Trong nghiên cứu của chúng tôi, kiến
thức của đối tượng nghiên cứu trả lời câu
hỏi trong trường hợp nghi ngờ đột quỵ não
có 96,4 % lựa chọn cần được đưa đến bệnh
viện càng sớm càng tốt; kết quả này cao hơn
so với nghiên cứu của Jan Nakibuuka và
cộng sự (86,1%). Chỉ có 0,4 % người bệnh
cho rằng người có dấu hiệu đột quỵ não cần
nằm tại nhà theo dõi, điều này rất có giá trị
vì đại đa số người cao tuổi bị đái tháo đường
có kiến thức đúng về cấp cứu khi đột quỵ
xảy ra. Tuy nhiên, tỷ lệ người bệnh có những
kiến thức đúng về câu hỏi chọn phương án
tự mua thuốc chỉ có 75,8%, tuy tỷ lệ này là
đạt yêu cầu nhưng như vậy vẫn còn khoảng
¼ số người bệnh còn nhận thức chưa tốt
về cách xử trí khi có đột quỵ não xảy ra. Có
65,7 % cho rằng người đó cần được cạo gió;
Đặc biệt, đối tượng nghiên cứu của chúng
tôi là người cao tuổi bị đái tháo đường có
xu hướng theo phật là rất nhiều gần 50%,
theo đạo thiên chúa là 20,2% trước câu hỏi
về điều trị theo hướng tâm linh có 98,4 % trả
lời đúng về kiến thức này, điều này cho thấy
mặc dù người cao tuổi rất chăm đi chùa, nhà
thờ nhưng khi có bệnh xảy ra đại đa số có
sự lựa chọn cần đưa đến cơ sở y tế cấp
cứu và điều trị; tuy vậy điều đáng lưu tâm là
có tới 96,0% mong muốn cần đưa đến nhà
thờ hoặc nhà chùa trước khi đưa đến bệnh
viện. Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu
của Đặng Thị Kim Nhung có 14,5% chọn
phương án cạo gió và chờ người bệnh tỉnh
lại [2] Có thể lý giải điều này do đối tượng
nghiên cứu đa phần có trình độ dân trí thấp,
ít được tiếp cận với thông tin y tế; chưa hiểu
được sự nguy hiểm của đột quỵ não và tầm
quan trọng của việc xử lý đúng là nếu người
có dấu hiệu được đưa đến bệnh viện sớm
sẽ làm giảm tỷ lệ tử vong và tàn tật do đột
quỵ não và có thể những kiến thức chưa
thực sự đầy đủ này có thể vô tình sẽ cản trở
việc đưa người bệnh tiếp cận sớm với dịch
vụ y tế để điều trị sớm.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 22 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng kiến thức về dự phòng đột quỵ não của người cao tuổi mắc bệnh đái tháo đường type II tại bệnh viện nội tiết trung ương năm 2020, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
106
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
5. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu 122 người bệnh
COPD cho thấy sau điều trị đợt cấp, người
bệnh vẫn còn các biểu hiện đáng kể về hô
hấp với 73% người bệnh khạc đờm nhiều
và 80,3% người bệnh ho nhiều; 72,5% có
tăng áp lực động mạch phổi. Do đó, cần có
chương trình quản lý người bệnh tại nhà,
khám định kỳ để ngăn ngừa đợt cấp và các
biến chứng góp phần cải thiện chất lượng
cuộc sống cho người bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Burge PS. (2000). Randomised,
double blind, placebo controlled study. tr
320.
2. Nguyễn Mạnh Thắng (2017).Nghiên
cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và
căn nguyên vi sinh trong đợt cấp bệnh phổi
tắc nghẽn mạn tính tại trung tâm hô hấp
bệnh viện Bạch Mai. Luận văn thạc sỹ ,
trường Đại học Y Hà Nội.
3. Nguyễn Thị Thảo (2018). Đánh giá
mức độ nặng và căn nguyên vi sinh của đợt
cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, Luận
văn thạc sỹ, Trường Đại học Y Hà Nội.
4. Phan Thị Hạnh (2012), Nghiên cứu
mức độ nặng của đợt cấp bệnh phổi tắc
nghẽn mạn tính điều trị tại Trung tâm hô
hấp bệnh viện Bạch Mai, Luận văn bác sỹ
nội trú, trường Đại học Y Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Chính (2015), Nghiên cứu
đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và căn
nguyên vi khuẩn trong đợt cấp bệnh phổi
tắc nghẽn mạn tính tại trung tâm hô hấp
bệnh viện Bạch Mai, Trường Đại học Y Hà
Nội, Hà Nội.
6. Sakao S, Voelkel NF, Tatsumi K (2014).
The vascular bed in COPD: Pulmonary
hypertension and pulmonary vascular
alterations. Eur Respir Rev; 23; 350-355
7. Nguyễn Thị Kim Oanh (2013). Nghiên
cứu một số bệnh lý tim mạch ở người
bệnhbệnh phổi tắc nghẽn mạn tính điều trị
tại trung tâm hô hấp Bệnh viện Bạch mai.
Luận văn Thạc sỹ. Đại học Y Hà Nội.
