Mấy năm gần đây còn thấy xuất hiện một số loại hàng sản xuất từ nước ngoài mang nhãn mác hàng nội nhập vào để trà trộn tiêu thụ trong nước chủ yếu là những mặt hàng có chất lượng được người tiêu dùng ưa chuộng như quạt bàn, giày dép. Vừa qua, lực lượng cảnh sát kinh tế Hà Nội, Thái Bình, Thừa Thiên - Huế. còn phát hiện một loại hàng giả là những túi nilon in mác nhãn bột ngọt Ajinomoto được nhập qua đường biên giới phía Bắc vào để bán cho những ổ nhóm làm bột ngọt giả.
Đáng chú ý còn có hình thức liên doanh làm hàng giả như trường hợp Công ty Golden Desire (Hồng Kông) liên doanh với Công ty LOTABA và Công ty KHATACO với hình thức Công ty Golden Desire đưa nguyên vật liệu vào để sản xuất thuốc lá Malbro giả, Công ty Golden Desire chịu trách nhiệm tiêu thụ ra nước ngoài, Công ty LOTABA và Công ty KHATOCO nhận tiền gia công từ 8 đến 16 USD/thùng (500 bao). Liên doanh này đã sản xuất tiêu thụ trên 20 triệu bao mới bị phát hiện.
Nguy hại là loại hàng giả độc hại mà bọn tội phạm không cần biết đến tính mạng người sử dụng, chỉ vì lợi nhuận, bọn chúng làm những loại hàng giả gây tác hại trực tiếp đến sức khoẻ của người tiêu dùng như pha thuốc trừ sâu, phân đạm urê vào rượu để tăng nồng độ rượu (alcol), dùng da trâu nhựa đường nấu làm cao hổ cốt, cao khỉ toàn tính, dùng phẩm hồng hoà vào nước máy giả làm thuốc bổ B12.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng nạn hàng giả và gian lận thương mại ở Việt Nam thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẫn là cơ bản nhất.
1. Nguyên nhân khách quan.
Do cơ chế thị trường phát triển, bên cạnh những mặt tích cực, những thành tựu mà nó đem lại cho nền kinh tế nước ta thì nó ngày càng bộc lộ những hạn chế, những hậu quả to lớn cho nền kinh tế mà không phải một sớm một chiều mà khắc phục được. Hàng giả là một trong những hạn chế đó.
Do trình độ dân trí nước ta còn thấp cộng thêm lối suy nghĩ cá nhân hẹp hòi chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt mà dẫn đến động cơ làm hàng giả.
Do cơ sở vật chất kỹ thuật nước ta nói chung là thấp kém, những thiết bị, máy móc chuyên dụng cho công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hoá là không có. Các công nghệ tiên tiến để bảo vệ hàng hoá như mã số, mã vạch, nhãn hiệu... hầu như chưa phát triển.
2. Nguyên nhân chủ quan.
Thứ nhất, do hệ thống pháp luật của nhà nước ta về công tác đấu tranh chống sản xuất kinh doanh buôn bán hàng giả còn tản mạn, một số quy định chưa chặt chẽ, thậm chí còn chồng chéo gây khó khăn, cản trở công tác kiểm tra xử lý.
Thứ hai, do việc quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các cấp các ngành quản lý sản xuất kinh doanh có liên quan còn lỏng lẻo thiếu sự kiểm tra kiểm soát hoặc kiểm tra kiểm soát không chặt chẽ không khách quan, không chính xác... Hơn nữa cá doanh nghiệp chưa có những biện pháp hữu hiệu để bảo vệ cho sản phẩm của mình.
Thứ ba, nguyên nhân xuất phát từ người tiêu dùng, một phần do họ không có đủ những thông tin về sản phẩm của các doanh nghiệp, một phần do họ chưa có ý thức cao trong công tác chống sản xuất và buôn bán hàng giả. Người tiêu dùng ít liên hệ với các cơ quan chức năng như cục quản lý thị trường, cảnh sát kinh tế... để cung cấp những thông tin về hàng giả.
Tất cả những nguyên nhân trên đã chứng tỏ vì sao nạn sản xuất và buôn bán hàng giả vẫn không hề giảm bất chấp mọi nỗ lực, cố gắng của Nhà nước, của các cơ quan chức năng trong công tác chống sản xuất và buôn bán hàng giả.
I.2. Thực trạng gian lận thương mại ở nước ta hiện nay
Hiện nay hành vi gian lận thương mại phát sinh phát triển đa dạng, phức tạp với những thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn, nổi bật là tình hình nhập hàng sai khai báo như có ít khai nhiều không có hàng xuất vẫn khai có hàng hoặc khai tăng giá để hưởng nhiều kim ngạch xuất khẩu, tình hình nhập thừa, nhập hàng đã qua sử dụng trốn thuế; phát hiện nhiều vụ vận chuyển chứa hàng ngoại, không có chứng từ nhập, bán hàng không lập hoá đơn xuất khẩu, vi phạm chế độ chứng từ hoá đơn sổ sách trốn thuế. Thị trường trong nước xuất hiện nhiều hàng hoá vi phạm nhãn hiệu sản phẩm, không có giấy phép không đăng ký chất lượng, không có giấy chứng nhận vệ sinh thực phẩm...
Hàng ngoại thông qua hành vi gian lận thương mại và buôn lậu đang tràn ngập thị trường nội địa Việt Nam, bao gồm đủ loại từ hàng cao cấp đắt tiền cho đến những hàng tiêu dùng bình thường, từ xe hơi, xe máy, ti vi, máy đông lạnh... cho đến rượu, bia, thực phẩm, thuốc lá...
Một số ví dụ điển hình:
- Mặt hàng giấy in báo, giấy thường thuế suất 30-40% chủ hàng khai báo giấy cao cấp (thuế suất chỉ 10%).
- Mặt hàng ôtô: có trọng tải từ 5 đến dưới 10 tấn khi nhập khẩu phải chịu thuế suất 50%, chủ hàng man khai thành xe chuyên dùng đông lạnh, xe có trọng tải trên 10 tấn chỉ chịu mức thuế suất 10-30% v.v...
- Một số doanh nghiệp lợi dụng quy chế cho phép không phải nộp thuế nhập khẩu đối với các loại hàng "Nhập nguyên liệu, tái sản xuất sản phẩm" để nhập khẩu hàng gia công xuất khẩu nhưng lại tiêu thụ nội địa.
- Lợi dụng chính sách khuyến khích phát triển "nội địa hoá xe máy" để nhập phụ tùng rời, phụ tùng đã đăng ký sản xuất trong nước kèm theo để về lắp ráp.
- Nhiều doanh nghiệp còn lợi dụng cơ chế "hàng đổi hàng" giữa ta và lào tạo dựng hồ sơ xuất khẩu đổi hàng giả, vận chuyển trái phép ngoại tệ qua biên giới để buôn lậu hàng hoá mà điển hình là vụ Công ty TNHH Bình Minh (Nghệ An) cấu kết với một số cá nhân, doanh nghiệp ở Hà Nội làm hồ sơ mua bán giả, nhập lậu từ Lào về 357 xe máy Dream trị giá gần 500.000 USD.
Thủ đoạn gian lận thương mại ngày càng tinh vi và phức tạp hơn đã làm thất thu ngân sách rất nhiều. Theo đánh giá của chính phủ, thất thu thuế mà gian lận thương mại gây ra là vào khoảng 25% trong tổng số thuế xuất nhập khẩu (theo chỉ thị số 426-TTg ngày 16/8/1994 của thị trường chính phủ về tăng cường công tác Hải quan). Tuy con số 25% đã là rất lớn nhưng so với thực tế của thực trạng gian lận thương mại hiện nay thì nó vẫn chưa thể phản ánh hết được những khoản thất thu thuế mà những đường dây gian lận thương mại ngầm chưa bị chúng ta phát hiện vẫn ngang nhiên đục khoét ngân sách nhà nước.
