Thực trạng mô hình quản lý điện nông thôn hà tây trước chuyển đổi mô hình quản lý điện nông thôn theo nghị định 45 của chính phủ

Từ thực tiễn quản lý điện nông thôn ở trên địa bàn tỉnh Hà Tây cho thấy quá trình chuyển đổi mô hình quản lý điện nông thôn từ các mô hình chưa hợp pháp sang các mô hình thực sự là cuộc cách mạng chuyển đổi mô hình quản lý Điện nông thôn từ các mô hình chưa hợp pháp sang các mô hình thực sự là cuộc cách mạng chuyển đổi về phương thức quản lý điện và xây dựng, củng cố các tổ chức kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn đặc biệt là mô hình Hợp tác xã, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, đang tồn tại và có xu hướng phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới nhằm thực hiện đa dạng hoá các hình thức đầu tư và quản lý Điện nông thôn, huy động mọi nguồn lực (vốn, lao động ) tại chỗ cho đầu tư phát triển Điện nông thôn trong điều kiện cả nhà nước và nhân dân còn thiếu vốn, nhu cầu sử dụng điện của nhân dân ở nông thôn ngày càng tăng cao (ở Hà Tây điện năng của khu vực nông nghiệp nông thôn chiếm tỷ trọng khoảng 60% tổng điện năng thương phẩm và mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 15%). Điều này hoàn toàn phù hợp với tinh thần Nghị quyết TW3, Nhgị quyết TW5 khoá IX và thực hiện chống độc quyền trong sản xuất kinh doanh điện năng, tiếp tục thực hiện phương châm “ Nhà nước và nhân dân, Trung ương và địa phương cung là trong việc đầu tư và phát triển Điện nông thôn”.

doc92 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1229 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng mô hình quản lý điện nông thôn hà tây trước chuyển đổi mô hình quản lý điện nông thôn theo nghị định 45 của chính phủ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nhược điểm của các loại hình này là do kinh doanh điện là một loại hình kinh doanh cần có chuyên môn cao, vốn bỏ ra lớn, thu hồi vốn chậm, mà các công ty tư nhân hầu như có số vốn rất ít ỏi, việc đầu tư cho sửa chữa, bảo dưỡng, đầu tư cải tạo nâng cấp lưới điện hầu như không có. Riêng công ty cổ phần còn có thêm nhược điểm là việc xác định giá trị còn lại của lười điện rất khó khăn. Tuy nhiên trong thời gian tới Hà Tây nên tìm ra các biện pháp để có thể phát triển các mô hinh này, bởi vì các mô hình như công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nếu được tổ chức tốt có thể huy động được một số vốn rất lớn ở các tổ chức khác và của nhân dân. Mô hình đại lý bán lẻ điện Hiện nay, việc các công ty điện lực bán điện trực tiếp đến tất cả các hộ dân nông thôn là không thể thực hiện được. Tuy vậy, không thể không chuẩn bị các tiền đề cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao việc quản lý về các công ty điện lực trong điều kiện lâu dài. ở Hà Tây, Công ty Điện lực Hà Tây đang chuẩn bị tiếp nhận lưới điện của một số xã làng nghề, và sẽ thực hiện mô hình đại lý bán lẻ điện năng. Vì vậy Hà Tây cần tham khảo kinh nghiệm của một số tỉnh đã thí điểm. Mô hình đại lý bán lẻ điện đã được thí điểm ở một số tỉnh đồng bằng nam bộ. Nhìn chung hoạt đôngj của các loại đại lý đang thí điểm là rất tốt. Nhân viên đại lý nhiệt tình, làm việc có trách nhiệm. Số hoá đơn tồn thu là rất nhỏ. Trên thực tế các đại lý đã tự ứng tiền nộp cho điện lực với số hoá đơn tồn thu để hưởng thêm tiền thưởng, vì vậy điện lực không bị tồn thu và đại lý cũng vẫn thu được các hoá đơn tồn thu vào tháng kế tiếp. Nhân viên đại lý mong muốn được điện lực tiếp tục bồi huấn thêm các kiến thức cơ bản về kỹ thuật điện năng. Chính quyền và nhân dân các địa phương rất ủng hộ mô hình đại lý vì thực chất các hộ dân trong xã vẫn được ngành điện quản lý trực tiếp nên không phải chịu giá điện cao so với các dạng mô hình quản lý trung gian khác. Kết quả phân tích ở một số tỉnh như Sóc Trăng, Kiên Giang cho thấy với một xã có khoảng 2000 khách hàng sử dụng điện, nếu áp dụng mô hình đại lý bán lẻ, ngành điện có thể tiết kiệm được mỗi năm từ 40 triệu đồng đến 70 triệu đồng cho xã so với mô hình Điện ly quản lý trực tiếp. Thù lao cho đại lý chiếm khoảng 3,7% đến 5,7% doanh thu. Tỷ lệ% của thù lao trên doanh thu với một điện lực hoặc công ty điện lực sẽ giảm xuống nếu áp dụng rộng rãi mô hình đại lý cho nhiều xã vì với những xã phát triển thì tỷ lệ này có giá trị thấp hơn. kinh nghiệm bước đầu cho thấy, quy mô đại lý không nên quá lớn. Trên địa bàn một xã có thể tổ chức từ một đến ba đại lý để tăng tính cạnh tranh. Tuy nhiên mức doanh thu cho một đại lý không nên vượt quá 50 triệu đồng/tháng, thậm chí có thể quy định ở mức thấp hơn. Quy mô đại lý nhỏ có nhược điểm là phải tổ chức nhiều đại lý, tăng đầu mối quản lý cho điện lực, nhưng lại có những ưu điểm cơ bản như sau: Mức ký quỹ thế chấp không lớn nên dễ tuyển chọn được nhân viên đại lý là người địa phương. đại lý quy mô nhỏ, có độ rủi ro thấp về nhiều mặt. Trong trường hợp có rủi ro, Điện lực dễ dàng khắc phục. Mặt khác, tránh được tình trạng đại lý là dạng cai thầu, làm cho nhân viên trực tiếp của đại lý không nhiệt tình và thiếu tinh thần trách nhiệm với công việc được giao, vì mức thu nhập thấp. Quy mô đại lý lớn có ưu điểm là tạo thuận lợi cho điện lực trong quản lý, nhưng lại có nhược điểm như: Chủ đại lý phải là những người giàu trong xã hoặc là những người có tiền từ địa bàn khác đến vì mức thế chấp cao. Đại lý lớn thì độ rủi ro lớn, điện lực khó khăn hơn trong việc khắc phục hậu quả. Đại lý sẽ chuyển thành hình thức cai thầu kém hiệu quả như đã phân tích ở trên. Ưu tiên tuyển chọn người cư trú trên địa bàn xã làm đại lý là rất có lợi vì họ thông thạo địa bàn, hiểu rõ tập quán sinh hoạt và tâm lý người dân sử dụng điện trong khu vực, do đó việc đi lại, ghi thu tiền điện và kiểm tra phát hiện các vi phạm sử dụng điện được dễ dàng. Ngoài ra còn giúp tạo công ăn việc làm cho lao động tại chỗ, và Điển lực dễ nhận được sự đồng tình ủng hộ của chính quyền và nhân dân trong xã. Chính vì vậymà nên áp dụng hình thức tuyển chọn đại lý trên cơ sở chào giá cạnh tranh để giảm chi phí thù lao đến mức hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương dựa trên cơ sở những người tham gia tuyển chọn đáp ứng được các yêu cầu cơ bản về trình độ, năng lực, tư cách đạo đức, mức thế chấp… Chỉ nên áp dụng hình thức thế chấp bằng ký quỹ tiền mặt tại ngân hàng không quá lớn vì nếu không, người dân tại các xã khó có khả năng đáp ứng. Ngoài ra, cũng là để tránh rủi ro, nguy hiểm cho nhân viên đại lý khi mang một số tiền lớn trên đường tới nộp cho điện lực ở địa bàn nông thôn rộng, vắng vẻ. Có thể quy định mức thế chấp