tỷ
lệ bà mẹ biết đúng về thời điểm cho trẻ ăn
cơm theo khuyến nghị là 19.4% [6].
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 15 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng kiến thức về chế độ ăn bổ sung của các bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều trị tại bệnh viện nhi tỉnh Nam Định năm 2019, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
76
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC VỀ CHẾ ĐỘ ĂN BỔ SUNG CỦA CÁC BÀ MẸ CÓ CON
TỪ 6 ĐẾN 24 THÁNG TUỔI ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN NHI TỈNH NAM ĐỊNH NĂM 2019
Nguyễn Thị Thanh Huyền1, Trần Thị Thanh Mai1,
Vũ Thị Minh Phượng1, Nguyễn Thị Khánh1,Phạm Thị Hoàng Yến1
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định;
Người chịu trách nhiệm: Nguyễn Thị Thanh Huyền
Email: huyennguyenthanh86@yahoo.com.vn
Ngày phản biện: 24/02/2020
Ngày duyệt bài: 02/3/2020
Ngày xuất bản: 16/3/2020
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả kiến thức về chế độ ăn
bổ sung của các bà mẹ có con từ 6 đến 24
tháng tuổi điều trị tại bệnh viện Nhi tỉnh Nam
Định năm 2019. Đối tượng và phương
pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt
ngang thực hiện từ tháng 11/2018 - 11/2019
trên tất cả các bà mẹ (54 bà mẹ) có con từ
6 đến 24 tháng tuổi điều trị tại bệnh viện Nhi
tỉnh Nam Định. Các đối tượng được phỏng
vấn trực tiếp bằng phiếu khảo sát thiết kế
sẵn về các nội dung liên quan đến kiến thức
về chế độ ăn bổ sung cho trẻ. Kết quả: Tỷ
lệ bà mẹ có kiến thức đúng về thời điểm
cho trẻ ăn bổ sung hợp lý theo khuyến cáo
của WHO là 33.3%. Tỷ lệ bà mẹ biết hậu
quả ăn bổ sung sớm là trẻ giảm bú mẹ là
11.1%.Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về
thời điểm cho trẻ ăn cơm là 20.4%. Tỷ lệ
bà mẹ có kiến thức đúng về cách lựa chọn
thực phẩm cho trẻ ăn bổ sung là 35.2%.
Kết luận: Thực trạng kiến thức về chế độ
ăn bổ sung của các bà mẹ có con từ 6 đến
24 tháng tuổi là chưa tốt.
Từ khóa: kiến thức, ăn bổ sung, bệnh
viện Nhi Tỉnh Nam Định.
CURRENT SITUATION OF KNOWLEDGE OF COMPLEMENTARY DIETS OF
MOTHERS WITH CHILDREN FROM 6 TO 24 MONTHS OF AGE TREATED
AT NAM DINH PEDIATRIC HOSPITAL IN 2019
ABSTRACT
Objective: To describe knowledge
about complementary diets of mothers
with children from 6 to 24 months of age
treated at Nam Dinh Pediatric Hospital in
2019. Method: cross-sectional descriptive
studies Currently, from November 2018 to
November 2019, all mothers (54 mothers)
with children from 6 to 24 months of age
treated at Nam Dinh Paediatric Hospital.
Participants were interviewed directly by
means of pre-designed questionnaires with
related knowledge about complementary
diets for children. Results: 33.3% of mothers
have the right knowledge about the time for
children to have supplementfollowing WHO
recommendations. 11.1%of mothers knew
the consequence of early complementary
feeding which lead to decrease in children’s
breast-feeding. The proportion of mothers
who had correct knowledge about the time of
feeding children was 20.4%. The proportion
of mothers who had a good knowledge of
choosing foods for complementary feeding
was 35.2%. Conclusion: The curent
situation of the mothers’ knowledge about
complementary diets for children from 6 to
24 months of age is not good.
Keywords: knowledge, complementary
feeding, Nam Dinh Paediatric Hospital
77
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trẻ “ăn ngoan ngủ tốt” là những yếu tố
căn bản giúp trẻ hoàn thiện sự phát triển
cả về mặt thể chất lẫn trí não, trong đó “ăn
bổ sung” là giai đoạn rất quan trọng cho sự
phát triển của trẻ, nếu không chú ý những
khuyến cáo khoa học khi cho trẻ ăn bổ sung
cha mẹ có thể vô tình làm cho sức khỏe và
sự phát triển của trẻ bị ảnh hưởng, dẫn đến
nhiều hệ lụy khôn lường như trẻ thường
xuyên mắc bệnh vì sức đề kháng quá yếu
kém, suy dinh dưỡng dẫn đến còi cọc vì cơ
thể thiếu hụt những chất dinh dưỡng thiết
yếu. Và sự kém phát triển thể chất lẫn trí
não sẽ khiến trẻ rất khó bắt kịp tốc độ tăng
trưởng với các bạn đồng trang [1].
Tạp chí The Lancet, 2013 cho thấy: tình
trạng dinh dưỡng của trẻ nhỏ là một trong
những nguyên nhân dẫn đến 3,1 triệu/6,9
triệu trẻ dưới 5 tuổi tử vong và 165 triệu trẻ
em < 5 tuổi suy dinh dưỡng thể thấp còi.
Trên 2/3 trong số trẻ bị tử vong dưới 5 tuổi
là số trẻ < 1 tuổi và thường liên quan đến
thực hành dinh dưỡng trẻ không hợp lý [4].
Hiện nay, nhiều trẻ nhỏ được nuôi
dưỡng không đúng cách. Nhiều bà mẹ dù
bắt đầu cho trẻ bú tốt nhưng cho trẻ ăn bổ
sung sớm, hoặc chỉ cho bú vài tuần sau
đẻ, hoặc cho trẻ bú mẹ không đúng cách.
Một số trường hợp, trẻ phát triển tốt trong 6
tháng đầu được nuôi bằng sữa mẹ nhưng
lại cho trẻ ăn bổ sung quá muộn, hoặc cho
trẻ ăn bổ sung không hợp lý. Hậu quả là
trẻ bị suy dinh dưỡng, đặc biệt là suy dinh
dưỡng thấp còi làm ảnh hưởng đến sự phát
triển thể lực và trí tuệ của trẻ, một vấn đề
đang gia tăng ở nhiều nước. Nguyên nhân
chủ yếu gây suy dinh dưỡng trẻ em không
phải do thiếu thức ăn mà do thiếu kiến thức
cho trẻ bú mẹ và ăn bổ sung [7]. Nghiên
cứu này được tiến hành nhằm đánh giá
thực trạng kiến thức của bà mẹ về chế độ
ăn bổ sung nhằm đưa ra các chương trình
can thiệp dinh dưỡng góp phần giảm tỷ lệ
suy dinh dưỡng trẻ em.Vì vậy, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài “Khảo sát kiến
thức về chế độ ăn bổ sung cho các bà mẹ
có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều trị tại
bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2019” với
mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức về chế
độ ăn bổ sung cho các bà mẹ có con từ 6
đến 24 tháng tuổi điều trị tại bệnh viện Nhi
tỉnh Nam Định năm 2019.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm
nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu (ĐTNC)
- Tiêu chuẩn lựa chọn: Tất cả các bà mẹ
bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều
trị tại bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định; đồng ý
tham gia nghiên cứu.
- Tiêu chuẩn loại trừ: Các bà mẹ không
thể tiếp nhận và trả lời được các câu hỏi.
2.1.2. Thời gian và địa điểm nghiên
cứu
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng
11/2018 - tháng 11/2019 tại bệnh viện Nhi
Tỉnh Nam Định.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt
ngang
2.2.2. Mẫu và phương pháp chọn mẫu
Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu
thuận tiện
Cỡ mẫu:Thu thập từ tháng 4/2019 đến
tháng 6/2019 có 54 bà mẹ đủ tiêu chuẩn
tham gia nghiên cứu
2.2.3. Công cụ và phương pháp thu
thập thông tin
Phiếu khảo sát được xây dựng dựa trên
nghiên cứu của Đinh Đạo năm 2014 theo
tài liệu nuôi dưỡng trẻ nhỏ của Bộ Y tế [4].