I.2.1.1. Buôn bán hàng cấm qua biên giới khai báo sai chủng loại hàng hoá, khai tăng giảm trị giá hàng hoá
1. Buôn bán hàng cấm qua biên giới.
Hiện nay tình trạng buôn bán hàng cấm qua biên giới hoặc qua khỏi sự kiểm soát của hải quan (có thể gọi là buôn lậu) đang diễn ra rất phổ biến ở hầu hết các cửa khẩu trên cả nước, số vụ vi phạm không ngừng tăng lên đặc biệt tình trạng buôn lậu, vận chuyển trái phép ma tuý, vũ khí, chất cháy nổ, cổ vật, ngoại tệ, động vật quý hiếm vẫn còn diễn ra trên các tuyến biên giới.
Một số số liệu cụ thể:
- 1991-1995: Hải quan sân bay Tân Sơn Nhất thu giữ hàng nghìn cổ vật quy định vận chuyển trái phép ra nước ngoài gồm gốm sứ, tiền cổ, trống đồng...
- Tháng 5/1998 lực lượng cảnh sát kinh tế cả nước kiểm tra và bắt giữ 3.3.54 kg động vật hoang dã định buôn bán ra nước ngoài.
- Đầu tháng 3/2000 Chi cục kiểm lâm đã cùng với cảnh sát kinh tế thành phố Hồ Chí Minh phát hiện một ôtô tải chở động vật quý hiếm: 222 kg rùa, 150 kg rắn, 26 kg kỳ đà...
2. Khai báo sai chủng loại hàng hoá, khai tăng giảm trị giá hàng hoá.
Đây là hành vi gian lận phổ biến nhất thường gặp ở Việt Nam hiện nay.
- Khai báo sai chủng loại hàng hoá là việc khai báo với cơ quan hải quan mặt hàng này nhưng thực tế lại xuất nhập khẩu mặt hàng khác để tránh những hàng hoá có thuế suất cao hoặc hàng hoá thuộc diện cấm hoặc hàng thuộc danh mục nhà nước quản lý, những mặt hàng hay gian lận là ôtô, xe máy... như những ví dụ trước đã nêu. - Khai tăng giảm trị giá hàng hoá
Việc xác định trị giá hàng hoá là một trong những yếu tố quan trọng để tính thuế xuất nhập khẩu. Luật thuế xuất nhập khẩu của nước ta hiện nay quy định giá tính thuế hàng xuất nhập khẩu để xác định căn cứ theo giá ghi trên hợp đồng và hoá đơn thương mại hợp lệ và phù hợp với các chứng từ hợp lệ khác có liên quan tuy nhiên các doanh nghiệp vẫn gian lận bằng cách hai bên mua bán thông đồng với nhau ghi giá trên hoá đơn thấp hơn nhiều so với giá trị thực tế của hàng hoá đó. Đây là hành vi gian lận tinh vi và khó phát hiện nhất hiện nay.
I.2.1.2. Hiện tượng lậu thuế, chứng từ giả
Trong tất cả các hoạt động gian lận thương mại có lẽ gian lận thương mại qua lợi dụng chính sách thuế xuất nhập khẩu là loại hình gian lận đặc thù nhất ở Việt Nam bởi vì động cơ chủ yếu của bọn gian lận thương mại là trốn thuế, lậu thuế. Chúng lợi dụng đặc điểm khung thuế suất của ta có nhiều bất hợp lý. Ví dụ một số mặt hàng như ôtô du lịch, xe đạp, rượu bia, hàng điện tử... Có mức thuế suất cao nhưng một số mặt hàng tương tự mang tính chất chuyên dụng thì thuế suất lại rất thấp và bọn gian lận thương mại tìm mọi thủ đoạn để hưởng mức chênh lệch này.
Ví dụ:
- Xe ôtô du lịch loại 12 chỗ ngồi có thuế suất là 160% nhưng vẫn chiếc xe đó, nếu thay đổi đi một vài chi tiết phụ như. tháo hết ghế để thành xe tải thì thuế suất chỉ còn 60%, như vậy đã giảm được 100% thuế. Lại vẫn chiếc xe đó thêm bớt vài chi tiết khác như tháo bớt ghế, lắp thêm còi, hiệu cứu thương trở thành xe cứu thương thì thuế suất chỉ còn 0%.
- Trong kinh doanh nội địa, vấn đề đáng quan tâm và thủ đoạn trốn thuế bằng con đường mua bán, sử dụng hoá đơn đang diễn ra nghiêm trọng. Một số doanh nghiệp mua hoá đơn VAT nhưng không sử dụng, mang bán lại cho doanh nghiệp khác với giá bằng 6% doanh số ghi trên hoá đơn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp "đối tác" tạo dựng hồ sơ giả để trốn thuế, xin hoàn thuế.
Cạnh đó, tình trạng bán hàng không xuất hoá đơn, ghi hoá đơn với số tiền ở các liên khác nhau, sử dụng hai loại sổ sách kế toán ghi giá bán trên hoá đơn thấp hơn so với giá thực thanh toán diễn ra khá phổ biến (điển hình là mặt hàng xe máy, khoản chênh lệch này lên tới 6-10 triệu đồng/1 chiếc xe bán ra).
I.2.2. Những thủ đoạn thực hiện gian lận thương mại
Mỗi một loại hình gian lận thương mại có nhiều thủ đoạn gian lận khác nhau cốt để trốn thuế thu lợi bất chính. Tuy nhiên ở đây ta không nhắc lại những thủ đoạn như ở trên đã nói mà ta chỉ đề cập đến một thủ đoạn hết sức nguy hiểm, đang là vấn đề nổi cộm, khó khăn và phức tạp nhất. Đó là sự cấu kết giữa bọn gian lận thương mại và một số những cán bộ Hải quan thoái hoá biến chất. Thực trạng này đang diễn ra khá phổ biến ở nước ta hiện nay và rất khó phát hiện ra nó.
Bọn gian thường chỉ cần thông đồng, móc ngoặc với cán bộ Hải quan, cán bộ giám định kê khai sai từ xe ôtô du lịch 12 chỗ ngồi thành xe cứu thương như ví dụ trên là đã ngang nhiên cướp không của nhà nước 160% thuế suất.
Sự cấu kết này là thực sự nguy hiểm bởi các cán bộ Hải quan là cái bình phong núp bóng an toàn nhất cho bọn gian lận thương mại và nếu chẳng may bị phát hiện thì mức độ xử lý cũng "thoáng hơn" "dễ chịu hơn". Như vậy có thể nói gian lận thương mại gắn với tệ tham nhũng và nếu tệ tham nhũng vẫn còn thì gian lận thương mại không thể giảm được.
I.2.3. Nguyên nhân
Thứ nhất, một số Bộ, ngành, địa phương buông lỏng quản lý đối với hoạt động xuất, nhập khẩu, cá biệt có nơi cơ quan quản lý Nhà nước cơ quan chức năng đã làm ngơ hoặc tạo điều kiện cho bọn buôn lậu và gian lận thương mại hoạt động. Nhiều công ty kinh doanh xuất nhập khẩu trong đó có cả của công an, quân đội, đơn vị kinh tế, Đảng, đoàn thể do xuất phát từ lợi ích cục bộ dã trực tiếp tham gia hoặc tạo điều kiện cho bọn gian lận thương mại sử dụng làm bình phong núp bóng. Các ngành chức năng chống buôn lậu và gian lận thương mại chưa có sự phối hợp chặt chẽ, có nơi, có lúc còn chồng chéo lấn sân nhau, thậm chí vô hiêu hoá hoạt động của nhau.
Thứ hai, tệ tham nhũng ngày càng nhiều, bọn buôn lậu và gian lận thương mại trong nước và nước ngoài móc nối với các phần tử thoái hoá biến chất trong các lực lượng chống gian lận thương mại để lũng đoạn, vô hiệu hoá hoạt động của các cơ quan này, trong khi đó lãnh đạo cấp trên lại thiếu sự kiểm tra, giám sát cấp dưới, một số trường hợp vi phạm chưa được xử lý nghiêm, vẫn còn hiện tượng cán bộ làm công tác chống gian lận thương mại "bảo kê" cho hoạt động gian lận thương mại.
Thứ ba, chính sách thuế xuất nhập khẩu của ta hiện nay bộc lộ nhiều vấn đề bất hợp lý, tạo kẽ hở cho công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát rất dễ bị bọn xấu lợi dụng.