nhỏ hơn 30 triệu đồng. Trong trường hợp mức ký quỹ thế chấp nhỏ hơn doanh thu một tháng của khu vực giao cho đại lý thì áp dụng hình thức giao hoá đơn cho đại lý làm nhiều lần trong một tháng. Số lần giao hoá đơn tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi đại lý mà điện lực sẽ quy định. Giá trị một lần giao hoá đơn tối đa chỉ bằng mức tiền ký quỹ của đại lý. Chỉ sau khi đại lý nộp tiền điện của đợt trước đạt tỷ lệ thu róc trên 90% thì mới giao hoá đơn đợt kế tiếp. Công tác quyết toán được thực hiện ngay sau mỗi lần giao hóa đơn và thêm một lần tổng hợp vào cuối tháng. Tiền ký quỹ của Đại lý được giữ ở một số ngân hàng uy tín do Điện lực quy định. Không nên chọn nhiều ngân hàng và chỉ ký gửi tập trung ở Hội sở Ngân hàng tỉnh nằm ở thành phố, thị xã để tiện cho việc quản lý và giao dịch. Tuy Điện lực nắm giữ sổ tiết kiệm và đơn tự nguyện ký quỹ của đại lý, nhưng Điện lực phải thoả thuận với ngân hàng bằng biên bản để đảm bảo trách nhiệm của ngân hàng không cho đại lý rút tiền gốc ký quỹ nếu không có thoả thuận của Điện lực. Tiền ký quỹ của đại lý nên là hình thức gửi tiết kiệm có kỳ hạn nhưng có thể rút ra trước kỳ hạn khi cần thiết. Với hình thức gửi có kỳ hạn sẽ có được mức lãi suất cao, đảm bảo quyền lợi cho đại lý. Tuy nằm trong đại bàn của đại lý nhưng đối với những khách hàng lớn, khách hàng có hoá đơn phân kỳ, Điện lực vẫn quản lý trực tiếp mà không giao cho đại lý để tránh các hiện tượng tiêu cực. Điện lực phải có kế hoạch kiểm tra, phúc tra định kỳ và đột xuất với khu vực giao cho đại lý. Có kế hoạch hoán đổi khâu ghi điện khách hàng để kiểm tra, chống tiêu cực. Riêng khâu thu tiền điện thì cần cố định số khách hàng, sẽ có nhiều thuận lợi nhờ nhân viên đại lý thông thuộc địa bàn và có quan hệ mật thiết với khách hàng trong xã… Điện lực phải có kế hoạch bồi huấn chuyên môn, nghiệp vụ cho các đại lý; chuẩn bị trước các tài liệu, giáo trình để cấp cho các đại lý, đồng thời có chương trình bồi dưỡng, tập huấn thêm trong quá trình hoạt động. Điện lực làm việc trực tiếp với các cấp chính quyền, các đoàn thể và nhân dân ở các xã, các khu vực có đại lý để báo cáo và bàn biện pháp phối hợp giám sát kiểm tra. Vận động chính quyền, đoàn thể và nhân dân địa phương tham gia giám sát, kiểm tra hoạt động của các đại lý, thông báo cho Điện lực những biểu hiện bất thường, những thiếu sót, vi phạm của nhân viên đại lý để có biện pháp chấn chỉnh kịp thời. Tuỳ theo số lượng và quy mô của đại lý trên địa bàn mà Điện lực có phương án bố trí lực lượng dự phòng vừa để hoán đổi khâu ghi điện nhằm mục đích kiểm tra hoạt động của đại lý, vừa để thay thế đại lý không hoàn thành nhiệm vụ được giao hoặc gặp hoàn cảnh đột xuất, bất khả kháng. Về lâu dài cần phải trích khấu hao TSCĐ theo đúng quy định của nhà nước. Hiện nay ở Hà Tây mức trích khấu hao TSCĐ còn tuỳ thuộc vào rất nhiều yếu tố và có rất ít các tổ chức thực hiện trích khấu hao 10% như Nhà nước quy định do lưới điện cũ nát nên tổn thất rất cao, nếu thực hiện đúng quy định thì giá đội lên rất lớn. Cho nên giải quyết vấn đề này cần phải giải quyết được vấn đề tính tổn thất điện năng và đầu tư cải tạo lưới điện. Dưới đây là một số biện pháp để giải quyết vấn đề này. Cần sử dụng vốn hoàn trả lưới điện trung áp nông thôn đúng mục đích để giữ ổn định giá điện nông thôn Ngay sau khi Liên Bộ Tài chính – Bộ Công nghiệp ban hành thông tư 06/2002/TTLT/BCN-BTC ngày 23/8/2001(thay thế thông tư 04/1999/TTLT/BCN-BTC ngày 27/8/1999) để thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại kỳ họp Quốc Hội khoá IX về giao nhận và hoàn trả vốn LĐTANT. UBND tỉnh, Hội đồng định giá tài sản LĐTANT tỉnh Hà Tây đã chỉ đạo các ngành liên quan và các huyện thị xã và hai bên giao nhận thực hiện lập hồ sơ hoàn trả vốn khẩn trương, đồng bộ, đúng trình tự và quy định của Nhà nước. Vì vậy đến 25/10/2002, tỉnh Hà Tây đã hoàn thành việc lập hồ sơ hoàn trả vốn của 100% số xã (286/286) trong diện được xét hoàn trả vốn và đã được Tổng công ty Điện lực Việt Nam kiểm tra và chấp thuận hoàn trả vốn đầu tư của HTX và vốn huy động của dân theo giá trị còn lại của các công trình LĐTANT với số vốn được hoàn trả lớn nhất cả nước (trên 46 tỷ đồng). Hà Tây là tỉnh đầu tiên trong cả nước hoàn thành việc lập hồ sơ và tiếp nhận vốn hoàn trả về địa phương, vượt thời gian theo kế hoạch ban đầu của tỉnh quy định là 8 tháng. Tổng giá trị tiền hoàn trả vốn LĐTANT đã được Tổng công ty Điện lực Việt Nam, công ty Điện lực 1 chuyển toàn bộ (100%) về tỉnh Hà Tây để trả cho 286 xã là 46.031.851.323đồng. Trong đó có 1.703.919.270 đồng vốn huy động của dân và 44.327.932.053 đồng là phần vốn đầu tư của HTX. Để chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương sử dụng vốn hoàn trả LĐTANT đúng mục đích, ngày 14/9/2001 UBND tỉnh Hà Tây đã có chỉ thị số 21/2001/CT-UB và ngày 6/12/2001 Hội đồng định giá tài sản LĐTANT tỉnh Hà Tây đã có hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện hoàn trả và sử dụng vốn hoàn trả LĐTANT trên địa bàn tỉnh Hà Tây trong đó quy định UBND xã chịu trách nhiệm hoàn trả vốn cho dân và sử dụng vốn hoàn trả của HTX và của xã. Chủ tịch HĐND xã giám sát việc hoàn trả vốn cho dân và sử dụng vốn được hoàn trả của xã. Phương án sử dụng vốn hoàn trả của HTX xã do Ban chủ nhiệm HTX xã xây dựng, trên cơ sở bàn bạc dân chủ với dân và do Hội nghị xã viên quyết định, đồng thời báo cáo với thường trực Đảng uỷ, Chủ tich, Phó chủ tịch HĐND xã và UBND xã. Phương án sử dụng vốn hoàn trả phải ưu tiên cho cải tạo lưới điện hạ áp ở địa phương và ứng vốn xây dựng trạm biến áp mới (cho ngành điện vay không tính lãi để xây dựng thêm TBA, sau 3 năm sẽ được ngành điện hoàn trả đầy đủ). Yêu cầu các xã phải kiểm tra toàn bộ lưới điện hạ áp và tập trung mọi nguồn vốn được hoàn trả ưu tiên cải tạo, nâng cấp, tạo điều kiện để giảm gía bán điện đến hộ dân. UBND xã chịu trách nhiệm trình UBND huyện, thị xã phê duyệt các phương án sử dụng phần vốn được hoàn trả. Từ cuối năm 2001 số tiền hoàn trả cho các xã đã được Sở Tài chính Vật giá chuyển về ngân sách các huyện thị xã. Trong gần một năm qua, 240 xã thuộc 14 huyện, thị xã đã lập phương án trình UBND các huyện, thị xã phê duyệt và đã sử dụng 21,403tỷ đồng (chiếm 46,5% số tiền được hoàn trả), trong đó có 68 xã đã thoả thuận cho ngành điện vay để xây dựng TBA với số tiền là:5,689tỷ đồng (chiếm 26,58% số tiền đã sử dụng); số tiền trả nợ cho việc xây dựng các công trình điện là: 4,231 tỷ đồng (chiếm19,77% số tiền đã sử dụng); Đã đầu tư cải tạo lưới điện hạ thế: 4,145 tỷ đồng (chiếm 19,37% số tiền