8. Bùi Văn Tâm (2008). Nghiên cứu rối
loạn chức năng thất trái ở người bệnhcao
tuổi bị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính giai
đoạn ổn định. Luận văn thạc sỹ y học. Đại
học Y Hà Nội
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC VỀ DỰ PHÒNG ĐỘT QUỴ NÃO
CỦA NGƯỜI CAO TUỔI MẮC BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE II
TẠI BỆNH VIỆN NỘI TIẾT TRUNG ƯƠNG NĂM 2020
Đỗ Thị Thu Hiền1b, Trương Tuấn Anh1,
Hoàng Thị Vân Lan1b, Đỗ Thị Tuyết Mai1
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
Người chịu trách nhiệm: Đỗ Thị Thu Hiền
Email: thuhien80@gmail.com
Ngày phản biện: 22/6/2020
Ngày duyệt bài: 24/6/2020
Ngày xuất bản: 29/6/2020
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức về
dự phòng đột quỵ não của người cao tuổi
mắc bệnh đái tháo đường type II tại Bệnh
viện Nội tiết Trung ương. Đối tượng và
phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu
mô tả cắt ngang thực hiện từ tháng 11/2019
– 6/2020 trên 248 người bệnh là người cao
tuổi bị đái tháo đường tại Bệnh viện Nội
tiết Trung ương năm 2020. Kết quả: Tỷ lệ
kiến thức đúng não là cơ quan tổn thương
của đột quỵ não là 89,1 %. Tỷ lệ đối tượng
nghiên cứu có kiến thức đúng về dấu hiệu
bệnh đột quỵ tương đối tốt: đau đầu đột ngột
107
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
và dữ dội là 76,2%; đột ngột yếu một bên
người là 99,6%; đột ngột khó nói là 98,8 %;
chỉ có 25,4% câu trả lời đúng về dấu hiệu
đột ngột mất trí nhớ là dấu hiệu của đột quỵ
não. Kiến thức về hành động đúng của đối
tượng nghiên cứu khi gặp một trường hợp
nghi ngờ đột quỵ não là tốt, cụ thể: có 96
% trả lời đúng phải tránh té ngã cho người
bệnh khi đột quỵ não xảy ra; có 96,4 % cho
rằng người đột quỵ não cần được đưa đến
bệnh viện càng sớm càng tốt; chỉ có 0,4%
người bệnh trả lời để người đột quỵ não ở
nhà theo dõi. Kết luận: Kiến thức về dự
phòng đột quỵ não của người cao tuổi mắc
bệnh đái tháo đường type II tại Bệnh viện
Nội tiết Trung ương tương đối tốt.
Từ khóa: Đột quỵ não, kiến thức, người
cao tuổi, đái tháo đường.
AN INVESTIGATION OF PREVENTIVE KNOWLEDGE OF BRAIN STROKE
AMONG ELDERLY PATIENTS WITH TYPE II DISEASES
IN NATIONAL HOSPITAL OF ENDOCRINOLOGY IN 2020
ABSTRACT
Objective: To describe the current
status of knowledge about the prevention
of brain stroke of elderly people with
type II diabetes at Central Endocrinology
Hospital. Method: A cross-sectional study
conducted from November 2019 - June
2020 on 248 elderly patients with diabetes
at the National Hospital of Endocrinology
in 2020. Results: The ratio of right-brain
knowledge is the organ lesion of brain
stroke was 89,1%. The percentage of
study subjects with good knowledge of
signs of stroke is relatively good: sudden
and intense headache is 76,2%; Suddenly
weak on one side of the person is 99,6%;
Suddenly difficult to say is 98,8%; only
25,4% of the correct answers to the sudden
onset of dementia were signs of a brain
stroke. Knowledge of the subject’s right
actions when encountering a suspected
case of brain stroke is good, namely: 96%
of the correct answers must avoid falling for
patients when a brain stroke occurs; 96,4%
said that stroke patients should be taken to
hospital as soon as possible; only 0,4% of
the respondents responded to the stroke
at home. Conclusion: Knowledge about
the prevention of brain stroke of elderly
people with type II diabetes at Central
Endocrinology Hospital is relatively good.
Keywords: brain stroke, knowledge,
elderly, diabetes
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, đột quỵ não là một vấn đề lớn
của Y học các nước trên thế giới cũng như
ở Việt Nam. Bệnh do nhiều nguyên nhân
khác nhau gây ra, có thể dẫn đến tử vong
nhanh chóng hoặc để lại nhiều di chứng
nặng nề, đặc biệt là các di chứng về vận
động. Đột quỵ não là gánh nặng không chỉ
đối với người bệnh, gia đình mà còn ảnh
hưởng lớn đến cộng đồng. Theo báo cáo
thống kê năm 2013 của Hiệp hội Tim mạch
học Hoa Kỳ, mỗi năm ở Mĩ có 795.000 người
bị đột quỵ não, 610.000 bị đột quỵ não lần
đầu, 185.000 bị đột quỵ não tái phát, 87%
là nhồi máu não [17]. Kết quả nghiên cứu
dịch tễ học đột quỵ não ở khu vực Đông
Á cho thấy tỷ lệ hiện mắc đột quỵ não là
1428/100.000 người, tỷ lệ này ở những
người trên 65 tuổi là 5080/100.000 người.