Phiếu khảo sát gồm 2 phần: Phần 1:
Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu
từ câu A1 đến câu A9. Phần 2: kiến thức
của bà mẹ về chế độ ăn bổ sung từ câu B1
đến câu B32.
Sử dụng phương pháp phỏng vấn trực
tiếp để thu thập thông tin cần thiết.
78
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
2.2.4. Tiêu chí đánh giá trong nghiên cứu
- Bà mẹ tham gia trả lời phỏng vấn với
mỗi câu trả lời đúng được 1 điểm, trả lời
không đúng hoặc không biết 0 điểm. Bà mẹ
trả lời đúng ≥ 75% là kiến thức đạt loại tốt
và < 75% là kiến thức chưa tốt.
- Xác định đúng/sai dựa trên những nội
dung về chế độ ăn bổ sung ở trẻ em ở Tài
liệu nuôi dưỡng trẻ nhỏ của Bộ Y tế (2015).
2.2.5. Quản lý, xử lý và phân tích số liệu
- Số liệu sau khi được làm sạch, nhập và
phân tích trên phần mền SPSS 16.0
- Tính các giá trị phần trăm, bảng để mô
tả các số liệu theo mục tiêu nghiên cứu.
3. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm chung đối tượng
Tại thời điểm nghiên cứu có 54 bà mẹ
tham gia, trong đó có 63.0% bà mẹ thuộc
nhóm tuổi từ 18 – 30 tuổi, 18.5% bà mẹ
thuộc nhóm tuổi 31- 35 tuổi và nhóm tuổi
trên 35 tuổi là 18.5%. Đa số các bà mẹ tham
gia nghiên cứu sống ở nông thôn, chiếm tỷ
lệ là 70.4% và ở thành thị là 29.6%. Bà mẹ
trong nghiên cứu có trình độ học vấn là phổ
thông trung học chiếm tỷ lệ cao nhất 55.6%,
sau là bà mẹ có trình độ học vấn là trung
học cơ sở chiếm 22.2% và 22.2% bà mẹ
có trình độ từ trung học đến đại học. Phân
bố nghề nghiệp của các bà mẹ là tỷ lệ bà
mẹ là nông dân 5.6%, công nhân 24.1%,
viên chức 5.6% và bà mẹ làm các công việc
khác: Nội trợ, tự do, buôn bán là 64.8%.
3.2. Thực trạng kiến thức về chế độ
ăn bổ sung của bà mẹ
Bảng 3.1: Kiến thức về thời điểm cho
trẻ ăn bổ sung hợp lý nhất
Nội dung SL TL %
Trẻ tròn 4 tháng 14 25,9
Trẻ tròn 5 tháng 20 37,0
Trẻ tròn 6 tháng 18 33,3
Trẻ tròn 7 tháng 2 3,8
Tổng số 54 100
Nhận xét: Qua bảng 3.1 cho thấy: bà mẹ
có kiến thức đúng về thời điểm cho trẻ ăn
bổ sung hợp lý nhất theo khuyến cáo của
WHO là khi trẻ tròn 6 tháng chỉ có 33.3%
và bà mẹ có kiến thức chưa đúng là 66.7%.
Bảng 3.2: Kiến thức đúng về dấu hiệu
nhận biết trẻ đã sẵn sàng ăn bổ sung
Nội dung SL TL %
Trẻ thích nhìn người khác
ăn và với tay lấy thức ăn 18 33,3
Trẻ thích đưa thứ gì đó
vào miệng 29 53,7
Trẻ có thể điều chỉnh
được lưỡi tốt hơn để đưa
thức ăn di chuyển trong
miệng
10 18,5
Trẻ băt đầu nhai và dịch
chuyển hàm lên xuống 12 22,2
Nhận xét: Kết quả nghiên cứu cho thấy,
hai dấu hiệu nhận biết trẻ đã sẵn sàng ăn
bổ sung mà bà mẹ biết nhiều nhất là “ trẻ
thích đưa cái gì đó vào miệng” và “trẻ thích
nhìn người khác ăn và với tay lấy thức ăn”
chiếm tỷ lệ lần lượt là 53.7% và 33.3%.