đã sử dụng); Đã dùng vào các công việc khác chưa ưu tiên để đầu tư cải tạo nâng cấp lưới điện hạ áp hiện có là: 7,337 tỷ đồng (chiếm 34,28% số tiền đã sử dụng). Tổng số tiền các xã chưa sử dụng là: 24,628 đồng (chiếm 53,5% số tiền được dự kiến sẽ dùng vào các công việc khác là: 2,892 tỷ đồng. Có 43 xã ở các huyện: Đan Phượng, Chương Mỹ, Phú Xuyên, Quốc Oai chưa lập phương án sử dụng và dự kiến dùng vào việc gì với tổng số tiền: 5,831 tỷ đồng. Có 20 xã đã sử dụng 100% số tiền hoàn trả vốn LĐTANT vào các công việc khác và 5 xã dự kiến sẽ dùng số tiền này vào các công việc khác mà không sử dụng cho việc cải tạo lưới điện hạ áp của xã trong khi nhu cầu đầu tư thực sự là rất lớn và cấp thiết nhằm mục đích giữ ổn định giá cả bán điện sinh hoạt không vượt quá giá trần Chính phủ quy định sau khi Nhà nước điều chỉnh giá bán buôn điện nông thôn phục vụ mục đích sinh hoạt từ 360 đ/KWh lên 429đ/KWh (bao gồm cả thuế giá trị gia tăng) kể từ ngày 1/10/2002 nhưng vẫn quy định giá bán lẻ đến hộ dân nông thôn là <=700đ/KWH. Ví dụ ở xã Tuy Lai huyện Mỹ Đức số tiền được hoàn trả là 281 triệu đồng thì xã đã đầu tư xây dựng kênh mương 150 triệu, xây dựng trường học 100 triệu, còn lại có 31 triệu đầu tư cho tu sửa lưới điện hạ thế của xã. Theo báo cáo của các tổ chức quản lý điện nông thôn và qua điều tra khảo sát lưới điện hạ áp và tỉnh hình quản lý kinh doanh điện ở các xã, thị trấn có giá bán điện sinh hoạt đến hộ trên 630đ/KWh của Điện lực Hà Tây trong thời gian qua cho thấy tổn thất điện năng thực tế tính trong kết cấu giá bán điện đến hộ của các xã còn cao, phần lơn lưới điện hạ áp (gồm các đường trục, nhánh rẽ vào hộ dân, công tơ, trang thiết bị đóng cắt và bảo vệ) của các xã không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật vận hành và kinh doanh (dây chuẩn…) dẫn đến vận hành kém an toàn, tổn thất điện năng tăng cao (trung bình 15-20%, cao 30-40%, cá biệt đến 45% và chất lượng điện xấu (tổn thất điện áp lớn). Qua quá trình sử dụng lại không được bảo dưỡng sửa chữa thường xuyên và cải tạo nâng cấp làm cho lưới điện ngày càng xuống cấp. Đây là nguyên nhân chủ yếu làm cho chi phí tổn thất điện năng cao dẫn tới giá bán điện của các xã này còn cao. Vì vậy để giữ ổn định giá bán điện sinh hoạt đến hộ dân nông thôn đảm bảo vẫn ở mức <=700đ/KWh sau khi nhà nước điều chỉnh tăng giá thì việc sử dụng nguồn vốn hoàn trả LĐTANT cho đầu tư cải tạo nâng cấp lưới điện hạ thế của các xã cần được các địa phương quan tâm trong điều kiện nguồn tích luỹ khấu hao sửa chữa lớn tính trong giá bán điện còn ít, việc huy động nhân dân ở nông thôn đóng góp để cải tạo lưới điện hạ thế gặp nhiều khó khăn. Từ thực tế sử dụng vốn hoàn trả LĐTANT trong thời gian qua, đề nghị các cơ quan chức năng: Hội đồng định giá tài sản LĐTANT, Sở Tài chính Vật giá, Sở công nghiệp, UBND các huyện thị xã,… tăng cường kiểm tra giám sát, tăng cường chỉ đạo kiểm tra, các tổ chức đoàn thể quần chúng và nhân dân địa phương giám sát chặt chẽ việc sử dụng nguồn vốn hoàn trả LĐTANT đúng mục đích, chống tiêu cực, ưu tiên sử dụng cho việc cải tạo lưới điện hạ áp để đảm bảo an toàn, giảm tổn thất điện năng và giữ ổn định giá bán điện đến hộ dân nông thôn không vượt quá giá trần Chính phủ quy định là 700đ/KWh. 2.1 Cần xây dựng công thức xác định chi phí tổn thất điện năng tính trong giá bán điện đến hộ dân ở nông thôn phù hợp. Với mức giá trần Nhà nước đưa ra là 700đ/KWh, trong khi mức bán buôn là 429đ (trước kia là 360đ) thì việc trích khấu hao 10% theo quy định là rất khó khăn cho các tổ chức kinh doanh điện. Trên thực tế theo các số liệu báo cáo thì tổn thất điện năng chiếm một phần lớn chi phí cấu thành giá điện, điều này ảnh hưởng lớn đến mức trích khấu hao, trong khi đó các tổ chức kinh doanh điện một phần thiếu do chuyên môn, phần vì cố tình tính sai mức tổn thất, cho mức tổn thất lên rất cao để tăng giá bán điện. Trước tình hình trên, tỉnh Hà Tây cần xây dựng một công thức tính tổn thất sao cho phù hợp, bắt buộc các tổ chức phải thực hiện. Tuy nhiên, mới có rất ít tài liệu đề cập tới việc xây dựng biểu thức toán học tổng quát giúp cho việc xác định thuận tiện, nhanh chóng và chính xác chi phí tổn thất điện năng tính trong gía bán điện và mối quan hệ giữa giá mua buôn của ngành điện và tổn thất điện năng thực tế với chi phí tổn thất điện năng tính trong giá bán điện đến hộ dân ở nông thôn. Sau khi tham khảo một số bài báo và hỏi ý kiến của các kỹ sư điện, em xin đề cập đến cách tính chi phí tổn thất điện năng mà kỹ sư Nguyễn Đăng Thắng (Phó trưởng chi nhánh điện lực Phú Xuyên, Hà Tây) đưa ra. Bài toán thực tế Giả sử mỗi tháng, HTX mua buôn 10000kWh của ngành điện với giá 360 đ/kWh, sau đó tổ chức bán lẻ đến hộ dân phục vụ cho sinh hoạt thì: Số tiền phải trả cho ngành điện là: 10000kWh x 360 đ/kWh = 3.600.000 đ Nếu không có tổn thất điện năng thì lượng điện năng bán được cho các hộ dùng điện trong xã đúng bằng lượng điện mua buôn của ngành điện, tức là 10.000 kWh. Nhưng vì có tổn thất điện năng, giả thiết là 20%, nên thực tế lượng điện năng bán đến hộ chỉ còn là 80%, tức là: Ab = 10.000 kWh x 80% = 8.000 kWh Như vậy để trả đủ số tiền 3.600.000 đồng cho ngành điện, chưa kể đến các chi phí khác thì giá bán điện đến hộ phải là: đồng/8.0000kWh = 450 đ/kWh Như vậy chi phí tổn thất điện năng (số tiền bị mất mát do tổn thất điện năng) cho 1 kWh điện sinh hoạt là: 450 đ/kWh – 360 đ/kWh = 90 đ/kWh Xây dựng biểu thức tổng quát bằng công thức toán học. Giả sử một xã mua điện của ngành điện trong một tháng với sản lượng là Am kWh với giá mua là Gm. Khi đó tiền phải trả ngành điện là: Tm = Am x Gm Nếu không có tổn thất điện năng thì lượng điện năng bán được cho các hộ dùng điện trong xã là Ab = Am Nhưng vì có tổn thất điện năng DA nên thực tế chúng ta chỉ bán được lượng điện năng là: Ab = Am - DA (kWh) Khi đó giá bán điện đến hộ (ký hiệu là Gb) phải tăng lên bằng giá mua của ngành điện cộng với chi phí tổn thất là: Gb = Gm + GD Trong đó, Gm là giá mua của ngành điện (đ/kWh). GD là chi phí tổn thất điện năng tính theo đ/kWh. Khi chỉ xét tới chi phí tổn thất điện năng, mà chưa tính tới các chi phí khác trong quá trình quản lý kinh doanh điện từ công tơ tổng của trạm biến áp đến công tơ các hộ dân thì: Số tiền thu được theo giá bán Gb với giá sản lượng Ab là Tb =Ab x Gb phải bằng số tiền trả cho ngành điện là Tm = Am x Gm tức là ta có: Tb = Tm ị Ab x Gb = Am x Gm (1) Vì Ab = Am - DA và Gb = Gm + GD nên thay vào công thức (1) trên ta có: (Am - DA) x (Gm + GD) = Am x Gm (2) Sau khi biến đổi ta được:??? Một số ứng dụng từ công thức trên Tính chi phí tổn thất điện năng và giá bán điện đến hộ dân nông thôn ứng với các mức tổn thất điện năng thực tế và giá mua buôn của ngành điện. Công thức toán học trên cho phép tính toán chính xác và nhanh chóng chi phí tổn thất điện năng tính bằng đ/kWh ứng với các mức tổn thất khác nhau hoặc ngược lại. Từ đó có thể lập sẵn thành bảng ứng với từng mức giá mua không đổi, rất tiện lợi. Với cùng một mức giá mua buôn của ngành điện, hệ số tổn thất điện càng cao thì chi phí tổn thất điện năng càng lớn và do đó giá bán điện đến hộ dân ở nông thôn sẽ càng cao và ngược lại. Công thức trên cũng chỉ rõ bản thân chi phí tổn thất điện năng phụ thuộc vào hai thông số là giá mua và tổn thất điện năng thực tế, vì thế khi Nhà nước điều chỉnh tăng gía bán buôn điện phục vụ sinh hoạt ở nông thôn từ 360 đ/kWh lên 429 đ/kWh từ ngày 1-10-2002 (đã tính thuế VAT) thì các tổ chức quản lý bán điện nông thôn không chỉ đơn thuần là lấy giá bán điện sinh hoạt hiện tại đang bán cộng thêm 69 đồng/kWh là có giá bán điện mới. Bởi vì nhà nước vẫn giữ nguyên mức giá trần TT Mức tổn thất điện năng (%) 10 15 20 25 30 35 40 45 50 55 1 Chi phí tổn thất điện năng tính trong giá bán điện khi giá mua của ngành điện là 360 đ/kWh 40 63,53 90 120 154,3 193,8 240 294,5 360 440 2 Chi phí tổn thất điện năng tính trong giá bán điện khi giá mua của ngành điện là 429 đ/kWh 47,67 75,71 107,3 143 183,9 231 286 351 429 524,33 3 Mức chi phí tổn thất điện năng do thay đổi giá mua buôn của ngành điện 7,667 12,18 17,25 23 29,57 37,15 46 56,45 69 84,33 4 Giá bán điện mới (chỉ tính do tăng giá mua và chi phí tổn thất tăng) nếu giá bán điện đến hộ dân trước đó là 600 đ/kWh 676,7 681,2 686,3 692 698,6 706,2 715 725,5 738 753,33 5 Giá bán điện mới (chỉ tính do tăng giá mua và chi phí tổn thất tăng) nếu giá bán điện đến hộ dân trước đó là 650 đ/kWh 726,7 731,2 736,3 742 748,6 756,2 765 775,5 788 803,33 6 Giá bán điện mới (chỉ tính do tăng giá mua và chi phí tổn thất tăng) nếu giá bán điện đến hộ dân trước đó là 700 đ/kWh 776,7 781,2 786,3 792 798,6 806,2 815 825,5 838 853,33 Sử dụng công thức trên để xác định tiền thuế giá trị gia tăng (GTGT) được khấu trừ đối với lượng điện năng dùng cho mục đích khác ngoài sinh hoạt theo công văn số 3298 TC/TCT ngày 05-07-1999 của bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện thuế GTGT đối với hoạt động bán điện của Ban quản lý điện lực huyện, xã, thôn cho các hộ tiêu dùng ở nông thôn. Tiền thuế GTGT được khấu trừ bằng Tiền thuế GTGT tính trong giá bán điện đến hộ trừ đi Tiền thuế GTGT đã trả trong giá mua của ngành điện tại công tơ tổng dùng cho các mục đích khác đã quy đổi có xét đến tổn thất điện năng của lưới điện hạ thế. Tiền thuế GTGT được khấu trừ =GGTGTMxDA%/(100-DA%) (đ/kWh) Trong đó: +GGTGTM là tiền thuế giá trị gia tăng tính trong giá mua buôn của ngành điện (đồng/kWh) +DA%=DA/Am x 100% là tổn thất điện năng của lưới điện hạ thế trong toàn xã, hoặc toàn thôn tính theo phần trăm. Tổng số tiền khấu trừ thuế GTGT được tính theo sản lượng điện năng ghi được ở các công tơ đặt tại các hộ dùng điện cho các mục đích khác ở sau công tơ tổng phía thứ cấp của MBA cấp điện. Ví dụ:Một HTX mua của ngành điện sản lượng điện dùng cho mục đích khác (ngoài mục đích sinh hoạt) tại công tơ tổng ở TBA với giá mua hiện nay là 830 đ/kWh (trong đó giá mua điện chưa có thuế GTGT là 730 đ/kWh, thuế GTGT là 73 đ/kWh) và bán đến hộ dân dùng điện cho kinh doanh dịch vụ với giá bán là 1551 đ/kWh (trong đó giá bán điện chưa có thuế GTGT là 1410 đ/kWh, thuế GTGT tính trong giá bán là 141 đ/kWh). Lưới điện của xã có tổn thất điện năng là 30,3%. Khi hạch toán bán điện và nộp thuế GTGT cho cơ quan thuế địa phương, số tiền phải nộp đối với 1 kWh điện thương phẩm bán đến hộ sẽ là: 141 – 73 x 20/(100-20) = 141 –18,25 = 122,75 đ/kWh Một số biện pháp nhằm giảm tổn thất điện năng để giảm chi phí tổn thất điện năng và giữ ổn định giá bán điện đến hộ dân nông thôn không vượt quá giá trần Chính phủ quy định khi nhà nước tăng giá bán buôn điện phục vụ sinh hoạt từ 360 đ/kWh lên 429 đ/kWh. Như trên đã phân tích chi phí tổn thất điện năng phụ thuộc vào hai biến số là giá mua và tổn thất điện năng thực tế, nhưng giá mua buôn của ngành điện là do Nhà nước quyết định, vì vậy để giảm chi phí tổn thất điện năng các tổ chức quản lý điện nông thôn càng phải nỗ lực áp dụng các biện pháp giảm tổn thất điện năng thực tế. Hiện nay ở nông thôn tổn thất điện năng bao gồm tổn thất do chất lượng kỹ thuật của lưới điện (gọi là tổn thất kỹ thuật) và tổn thất do quản lý (còn gọi là tổn thất thương mại). Để giảm tổn thất kỹ thuật của lưới điện ngoài việc các tổ chức quản lý điện nông thôn ở địa phương phải chủ động huy động các nguồn vốn để đầu tư cải tạo nâng cấp mạng lưới điện hạ thế hiện có còn rất cần sự đầu tư cải tạo lưới điện trung áp nông thôn của các xã đã bàn giao cho ngành điện quản lý nhằm đưa sâu mạng lưới điện trung áp vào trung tâm phụ tải và giảm bán kính cấp điện đến hộ tiêu thụ điện. Từ đó sẽ nâng cao chất lượng điện và giảm tổn thất điện năng. Trong công tác cải tạo lưới điện hạ thế của các địa phương cũng rất cần sự giúp đỡ tư vấn của ngành điện, đặc biệt là các chi nhánh điện để nâng cao hiệu suất chi phí đầu tư. Kinh nghiệm ở một số nơi cho thấy có nhiều xã nhờ được sự giúp đỡ của ngành điện nên chỉ với số vốn đầu tư không lớn nhưng đã nâng cấp và cải thiện cấu trúc của đường dây hạ thế, có tiết diện hợp lý, giảm thiểu tổn thất do rò rỉ điện qua sứ, các mối nối và các điểm tiếp xúc vì vậy đã giảm được khá nhiều thất thoát lưới điện. Để giảm tổn thất thương mại, việc quan trọng nhất là cần hoàn thiện hệ thống đo đếm điện năng và tăng cường công tác kiểm tra xử lý vi phạm sử dụng điện. Hiện nay ở hầu hết các xã, công tơ do các hộ gia đình tự trang bị, trước khi treo lên lưới lại không được kiểm định theo quy định Nhà nước nên đa số không đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật dẫn đến sai số lớn. Tình trạng vi phạm hành lang lưới điện hạ thế và vi phạm sử dụng điện ở nhiều nơi còn nghiêm trọng dẫn đến thất thoát điện năng lớn. Vì vậy các tổ chức quản lý điện nông thôn ở địa phương cần yêu cầu các hộ sử dụng điện phải có công tơ đếm điện chính xác do cơ quan chuyên môn kiểm định, kẹp chì, niêm phong và có công suất phù hợp với phụ tải sử dụng. Công tơ phải đặt trong hòm, có khoá bảo vệ. Tăng cường công tác kiểm tra, phát quang hành lang lưới điện, bảo đảm chất lượng và an toàn. Các tổ chức quản lý điện cần tính toán cụ thể, chính xác tổn thất điện năng làm cơ sở xác định chi phí tổn thất điện năng và xây dựng giá bán điện đến hộ. Không tính vào chi phí tổn thất điện năng lượng điện phục vụ công cộng và các mục đích khác tại thôn xã mà không thu tiền điện (ánh sáng công cộng, trạm xá, trường học, UBND xã, v.v…). Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm nội quy, quy định trong sử dụng điện. Tuyệt đối không được dùng hình thức khoán trả sử dụng điện không qua công tơ. Cần coi trọng bồi dưỡng huấn luyện nghiệp vụ và nâng cao nâng cao năng lực trách nhiệm của người quản lý điện để xác định đúng tổn thất điện năng và mức chi phí tổn thất điện năng tính trong giá bán điện. 2.2 Khuyến khích mô hình cho thuê lưới điện hạ áp Đặt vấn đề Trong những năm qua, Tổng công ty Điện lực Việt Nam đầu tư và tổ chức bán điện tại hơn1344 xã trong toàn quốc. Đến năm 2005, khi các dự án năng lượng nông thôn hoàn thành thì EVN sẽ quản lý bán điện tại nông thôn, nếu EVN trực tiếp bán điện đến hộ dân, thu sẽ không bù đủ chi. Cho thuê tài sản vận hành có thể được xem là một trong những mô hình quản lý điện nông thôn phù hợp trong giai đoạn hiện nay, vì một mặt sẽ giảm được những khó khăn về tài chính, nhân lực của các công ty điện lực, mặt khác sự tham gia của địa phương trong tổ chức bán điện tại nông thôn sẽ góp phần thúc đẩy chương trình điện khí hoá nông thôn, cải thiện tình hình quản lý và cung cấp điện tại nông thôn hiện nay. Còn đối với cá tổ chức kinh doanh điện địa phương chi phí đầu tư bỏ ra ít hơn, khấu hao tài sản một phần sẽ do điện lực bỏ ra. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là đầu tư và cho thuê lưới điện hạ áp. Phạm vi nghiên cứu là bảy xã thuộc tỉnh Quảng Nam. Đây là các xã đang thí điểm cho thuê lưới điện hạ áp, gồm hai xã trung du là Quế Ninh, Quế Phước (huyện Quế Sơn) và năm xã miền núi đặc biệt khó khăn là Tam trà (huyện Núi Thành), Trà Ginag, Trà Bui (huyện Trà My), xã Bốn (huyện Nam Giang). Mục đích nghiên cứu Mục đích nhằm xem xét tính khả thi, điều kiện áp dụng, tính pháp lý của mô hình cho thuê lưới điện hạ áp đối với lưới điện thuộc các xã nông thôn – miền núi do eVN đầu tư hoặc các lưới hạ áp do địa phương đầu tư đã được EVN tiếp nhận. Cơ sở pháp lý hình thành mô hình cho thuê lưới điện Cơ sở pháp lý hình thành mô hình cho thuê lưới điện hạ áp xuất phát từ các văn bản pháp quy sau: Bộ luật dân sự; nghị định 103 ngày 10/ 09/ 1999 của Chính phủ về giao bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước; quyết định số 22/ 1999/ QĐ- TTg ngày 13/ 02/ 1999 của thủ tướng Chính phủ về phê duyệt đề án điện nông thôn; nghị định số 45/ 2001/ NĐ-CP ngày 21/ 08/ 2001 về “Hoạt đọng điện lực và sử dụng điện” và các văn bản pháp quy liên quan khác. Lợi ích của mô hình đối với bên cho thuê và bên đi thuê. Lợi ích về mặt tài chính: Lợi ích về ài chính đối với bên đi thuê là cân đối được chi phí và có tích luỹ. Đối với EVN (bên cho thuê), lợi ích tài chính ở đây thể hiện thông qua khái niệm “chi phí có thể tránh được”, nó được xem là chi phí EVN không phải thanh toán nhờ chọn mô hình quản lý này thay vì chọn mô hình quản lý khác. Dựa trên khái niệm này ta xét ba phương án: Ngành điện bán lẻ trực tiếp (PA1), dịch vụ đại lý bán lẻ (PA2), cho thuê lưới điện hạ áp (PA3). Các số liệu xây dựng các phương án dựa trên số liệu thực tế tổ chức bán điện tại bảy xã tỉnh Quảng nam. Thời điểm phân tích tính từ năm 2001. Các giả định về giá mua điện, giá bán điện, sản lượng điện, tổn thất điện năng là như nhau cho cả ba phương án. Các chi phí khác như: bảo dưỡng sửa chữa, nhân công quản lý, khấu hao tài sản, tiền thuê… được tính phù hợp với số liệu thống kê của Điện lực và địa phương. Mục đích xây dựng ba phương án bán điện nhằm xem xét mức độ giảm chi phí của mô hình cho thuê tài sản so với mô hình ngành điện trực tiếp bán lẻ và mô hình dịch vụ đại lý bán lẻ mà không xét toàn diện các mặt quản lý khác của từng mô hình. Kết quả tính toán được cho trong bảng Phân tích các yểu tố đầu vào, đầu ra của EVN đối với ba phương án Nội dung Ngành điện bán lẻ (PA1) Dịch vụ đại lýbán lẻ(PA2) Cho thuê lưới điện (PA3) Bên cho thuê (EVN) Bên đi thuê (đia phương) 1. Chênh lệch thu nhập Mua điện Bán điện 2.Sản lượng TP (9 năm) 3.Tổng thu nhập sau VAT 4.Tổng chi phí Trong đó Chi phí thuê lưới điện Chi phí khấu hao Chi phí nhân công Chi phí cho đại lý 5.Chi phí cho 1 kWh 6.Lãi (+), lỗ (-) (9 năm) Lãi (+), lỗ (-) (15 năm) Tỷ suất hoàn vốn tài chính và kinh tế của 15 năm 140 360 500 8.579.022 kWh 1.174.059.700 2.489.784.902 0 1.684..275.315 577.344.192 0 290,2 đồng -1.315.725.202 -1.032.788.331 FIRR= -10,62% EIRR= 3,62% 140 360 500 8.579.022 kWh 1.174.059.700 2.338.896.787 0 1.684.275.315 165.912.117 303.439.069 272,6 đồng -1.164.837.086 -733.130.659 FIRR= -8,16% EIRR= 4,06% 95 360+95 8.579.022 kWh 876.351.705 1.684.275.315 0 1.684.275.315 0 0 196,3 đồng -807.923.610 76.211.769 FIRR= 11,32% EIRR= 27,45% 292 360 652 8.579.022 kWh 2.505.780.936 1.563.289.256 876.351.705 0 443.400.340 0 182, 22 đồng 942.491.680 1.960.081.829 Cân đối thu chi và có lãi FIRR= 30,72% EIRR= 33,64% Mô hình EVN bán điện lực trực tiếp đến hộ qua phương án 1 và 2 cho thấy không thể hoàn vốn đầu tư sau 15 năm, tỷ suất nội hoàn tài chính (FIRR) luông âm, tỷ suất nội hoàn kinh tế (EIRR) đạt rất thấp. Trong khi đó, theo phương án cho thuê, bên cho thuê (EVN) hoàn được vốn đầu tư sau 15 năm, tỷ suất hoàn vốn tài chính ( FIR) và kinh tế (EIR) đạt khá cao; bên thuê tài sản (địa phương) luôn cân đối thu chi nhờ áp dụng gia bán điện theo cơ chế giá trần. Lợi ích mà mô hình đem lại cho bên cho thuê và bên đi thuê rất lớn được thể hiện qua tỷ suất nội hoàn tài chính là 30,72%, tỷ suất nội hoàn kinh tế là 33,64%. Các lợi ích khác qua thực hiện mô hình cho thuê lưới điện Ngoài lợi ích về tài chính, các lợi ích khác mà mô hình đem lại chô bên cho thuê và bên đi thuê như sau: Bên cho thuê (EVN) ngoài việc giảm được chi phí còn có sự tham gia của địa phương trong vận hành và kinh doanh bán điện tại nông thôn, nhờ đó góp phần giải quyết các khó khăn về tài chính, nhân lực cho EVN trong quá trình thực hiện chương trình điện khí hoá nông thôn tại Việt Nam. Bên đi thuê (địa phương) , ngoài việc cân đối thu chi và có lãi, mô hình đã tạo ra bước tiến mới cả trong quản lý và cung cấp điện nông thôn như: Thực hiện giá bán điện đến hộ dân ở nông thôn thấp hơn hoặc bằng giá trần, tỷ lệ tổn thất điện năng dao động tử 5% đến 12%; tỷ lệ thu tiền điện rất cao, có nơi đạt 100%. Phương pháp tính đơn giá cho thuê Qua việc chọn đơn giá cho thuê áp dụng tại bảy xã thuộc tỉnh Quảng