II. Thực tiễn đấu tranh chống hàng giả và gian lận thương mại ở Việt Nam
II.1. Thực tiễn đấu tranh chống hàng giả ở Việt Nam
1. Những biện pháp chủ yếu hiện nay.
Hàng giả không chỉ tác hại đến quyền lợi của người tiêu dùng, đến sức khoẻ tính mạng của nhân dân mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất kinh doanh đến uy tín của những nhà sản xuất kinh doanh. Bởi vậy công tác đấu tranh chống sản xuất, kinh doanh tiêu thụ hàng giả phải là nhiệm vụ bức thiết của toàn xã hội.
Cũng cần khách quan mà nhận định rằng chống sản xuất và buôn bán hàng giả thực sự là một cuộc chiến cam go, lâu dài và do đó cần có sự phối hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan, ban ngành chức năng, các doanh nghiệp và người tiêu dùng.
a) Các biện pháp đấu tranh chống hàng giả của nhà nước và các cơ quan ban ngành chức năng.
* Thấy rõ mức độ nguy hại của loại tội phạm này, Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật có liên quan đến hàng giả và đặc biệt là những quy định về kiểm tra, xử lý, xử phạt tội làm hàng giả. Cụ thể:
- Pháp lệnh về các hành vi phạm tội đầu cơ, buôn lậu, tàng trữ hàng cấm, sản xuất buôn bán hàng giả. Ngày 30-6-1982 (4 hình thức phá rối thị trường).
- Điều 167, Bộ luật hình sự nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 27/6/1985.
- Ngày 28/12/1989, Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã sửa đổi bổ sung điều 167 và đã nâng mức hình phạt tới mức tối đa là tử hình.
- Nghị định số 140-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 25/4/1991. Về việc kiểm tra, xử lý việc sản xuất, buôn bán hàng giả.
- Thông tư liên bộ số 1254-TT/LB của Uỷ ban khoa học Nhà nước và Bộ thương mại và du lịch: Hướng dẫn thực hiện nghị định số 140-HĐBT.
- Nghị định 57/CP của Chính phủ ngày 31/5/1997 quy định xử phạt hành chính về đo lường chất lượng.
- Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng được Ban Thường vụ quốc hội thông qua ngày 27/4/1999.
- Chỉ thị số 31/1999/CT/TTg về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả.
Qua một loạt các văn bản pháp luật trên ta có thể thấy rõ quan điểm và ý chí quyết tâm ngăn chặn tệ nạn này của Nhà nước ta.
* Bộ Công an chỉ đạo lực lượng công an các cấp tập trung kiểm tra, khám phá các đường dây, các ổ nhóm sản xuất buôn bán hàng giả, đặc biệt là giấy tờ, hoá đơn, tem, tiền và các ấn phẩm giả có giá trị như tiền; chủ động, bố trí lực lượng tham gia phối hợp các Bộ, ngành khác.
* Bộ khoa học, Công nghệ và môi trường chủ trì cùng với các Bộ, ngành liên quan công bố danh mục hàng hoá Nhà nước quản lý chất lượng, gắn công tác bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp với việc quản lý chất lượng hàng hoá. Cụ thể:
- Cơ quan Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng ở trung ương và địa phương:
+ Tiến hành đăng ký chất lượng và nhãn sản phẩm cho những sản phẩm, hàng hoá theo danh mục Nhà nước công bố.
+ Tiến hành chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) cho những sản phẩm, hàng hoá trước hết là những sản phẩm, hàng hoá thuộc danh mục Nhà nước bắt buộc chứng nhận.
+ Thanh tra giám sát chất lượng sản phẩm hàng hoá, phát hiện xử lý các vi phạm về sản xuất buôn bán hàng không đăng ký chất lượng, hàng hoá chất lượng.
- Cơ quan Nhà nước về sở hữu công nghiệp:
+ Tiến hành công nhận việc bảo hộ đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp, cung cấp thông tin cho người tiêu dùng về các đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ;
* Bộ y tế chủ trì cùng với Bộ Công an, Bộ Thương mại và các Bộ, ngành liên quan trong công tác kiểm tra, kiểm soát chống sản xuất và buôn bán hàng giả trong lĩnh vực y tế, dược phẩm, dược liệu, an toàn vệ sinh thực phẩm.
* Bộ Nhà nước và phát triển nông thôn chủ trì cùng với Bộ Thuỷ sản, Bộ Công an, Bộ Thương mại và các Bộ, ngành liên quan tổ chức kiểm tra chống sản xuất, buôn bán hàng giả trong lĩnh vực nông lâm - ngư nghiệp: nhận bán thuốc thú ý, thuốc bảo vệ thực vật, cây giống, con giống, thức ăn gia súc, làm đầu mối thu gom các loại thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật giả.
* Bộ Văn hoá - Thông tin chủ trì với sự tham gia của Bộ Công an, Bộ Thương mại và các Bộ, ngành liên quan tổ chức kiểm tra chống sản xuất, buôn bán các loại ấn phẩm giả và sản phẩm văn hoá khác. Tăng cường thời lượng thông tin cho việc giáo dục nhập luật, phổ biến kiến thức liên quan đến việc phòng, chống hàng giả, đẩy mạnh công tác kiểm tra giám sát khâu in ấn. Vì các loại mẫu mã, bao bì bắt chước kiểu dòng phần lớn đều phải qua khâu in ấn...
* Tổng cục Hải quan cùng với Bộ đội biên phòng tăng cường kiểm tra, ngăn chặn việc vận chuyển, buôn bán qua biên giới các loạt hàng giả, ngăn chặn hàng giả hoặc bao bì mẫu mã giả in từ nước ngoài nhập vào.
* Ngành thương mại tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm tra phát hiện những trường hợp kẻ gian tuồn hàng giả vào trà trộn trong hàn thật bày bán tại các cửa hàng quốc doanh.
* Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể việc để lại và sử dụng tiền thu được từ hoạt động chống sản xuất và buôn bán hàng giả (tiền phạt, tiền bán tang vật tịch thu được phép lưu thông) cho địa phương và đơn vị để phục vụ cho hoạt động chống sản xuất và buôn bán hàng hoá.
* Chủ tịch UBND các cấp có kế hoạch cụ thể chỉ đạo các cơ quan chức năng ở địa phương trong việc phát hiện, điều tra, xử lý các hành vi sản xuất và buôn bán hàng giả, tổ chức tốt phối hợp các lực lượng trong các chiến dịch kiểm tra, truy quét hàng giả trên từng địa bàn.
* Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, Hội Luật gia Việt Nam, Hội tiêu chuẩn và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng các cấp, các tổ chức sở hữu trí tuệ vận động các tầng lớp nhân dân tham gia phát hiện tố giác, đấu tranh với nạn sản xuất và buôn bán hàng giả.
Nói tóm lại, các ngành các địa phương có 4 phương pháp chống hàng giả chủ yếu sau:
1. Lập và triển khai kế hoạch chống hàng giả trong địa bàn mình quản lý.
2. Hướng dẫn người tiêu dùng và các hội quần chúng dưới mọi hình thức về sự nguy hại của tệ sản xuất, buôn bán hàng giả nhằm tạo nên một phong trào quần chúng thường xuyên chống tệ hàng giả.
3. Tập trung kiểm tra, xử lý các vụ sản xuất, buôn bán hàng giả có tổ chức, có quy mô lớn, vào các mặt hàng quan trọng có liên quan tới điều kiện vệ sinh, an toàn của người tiêu dùng và môi trường. Điều tra, trinh sát, phát hiện nhanh chóng kịp thời phải bố trí bắt quả tang trên đường vận chuyển đi tiêu thụ hoặc đang sản xuất. Phải đưa ra truy tố, xét xử nghiêm khắc và công khai các vụ điển hình về sản xuất, buôn bán hàng giả để giáo dục chung.
4. Tổ chức các hòm thư thu thập tố cáo của người tiêu dùng về hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả.
b) Biện pháp chống hàng giả của các doanh nghiệp.
Sự tham gia tích cực của chính các nhà sản xuất kinh doanh là một biện pháp rất cần thiết góp phần tích cực vào việc đấu tranh chống sản xuất, kinh doanh hàng giả. Thực tiễn khẳng định rằng, chỉ khi nào doanh nghiệp với tư cách là người bị hại, chủ động sử dụng công nghệ hiện đại và hợp tác toàn diện đầy đủ với các cơ quan chức năng thì hàng giả, hàng kém chất lượng mới thực sự bị đẩy lùi.