Bảng 3.3: Kiến thức đúng về hậu quả
cho trẻ ăn bổ sung sớm
Nội dung SL TL %
Trẻ giảm bú mẹ 6 11,1
Trẻ tăng nguy cơ mắc
bệnh: tiêu chảy, suy dinh
dưỡng
19 35,2
Tăng nguy cơ mang thai
cho bà mẹ 8 14,8
Nhận xét: Với kết quả ở bảng 3.3, kiến
thức đúng về hậu quả cho trẻ ăn bổ sung
sớm vẫn còn thấp: tỷ lệ bà mẹ biết hậu quả
là trẻ giảm bú mẹ 11.1%, trẻ tăng nguy cơ
mắc bệnh là 35.2% và tăng nguy cơ mang
thai cho bà mẹ 14.8%.
79
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
Bảng 3.4: Kiến thức đúng về nguyên
tắc cho trẻ ăn bổ sung
Nội dung SL TL %
Ăn đúng độ tuổi 11 20,4
Ăn từ loãng đến đặc, ít
đến nhiều, tập quen dần
với thức ăn mới
26 48,1
Số lượng bữa ăn và thức
ăn tăng dần theo tuổi 20 37,0
Sử dụng các thức ăn có
sẵn tại địa phương và
thay đổi thức ăn hàng
ngày
30 55,6
Nhận xét: Với kết quả nghiên cứu thu
được cho thấy, kiến thức đúng của bà mẹ
về nguyên tắc cho trẻ ăn bổ sug như sau:
Ăn đúng độ tuổi là 20.4%, Ăn từ loãng đến
đặc, ít đến nhiềulà 48.1%, số lượng bữa
ăn và thức ăn tăng dần theo tuổi là 37.0%
và sử dụng thức ăn có sẵn tại địa phương
là 55.6%.
Bảng 3.5: Kiến thức đúng về các nhóm
thức ăn cơ bản cho trẻ ăn bổ sung
Nội dung SL TL %
Nhóm thức ăn cung cấp
chất bột 42 77,8
Nhóm thức ăn cung cấp
chất đạm 38 70,4
Nhóm thức ăn cung cấp
chất béo 40 74,1
Nhóm thức ăn cung cấp
Vitanmin và chất khoáng 28 51,9
Nhận xét: Kết quả nghiên cứu cho thấy,
kiến thức của bà mẹ về các nhóm thức ăn cơ
bản cho trẻ ăn bổ sung tương đối tốt cụ thể:
kiến thức đúng về nhóm thức ăn cung cấp
chất bột là 77.8%, nhóm thức ăn cung cấp
chất đạm là 70.4 %, nhóm thức ăn cung cấp
chất béo là 74.1% và nhóm thức ăn cung cấp
Vitamin và chất khoáng là 51.9%.
Bảng 3.6: Kiến thức về thời điểm bắt
đầu cho trẻ ăn cháo và ăn cơm
Nội dung SL TL %
Thời điểm cho trẻ ăn cháo
< 6 tháng 1 1,9
6 – 9 tháng 12 22,2
> 9 tháng - < 18 tháng 35 64,8
18 – 24 tháng 4 7,4
Không biết 2 3,7
Thời điểm cho trẻ ăn cơm
> 9 tháng - < 18 tháng 43 79,6
18 – 24 tháng 11 20,4
Tổng số 54 100
Nhận xét: Kiến thức đúng của bà mẹ về
thời điểm bắt đầu ăn cháo và ăn cơm lần
lượt là 64.8% và 20.4%. Bên cạnh đó, vẫn
còn không ít bà mẹ cho trẻ ăn cơm sớm
chiếm tỷ lệ là 79.6%.