Tỷ lệ mới mắc đột quỵ não dao động trong
khoảng 201-483/100.000 người/năm còn tỷ
108
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
lệ tử vong khoảng 6% [16].Theo báo cáo
của Văn phòng về các vấn đề kinh tế và xã
hội của Liên Hiệp Quốc, tính đến năm 2015
toàn thế giới có tới 901 triệu người cao tuổi
(từ 60 tuổi trở lên) chiếm tỷ lệ 12,3% dân số
và dự đoán đến năm 2050 sẽ đạt đến con
số 2,1 tỷ người [13].
Nguy cơ đột quỵ não ở người bệnh đái
tháo đường cao gấp 2 lần so với người
bình thường [15]. Kết quả nghiên cứu của
Nayak A.R. (2016) cho thấy đái tháo đường
làm tăng nguy cơ tàn tật ở người bệnh nhồi
máu não [14]. Tại Hoa Kỳ tỷ lệ mắc đái tháo
đường ở độ tuổi 45-64 tuổi là 16,2% trong
khi ở những người 60-79 tuổi là 25,9%
[18]. Theo thống kê của Liên đoàn Đái tháo
đường quốc tế (IDF/InternationalDiabetes
Federation) năm 2015 thế giới có khoảng
415 triệu người mắc bệnh đái tháo đường,
trong đó 90% là đái tháo đường type II [19].
Việt Nam, theo kết quả của tổng điều tra
dân số và nhà ở năm 2014, số người cao
tuổi Việt Nam là 9,23 triệu người chiếm tỷ
lệ 10,2% dân số [8]. Theo Lê Thị Hương
và cộng sự (2016) tỷ lệ hiện mắc đột quỵ
não ở 8 tỉnh thuộc 8 vùng sinh thái của Việt
Nam là 1,63% [7]. Còn theo thống kê của
Bệnh viện Nội tiết Trung ương, năm 2012 tỷ
lệ mắc đái tháo đường ở Việt Nam là 5,4%
[6].
Bệnh viện Nội tiết Trung ương là bệnh
viện chuyên khoa Hạng I trực thuộc Bộ Y
tế với nhiệm vụ điều trị các bệnh liên quan
đến nội tiết, chuyển hóa đặc biệt là bệnh
đái tháo đường. Hàng năm bệnh viện tiếp
nhận khám và điều trị cho hàng nghìn lượt
người bệnh đái tháo đường. Hiện nay tại
bệnh viện tỷ lệ người bệnh là người cao
tuổi có xu hướng ngày càng gia tăng. Đây
là đối tượng dễ xảy ra biến chứng đặc
biệt là đột quỵ não. Câu hỏi đặt ra ở đây
là thực trạng kiến thức của người bệnh
cao tuổi khám và điều trị đái tháo đường
type II tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương
về bệnh đột quỵ não là như thế nào? Với
mong muốn tìm hiểu về vấn đề này cung
cấp thêm bằng chứng cho công tác giáo
dục sức khoẻ phòng chống đột quỵ não
cho người bệnh cao tuổi mắc bệnh đái
tháo đường type II, nhóm nghiên cứu thực
hiện nghiên cứu này với mục tiêu “Mô tả
thực trạng kiến thức về dự phòng đột quỵ
não của người cao tuổi mắc bệnh đái tháo
đường type II tại Bệnh viện Nội tiết Trung
ương năm 2020”.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Một nghiên cứu cắt ngang được thực
hiện từ tháng 11/2019 – 6/2020 trên người
cao tuổi mắc bệnh đái tháo đường type
II đến khám và điều trị tại Bệnh viện Nội
tiết Trung ương. Tiêu chuẩn lựa chọn đối
tượng gồm: Người bệnh từ 60 tuổi trở lên;
người bệnh đến khám và điều trị bệnh đái
tháo đường type II; người bệnh hoàn toàn
tỉnh táo; người bệnh có khả năng trả lời câu
hỏi của phỏng vấn viên; người bệnh đồng ý
tham gia vào nghiên cứu.
Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho 1 giá
trị tuyệt đối trong quần thể, với tỷ lệ tham
chiếu từ nghiên cứu trước là p=0,667 [9] và
độ chính xác tuyệt đối là 0,06, chúng tôi đã
tính được cỡ mẫu tối thiểu cho nghiên cứu
là 248 người.
Sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận
tiện, liên tục cho đến khi đủ số mẫu cần
thiết. Tại khoa khám bệnh: Áp dụng khảo
sát nội dung kiến thức về dự phòng đột
quỵ não cho người bệnh được chuẩn đoán
bệnh đái tháo đường type II nhưng không
phải nhập viện nằm điều trị, trung bình mỗi
ngày khảo sát được 2– 3 người bệnh/ngày.
Tại các khoa lâm sàng mỗi ngày khảo sát
2– 3 người bệnh/ngày/khoa.
2.2. Công cụ và phương pháp thu
thập số liệu
Sử dụng phương pháp phỏng vấn cá
nhân trực tiếp bằng bộ câu hỏi thiết kế sẵn.
Bộ công cụ được xây dựng dựa trên bộ công
cụ trong nghiên cứu của tác giả arafadeen
109
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
Adeniyi Arisegi1& cs (2018) [21] và bộ công
cụ trong nghiên cứu thay đổi nhận thức về
đột quỵ não của người cao tuổi tại xã Giao
Lạc – Giao Thủy Nam Định của Đinh Thị
Yến (2017) [9]. Bộ công cụ được đánh giá
tính chính xác bằng kiểm định đặc hiệu nội
dung (test CVI), được kiểm tra bộ tin cậy
bằng phương pháp test và retest trước khi
đưa vào sử dụng.