Hiện nay đi đôi với việc tăng cường cải tiến mẫu mã, quy trình công nghệ nâng cao chất lượng hàng hoá hạ giá thành. Các doanh nghiệp luôn chú trọng đầu tư thích đáng cho việc chống hàng giả. Nhiều doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đã quan tâm đầu tư chiều sâu; có ý thức chủ động chống sản xuất và buôn bán hàng giả bằng nhiều biện pháp như dán tem chống hàng giả, đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, cải tiến mẫu mã nhãn hiệu hàng hoá, cung cấp thông tin cho người tiêu dùng nhằm giúp họ phân biệt hàng thật - hàng giả, phối hợp chặt chẽ và cung cấp thông tin cho các cơ quan chức năng chống hàng giả.
Nhiều cuộc hội thảo trong nước và quốc tế đã được tổ chức với sự tham gia đông đảo của các quan chức doanh nghiệp, nhà quản lý, nhà khoa học, báo giới trong nước và quốc tế, nhằm trao đổi, cung cấp cho nhau những kinh nghiệm và cùng nhau tìm ra những biện pháp để chông sản xuất và buôn bán hàng giả.
VD: Mới đây, trong "Hội chợ hàng tiêu dùng 99" được tổ chức tại Hà Nội, Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam đã tổ chức trưng bày gồm 40 loại hàng giả bên cạnh hàng thật cùng loại để người tiêu dùng có thể đối chiếu mà phân biệt được hàng thật hàng giả.
VD khác: Xà phòng giặt OMO cải tiến mẫu mã liên tục hay như giầy dép Bitis, nước giải khát Lavie dùng các phương tiện thông tin đại chúng đặc biệt là Tivi để giúp người tiêu dùng phân biệt được hàng thật, hàng giả...
c) Biện pháp chống hàng giả của người tiêu dùng
Người tiêu dùng kiên quyết đấu tranh và tố cáo kịp thời nếu mua phải hàng giả hoặc phát hiện ra nơi sản xuất, tiêu thụ hàng giả để các cơ quan chức năng xử lý, tố cáo các hành vi gian dối về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, nhãn hiệu hàng hoá giá cả và các hành vi lừa dối khác của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, gây thiệt hại cho mình và cộng đồng theo quy định của pháp luật.
Một biện pháp khác để chống hàng giả của người tiêu dùng mà tưởng chừng như hết sức đơn giản nhưng hiệu quả lại rất lớn. Biện pháp hữu hiệu đó là "không ham rẻ". Xuất phát từ thực tế là hàng giả thường rẻ hơn hàng thật do đó khi mua hàng nếu thấy hàng rẻ bất ngờ thì hãy coi chừng kẻo lại mua phải hàng giả.
2. Kết quả đạt được trong công tác đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả.
Những năm gần đây đặc biệt là sau Nghị định 140 - HĐBT ngày 25/4/1991 được ban hành, các lực lượng cảnh sát kinh tế (CSKT), công an, lực lượng quản lý thị trường (QLTT) đã thu được những kết quả khả quan trong công tác chống hàng giả.
- Lực lượng CSKT cả nước:
Chỉ tiêu Năm
1995
1996
1997
1998
6 tháng 1999
Số vụ đã khởi tố điều tra
309
256
306
217
264
Số bị can
624
369
437
396
426
Nguồn: Tạp chí TM số 13-1998 và số 18-1999
- Lực lượng QLTT cả nước:
+ Năm 1996: phát hiện xử lý 961 vụ
+ Năm 1997: phát hiện xử lý 4500 vụ + Năm 1998: phát hiện xử lý 2000 vụ
Còn về phía các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh do đã có ý thức chủ động chống sản xuất và buôn bán hàng giả, quan tâm đầu tư chiều sâu cho nên đã hạn chế được rất nhiều hiện tượng sản xuất kinh doanh hàng giả. Chẳng hạn như việc sản xuất bia chai Hà Nội, Sài Gòn, 333... trước kia chỉ có dán nhãn, đóng nút chai, việc làm quá đơn giản nên bọn làm hàng giả chỉ cần 1 máy dập nút chai thủ công là làm được bia giả. Sau đó ngành sản xuất bia đã cải tiến có giấy kim loại phủ kín nắp và cổ chai, đã hạn chế gần như cơ bản nạn sản xuất bia chai giả. Rồi việc sản xuất thuốc tiêm nước, trước kia sản xuất loại thuốc bổ B12 đựng trong ống thuỷ tinh nhọn hai đầu, bọn làm hàng giả chỉ cần bộ đen khô, mua ống thuỷ tinh là có thể sản xuất ra thuốc bổ B12 từ nước máy và phẩm hồng. Sau đó các xí nghiệp dược phẩm đã cải tiến làm loại ống thắt cổ bồng đòi hỏi phải có thiết bị chuyên dùng mới sản xuất được. Từ đó hiện tượng sản xuất thuốc bổ B12 giả giảm hẳn.
Một số mặt hàng có chất lượng cao như bóng điện, phích nước Rạng Đông đồ nhựa, khoá Minh Khai. Do chú ý đầu tư kỹ thuật nên đã hạn chế nhiều tệ nạn sản xuất kinh doanh hàng giả các loại mặt hàng nói trên.
Trong công tác chống hàng giả, nhiều doanh nghiệp khẳng định: chống hàng giả là trách nhiệm của chúng tôi, chúng tôi sẵn sàng đứng trên tuyến đầu nhưng phải được các cơ quan chức năng và người tiêu dùng hậu thuẫn.
3. Những tồn tại trong công tác đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả
Qua hơn 9 năm thực hiện nghị định 140/HĐBT và hơn 6 tháng thực hiện chỉ thị 31/1999/CT/TTg về đấu tranh chống sản xuất buôn bán hàng giả chúng ta đã thu được một số kết quả nhất định nhưng thực tế hàng giả vẫn chưa có dấu hiệu thuyên giảm. Ví dụ: 6 tháng đầu năm 99, bột ngọt AJINOMOTO giả chiếm 90% thị phần, rau cân giả đóng gói chiệu AGAR chiếm 90% thị phần khu vực miền Tây Nam Bộ .
Hạn chế nữa là khá đông người tiêu dùng chưa phân biệt được hàng thật hàng giả. Ví dụ: nước khoáng Lavie người tiêu dùng thường nhầm lẫn với các loại nước khoáng giả như: Lavi, Levile, Levu, Laviole, Lavilla và chưa có thói quen khiếu nại khi mua hàng.
Một hạn chế cơ bản nữa là trước thực trạng này, giải pháp của các cơ quan chức năng lại vẫn đơn thuần là theo dõi, phát hiện, bắt quả tang mới phạt hành chính và một số vụ lớn đã được đưa ra truy tố nhưng với mức phạt còn nhẹ.
4. Nguyên nhân của những tồn tại trên
Nguyên nhân của những tồn tại trên chủ yếu là do pháp luật của ta chưa hoàn chỉnh còn nhiều thiếu xót và tạo ra những khoảng trống pháp lý cho kẻ xấu lợi dụng và làm cho các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra xử phạt hành chính trong lĩnh vực sản xuất buôn bán hàng giả gặp rất nhiều khó khăn.
VD: Từ ngày 31/6/1997 (nghị định 140/HĐBT hết hiệu lực) đến khi CT 31/TTg ra đời thì các cơ quan chức năng phải lấy điều luật hết hiệu lực thi hành (HĐ 140/HĐBT) làm căn cứ pháp lý để điều chỉnh.
Khi có nhiều người cùng chịu trách nhiệm làm việc thì dễ dẫn đến hiện tượng mạnh ai nấy làm, dễ làm khó bỏ, chồng chéo "lấn sân" nhau.
- Sự chồng chéo trong các văn bản về nhãn sản phẩm Bộ thương mại có quyết định 636/TM/QLCL ngày 26/7/1996 Bộ khoa học - công nghệ và môi trường có quyết định 2576/QĐ-TĐC ngày 28/10/1996.
Cùng quy định về nhãn sản phẩm hàng hoá, vậy các cơ sở sản xuất, lực lượng kiểm tra kiểm soát phải tuân theo văn bản nào.