nam, phương pháp tính đơn giá cho thuê cần xuất phát từ bốn nguyên tắc cơ bản sau: Đơn giá thuê tính theo kWh nhằm không làm biến động đến biên chi phí và đảm bảo cho bên đi thuê có thể bán điện đến hộ dân ở nông thôn theo giá trần Đơn giá cho thuê phải bảo đảm được thời gian hoàn vốn cho bên đầu tư theo điều kiện vay tín dụng. Lúc đó công thức tính đơn giá cho thuê là: Đơn giá cho thuê phải bảo đảm cho bên đi thuê trang trải đủ chi phí khi bán điện theo giá trần Đơn giá cho thiê áp dụng thống nhất cho các xã khi dự án có nhiều xã được đầu tư trên cùng một địa bàn (tỉnh, huyện) là đơn giá cho thuê tính được thấp nhất của xã có chi phí cao nhất, hay…… Trong đó.. là đơn giá cho thuê tính theo công thức (1.10 của xã thứ j trong m xã được đầu tư. Các điều kiện áp dụng mô hình cho thuê lưới điện hạ áp Qua thực tiễn áp dụng mô hình cho thuê tài sản tại bảy xã thuộc tỉnh Quảng Nam có thể rút ra kết luận: Các xã nông thôn miền núi đều có thể áp dụng mô hình cho thuê tài sản. Tuy nhiên, cần có điều kiện cơ bản sau: Xã mới được đầu tư và Điện lực chưa thể tổ chức bán lẻ đến hộ vì sẽ có phản ứng khi chuyển từ giá bán bậc thang sang áp dụng giá bán điện trần hoặc các xã bàn giao lưới điện hạ áp cho Điện lực quản lý và đồng ý cho thuê lại để tổ chức bán điện. Pháp nhân đi thuê phải dược tổ chức phù hợp với điều kiện phát triển văn hoá xã hội của các xã. Đối với các huyện miền núi, pháp nhân đi thuê phải là đơn vị kinh tế cấp huyện; đối với các xã thuộc huyện trung du, đồng bằng có các điều kiện văn hoá xã hội phát triển hơn, pháp nhân đi thuê có thể là các hợp tác xã điện năng hoặc đa dịch vụ. Trợ giúp ban đầu của Điện lực khi tổ chức bàn giao lưới điện để địa phương quản lý vận hành và tổ chức bán điện theo quy trình kinh doanh điện năng. Có sự ủng hộ và tham gia của các cấp chính quyền địa phương. Sự tham gia của địa phương trong khi triển khai mô hình cho thuê lưới điện là cần thiết, không chỉ phù hợp với Quyết định 22 của Chính phủ mà còn liên quan đến sự quản lý của nhà nước về điện: +Thống nhất quản lý về giá bán điện. +Thống nhất quản lý về hoá đơn, sổ sách theo dõi kinh doanh, mở sổ và ghi chép hạch toán kế toán. +Thống nhất kiểm tra thanh tra.. Kết luận Dự án năng lượng nông thôn do Ngân hàng Thế giới tài trợ đầu tư cả đường dây hạ áp và công tơ đến hộ cho các xã, dự kiến giai đoạn tiếp theo sẽ tiếp nhận và nâng cấpcác lưới điện ạh áp kém chất lượng của các xã đang có điện nhằm giảm tổn thất điện năng, nâng cao chất lượng điện năng. Mô hình cho thuê lưới điện hạ áp sẽ mở ra cơ hội đầu tư và tổ chức bán điện đến hộ dân ở nông thôn của EVN đa dạng hơn. Vai trò đầu tư của EVN sẽ được mở rộng đồng thời vai trò quản lý nhà nước về điện của chính quyền địa phương cũng cần thiết không kém trong tiến trình đẩy mạnh chương trình điện khí hoá và làm lạnh mạnh hơn tình hình kinh doanh điện ở nông thôn Việt Nam hiện nay. Các tổ chức cần nhanh chóng hoàn thành việc ký hợp đồng với hộ dân nông thôn theo đúng pháp luật. Hai mục tiêu lớn của việc chuyển đổi mô hình quản lý điện nông thôn mà Nghị định 45 CP của Chính phủ đưa ra là đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người bán điện và đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người mua điện, hai mục tiêu này được thể hiện bằng hợp đồng mua bán điện. Nhưng trong thực tế Hợp đồng mua bán điện đã không thực hiện hết được vai trò của nó, theo kết quả báo cáo kiểm tra của tỉnh Hà Tây thì chỉ có từ 15%-20% các tổ chức thực hiện ký hợp đồng đến các hộ dân nông thôn. Tại sao lại xảy ra một thực tế như vậy? Như các hàng hoá khác, điện được mua bán thông qua hợp đồng. Tuỳ theo mục đích sử dụng, đó có thể là hợp đồng kinh tế hay hợp đồng dân sự (điện dùng cho sinh hoạt thì ký hợp đồng dân sự, còn điện dùng cho các mục đích khác thì ký kết hợp đồng kinh tế). Song, điện được xác định là một loại “hàng hoá đặc biệt”. Yêu cầu trước tiên trong lĩnh vực mua bán và sử dụng điện là phải đảm bảo an toàn không chỉ cho người mua, người bán, mà cho cả xã hội. Đặc điểm nổi bật của hợp đồng, ngoài việc thực hiện nghiêm ngặt pháp luật quản lý chuyên ngành điện, thể hiện tập trung ở Nghị định 45/2001/ND – CP ngày 02/8/2001 của Chính phủ về hoạt động điện và sử dụng điện. Trong phần căn cứ pháp lý của bản hợp đồng mua bán điện, sau khi xác định căn cứ pháp luật chung của hợp đồng, các hợp đồng mua bán điện phải nêu căn cứ Nghị định 45/2001/NĐ - CP ngày 02/8/2001 của Chính phủ về hoạt động điện. Trong các bản hợp đồng kinh tế về điện của một số Công ty điện lực không thể hiện đúng theo tinh thần trên. Ví dụ các hợp đồng kinh tế hiện hành của Công ty điện lực Hà Nội lại nêu: “…Căn cứ vào quy trình quy phạm của bên bán điện…”. Điều này không chuẩn về pháp lý bởi hai lẽ: bên bán điện là Công ty điện lực – cơ quan kinh doanh, không có thẩm quyền ban hành những văn bản pháp luật đặt ra cho mọi người dân phải thực hiện. Mặt khác, trong lĩnh vực hoạt động điện có rất nhiều văn bản pháp quy, mỗi loại điều chỉnh một lĩnh vực hoạt động cụ thể. Nếu không xác định rõ sẽ khó khăn trong điều chỉnh xử lý khi thực hiện hợp đồng mua bán điện. Nên chăng cần sửa lại: “Căn cứ theo Nghị định 45/2001/NĐ-CP ban hành ngày 02/8/2001 của Chính phủ”. Trong bản “hợp đồng mẫu” dùng cho mua bán điện sinh hoạt do Bộ Công nghiệp ban hành ở điều 7, khoản 6, mục C lại xác định cho bên mua điện như sau: “…Chịu trách nhiệm quản lý từ đầu dây ra của công tơ vào nhà (đối với công tơ đặt ở ngoài nhà), quản lý từ đoạn dây vào đến công tơ (kể cả công tơ) thuộc địa phận quản lý của bên mua điện (đối với công tơ đặt trong nhà)…”. Cần làm rõ trách nhiệm pháp lý của chiếc công tơ đặt ngoài nhà (thực tế phần lớn đang đặt ở các cột điện ở ngoài phố. Rõ ràng cả công tơ và đoạn dây từ công tơ ra kéo vào đến địa phận nhà ở khách hàng không thể đặt ra chỉ có khách hàng, người dùng điện phải có trách nhiệm bảo vệ vì toàn bộ tài sản đó nằm ở ngoài xã hội, không trong phạm vi quản lý của người mua điện. Vì thế làm sao đảm bảo không có hiện tượng trộm cắp điện, kể cả lấy trộm công tơ và đoạn dây dẫn đó của kẻ gian. Trầm trọng hơn nếu đoạn dây đó đang mang điện bị đứt làm chết người trên đường. Ai sẽ chịu trách nhiệm? Chẳng lẽ lại quy cho khách hàng mua điện phải chịu trách nhiệm pháp lý trước các hậu quả trên. Điều này cần sớm xác định lại đảm bảo tính công bằng và khách quan. Trong điều 7, khoản 9, mục C của bản “hợp đồng mẫu” của Bộ công nghiệp có nêu: “Nếu bên mua điện có hành vi trộm cắp điện dưới mọi hình thức thì ngoài việc xử lý theo quy định của pháp luật, bên mua điện