Bảng 3.7: Kiến thức đúng về nguyên
tắc đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm
khi cho trẻ ăn bổ sung
Nội dung SL TL %
Giữ vệ sinh bàn tay và
dụng cụ nhà bếp 31 57,4
Bảo đảm an toàn thức
ăn và thực phẩm 30 55,6
Nấu chin thức ăn 39 72,2
Dùng nước sạch và
thực phẩm tươi 41 75,9
Nhận xét:Theo kết quả nghiên cứu thu
được ở bảng 3.7, kiến thức đúng của bà
mẹ về nguyên tắc đảm bảo an toàn vệ sinh
thực phẩm khi cho trẻ ăn bổ sung tương đối
tốt: nguyên tắc giữ vệ sinh bàn tay và dụng
cụ nhà bếp 57.4%, bảo đảm an toàn thức
ăn và thực phẩm là 55.6%, Nấu chin thức
ăn là 72.2% và dùng nước sạch và thực
phẩm sạch là 75.9%.
80
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
Bảng 3.8: Kiến thức về cách lựa chọn
thực phẩm và cách cho trẻ ăn bổ sung
Nội dung SL TL %
Cách lựa chọn thực phẩm
Theo mẹ nghĩ là tốt 28 51,9
Theo sở thích của trẻ 19 35,2
Vì mọi người nói tốt 7 13,0
Cách cho trẻ ăn bổ sung
Ép buộc trẻ ăn 20 37,0
Để trẻ tự ăn 15 27,8
Cho trẻ ăn dựa trên đáp
ứng của trẻ 19 35,2
Tổng số 54 100
Nhận xét: Kết quả nghiên cứu cho thấy,
kiến thức đúng về cách lựa chọ thực phẩm
và cách cho trẻ ăn bổ sung theo khuyến
cáo của WHO của bà mẹ lần lượt là 35.2%
và 35.2%.
Bảng 3.9: Xếp loại kiến thức về trẻ ăn
bổ sung của bà mẹ
Xếp loại kiến thức SL TL %
Tốt ( ≥75%) 0 0
Chưa tốt (< 75%) 54 100
4. BÀN LUẬN
Trong năm đầu cơ thể trẻ phát triển
nhanh, đòi hỏi nhu cầu dinh dưỡng cao.
Sữa mẹ là thức ăn tốt nhất dành cho trẻ
dưới 6 tháng tuổi, nhưng không thể thoả
mãn được nhu cầu về dinh dưỡng cho trẻ
lớn hơn. Để đáp ứng được nhu cầu về dinh
dưỡng trẻ phải có một chế độ ăn mới, chế
độ ăn bổ sung, hay còn được gọi là ăn sam,
ăn dặm, ăn thêm.
Ăn bổ sung là chế độ ăn dành cho trẻ từ
6 đến 24 tháng tuổi, ăn bổ sung các thức ăn
giàu năng lượng và chất dinh dưỡng khác
ngoài sữa mẹ dưới dạng mềm hoặc đặc.
Theo khuyến cáo của WHO, thời điểm bắt
đầu cho ăn bổ sung hợp lý nhất là khi trẻ 6
tháng tuổi (180 ngày) để giúp trẻ phát triển
tốt. Vì vậy khi trẻ được 5 tháng tuổi nên tư
vấn cho bà mẹ biết cách chọn thức ăn và
cách cho trẻ ăn bữa ăn bổ sung đầu tiên,
giúp bà mẹ có đủ kiến thức và kỹ năng cho
trẻ ăn bổ sung khi trẻ tròn 6 tháng tuổi. Kết
quả nghiên cứu ở bảng 3.1 cho thấy, tỷ lệ
bà mẹ có kiến thức đúng về thời điểm cho
trẻ ăn bổ sung hợp lý theo khuyến cáo của
WHO không cao, chiếm tỷ lệ là 33.3%. Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng
với nghiên cứu Đinh Đạo (2014), tỷ lệ bà
mẹ có kiến thức đúng về thời điểm cho trẻ
ăn bổ sung là 33.2% [5], nghiên cứu của
Trần Thị Quỳnh Anh (2017), chiếm tỷ lệ
30.5% [3] và nghiên cứu của Rajesh Kumar
Sethi et al (2017), là 30.9% [9].