- Trong xử phạt vi phạm có 4 nghị định: 92/CP; 93/CP (1993); 46/CP (1996); 57/CP (1997).
- Sự chồng chéo nữa mà nhà sản xuất kinh doanh rất e ngại là chồng chéo trong hoạt động thanh tra kiểm tra hàng giả. Mặc dù Điều 7 - Nghị định 140/HĐBT nêu rất rõ rằng một trong 7 cơ quan chức năng chống hàng giả khi nhận được nguồn tin tố cáo thì phải phối hợp với các cơ quan khác đển tiến hành kiểm tra xử lý, xong trên thực tế sự phối hợp cũng chẳng những rất hạn chế mà nhiều khi còn hoàn toàn mâu thuẫn với nhau.
Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác ví dụ do người tiêu dùng và các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp chưa có mối quan hệ chặt chẽ, lực lượng kiểm tra kiểm soát còn mỏng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhất là kiến thức về hàng hoá còn yếu, trong thiết bị tối thiểu để kiểm tra, phát hiện hàng giả hầu như chưa có.
II.2. Thực trạng đấu tranh chống GLTM ở nước ta. 1. Những giải pháp chủ yếu và kết quả đạt được.
Nhận rõ tính chất nghiêm trọng của gian lận thương mại, lãnh đạo ngành hải quan thời gian qua đã tập trung chỉ đạo công tác chống gian lận thương mại bằng các biện pháp cụ thể, thiết thực phù hợp với từng loại hình, từng đối tượng xuất nhập khẩu, với mọi thủ đoạn gian lận thương mại. Ví dụ như:
- Dán tem hàng hoá xuất nhập khẩu.
- Để ngăn chốn thuế qua lợi dụng chính sách thuế xuất nhập khẩu. Tổng cục Hải quan đã tích cực cùng các Bộ ngành liên quan kiến nghị với chính phủ có biện pháp hạn chế đến mức thấp nhất việc quy định thuế suất căn cứ vào mục đích sử dụng mà không căn cứ vào tính chất mặt hàng.
- Để ngăn chặn gian lận thương mại thông qua việc có ý khai sai số lượng, trọng lượng, phẩm cấp hàng hoá. Hải quan quy định tỷ lệ kiểm tra với từng loại hàng hoá, đồng thời kết hợp với các cơ quan tổ chức giám định hàng hoá đối với những hàng hoá khó xác định.
Ngoài ra Tổng cục Hải quan còn áp dụng nhiều biện pháp tổng hợp, tăng cường công tác kiểm tra, tái kiểm tra, bổ sung cho phù hợp với từng giai đoạn chấn chỉnh lề lối tác phong làm việc của cán bộ Hải quan cơ sở, xử lý nghiêm những vụ tiêu cực, cố ý làm trái quy định, nên đã phát hiện nhiều vụ gian lận thương mại tinh vi, phức tạp.
Những kết quả đạt được:
- Sau bốn đợt dán tem với 17 mặt hàng nhập khẩu, hiện tượng gian lận thương mại đã giảm hẳn đặc biệt hiệu quả, rõ nhất là những gian lận ở sân bay, cầu cảng, hiện tượng tàng trữ hàng lận số lượng lớn giảm đáng kể, việc lợi dụng những bộ chứng từ hợp pháp (có thời hạn) đã quay vòng buôn bán cũng giảm hẳn.
- Theo số liệu của tổng cục Hải quan, kết quả chống gian lận thương mại mấy năm qua được thể hiện như sau: Năm 1995 phát hiện và xử lý 3000 vụ với tổng trị giá gian lận là 70 tỷ đồng. Khởi tố hình sự 21 vụ.
Năm 1996: phát hiện và xử lý 12.463 vụ với tổng trị giá gian lận thương mại là 320 tỷ đồng. Khởi tố hình sự 52 vụ.
Năm 1997: phát hiện và xử lý 16.000 vụ với tổng trị giá gian lận là 530 tỷ đồng. Khởi tố hình sự 51 vụ.
Năm 1998: phát hiện và xử lý 16.287 vụ với tổng trị giá gian lận là 573.642 tỷ đồng.
Năm 1999: phát hiện và xử lý 11.600 vụ với tổng trị giá gian lận là 260 tỷ đồng.
4 tháng đầu năm 2000 Hải quan TPHCM phát hiện 135 vụ, tổng trị giá vi phạm 346.188 USD và 45,3 triệu đồng.
Có được kết quả trên là thể hiện sự cố gắng nỗ lực ngành Hải quan cũng như kết quả phối hợp giữa các Bộ, ngành có chức năng chống gian lận thương mại ở Việt Nam. Tuy nhiên các con số trên cũng chỉ mới phản ánh được một phần hoạt động gian lận thương mại ở nước ta, trong thực tế hẳn còn nhiều vụ, nhiều đường dây gian lận thương mại chưa bị phát hiện phanh phui.
2. Những tồn tại trong công tác chống gian lận thương mại ở nước ta
Như trên đã đề cập, hoạt động gian lận thương mại mang tính chất phức tạp, trong khi tội danh gian lận thương mại chưa được xác định đúng, nên trong xử lý các vụ gian lận thương mại còn khập khễnh không thống nhất giữa các cơ quan chức năng. Các pháp lệnh, nghị định về việc xử phạt hành chính đối với những hành vi gian lận thương mại cũng chỉ dừng lại ở việc xác định các nhóm hành vi nên rất khó áp dụng, tạo ra sự tuỳ tiện trong thực hiện pháp luật.
Hơn nữa, biểu giá biểu thuế có nhiều, thường xuyên thay đổi chồng chéo nhưng lại không cụ thể, chi tiết gây khó khăn cho việc tính thuế (từ 1993 đến nay có 28 biểu thuế do Bộ Tài chính ban hành), chi tiết mẫu mã hàng hoá không rõ ràng. Lúc thì kê theo chủng loại, lúc thì quy định giá trị sử dụng, công dụng cấp cấu tạo... Đơn giản như mặt hàng hoa quả tươi sống, điện dân dụng nhập qua một số cửa khẩu tiểu ngạch không có trong danh mục hàng hoá nên việc xác định giá trị tính thuế cho phù hợp gặp rất nhiều khó khăn. Đã xảy ra tình trạng hàng hoá không đúng chủng loại như kê khai và giá trị thấp hơn so với thực tế ở một số cửa khẩu.
Một vấn đề nữa không kém phần nan giải trong công tác chống gian lận thương mại hiện nay là có quá nhiều Bộ, ngành cùng tham gia vào việc xuất nhập khẩu nhưng lại thiếu một hành lang pháp lý cụ thể, thiếu thống nhất nên gây không ít khó khăn cho ngành Hải quan trong chức năng quản lý nhà nước, giám sát việc thực hiện Luật thương mại trên các cửa khẩu khu vực biên mậu.
3. Nguyên nhân tồn tại của công tác chống gian lận thương mại ở Việt Nam
Tuy rằng các ngành các cấp đã có nhiều cố gắng trong công tác chống buôn lậu song tình trạng buôn lậu vẫn như con bệnh nhờn thuốc, công tác chống buôn lậu chưa đạt kết quả như mong muốn. Nguyên nhân thì có nhiều song vấn đề chính yếu vẫn xoay quanh các yếu tố sau đây:
- Một số cấp uỷ Đảng và Chính quyền địa phương chưa thực sự quan tâm đến công tác đấu tranh chống gian lận thương mại, thậm chí có nơi còn cho rằng, nhờ gian lận thương mại nên hàng hoá mới rẻ, mới phong phú, đáp ứng được nhu cầu đa dạng của nhân dân, xoá đói giảm nghèo của địa phương...(!)
- Các Bộ quản lý chuyên ngành chưa có sự phối hợp nhịp nhàng với Hải quan để có những quy định cụ thể trong việc nhập khẩu hàng hoá, nhất là hàng hoá vật tư chuyên dùng.
- Một nguyên nhân quan trọng, phải kể đến một bộ phận mất phẩm chất trong các lực lượng làm nhiệm vụ chống gian lận thương mại của Nhà nước như Hải quan, thuế vụ, quản lý thị trường. Qua các vụ án kinh tế lớn như Tân Trường Sanh, Epco Minh Phụng... mà mọi người đều biết.