2.3. Tiêu chí đánh giá trong nghiên
cứu
Kiến thức về dự phòng đột quỵ não được
phân loại bằng cách sử dụng hệ thống tính
điểm, điểm số của một người cho một câu
trả lời đúng là “1” và không “0” cho một câu
trả lời không chính xác hoặc không biết. Hệ
thống tính điểm này đã được tham khảo từ
nghiên cứu trước đây [21].
Các phiếu phỏng vấn và quan sát được
làm sạch và nhập vào máy tính bằng phần
mềm Epidata 3.1. Sau đó số liệu được phân
tích và xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0.
Kết quả xử lý và phân tích số liệu thống kê
mô tả được lập bảng phân bố tần số và tỷ
lệ phần trăm các biến số.
3. KẾT QUẢ
3.1. Thông tin chung về đối tượng
nghiên cứu
Tổng số có 248 người tham gia nghiên
cứu, trong đó 58,1% là nữ giới. Độ tuổi
từ 60 - 69 chiếm tỷ lệ nhiều nhất 64,5%,
chỉ có 5,6% người bệnh trên 80 tuổi. Đối
tượng tham gia có trình độ trung học phổ
thông chiếm tỷ lệ cao nhất 33,1%, thấp nhất
là biết đọc biết viết là 0,8%. Nhóm người
bệnh bị tiểu đường từ 6-10 năm chiếm tỷ
lệ cao nhất 30,2%, thấp nhất là nhóm bị
bệnh trên 20 năm (6,5%). Có 85,9% số
người bệnh có chỉ số đường huyết cao
hơn bình thường, tỷ lệ người bệnh có chỉ
số HbA1c tăng cao hơn chỉ số bình thường
là 71,8%. Tỷ lệ người bệnh có chỉ số LDL
- Cholesterol, Creatinine, GOT, GPT tăng
hơn bình thường chiếm tỷ lệ thấp từ 10,5%
đến 16,9%.
3.2. Thực trạng kiến thức của đối
tượng về đột quỵ não
Bảng 3.1. Kiến thức đúng về cơ quan
tổn thương của đột quỵ não (n = 248)
Nội dung SL TL %
Cơ quan bị tổn thương
của đột quỵ não là não bộ 221 89,1
Bệnh đột quỵ não thường
xảy ra đột ngột 174 29,8
Bệnh đột quỵ não rất
nguy hiểm, dễ tử vong 246 99,2
Bệnh đột quỵ não có thể
bị tái phát 246 99,2
Bảng 3.2. Kiến thức đúng về dấu
hiệu bệnh đột quỵ não (n = 248)
Nội dung SL TL %
Đau đầu đột ngột và dữ
dội 189 76,2
Đột nhiên chóng mặt hoặc
mất thăng bằng hoặc mất
phối hợp động tác
244 98,4
Đột ngột mất trí nhớ 63 25,4
Đột ngột giảm hoặc mất thị
lực 179 72,2
Đột ngột khó nói 245 98,8
Khó nuốt 244 98,4
Đột ngột mất hoặc giảm
cảm giác ở một bên người 247 99,6
Đột ngột mất hoặc giảm
cảm giác toàn thân 238 96,0
Đột ngột yếu hoặc liệt một
bên người 247 99,6
Đột ngột yếu hoặc liệt toàn
thân 218 87,9
110
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
Bảng 3.3. Kiến thức đúng của đối
tượng về xử trí đột quỵ não (n = 248)
Nội dung SL TL %
Tránh té ngã 238 96,0
Cần được đưa đến bệnh
viện càng sớm càng tốt 239 96,4
Tự mua thuốc uống 188 75,8
Nên để nằm tại nhà để
theo dõi 1 0,4
Cần được cạo gió/ đánh
cảm/xoa bóp 85 34,3
Bảng 3.4. Kiến thức đúng về yếu tố
nguy cơ đột quỵ não (n = 248)
Nội dung SL TL %
Không tập thể dục thường
xuyên 245 98,8
Thừa cân hoặc béo phì 212 85,5
Thút thuốc 241 97,2
Tăng huyết áp 246 99,2
Đái tháo đường 173 69,8
Ăn thực phẩm chứa nhiều
dầu, mỡ 248 100
Uống nhiều rượu 245 98,8
Bệnh tim mạch 82 33,1
Tiền sử bị đột quỵ não 248 100
Bảng 3.5. Kiến thức đúng về hành động
khi có dấu hiệu đột quỵ não (n = 248)
Nội dung SL TL %
Đưa đến BV càng sớm
càng tốt 239 96,4
Tự mua thuốc dùng 188 75,8
Nằm tại nhà theo dõi 1 0,4
Cạo gió, đánh cảm, xoa
bóp 85 34,3
Điều trị tâm linh 4 1,6
Đến chùa trước khi đến
viện 238 96,0
Bảng 3.6. Kiến thức đúng về dự phòng
tái phát đột quỵ não (n = 248)
Nội dung SL TL %
Tập thể dục thường
xuyên 247 99,6
Theo dõi trọng lượng cơ
thể thường xuyên 111 44,8
Tránh, bỏ thuốc lá, lào 240 96,8
Hạn chế thức ăn chứa
nhiều muối 160 64,5
Hạn chế thức ăn chứa
nhiều dầu, mỡ 195 78,6
Ăn trái cây, rau thường
xuyên 244 98,4
Điều trị bệnh ĐTĐ theo y
lệnh 242 97,6
Tái khám đúng theo lịch
hẹn 248 100
4. BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu này tỷ lệ đối tượng