phải bồi thường thiệt hại cho bên bán điện bằng giá trị phần điện năng lấy cắp nhân với mức giá sinh hoạt bậc thang cao nhât”. ở điều này cũng cần phải làm rõ. Theo quy định của pháp luật, hành vi vi phạm bị xử lý một lần. Nếu trộm cắp điện là vi phạm vào pháp luật quản lý hành chính Nhà nước về điện thì sẽ bị xử lý theo quy định cụ thể của từng loại hành vi. Ngoài ra kẻ vi phạm phải bồi thường thiệt hại dân sự cho người bị vi phạm, trên cơ sở tính toán thực tế thiệt hại cụ thể do hành vi vi phạm gây ra. Lượng điện vi phạm phải được tính theo giá luỹ tiến cụ thể mà kẻ vi phạm đã vi phạm để trả đủ cho bên bán điện. Như vậy mới đảm bảo tính khách quan của việc đền bù thiệt hại dân sự theo pháp luật quy định và mới có tác dụng đối với người vi phạm. Cũng trong bản “hợp đồng mẫu” trên ở điều 8 có nêu: “…Trường hợp phát sinh tranh chấp, hai bên giải quyết bằng cách tự thương lượng. Nếu hai bên không tự giải quyết được thì việc tranh chấp sẽ được đưa tới Sở Công nghiệp. Sau khi có kết luận của Sở công nghiệp, hai bên không nhất trí thì sẽ đưa vụ việc ra toà án giải quyết theo quy định của pháp luật…”. Như trên đã xác định, đã là hợp đồng thì phải tuân thủ theo pháp luật hợp đồng. Mà pháp luật hợp đồng quy định mọi vướng mắc tranh chấp hai bên (chủ thể hợp đồng) không tự giải quyết được thì có thể đưa ra toà dân sự đối với hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế thì do toà kinh tế phán quyết. Nghiêm cấm các cơ quan tổ chức khác can thiệp vào quan hệ hợp đồng. Khoản 1, điều 47 của Nghị định 45/2001/NĐ - CP ngày 02/8/2001 cũng quy định rõ ở các điểm a, b, c, cụ thể ở điểm b có nêu: “Tổ chức cá nhân có hành vi vi phạm hợp đồng sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật hợp đồng”. Sở Công nghiệp là cơ quan giúp chính quyền địa phương quản lý hành chính Nhà nước trong lĩnh vực công nghiệp, trong đó có điện, chỉ được quyền điều chỉnh xử lý những vi phạm về quản lý hành chính Nhà nước trong lĩnh vực công nghiệp điện. Cơ quan này không có chức năng hoà giải trong quan hệ dân sự, mà chỉ xử lý khi có vi phạm vào quy định của nhà nước. ậ đây có sự lẫn lộn về thẩm quyền, cần xem xét, hướng dẫn xử lý theo đúng pháp luật. Điều cần lưu ý là quan hệ hợp đồng mua bán điện sẽ chịu sự quản lý điều chỉnh bởi hai quan hệ pháp luật: quan hệ kinh tế dân sự, thể hiện bằng pháp luật hợp đồng (thông qua bộ luật dân sự và pháp luật hợp đồng kinh tế) và quan hệ quản lý hành chính Nhà nước chuyên ngành điện (thông qua Nghị định 45/2001/NĐ - CP). Bởi thế, khi thực thi áp dụng nếu lẫn lộn giữa hai quan hệ pháp luật đó sẽ dẫn đến triệt tiêu, vô hiệu hoá pháp luật. Nên chăng cần tổ chức hội thảo tập huấn phổ biến rộng rãi cho mọi người hiểu được đầy đủ yêu cầu này, trước hết là những người làm công tác quản lý thực thi trong lĩnh vực hoạt đồng điện và tiêu dùng điện Một số kiến nghị Các ngành: Công nghiệp, Điện lực cần giúp đỡ các địa phương tiếp tục hoàn thiện các mô hình quản lý điện nông thôn hợp pháp và phối hợp với cá ngành Tài chính-Vật gía, Công an, Cục Thuế, Thanh tra Nhà nước tỉnh, thanh tra các huyện thị xã cần đi kiểm tra tình hình quản lý kinh doanh bán điện hiện nay ở các xã phát sinh giá bán điện trên 700 đ/kWh để giúp cá xã thực hiện đúng quy định của nhà nước, kịp thời uốn nắn những sai phạm, yếu kém trong công tác quản lý sử dụng điện ở địa phương. Kiên quyết sử lý một số trường hợp điển hình vi phạm các quy định về công tác quản lý và thực hiện giá bán điện ở các xã, thị trấn. Các cơ quan thông tin đại chúng cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền để các tổ chức quản lý điện nông thôn và nhân dân thực hiện tốt giá bán điện ở nông thôn theo quy định của Chính phủ, làm cho nhân dân hiểu được việc ký hợp đồng với các tổ chức bán điện là nhằm đảm bảo quyền lợi cho họ. Nên biểu dương những địa phương làm tốt và phê phán các tập thể, cá nhân làm không đúng với quy định của nhà nước góp phần giữ ổn định tình hình an ninh chính trị xã hội, đảm bảo lợi ích chính đáng của hộ sử dụng điện ở nông thôn. Ngành điện cần tiếp tục quan tâm cải tạo lưới điện trung áp, tranh thủ mọi nguồn vốn đầu tư để cải tạo và phát triển lưới điện trung thế của các xã, thị trấn xây dựng đến nay đã cũ nát nhằm nâng cao chất lượng điện và giúp các xã giảm tổn thất điện năng. Giúp đỡ di chuyển cac TBA trước đây các xã xây dựng không hợp lý vào trung tâm phụ tải và thay đổi công suất MBA cho phù hợp với phụ tải để tránh quá tải gây cháy máy; tiếp tục mở các lớp đào tạo công nhân quản lý điện nông thôn và giúp đỡ kiểm định công tơ phụ cho nông thôn theo giá bảo trợ. Về phía các xã phải sử dụng nguồn vốn hoàn trả LĐTANT vào cải tạo lưới điện. Đề nghị các cơ quan chức năng tăng cường chỉ đạo kiểm tra, các tổ chức đoàn thể quần chúng và nhân dân địa phương giám sát chặt chẽ việc sử dụng nguồn vốn hoàn trả LĐTANT Các tổ chức quản lý điện nông thôn cần tăng cường công tác quản lý để giảm tổn thất, hạch toán tài chính đúng đủ, công khai với hộ dùng điện. Để giảm tổn thất kỹ thuật của lưới điện các xã, thị trấn phải chủ động huy động các nguồn vốn để đầu tư cải tạo nâng cấp mạng lưới điện hạ thế hiện có làm cho đường dây có tiết diện hợp lý, khắc phục tối đa sự rò rỉ điện qua sứ, tại các mối nối và các điểm tiếp xúc. Để giảm tổn thất thương mại cần hoàn thiện hệ thống đo đếm điện năng và tăng cường công tác kiểm tra xử ly vi phạm sử dụng điện. Yêu cầu các hộ sử dụng điện phải có công tơ đếm điện chính xác do cơ quan chuyên môn kiểm định Điện lực cần hỗ trợ giá cho các tổ chức trong việc kiểm định công tơ đo điện. Hiện nay giá kiểm định công tơ còn rất cao. Kết luận Từ thực tiễn quản lý điện nông thôn ở trên địa bàn tỉnh Hà Tây cho thấy quá trình chuyển đổi mô hình quản lý điện nông thôn từ các mô hình chưa hợp pháp sang các mô hình thực sự là cuộc cách mạng chuyển đổi mô hình quản lý Điện nông thôn từ các mô hình chưa hợp pháp sang các mô hình thực sự là cuộc cách mạng chuyển đổi về phương thức quản lý điện và xây dựng, củng cố các tổ chức kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn đặc biệt là mô hình Hợp tác xã, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân,… đang tồn tại và có xu hướng phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới nhằm thực hiện đa dạng hoá các hình thức đầu tư và quản lý Điện nông thôn, huy động mọi nguồn lực (vốn, lao động…) tại chỗ cho đầu tư phát triển Điện nông thôn trong điều kiện cả nhà nước và nhân dân còn thiếu vốn, nhu cầu sử dụng điện của nhân dân ở nông thôn ngày càng tăng cao (ở Hà Tây điện năng của