- Công tác tuyên truyền giáo dục nhân dân địa phương, động viên mọi người chống gian lận thương mại chưa thực sự có hiệu quả.
- Các giải pháp chống gian lận thương mại cũng chưa được xây dựng hoàn chỉnh, đồng bộ. Chính sách pháp luật còn nhiều kẽ hở dễ bị lợi dụng, pháp luật chưa thực sự được tuân theo và chấp hành nghiêm chỉnh thậm chí có lúc còn mâu thuẫn nhau. Ngoài ra còn có nguyên nhân là lực lượng và phương tiện chống gian lận thương mại cũng còn nhiều thiếu thốn.
III. Kinh nghiệm chống hàng giả và gian lận thương mại ở một số nước trên thế giới
III.1. Những hình thức hàng giả và gian lận thương mại ở một số nước Về hàng giả, trên thế giới cũng có hai hình thức (dạng) hàng giả như ở nước ta:
- Hàng giả về nhãn: gồm các loại hàng hoá mang nhãn giả mạo hoặc nhãn của một cơ sở sản xuất khác mà không được chủ nhân đồng ý.
- Hàng giả về chất lượng: hàng hoá có mức chất lượng dưới mức chất lượng cho phép, hàng hoá có chất lượng không đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi, công dụng của nó.
Về gian lận thương mại, trên thế giới có đủ 16 loại hình gian lận thương mại mà trong hội nghị lần thứ 5 về chống gian lận thương mại tổ chức tại BRUSELS - Bỉ tổng kết.
III.2. Một số biện pháp chống hàng giả và gian lận thương mại trên thế giới
1. Về hàng giả
Hàng giả là một tệ nạn mang tính toàn cầu đe doạ không chỉ với những nước thuộc thế giới thứ ba mà còn tràn ngập cả các nước phát triển. Những con búp bê bốc cháy, máy xay thịt làm đứt cả bàn tay người sử dụng, những chai rượu cô nhắc giả sản xuất tại Nga có thể làm mù vĩnh viễn người uống. Những con rận tin học giả hiệu phá hoại máy móc trên các đài kiểm soát không lưu làm rối loạn cả sân bay.
Hàng giả không chỉ tiêu thụ trong nước mà còn được xuất khẩu. Hai hãng chế tạo xe hơi lớn của Pháp, chỉ riêng năm 1995 đã bị thiệt hại hàng tỉ Franc. Theo tin từ Mỹ bọn buôn bán ma tuý đã chuyển sang kinh doanh linh kiện giả của máy bay để thu lợi nhuận cao, nhưng những kẻ làm hàng giả đã chẳng đếm xỉa gì đến tính mạng của hàng trăm hành khách.
Để triệt tiêu thảm hoạ này, các nước tiên tiến phương Tây đang tăng cường kiểm soát cuộc sản xuất trong nước cũng như hàng nhập khẩu. Song vấn đề phức tạp hiện nay là từ những kẻ chuyên lừa đảo ra, những người đi mua hàng giả, tuy biết tác hại của nó nhưng vì tham rẻ, họ vẫn cứ mua.
ở Pháp thuốc tây giả được những ngoại kiều cư trú bất hợp pháp mua bán và tiêm chích không qua đơn bác sĩ.
ở Mỹ do sự cạnh tranh giá cả buộc các hãng sản xuất nhỏ phải giảm tối đa các phí tổn bảo dưỡng máy bay do đó, họ tiêu thụ khối lượng lớn phụ tùng giả.
ở châu Phi ngành thuốc tây quả rất phát đạt, vì nhiều nước không đủ tiền nhập thuốc chính hiệu châu Âu.
Trong khi chờ phối hợp toàn cầu, từng quốc gia cần có kế hoạch tiêu trừ hàng giả. Còn giáo dục cho mọi công dân biết rằng hàng chính hiệu tuy có đắt nhưng bảo đảm an toàn.
2. Về gian lận thương mại
Trên thế giới, đặc biệt là ở những nước phát triển có nhiều biện pháp chống gian lận thương mại, nhưng quan trọng nhất và cơ bản nhất là một số biện pháp sau:
a) Sử dụng các chuyên gia:
Đây là phương pháp có hiệu quả nhất. Các chuyên gia có am hiểu sâu về tính chất kỹ thuật của hàng hoá và giá trị của nó do đó phát hiện các hành vi gian lận một cách dễ dàng.
b) Kiểm toán Hải quan
Kiểm toán Hải quan là việc kiểm tra thẩm định mức độ chính xác của tờ khai Hải quan, thông qua việc kiểm tra sổ sách, chứng từ, kế toán, hệ thống kinh doanh và toàn bộ tài liệu thương mại Hải quan do chủ hàng nắm giữ và từ đó phát hiện ra những hành vi gian lận thương mại.
c) Kiểm tra thực tế hàng hoá xuất nhập khẩu:
Phương pháp này nhằm phát hiện những hành vi gian lận thông qua mô tả hàng hoá trên hoá đơn không trung thực. Việc kiểm tra có thể là một bộ phận hàng hoá hay toàn bộ tuỳ thuộc vào mỗi loại hàng hoá và tất nhiên với sự giúp đỡ của các thiết bị kiểm tra hiện đại hoặc các chuyên gia mặt hàng. d) Kiểm tra các địa điểm mà hàng hoá đang được bán lại cho nhu cầu tiêu dùng nội địa, qua đó để xem xét, tính toán lại giá trị Hải quan mà chủ hàng đã khai báo.
Chương III
Giải pháp chống hàng giả và gian lận thương mại ở Việt Nam
I. Biện pháp chống hàng giả ở Việt Nam
I.1. Kiến nghị với Nhà nước
Trong thực tiễn đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả ở nước ta, Nhà nước đóng vai trò quan trọng và là nhân tố quyết định cho việc tồn tại hay không nạn sản xuất và buôn bán hàng giả. Với một loạt các văn bản pháp luật của mình, Nhà nước đã thể hiện chính kiến của mình là luôn luôn quyết tâm đấu tranh không khoan nhượng với nạn sản xuất và buôn bán hàng giả cho dù cuộc chiến này là hết sức cam go quyết liệt, lâu dài và tốn kém và điều đó đã đem lại những kết quả khả quan. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy (bộc lộ) những thiếu sót mà hậu quả của nó không phải là nhỏ, đặc biệt là những thiếu sót trong pháp luật.
Để loại bỏ những thiếu sót đó thiết nghĩ Nhà nước cần sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật, có những quy định mức xử lý, xử phạt lỗi làm hàng giả nghiêm khắc hơn để người sản xuất, kinh doanh hàng giả không còn dám nghĩ đến chuyện tái phạm, cần có thêm hình phạt bổ sung cho án phạt về tội làm hàng giả như cấm những người có tiền án làm hàng giả làm những nghề có liên quan đến sản xuất, kinh doanh loại hàng hoá mà họ đã phạm tội. Và cũng là để không còn phải tái diễn cảnh lấy những điều luật đã hết hiệu lực thi hành làm căn cứ pháp lý điều chỉnh những hành vi vi phạm đang xảy ra trong thực tế.
Nhà nước cũng cần phải nhận định rõ thẩm quyền của các Bộ, ngành, các cơ quan chức năng trong việc kiểm tra xử lý nạn sản xuất và buôn bán hàng giả tránh tình trạng có nhiều cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, xử lý lại không có một nhạc trưởng chỉ huy dẫn dắt hay tình trạng trách nhiệm thuộc về tất cả "nghĩa là không có ai" và tình trạng có quá nhiều văn bản hướng dẫn thi hành nên vô hình chung "dẫm đạp" lên nhau trong một chừng mực nhất định đã vô hiệu hoá lẫn nhau.
Các Bộ, ngành và các cơ quan chức năng cần phải phối hợp chặt chẽ với nhau, thực hiện triệt để chỉ thị 31/1999/CT/TTg trong công tác đấu tranh chống sản xuất kinh doanh hàng giả để tạo nên sức mạnh tổng hợp, sự thống nhất và hợp lý để nhiệm vụ chống hàng giả đạt được những kết quả như mong muốn.