tham gia nghiên cứu có kiến thức đúng
về cơ quan tổn thương của đột quỵ chiếm
89,1%. Tỷ lệ người bệnh trả lời về cách
khởi phát đột ngột là 29,8. Chỉ có 44,8% số
người bệnh cho rằng theo dõi trọng lượng
thường xuyên là một biện pháp để dự
phòng bệnh, đây là kiến thức rất cần quan
tâm trong việc giáo dục sức khỏe, tuyên
truyền cho người bệnh được biết để chủ
động có biện pháp phòng ngừa. Kết quả
này thấp hơn so với kết quả của Vũ Anh Nhị
và cộng sự (72%) [1]. Có kiến thức đúng về
cơ quan tổn thương, cách khởi phát và hiểu
được tính chất nguy hiểm của đột quỵ não
là rất quan trọng, nó ảnh hưởng tích cực
hoặc tiêu cực đến hành vi tự chăm sóc, thái
độ xử trí của chính bản thân người cao tuổi
mắc đái tháo đường, một căn bệnh có thể
nói là nguy cơ hàng đầu gây xơ vữa mạch
và biến chứng đột quỵ não.
Một trong những yếu tố nguy cơ có thể
điều chỉnh được và là nguy cơ hàng đầu
trong cơ chế bệnh sinh của đột quỵ não
111
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
là tăng huyết áp. Mối quan hệ giữa tăng
huyết áp và đột quỵ não là mối quan hệ
trực tiếp, vậy theo nghiên cứu của chúng
tôi có 99,2% người bệnh trả lời đúng về lựa
chọn tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ của
đột quỵ não. Kết quả này cao hơn so với
kết quả của Ana Sofia Duque 62,3% [10]
và một số nghiên cứu khác như Ana Hickey
2009 là 75% [11]. Một nghiên nghiên cứu
cộng đồng ở Hải Dương cũng cho thấy tỷ
lệ trả lời đúng tăng huyết áp là yếu tố nguy
cơ của đột quỵ là (85,1%) [5]; nghiên cứu
của Đặng Thị Kim Nhung 2015 (84,2%) [2].
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ đối tượng có
kiến thức đúng về câu hỏi đái tháo đường
là yếu tố nguy cơ của đột quỵ não là 69,8%,
điều này cho thấy người bệnh cũng đã phần
nào có nhận thức đúng về bệnh đái tháo
đường và các nguy cơ của nó. Kết quả này
tương đồng so với kết quả một số nước trên
thế giới như của Ana Sofia Duque với tỷ lệ
người cao tuổi lựa chọn đái tháo đường là
nguy cơ chiếm 69% [10]; cao hơn nghiên
cứu của Monaliza và cộng sự 43,68%
[20] trong khi một số nghiên cứu khác cho
thấy tỷ lệ trả lời đúng thấp hơn nhiều như
kết quả nghiên cứu của A Hickey 2012 là
4% [12]; năm 2009 là 11%; Đặng Thị Kim
Nhung (18,42%) [2]. Qua đây cho thấy kiến
thức của người cao tuổi đái tháo đường về
mối nguy cơ của các bệnh tim mạch với đột
quỵ não còn thấp trong khi tỷ lệ bệnh này
ngày càng tăng vì vậy cần tiếp tục tập trung
tuyên truyền giáo dục hơn nữa cho người
cao tuổi về các yếu tố nguy cơ đột quỵ não
nói chung đặc biệt là yếu tố nguy cơ còn ít
người biết đến như bệnh tim mạch.
Yếu tố nguy cơ hàng đầu của đột quỵ não
khác nữa là thừa cân, béo phì trong nghiên
cứu này tỷ lệ trả lời đúng là 85,5% cho rằng
đó là yếu tố nguy cơ gây đột quỵ não. Kết
quả này cao hơn so với kết quả của Đặng
Thị Kim Nhung và cộng sự (21,05%) [2].
Sự kết hợp giữa thừa cân, béo phì, rối loạn
lipid máu, xơ vữa động mạch và tăng huyết
áp sẽ làm cho tất cả các bệnh này nặng
thêm và những biến chứng về tim mạch
cũng nhiều hơn và nặng nề hơn, trong đó
nguy hiểm nhất là nhồi máu cơ tim và đột
quỵ não.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy
một số yếu tố nguy cơ khác được người
cao tuổi trả lời đúng như như hút thuốc
lá(97,2%); tiền sử đột quỵ cũ (100%); uống
nhiều rượu (98,8%). Kết quả này cao hơn
so với kết quả của Monaliza với kết quả
lần lượt là 48,39%; 42,61%; 48,82% [20]
; tương tự một số kết quả khác như của
Ana Sofia Duque với các kết quả lần lượt
là 95,6%; 97,4%; 70,2% [10] nhưng cao
hơn một số kết quả khác như Anne Hickey
2009 với người tham gia lựa chọn các yếu
tố nguy cơ là hút thuốc lá chỉ có (30%); sử
dụng rượu chỉ có (10%) [11].