Với kết quả nghiên cứu thu được ở bảng
3.2, kiến thức đúng của bà mẹ về những
dấu hiệu nhận biết trẻ sẵn sàng ăn bổ sung
chưa cao như chỉ có 22.2% bà mẹ biết đến
dấu hiệu “trẻ bắt đầu nhai và dịch chuyển
hàm lên xuống” và 18.5% bà mẹ biết dấu
hiệu “trẻ có thể điều chỉnh lưỡi tốt hơn để
đưa thức ăn di chuyển trong miệng”. Điều
này có thể lý giải có lẽ do khi bắt đầu cho
trẻ ăn bổ sung bà mẹ chỉ chú ý nhiều về độ
tuổi của trẻ hoặc theo kinh nghiệm của bản
thân.
Theo khuyến cáo của WHO, khi bà mẹ
cho trẻ ăn bổ sung sớm sẽ gây ra nhiều
hậu quả ảnh hưởng đến sự phát triển của
trẻ như trẻ giảm bú mẹ, trẻ có nguy cơ bị
mắc các bệnh nhiễm khuẩn hay gặp như
tiêu chảy, viêm đường hô hấp. Ngoài ra,
trẻ ăn bổ sung sớm sẽ làm tăng nguy cơ
mang thai cho bà mẹ. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, kiến thức của bà mẹ về vấn đề
81
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
này chưa tốt, cụ thể chỉ có 11.1% bà mẹ
biết hậu quả của ăn bổ sung sớm là giảm
bú mẹ, 35.2% bà mẹ biết hậu quả là trẻ
tăng nguy cơ mắc bệnh, và 14.8% bà mẹ
biết hậu quả tăng nguy cơ mang thai cho
mẹ.
Ngoài vấn đề kiến thức đúng về thời
điểm và các dấu hiệu nhận biết trẻ đã sẵn
sàng ăn bổ sung thì một vấn đề quan trọng
là bà mẹ cần biết được nguyên tắc cho trẻ
ăn bổ sung thế nào cho đúng, cho hiệu quả
để trẻ có một chế độ dinh dưỡng đầy đủ
đáp ứng được nhu cầu phát triển của trẻ.
Kết quả ở bảng 3.4 cho thấy, kiến thức của
bà mẹ về các nguyên tắc này chưa đầy đủ,
hai nguyên tắc bà mẹ biết nhiều là ăn từ
loãng đến đặc, ít đến nhiềuvà nguyên tắc
sử dụng các thức ăn có sẵn tại địa phương
và thay đổi thức ăn hàng ngày chiếm tỷ lệ
là 48.1% và 55.6%, hai nguyên tắc bà mẹ
biết ít hơn là ăn đúng độ tuổi và nguyên tắc
số lượng bữa ăn và thức ăn tăng dần theo
tuổi lần lượt là 20.4% và 37.0%. Điều này,
có thể được lý giải là do bà mẹ có tâm lý lo
lắng sữa mẹ không đủ dinh dưỡng cho trẻ
nên cho trẻ ăn bổ sung sớm, không đúng
độ tuổi và tâm lý muốn con ăn được càng
nhiều càng tốt.
WHO nghiên cứu về dinh dưỡng đã
thống nhất các loại thức ăn bổ sung cho
trẻ được biểu thị theo ô vuông thức ăn, mà
trung tâm của ô vuông thức ăn là sữa mẹ
hay các thức ăn thay thế sữa mẹ như sữa
công thức, sữa bòTrong ô vuông thức
ăn gồm 4 nhóm thức ăn là nhóm thức ăn
cung cấp chất bột, nhóm thức ăn cung cấp
chất đạm, nhóm thức ăn cung cấp chất
béo và nhóm thức ăn cung cấp Vitamin và
chất khoáng. Nhìn chung, kiến thức của bà
mẹ về 4 nhóm thức ăn cho trẻ ăn bổ sung
tương đối tốt đều chiếm tỷ lệ trên 70%, duy
nhất có nhóm thức ăn cung cấp Vitamin và
muối khoáng là bà mẹ biết ít nhất, chiếm tỷ
lệ là 51.9%.