khu vực nông nghiệp nông thôn chiếm tỷ trọng khoảng 60% tổng điện năng thương phẩm và mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 15%). Điều này hoàn toàn phù hợp với tinh thần Nghị quyết TW3, Nhgị quyết TW5 khoá IX và thực hiện chống độc quyền trong sản xuất kinh doanh điện năng, tiếp tục thực hiện phương châm “ Nhà nước và nhân dân, Trung ương và địa phương cung là trong việc đầu tư và phát triển Điện nông thôn”. Tuy nhiên quá trình này sẽ gặp không ít khó khăn do đụng chạm đến quyền lợi của một số cá nhân, một vài nhóm người thậm chí có cả một số ít cán bộ đang được hưởng lợi từ hình thức quản lý điện hiện nay (nhất là mô hình giao thầu khoán trắng, người quản lý điện khồn bị kiểm tra giám sát về thu nhập nên có nơi thu nhập rất cao so với khối lượng quản lý nhưng lại không quan tâm đầu tư phát triển lưới điện). Trong quá trình chuyển đổi cũng cần phải giải quyết một số vấn đề vướng mắc phát sinh như phương pháp xác định giá trị tài sản còn lại của tài sản lưới điện hạ áp, xử lý vấn đề vốn đầu tư do một số cá nhân đã bỏ một phần vào cải tạo lưới điện hạ áp (phần tài sản chủ yếu vẫn là của tập thể) để được làm quản lý điện, trình tự thủ tục thành lập Doanh nghiệp tư nhân, Công ty cổ phần quản lý điện nông thôn,…, tổ chức bộ máy của HTX tiêu thụ điện năng, củng cố cải tạo lưới điện để quản lý kinh doanh và tích luỹ đầu tư, xây dựng cơ chế chính sách huy động vốn để phát triển lưới điện hạ áp sau chuyển đổi,.vv… Vì vậy rất cần thiết tiến hành làm thí điểm để rút kinh nghiệm trong tổ chức chỉ đạo, thực hiện và xây dựng đồng bộ các văn bản hướng dẫn. Do năng lực của mình còn hạn chế, thời gian thực tập ngắn nên luận văn của em có thể còn nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự quan tâm sửa chữa của thầy! Danh sách các từ viết tắt CBCNV Cán bộ công nhân viên chức EVN Điện lực Việt Nam HTX Hợp tác xã HTXDVĐN Hợp tác xã dịch vụ điện năng HTXDVTH Hợp tác xã dịch vụ tổng hợp KHTSCĐ Khấu hao tài sản cố định LĐTANT Lưới điện trung áp nông thôn MHQL Mô hình quản lý PT-TH Phát thanh, truyền hình PPKTT Phương pháp khấu trừ thuế QLĐNT Quản lý điện nông thôn SCL Sửa chữa lớn SCN Sửa chữa nhỏ SXKD Sản xuất kinh doanh TBA Trạm biến áp TNHH Trách nhiệm hữu hạn UBND Uỷ ban nhân dân Danh mục tài liệu tham khảo Nghị định số 45/2001/NĐ-CP ngày 2/8/2001 của Thủ tướng Chính phủ về hoạt động điện lực và sử dụng điện Nghị định số 54 Thông tư liên tịch số 01/1999/BVGCP-BCN của Ban Vật giá Chính phủ và Bộ Công nghiệp ngày 10/2/1999 hướng dẫn thực hiện giá bán điện tiêu dùng sinh hoạt đến hộ dân nông thôn Quyết định số 27/2002/QĐ-BCN ngày 18/6/2002 của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp về việc ban hành quy định, điều kiện, trình tự và thủ tục cấp giấy phép hoạt động điện lực Chỉ thị số 1615/CV-EVN-KD&ĐNT ngày 25/4/2003 của Tổng giám đốc Tổng công ty điện lực Việt Nam về việc đẩy mạnh hỗ trợ các địa phương chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý điện nông thôn Quyết định số 491 QĐ/UB ngày 22/4/2003 của UBND tỉnh Hà Tây về việc ban hành chỉ tiêu chuyển đổi mô hình quản lý điện nông thôn Quyết định số 494 QĐ/UB của UBND tỉnh Hà Tây ngày 22/4/2003 về việc Ban hành quy định về chuyển đổi mô hình quản lý điện nông thôn tỉnh Hà Tây Giáo trình Hiệu quả và Quản lý dự án nhà nước, TS.Mai Văn Bưu chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội-2001 Giáo trình Khoa học quản lý, chủ biên TS.Đoàn Thị Thu Hà - TS.Nguyễn Thị Ngọc Huyền, nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội-2003 Luật gia Tuấn Đức, Để thực thi hợp đồng theo đúng Pháp Luật, Tạp chí Điện và Đời sống, số 45, tháng 11 năm 2002, trang 30 KS. Nguyễn Đăng Minh, Phó giám đốc Điện lực Hà Tây, Kinh nghiệm giúp đỡ các địa phương chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý điện nông thôn của Điện lực Hà Tây, tạp chí Điện và Đời sống, số 58+59, tháng 2+3 năm 2004, trang 10 KS. Nguyễn Đăng Thắng, Chuyển đổi mô hình quản lý điện nông thôn, Báo nhân dân, số 2, ngày 23/6/2002, trang 2 Thạc sỹ Đoàn Tranh, Mô hình cho thuê lưới điện hạ áp-một hình thức đầu tư và tổ chức bán điện tại nông thôn, tạp chí Điện lực, số 5, tháng 5 năm 2002, trang 9 mục lục Phần mở đầu 1 Chương i:Cơ sở lý luận 2 I. Khái niệm, vai trò, yêu cầu của mô hình quản lý điện nông thôn 3 Khái niệm mô hình quản lý điện nông thôn 3 Các yêu cầu đối với mô hình quản lý điện nông thôn. 3 Vai trò của mô hình quản lý điện nông thôn 3 Tại sao phải chuyển đổi mô hình quản lý điện nông thôn hiện nay 5 II. Mô hình quản lý điện nông thôn theo tinh thần nghị định 45 CP của chính phủ 6 1. Về đối tượng chuyển đổi mô hình: 6 2. Về nội dung chuyển đổi: 6 3. Yêu cầu của quá trình chuyển đổi mô hình: 7 Thực chất của mô hình mạng lưới điện nông thôn theo tinh thần của nghị định 45/NĐ-CP. 8 Các mô hình mạng lưới điện nông thôn 9 III. Mô hình quản lý điện nông thôn ở một số tỉnh 12 Tỉnh Thái Bình 12 Tỉnh Hải Dương 13 3.Tỉnh Bắc Kạn 16 Chương ii: Thực trạng mô hình quản lý điện nông thôn tỉnh hà tây 19 I. Cơ quan quản lý điện nông thôn tập trung của Hà Tây 19 II. Thực trạng mô hình quản lý điện nông thôn Hà Tây trước chuyển đổi mô hình quản lý điện nông thôn theo nghị định 45 của Chính Phủ 20 III. Mô hình quản lý điện nông thôn Hà Tây sau chuyển đổi 24 IV. Ví dụ về một phương án kinh doanh bán điện của một tổ chức kinh doanh điện (Hồ sơ xin cấp giấy phép hoạt động điện lực của HTX nông nghiệp Dương Liễu) 35 1. Mục đích yêu cầu 35 2. Công tác tổ chức 35 3 .Công tác quản lý 36 4. Biện pháp chống tổn hao. 36 5. Chế độ 6. Công tác hạch toán và cơ cấu giá bán điện đến hộ. V.Nhân xét, đánh giá 1. Thành tựu, nguyên nhân 2. Những tồn tại, nguyên nhân Chương iii: giải pháp và kiến nghị I. Giải pháp 43 Tiếp tục khuyến khích phát triển các mô hình quản lý điện nông thôn cho phù hợp. 1.1 Mô hình hợp tác xã dịch vụ tổng hợp (HTX DV tổng hợp) 1.2 Mô hình HTX dịch vụ điện năng 1.3 Một số loại hình doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 1.4 Mô hình đại lý bán lẻ điện 45 Về lâu dài cần phải trích khấu hao TSCĐ theo đúng quy định của nhà nước. 2.1 Cần xây dựng công thức xác định chi phí tổn thất điện năng tính trong giá bán điện đến hộ dân ở nông thôn phù hợp. 2.2 Khuyến khích mô hình cho thuê lưới điện hạ áp Các tổ chức cần nhanh chóng hoàn thành việc ký hợp đồng với hộ dân nông thôn theo đúng pháp luật. II. Một số kiến nghị Kết luận Danh sách các từ viết tắt i Mục lục các hình vẽ và bảng ii Tài liêu tham khảo iii

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0028.doc
Tài liệu liên quan