Ngoài ra Nhà nước cũng cần phải tạo lập ra một thông tin tổng hợp về chống hàng giả trên quy mô toàn quốc. Cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa, tăng cường hơn nữa mối quan hệ hai chiều giữa Nhà nước với các doanh nghiệp và người tiêu dùng nhằm tạo ra thế bao vây cô lập hàng giả từ mọi phía và từ đó công tác đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả mới có hiệu quả cao nhất.
I.2. Kiến nghị với hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng:
Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng phải vận động quần chúng tự nguyện tham gia đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, chống các hiện tượng sản xuất kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng, gây thiệt hại cho người tiêu dùng, phổ biến rộng rãi "pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng", phối hợp với chi cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng tổ chức các cuộc toạ đàm, hội thảo, tuyên truyền phổ biến cho Hội viện và người tiêu dùng. Phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng hướng dẫn người tiêu dùng những kiến thức cơ bản về chất lượng hàng hoá, nhận biết hàng thật, hàng giả, hàng kém chất lượng...
Trước mắt Hội thành lập Văn phòng tư vấn và tiếp nhận khiếu nại của người tiêu dùng; xây dựng quy chế giữa Hội với các cơ quan quản lý Nhà nước như chi cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng, quản lý thị trường, trung tâm y tế dự phòng... để kiểm tra đánh giá chất lượng sản phẩm.
Ngoài ra Hội còn phải tổ chức các cuộc hội thảo về phương thức quản lý chất lượng, phòng chống hàng giả, tổ chức các lớp tập huấn để đảm bảo chất lượng hàng hoá, nhận thức pháp luật liên quan đến quyền lợi người tiêu dùng.
Một biện pháp rất cần thiết góp phần tích cực vào việc đấu tranh chống sản xuất, kinh doanh hàng giả là sự tham gia tích cực của chính các nhà sản xuất kinh doanh với phương châm là "lấy thật chống giả" và "phòng hơn là chống".
Trước hết, về trách nhiệm của các doanh nghiệp, cần tăng cường quản lý sản phẩm của mình, cải tiến dây truyền sản xuất, giữ kín bí mật công nghệ, bí quyết sản xuất, tạo ra những mẫu mã bao bì mang tính đặc trưng không để bọn xấu lợi dụng làm giả, có thể áp dụng các kỹ thuật tiên tiến như việc gắn mã số, mã vạch vào sản phẩm để quản lý hàng hoá của mình.
Gần đây, một số cơ sở sản xuất thường áp dụng việc tiếp thị và bán sản phẩm qua các các nhân đi mời chào ở mọi nơi, điều này rất dễ để bọn xấu lợi dụng, đánh lừa người tiêu dùng. Nên chăng cần mở rộng mạng lưới tiêu thụ khép kín thông qua các đại lý chính.
Về phía các tổ chức kinh doanh hàng hoá trên thị trường, các doanh nghiệp thương mại cũng cần kiên quyết không để hàng giả, hàng kém chất lượng lọt vào khâu lưu thông. Như vậy không những triệt phá được hàng giả mà còn bảo vệ được uy tín của mình với khách hàng.
Cuối cùng, các doanh nghiệp cần tiếp tục mở hội chợ trưng bày hàng thật hàng giả, hướng dẫn khách hàng nhận biết đặc trưng cơ bản của hàng thật hàng giả để không bị nhầm lẫn nữa. I.4. Kiến nghị với người tiêu dùng
Người tiêu dùng là một mắt xích hết sức quan trọng trong công tác đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả. Một sự yếu kém trong mắt xích này ảnh hưởng đến toàn bộ những cố gắng và nỗ lực của các cơ quan chức năng và các doanh nghiệp. Nhận thức được vị trí quan trọng của người tiêu dùng trong công tác chống sản xuất, kinh doanh hàng giả như vậy, chúng ta cần phải tìm ra những biện pháp, những công cụ mà người tiêu dùng có thể sử dụng mà đấu tranh chống lại hàng giả bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
Tuy nhiên một thực tế hiện nay là khá đông người tiêu dùng chưa phân biệt được hàng thật hàng giả và chưa có thói quen khiếu nại, tố cáo khi mua phải hàng giả. Nói tóm lại là người tiêu dùng chưa thật sự cố gắng, họ chưa nhận thức được đầy đủ những quyền lợi và trách nhiệm của mình trong công tác đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả.
Nếu cứ để kéo dài tình trạng này khi có khác nào "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược" do đó qua bài viết này tôi xin đưa ra một số kiến nghị với người tiêu dùng như sau:
Người tiêu dùng khi đi mua hàng cần thận trọng xem kỹ nhãn hiệu hàng hoá. Nếu trên nhãn hiệu có tên cơ sở sản xuất, địa chỉ sản xuất, số đăng ký chất lượng, thời hạn sử dụng (đối với thực phẩm thì mới mua, khồng ghi hàng không nơi sản xuất, nhãn không rõ ràng. Hàng có giá trị lớn thì phải yêu cầu người bán cho xem phiếu kiểm tra chất lượng, yêu cầu bảo hành và tốt nhất là nhờ chuyên gia hoặc những người có kinh nghiệm có am hiểu về hàng hoá mà mình cần mua. Với sản phẩm là thuốc chữa bệnh thì cần làm theo sự chỉ đẫn, kê đơn của bác sĩ, không mua thuốc theo kinh nghiệm, theo thói quen. Nên kiểm tra trước khi mua bằng cách xem hạn sử dụng, không được dùng thuốc đã quá hạn hoặc thuốc bắt đầu có hiện tượng đổi màu...
Tự bản thân mỗi người tiêu dùng nên trau dồi kiến thức, nâng cao sự hiểu biết của mình qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua văn phòng tư vấn tiêu dùng, hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các doanh nghiệp,cơ sở sản xuất... để tránh những trường hợp bị lừa đáng tiếc.
Khi phát hiện cơ sở nào sản xuất, buôn bán hàng giả hàng kém chất lượng, hàng bị rút bớt khối lượng thì phải mạnh dạn tố cáo với chính quyền hoặc cơ quan chức năng để kiểm tra, xử lý. Tốt nhất là nên mua hàng tại các cửa hàng đại lý, các hợp tác xã mua bán, các siêu thị có uy tín để tránh bị nhầm, bị lừa. Cần tăng cường thông tin, hướng dẫn, giáo dục nâng cao hiểu biết của người tiêu dùng và giữa họ với nhau.
II. Biện pháp chống gian lận thương mại ở Việt Nam hiện nay
1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật:
Hệ thống pháp luật của ta hiện nay vừa thiếu vừa không đầy đủ rõ ràng nên trong thực hiện thiếu cơ sở pháp lý dễ dàng dẫn đến tình trạng tuỳ tiện, chủ quan trong kiểm tra, giám sát và xử lý là nguyên nhân gây mất lòng tin của nhân dân đối với việc quản lý và điều hành của nhà nước và cũng là nguyên nhân cơ bản của tiêu cực tham nhũng và gian lận thương mại.
Vì vậy, để chống gian lận thương mại có hiệu quả, thứ nhất, phải tập trung hoàn chỉnh hệ thống luật pháp có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu và hoạt động hải quan bao gồm cả việc nghiên cứu xây dựng ban hành pháp luật mới và cả việc điều chỉnh sửa đổi bổ sung những văn bản pháp luật cũ không phù hợp mà trước hết là phải tập trung nghiên cứu, xây dựng một chính sách thuế hợp lý, dễ hiểu, không quá cao, khuyến khích được các nhà sản xuất, kinh doanh tự giác nộp thuế cho Nhà nước. Thứ hai, phải hoàn chỉnh pháp luật quy định rõ trách nhiệm của các tổ chức giám định, hạn chế tối đa sự trùng lắp trong xử lý vụ việc, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ các ngành làm công tác chống gian lận thương mại, cụ thể:
- Hàng qua cửa khẩu trách nhiệm chính là hải quan
- Hàng kinh doanh trên thị trường nội địa trách nhiệm chính là quản lý thị trường (ngành thương mại).
- Biên phòng làm nhiệm vụ an ninh cửa khẩu, bảo vệ đường biên, công tác chống gian lận thương mại có trách nhiệm phối hợp với chính quyền.