Khi trẻ đến thời điểm ăn bổ sung, bà mẹ
cần biết lựa chọn loại thức ăn phù hợp với
đặc điểm phát triển của trẻ ở mỗi giai đoạn,
điều này có ý nghĩa quan trọng giúp trẻ có
thể hấp thu được một cách tốt nhất các
chất dinh dưỡng. Các trẻ trên 9 tháng tuổi
đã có sự phát triển về vận động và ngôn
ngữ nhiều hơn nên nhu cầu dinh dưỡng
đòi hỏi cao hơn. Hơn nữa, trẻ đã có mọc
răng và có thể ăn được một vài thức ăn
lơn cợn khác ngoài bột để tập nhai, giúp
không biếng ăn về sau. Đây là thời điểm
có thể tập cho trẻ ăn cháo. Thời điểm ăn
cháo của trẻ cũng đóng một vai trò không
nhỏ đối với tình trạng dinh dưỡng. Nếu ăn
cháo quá sớm cũng có thể chậm lên cân
do đậm độ năng lượng thấp hơn trong bột.
Đối với trẻ ở lứa tuổi từ 18 tháng tuổi trở
lên là thời điểm thích hợp cho trẻ ăn cơm
là khi trẻ đã có răng hàm và có khả năng
nhai cơm. Nếu ăn cơm quá sớm sẽ gây cho
trẻ bị rối loạn tiêu hóa, kém hấp thu, biếng
ăn dẫn đến suy dinh dưỡng vì hệ tiêu hóa
của trẻ chưa hoàn thiện. Còn nếu ăn cơm
trễ trẻ sẽ bị thiếu chất và suy dinh dưỡng.
Kết quả nghiên cứu đã cho thấy kiến thức
của bà mẹ chưa tốt: 64.8% bà mẹ biết đúng
thời điểm cho trẻ ăn cháo là > 9 tháng - <
18 tháng và 20.4% bà mẹ biết đúng về thời
điểm cho trẻ ăn cơm là từ 18 – 24 tháng
và 79.6% bà mẹ cho trẻ ăn cơm sớm. Kết
quả này tương đồng với nghiên cứu của
Nguyễn Thị Thu Hậu và cộng sự (2010), tỷ
lệ bà mẹ biết đúng về thời điểm cho trẻ ăn
cơm theo khuyến nghị là 19.4% [6].
Cho trẻ ăn bổ sung đảm bảo an toàn vệ
sinh thực phẩm sẽ làm giảm nguy cơ nhiễm
khuẩn và giảm nguyên nhân mắc các bệnh
nhiễm khuẩn cho trẻ. Kết quả thu được ở
bảng 3.7 cho thấy, kiến thức đúng của bà
mẹ về nguyên tắc giữ vệ sinh bà tay, dụng
cụ nhà bếp, nguyên tắc đảm bảo an toàn
thức ăn, nguyên tắc nấu chín thức ăn và
nguyên tắc dùng nước sạch chiếm tỷ lệ lần
82
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
lượt là 57.4%, 55.6%, 72.2% và 75.9%. Kết
quả nghiên cứu này cao hơn nghiên cứu
của Fazal Dad, Ijaz Habib (2017), nguyên
tắc vệ sinh bàn tay chiếm 45%. [8].