Qua kết quả nghiên cứu về kiến thức
nhận biết những dấu hiệu cảnh báo đột
quỵ não của người cao tuổi đái tháo đường
trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
đa số các dấu hiệu cảnh báo được đối
tượng biết với tỷ lệ trên 50%. Tuy nhiên so
sánh với kết quả nghiên cứu của Ana Sofia
Duque khi sử dụng câu hỏi mở thì kết quả
lại thấp hơn rất nhiều so với kết quả đề tài
của chúng tôi [10]. Điều này có thể lý giải
rằng khi sử dụng bộ câu hỏi mở để phỏng
vấn đối tượng nghiên cứu phải tự nghĩ ra
câu trả lời hoặc tự nhớ lại để trả lời, còn khi
sử dụng bộ câu hỏi đóng đối tượng nghiên
cứu đã được gợi ý bằng cách người phỏng
vấn đọc một loạt các dấu hiệu cảnh báo và
người tham gia chỉ cần xác định các dấu
hiệu mà mình cho rằng đúng, vì thế kết quả
kiến thức khi sử dụng bộ câu hỏi đóng cao
hơn rất nhiều so với nghiên cứu sử dụng bộ
câu hỏi mở. Tương tự kết quả của chúng
tôi cũng cao hơn so với kết quả kiến thức
về dấu hiệu cảnh báo đột quỵ qua nghiên
cứu của A Hickey năm 2015 khi sử dụng bộ
câu hỏi mở thì kết quả là: Nói lắp 21,4%;
chóng mặt 18%; tê yếu trên một mặt của
cơ thể 13,6%; đau đầu nặng 14,9% [12].
Năm 2009 cũng theo Anna Hickey khi sử
112
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
dụng bộ câu hỏi đóng phỏng vấn về dấu
hiệu cảnh báo đột quỵ thì kết quả là: Nói
lắp 54%; chóng mặt 44%; tê yếu 44%; đau
đầu 29% [11]. So sánh với kết quả nghiên
cứu của Trần Hồng Nhung năm 2014 các
dấu hiệu cảnh báo đột quỵ được đối tượng
xác định với tỷ lệ dưới 40% [3], thì kết quả
nghiên cứu của chúng tôi là cao hơn. Một
nghiên cứu khác của Nguyễn Văn Thắng
và cộng sự cho kết quả kiến thức về dấu
hiệu cảnh báo đột quỵ cũng thấp hơn rất
nhiều so với kết quả nghiên cứu của chúng
tôi cụ thể là: Tê yếu 9,7%; nói khó 1,9%;
giảm thị lực đột ngột 7,5%; chóng mặt mất
thăng bằng 23,4%; đột ngột đau đầu 14,2%;
không biết 9,7% [4].
Bệnh đột quỵ não có thể dự phòng
được khi người bệnh chủ động thay đổi lối
sống ít vận động bằng cách tập thể dục,
vận động thường xuyên làm giảm các yếu
tố nguy cơ gây vữa xơ động mạch, giảm
tỷ lệ tăng huyết áp, giảm cân nặng chống
béo phì, người bệnh bị tăng huyết áp hoặc
có nhiều các yếu tố nguy cơ của đột quỵ
như đã nói ở trên phải được khám, theo
dõi điều trị thường xuyên tại các cơ sở y
tế và khi có các dấu hiệu nghi ngờ đột quỵ
não cần đưa đến ngay cơ sở y tế gần nhất
tránh việc làm không đúng cho rằng bệnh
này là cảm mạo, dùng các biện pháp không
đúng không những gây nguy hiểm cho bản
thân người bệnh, dễ dẫn đến tử vong hoặc
để lại nhiều di chứng, làm kéo dài thời gian
vàng có thể can thiệp điều trị, hạn chế để
lại di chứng nặng nề tổn hại kinh tế, sức
khoẻ của người bệnh.Tuy nhiên khi đột quỵ
xảy ra, việc vận chuyển người bệnh cũng
cần lưu ý đảm bảo an toàn. Tuy nhiên qua
khảo sát cho thấy kiến thức của đối tượng
nghiên cứu về dự phòng đột quỵ não còn
nhiều hạn chế chẳng hạn như kiểm soát
đường máu nếu có đái tháo đường có 97,6
% trả lời đúng, chỉ có 44,8% người bệnh
trả lời đúng theo dõi trọng lượng cơ thể
thường xuyên. Có 100% người bệnh hiểu
biết rất tốt về tái khám định kỳ theo lịch hẹn,
điều này rất quan trọng để phòng ngừa các
biến chứng của đái tháo đường nói chung
và biến chứng đột quỵ não nói riêng để có
thể dự phòng đột quỵ não.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, kiến
thức của đối tượng nghiên cứu trả lời câu
hỏi trong trường hợp nghi ngờ đột quỵ não
có 96,4 % lựa chọn cần được đưa đến bệnh
viện càng sớm càng tốt; kết quả này cao hơn
so với nghiên cứu của Jan Nakibuuka và
cộng sự (86,1%). Chỉ có 0,4 % người bệnh
cho rằng người có dấu hiệu đột quỵ não cần
nằm tại nhà theo dõi, điều này rất có giá trị
vì đại đa số người cao tuổi bị đái tháo đường