- Cơ quan thuế vụ chịu trách nhiệm về chống thất thu thuế, giám sát hàng hoá trốn lậu thuế, kiểm tra các hoá đơn chứng từ theo quy định của ngành.
- Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm toàn diện quản lý hành chính kinh tế trên địa bàn, tổ chức phối hợp với tất cả các cơ quân quan làm nhiệm vụ chống buôn lậu, trực tiếp thụ lý các vụ việc vi phạm về gian lận thương mại, kiến nghị các cơ quan những vấn đề vướng mắc phát sinh trong công tác phòng chống gian lận thương mại.
2. Xây dựng lực lượng Hải quan trong sạch vững mạnh
Hải quan là một lực lượng quan trọng nhất trong số các Bộ, ngành có nhiệm vụ chống gian lận thương mại. Nhưng trong điều kiện hiện nay của đất nước ta: trang thiết bị phục vụ cho công tác kiểm soát Hải quan còn thiếu thốn, trình độ cán bộ nhân viên Hải quan không đều, tỷ lệ công chức hải quan được đào tạo cơ bản còn thấp, trình độ văn hoá - chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong khi hoạt động gian lận thương mại ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn.
Vì vậy, để chống gian lận thương mại có hiệu quả, Ban cán sự Đảng và lãnh đạo tổng cục Hải quan phải tăng cường củng cố lực lượng chống buôn lậu và gian lận thương mại từ Tổng cục đến các đơn vị cơ sở. Phải làm tốt hai chức năng là: Tham mưu cho các cấp chính quyền và phối hợp với các lực lượng chức năng trong hoạt động chống gian lận thương mại, tập trung thực hiện và nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó cần giáo dục, đào tạo đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức cách mạng tốt, trình độ kỹ thuật chuyên môn giỏi. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ, góp phần hiện đại hoá nhanh các hoạt động nghiệp vụ hải quan. Hoàn chỉnh các quy chế quy trình nghiệp vụ hải quan, xử lý kỷ luật nghiêm những cán bộ nhân viên hải quan vi phạm pháp luật.
3. Phối hợp với các lực lượng chức năng trong hoạt động chống gian lận thương mại
Lực lượng hải quan phải kết hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng khác như Bộ Công an, Bộ Thương mại lực lượng bộ đội biên phòng, lực lượng quản lý thị trường thì công tác đấu tranh chống gian lận thương mại mới phát huy hết sức mạnh tổng hợp và có hiệu quả. Vừa qua Chính phủ đã thành lập Ban chỉ đạo chống buôn lậu và gian lận thương mại (Ban 853) bao gồm các cơ quan kể trên do Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan chủ trì để phối hợp đấu tranh đạt kết quả cao.
4. Nâng cao giác ngộ cho cán bộ và nhân dân
Nâng cao giác ngộ và đấu tranh chống lại gian lận thương mại cho cán bộ và nhân dân là một việc làm trong việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về xuất nhập khẩu, về hoạt động hải quan qua việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong đấu tranh chống gian lận thương mại.
Đối với nhân dân, phải giáo dục tình cảm tôn trọng pháp luật, từng bước mở rộng trí thức pháp luật cho nhân dân bằng nhiều hình thức ví dụ như cán bộ và nhân dân trực tiếp tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến của quần chúng nhân dân, tạo cho họ làm quen với pháp luật.
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước, phải giác ngộ lòng tin pháp luật cho các cán bộ đó là tình cảm công bằng trách nhiệm, tình cảm pháp chế. Phải giáo dục cho các cán bộ những kiến thức về nguyên nhân và điều kiện dẫn đến vi phạm pháp luật của bọn gian lận thương mại, phải làm cho mọi người thấy được hậu quả nghiêm trọng của gian lận thương mại đối với nền kinh tế, xã hội và đạo đức văn hoá đối với đất nước. 5. áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ.
Hải quan phải xây dựng những đội tàu cao tốc để quản lý biên giới biển, trong khi máy soi hành lý, hàng hoá tại các cửa khẩu quốc tế lớn, các máy soi container và các thiết bị cần thiết khác cho hoạt động kiểm tra kiểm soát hải quan, ứng dụng vi tính hoá các quy trình, thủ tục hải quan như: đăng ký tiếp nhận tờ khai, xác định giá tính thuế XNK, thông tin chống buôn lậu và gian lận thương mại.
6. Phải có chính sách đối với vùng biên giới:
Nhà nước cần có chính sách khuyến khích phát triển kinh tế phù hợp, ưu đãi về các mặt (vay vốn, miễn giảm thuế, đầu tư hạ tầng...) để giúp nhân dân vùng này phát triển sản xuất, nâng cao đời sống. Coi trọng công tác giáo dục, động viên nhân dân hiểu biết pháp luật, không tham gia trực tiếp hoặc tiếp tay cho bọn buôn lậu và gian lận thương mại.
7. Tăng cường hợp tác quốc tế với các cơ quan Hải quan của các nước trong việc đấu tranh chống gian lận thương mại.
Tăng cường hợp tá nhằm tăng cường thông tin tình báo, lựa chọn mục tiêu, lập hồ sơ và quản lý, định giá rủi ro thông qua đó có thể phát hiện các trường hợp có nguy cơ gian lận thương mại cao, phối hợp với các nước trong việc kiểm soát hải quan, tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ của các nước phát triển trong việc đào tạo cho cán bộ hải quan Việt Nam về các kỹ thuật và phương pháp đấu tranh chống gian lận thương mại tiên tiến.
Kết luận
Hàng giả và gian lận thương mại là hai mối hiểm hoạ cho toàn xã hội, Hàng giả ảnh hưởng không nhỏ đến sức khoẻ, tiền bạc của người tiêu dùng, làm thiệt hại về uy tín, vật chất cho các doanh nghiệp. Hơn nữa, hàng giả còn ảnh hưởng đến uy tín quốc gia, vi phạm các điều quy ước quốc tế mà ta ký kết, nó không chỉ đánh vào nền kinh tế của đất nước mà còn kìm hãm sự tăng trưởng, phát triển kinh tế, xã hội. Vì vậy, chống hàng giả có hiệu quả là góp phần tăng trưởng phát triển kinh tế, giữ vững an ninh thị trường và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng.
Gian lận thương mại đem đến những hậu quả rất nghiêm trọng không chỉ đối với nền kinh tế, sản xuất - tiêu dùng, văn hoá - xã hội... mà còn tác động tiêu cực đến hoạt động thương mại chân chính, đến quyền lợi chính đáng của thương mại quốc tế. Vì vậy, chống gian lận thương mại có hiệu quả là góp phần phát triển kinh tế - xã hội, chống được thất thu thuế, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh chân chính phát triển.
Đối với chúng ta, trong điều kiện hiện nay đang tập trung thực hiện thắng lợi công cuộc đối mới đất nước từng bước đưa đất nước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì nhiệm vụ chống hàng giả và gian lận thương mại càng quan trọng và có ý nghĩa thiết thực.
Trong những năm vừa qua, công tác đấu tranh chống hàng giả và gian lận thương mại đã đạt được một số kết quả khả quan, đã kiểm tra, phát hiện và xử lý nhiều vụ vi phạm thu về cho ngân sách hàng triệu USD. Tuy nhiên trên thực tế hàng giả và gian lận thương mại vẫn chưa giảm và hành vi thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn. Để lý giải cho thực trạng này có rất nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chủ yếu là do luật pháp của ta chưa nghiêm, còn thiếu thốn, chưa đồng bộ và thiếu tính thống nhất. Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác như: Công tác giáo dục, tuyên truyền về hàng giả và gian lận thương mại chưa được coi trọng nên trình độ nhận thức của các tầng lớp nhân dân về tác hại của hàng giả và gian lận thương mại chưa đầy đủ. Trang thiết bị phục vụ cho công tác kiểm tra kiểm soát còn thiếu thốn, thô sơ...
Vì vậy để công tác chống hàng giả và gian lận thương mại có hiệu quả, đòi hỏi phải có sự nỗ lực cố gắng và phối hợp thống nhất của các Bộ, ngành có liên quan, của các nhà sản xuất kinh doanh và của người tiêu dùng. Cần tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các tầng lớp nhân dân và sự hợp tác quốc tế trong công tác đấu tranh chống hàng giả và gian lận thương mại.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0771.doc