Theo khuyến cáo của WHO, khi lựa
chọn thực phẩm cho trẻ ăn bổ sung, các bà
mẹ nên lựa chọn theo sở thích của trẻ để
kích thích sự ngon miệng giúp trẻ ăn được
tốt hơn. Tại thời điểm nghiên cứu, chỉ có
35.2% bà mẹ lựa chọn thực phẩm theo sở
thích của trẻ. Tương tự về cách cho trẻ ăn
bổ sung, chỉ có 35.2% bà mẹ có kiến thức
đúng về cách cho trẻ ăn bổ sung là cho trẻ
ăn dựa trên đáp ứng của trẻ.
5. KẾT LUẬN
Thực trạng kiến thức về chế độ ăn bổ
sung của các bà mẹ có con từ 6 đến 24
tháng tuổi là chưa tốt:
- Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về thời
điểm cho trẻ ăn bổ sung hợp lý theo khuyến
cáo của WHO là 33.3%.
- Tỷ lệ bà mẹ biết hậu quả ăn bổ sung
sớm là trẻ giảm bú mẹ là 11.1%.
- Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về thời
điểm cho trẻ ăn cơm là 20.4%
- Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về cách
lựa chọn thực phẩm cho trẻ ăn bổ sung là
35.2%
Với kết quả nghiên cứu trên,chúng tôi
khuyến nghị cần tăng cường truyền thông
giáo dục sức khỏe cho các bà mẹ ăn về
chế độ ăn bổ sung theo khuyến cáo của Tổ
chức Y tế thế giới (WHO) tập trung vào một
số nội dung như thời điểm cho trẻ ăn, cách
lựa chọn thực phẩm, dấu hiệu nhận biết trẻ
sẵn sàng ăn bổ sung
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alive & Thrive (2012), Báo cáo điều
tra ban đầu: báo cáo toàn văn điều tra 11
tỉnh về nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ
2. Trần Thị Quỳnh Anh, Cao thị Thu
Hương và Bùi Thị Nhung (2017), Tình trạng
dinh dưỡng của trẻ dưới 12 tháng tuổi và
thực hành nuôi dưỡng trẻ của bà mẹ tại
Vĩnh Phúc, Hải Dương, Nam Định, Tạp chí
Y học dự phòng, tập 27 số 3.
3. Trần Thị Quỳnh Anh, Cao thị Thu
Hương và Bùi Thị Nhung (2017), Thực
trạng thiếu máu ở trẻ 6-23 tháng tuổi và
thực hành cho trẻ ăn bổ sung của bà mẹ tại
xã Thục Luyện và Định Quả, Thanh Sơn,
Phú Thọ, Tạp chí Y học dự phòng, tập 27
số 3
4. Bộ Y tế (2015), Tài liệu nuôi dưỡng
trẻ nhỏ.
5. Đinh Đạo (2014), Nghiên cứu thực
trạng và kết quả can thiệp phòng chống
suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi người
dân tộc thiểu số tại huyện Bắc Trà My tỉnh
Quảng Nam, Luận án tiến sỹ y học, Trường
Đại học Y Dược Huế.
6. Nguyễn Thị Thu Hậu và cộng sự
(2010), Khảo sát chất lượng bữa ăn dặm
cho trẻ từ 6 -24 tháng tuổi đến khám dinh
dưỡng tại bệnh viện Nhi Đồng 2, Y học TP
Hồ Chí Minh, tập 14, số 4.
7. Viện Dinh dưỡng -UNICEF (2011),
Tình hình dinh dưỡng Việt Nam năm 2009-
2010, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 6-7,
15-25.
8. Fazal Dad, Ijaz Habib (2017), Mother’s
Knowledge, Attitude and Practices (KAP)
Regarding Complementary Feeding for
Children Age 06-24 Months in Kurrum
Agency of FATA Pakistan, Public Health
and Preventive Medicine, Vol. 3, No. 6,
2017, pp. 33-42.
9. Rajesh Kumar Sethi et al (2017),
Knowledge, attitude and practices
regarding complementary feeding among
mothers of children 6 to 24 months of age
in Konaseema region, International journal
of contemporary pediatrics, vol 4, issue 2,
394-398.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
thuc_trang_kien_thuc_ve_che_do_an_bo_sung_cua_cac_ba_me_co_c.pdf