có kiến thức đúng về cấp cứu khi đột quỵ
xảy ra. Tuy nhiên, tỷ lệ người bệnh có những
kiến thức đúng về câu hỏi chọn phương án
tự mua thuốc chỉ có 75,8%, tuy tỷ lệ này là
đạt yêu cầu nhưng như vậy vẫn còn khoảng
¼ số người bệnh còn nhận thức chưa tốt
về cách xử trí khi có đột quỵ não xảy ra. Có
65,7 % cho rằng người đó cần được cạo gió;
Đặc biệt, đối tượng nghiên cứu của chúng
tôi là người cao tuổi bị đái tháo đường có
xu hướng theo phật là rất nhiều gần 50%,
theo đạo thiên chúa là 20,2% trước câu hỏi
về điều trị theo hướng tâm linh có 98,4 % trả
lời đúng về kiến thức này, điều này cho thấy
mặc dù người cao tuổi rất chăm đi chùa, nhà
thờ nhưng khi có bệnh xảy ra đại đa số có
sự lựa chọn cần đưa đến cơ sở y tế cấp
cứu và điều trị; tuy vậy điều đáng lưu tâm là
có tới 96,0% mong muốn cần đưa đến nhà
thờ hoặc nhà chùa trước khi đưa đến bệnh
viện. Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu
của Đặng Thị Kim Nhung có 14,5% chọn
phương án cạo gió và chờ người bệnh tỉnh
lại [2] Có thể lý giải điều này do đối tượng
nghiên cứu đa phần có trình độ dân trí thấp,
ít được tiếp cận với thông tin y tế; chưa hiểu
được sự nguy hiểm của đột quỵ não và tầm
quan trọng của việc xử lý đúng là nếu người
có dấu hiệu được đưa đến bệnh viện sớm
sẽ làm giảm tỷ lệ tử vong và tàn tật do đột
quỵ não và có thể những kiến thức chưa
thực sự đầy đủ này có thể vô tình sẽ cản trở
việc đưa người bệnh tiếp cận sớm với dịch
vụ y tế để điều trị sớm.
113
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
5. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy kiến thức
chung của đối tượng nghiên cứu về đột quỵ
não tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương là tốt.
Tỷ lệ kiến thức đúng não là cơ quan tổn
thương của đột quỵ não là 89,1 %. Tỷ lệ đối
tượng nghiên cứu có kiến thức đúng về dấu
hiệu bệnh đột quỵ não tương đối tốt: đau
đầu đột ngột và dữ dội là 76,2%; đột ngột
yếu một bên người là 99,6%; đột ngột khó
nói là 98,8 %; chỉ có 25,4% câu trả lời đúng
về dấu hiệu đột ngột mất trí nhớ là dấu hiệu
của đột quỵ não. Kiến thức về hành động
đúng của đối tượng nghiên cứu khi gặp
một trường hợp nghi ngờ đột quỵ não là
tốt, cụ thể: có 96% trả lời đúng phải tránh té
ngã cho người bệnh khi đột quỵ não xảy ra;
có 96,4% cho rằng người đột quỵ não cần
được đưa đến bệnh viện càng sớm càng
tốt; chỉ có 0,4% người bệnh trả lời để người
đột quỵ não ở nhà theo dõi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Anh Nhị và các cộng sự. (2003),
“Nghiên cứu sự hiểu biết về tai biến mạch
máu não trên thân nhân và bệnh nhân tai
biến mạch máu não”, Tạp chí Y học TP
HCM. 7(1), tr 8-13.
2. Đặng Thị Kim Nhung (2015), Hiểu biết
về tai biến mạch máu não và nhu cầu tìm
kiếm thông tin của người nhà bệnh nhân tâm
thần kinh bệnh viện lão khoa 2015, Đề tài
cấp trường - Trường Đại học Thăng Long.
3. Trần Hồng Nhung (2014), Kiến thức
thực hành phòng tai biến mạch máu não và
một số yếu tố liên quan của người cao tuổi
phường Đức Giang quận Long Biên Hà Nội,
Đại học y tế công cộng.
4. Nguyễn Văn Thắng và các cộng sự.
(2011), “Thay đổi hiểu biết và thực hành về
dự phòng đột quỵ não của người cao tuổi
tại hai xã Trường yên và Lam Điền huyện
Chương Mỹ, Hà Nội”, Y học thực hành.
767(6), tr 73-78.
5. Nguyễn Văn Triệu và các cộng sự.
(2009), “Đánh giá tình trạng của người
dân về đột quỵ”, Tạp chí Y học Thực hành.
679(10), tr 9-12.
6. Y tế Bộ (2015), “Chiến lược quốc gia
phòng chống bệnh không lây nhiễm giai
đoạn 2015-2025”.
7. Lê Thị Hương Hương và cộng sự
(2016), “Tỷ lệ mắc đột quỵ tại 8 tỉnh thuộc
8 vùng sinh thái việt nam năm 2013-2014
và một số yếu tố liên quan”, Tạp chí nghiên
cứu Y học. 104(6), tr. 1-6.
8. Tổng Tổng cục thống kê Bộ kế hoạch
và đầu tư (2015), Điều tra dân số và nhà
ở giữa kỳ thời điểm 1/4/2014: Các kết quả
chủ yếu, Nhà xuất bản thống kê
9. Đinh Thị Yến Yến (2017), Thay đổi
nhận thức về đột quỵ não của người cao
tuổi tại xã Giao Lạc – Giao Thủy Nam Định
sau can thiệp giáo dục sức khỏe. Luận văn
thạc sĩ điều dưỡng – Trường Đại học Điều
dưỡng Nam Định.
10. Ana Sofia Duque et al. (2015),
“Awareness Of Stroke Risk Factors And
Warning Signs And Attitude To Acute
Stroke”, International Archives of Medicine.
8(195), page 1-15.
11. Anne HickeyEmail author et al.
(2009), “Stroke awareness in the general
population: knowledge of stroke risk factors
and warning signs in older adults”, BMC
Geriatric, page 1-8.
12. D.Holly A.Hickey (2012), “Knowledge
of stroke risk factors and warning signs in
Ireland: Development and application of the
stroke Awareness Questionare(SAQ)”, Int J
Stroke. 7(4), page 298-306.
13. Department of Economic and Social
Affairs (2015), World Population Ageing
2015, United Nations, .
14. Badar S.R. et al. (2016), Prediction of
Outcome in Diabetic Acute Ischemic Stroke
Patients: A Hospital-Based Pilot Study
Report, Ann Neurosci. 23(4): 199–208.
15. Béjot Y. and Giroud M. (2010), Stroke
in diabetic patients. Diabetes & Metabolism.
36 Suppl 3:S84-7
114
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
16. Cooper M.E., Jandeleit-Dahm K.A.
and Candido R. (2010), The Pathogenesis
of Macrovascular Complications Including
Atherosclerosis in Diabetes, Text book of
Diabetes, Fourth Edition. Wiley Blackwell.
17. Mozaffarian D. et al. (2014), Heart
disease and stroke statistics, a report from
the American Heart Association.
18. Diabetes Translation and National
Center for Chronic Disease Prevention and
Health Promotion ( Division (2015), National
Diabetes Statistics Report, Centers for
Disease Control and Prevention.
19. International Diabetes Federation
(2015), “Diabetes Atlas, Seventh edition,
International Diabetes Federation”.
20. Monaliza (2012), “Awareness of risk
factors and warning symptoms of stroke in
general population”, Nursing and Midwifery
Research Journal. 8(2). 149-161.
21. Sarafadeen Adeniyi Arisegi and et al
(2018), “Knowledge and practices related
to stroke prevention among hypertensive
and diabetic patients attending Specialist
Hospital, Sokoto, Nigeria”, PanFrican
Medical Journalist. 29. 63-80.
NHU CẦU TÌM KIẾM THÔNG TIN VỀ ĐỘT QUỴ NÃO CỦA NGƯỜI NHÀ NGƯỜI BỆNH
TẠI KHOA THẦN KINH BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH NAM ĐỊNH NĂM 2017
Trần Thị Thanh Mai1, Mai Thị Yến1, Vũ Thị Minh Phượng1,
Nguyễn Thị Khánh1, Nguyễn Thị Thanh Huyền1
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
Người chịu trách nhiệm: Trần Thị Thanh Mai
Email: greengagetran@gmail.com
Ngày phản biện: 09/6/2020
Ngày duyệt bài: 15/6/2020
Ngày xuất bản: 29/6/2020
TÓM TẮT
Mục tiêu: Tìm hiểu nhu cầu tìm kiếm
thông tin về bệnh Đột quỵ não của người
nhà người bệnh tại Khoa Thần kinh - Bệnh
viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2017. Đối
tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô
tả cắt ngang thực hiện từ tháng 02/2017 -
07/2017 trên 96 người nhà chăm sóc chính
người bệnh Đột quỵ não đang được điều trị
tại khoa Thần Kinh Bệnh viện Đa Khoa tỉnh
Nam Định. Kết quả: Tỷ lệ đối tượng chủ
động tìm hiểu kiến thức bệnh đột quỵ não
chiếm 87,5%. Nguồn cung cấp thông tin
qua phương tiện thông tin đại chúng chiếm
tỷ lệ cao nhất với 55,2%, thấp nhất là nguồn
thông tin từ internet chiếm 21,8%. Nội dung
kiến thức mong muốn được truyền đạt là
vận động phục hồi chức năng cho người
bệnh chiếm 63,5%, các nội dung kiến thức
về dinh dưỡng và nguyên nhân, cách phòng
tránh đột quỵ não chiếm tỷ lệ cao lần lượt
là 45,8% và 60,4%. Có 12,5% đối tượng
nghiên cứu chưa từng chủ động tìm hiểu
thông tin về bệnh đột quỵ não. Kết luận:
Có 97,9% đối tượng nghiên cứu rất muốn
được cung cấp thông tin và chỉ có 2,1%
muốn được cung cấp thông tin.
Từ khóa: Đột quỵ não, kiến thức, nhu
cầu tìm kiếm thông tin, người nhà,...
Các file đính kèm theo tài liệu này:
thuc_trang_kien_thuc_ve_du_phong_dot_quy_nao_cua_nguoi_cao_t.pdf