- Có chính sách khuyến khích phát
triển hệ thống xay xát lúa gạo trở thành
tác nhân chính trong cấu trúc thị trường
lúa gạo, theo đó hệ thống xay xát có cơ
sở vật chất, công nghệ hiện đại đảm có
khả năng dự trữ lớn, có vùng nguyên
liệu, có thị trường ổn định, đảm bảo chất
lượng thành phẩm.
- Hướng thị trường tiêu thụ gạo về thị
trường nội địa với những quy định chặt
chẽ về chuẩn mực chất lượng, thương
hiệu và nguồn gốc xuất xứ gạo của
ĐBSCL. Vì chỉ khi có niềm tin vững
chắc về chất lượng và thương hiệu gạo
trong nước thì mới có nền tảng vững
chắc tiến ra thị trưởng thế giới.
- Sửa đổi điều kiện trở thành doanh
nghiệp xuất khẩu gạo theo hướng mở
rộng hơn, nhằm tạo khả năng gia nhập
thị trường tốt hơn cho doanh nghiệp xuất
khẩu gạo nhằm giảm được các áp đặt bất
lợi cho các tác nhân trong cấu trúc thị
trường lúa gạo, đặc biệt là người nông
dân. Có chính sách hỗ trợ cho nông dân
sản xuất nhỏ bán ruộng để chuyển đổi
sang ngành nghề khác.
- Tổ chức lại Hiệp Hội Lương Thực
Việt Nam để đảm bảo Hiệp hội phải có
đại diện đầy đủ của doanh nghiệp tư
nhân, chính quyền địa phương và nông
dân trong thương mại lúa gạo.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng ngành lúa gạo đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2010-2015 – nhìn từ góc độ chuỗi giá trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
52
THỰC TRẠNG NGÀNH LÚA GẠO
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG GIAI ĐOẠN 2010-2015
– NHÌN TỪ GÓC ĐỘ CHUỖI GÍA TRỊ
Nguyễn Ngọc Quang
Văn phòng UBND Thành phố Cần Thơ
(Email: nnquang.ct@gmail.com)
Ngày nhận: 15/3/2018
Ngày phản biện: 29/3/2018
Ngày duyệt đăng: 29/4/2018
TÓM TẮT
Thông qua dữ liệu thứ cấp từ nhiều nguồn và bằng phương pháp định tính, bài viết nêu lên
những nhận xét khái quát thực trạng sản xuất, thu mua, xay xát và xuất khẩu lúa gạo khu
vực ĐBSCL nhìn từ góc độ chuỗi giá trị. Bài viết phân tích vai trò của các tác nhân trong
chuỗi giá trị lúa gạo, mối quan hệ giữa các tác nhân với nhau và với bên ngoài, nhất là
quan hệ với thể chế của chính phủ. Kết quả phân tích cho thấy, người nông dân – tác nhân
cung cấp nguồn đầu vào quan trọng bậc nhất nhưng luôn ở vị thế yếu, doanh nghiệp xuất
khẩu gạo hưởng phần lớn lợi ích trong chuỗi nhờ vào độc quyền từ thể chế ưu đãi của nhà
nước. Trên cơ sở phân tích này, một số giải pháp vĩ mô được đề xuất nhằm hoàn thiện
chuỗi giá trị lúa gạo ĐBSCL, theo hướng đạt giá trị gia tăng cao hơn trong toàn chuỗi và
định vị hợp lý vai trò và lợi ích của từng tác nhân trong chuỗi, bảo đảm sự phát triển lâu
dài ngành lúa gạo tại ĐBSCL trong tương lai.
Từ khóa: Chuỗi giá trị, lúa gạo, nông dân, thu mua, xuất khẩu, Đồng bằng sông Cửu Long.
Trích dẫn: Nguyễn Ngọc Quang, 2018. Thực trạng ngành lúa gạo đồng bằng sông Cửu
Long giai đoạn năm 2010-2015- nhìn từ góc độ chuỗi giá trị. Tạp chí Nghiên
cứu khoa học và Phát triển kinh tế, Trường Đại học Tây Đô. 03: 52-63.
*Thạc sĩ Nguyễn Ngọc Quang, Văn phòng UBND TP. Cần Thơ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
53
1. GIỚI THIỆU
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)
là vùng trọng điểm sản xuất lúa của cả
nước, hàng năm sản xuất trên 50% tổng
sản lượng lúa quốc gia, góp phần đảm
bảo an ninh lương thực trong nước cũng
như đáp ứng được trên 90% lượng gạo
xuất khẩu (Viện Quy hoạch và Thiết kế
nông nghiệp, 2014).
Tuy nhiên, sản xuất lúa ở ĐBSCL vẫn
còn nhiều bất cập như quy mô sản xuất
còn nhỏ lẻ, năng suất lao động ngành lúa
gạo thấp, phương thức canh tác dùng
nhiều phân bón hóa học và thuốc bảo vệ
thực vật, chất lượng gạo thấp, kém sức
cạnh tranh trên thị trường. Những năm
gần đây, nhất là từ năm 2016, sản xuất
lúa gạo vùng ĐBSCL phải đương đầu
với tác động của biến đổi khí hậu,... Vì
vậy, nông dân trồng lúa vẫn còn nghèo
(Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn, 2012). Bài viết này đề cập khái
quát thực trạng ngành lúa gạo khu vực
ĐBSCL nhìn từ góc độ kết cấu thị
trường.
1.1. Sản lượng và năng suất
Hằng năm, ĐBSCL sản xuất hơn 50%
sản lượng lương thực, cung cấp hơn
90% lượng gạo xuất khẩu của cả nước.
Lúa gạo đã thực sự trở thành ngành hàng
có ưu thế lớn của vùng này, do thiên
nhiên ưu đãi, năng suất lúa đạt khá cao.
Theo Niên giám thống kê, năng suất lúa
năm 2010 của ĐBSCL đạt 5,70 tấn/ha;
năm 2015 đạt 5,95 tấn/ha, cao nhất so cả
nước và cũng là cao nhất khu vực Đông
Nam Á. Tốc độ tăng sản lượng lúa của
vùng ĐBSCL cũng khá cao. Năm 2010
toàn vùng đạt sản lượng lúa là
21.601.348 tấn, năm 2015 đạt
25.606.764 tấn, tốc độ tăng sản lượng
lúa bình quân/năm giai đoạn 2011-2015
là 3,46%. Nhờ sản lượng lúa tăng cao
nên lượng gạo xuất khẩu của vùng cũng
chiếm tỷ trọng cao so với tổng lượng
gạo xuất khẩu của cả nước.
Giai đoạn 2010-2015, diện tích gieo
trồng và sản lượng lúa của vùng ĐBSCL
đều tăng, mặc dù diện tích đất canh tác
lúa bị giảm do quá trình đô thị hóa. Đó
là kết quả của việc thâm canh, tăng vụ
và sử dụng giống lúa năng suất cao.
Diện tích đất canh tác lúa toàn vùng
trong 5 năm (2010-2015) đã giảm
14.410 ha (giảm 0,15%/năm), nhưng
diện tích gieo trồng lúa vẫn tăng 353.463
ha (tăng 1,73%/năm). Theo Niên giám
thống kê 2015, diện tích gieo trồng lúa
vùng ĐBSCL chiếm hơn 50% tổng diện
tích gieo trồng lúa trên cả nước. Theo
Nguyễn Đình Cung (2017), số hộ trồng
lúa ở vùng ĐBSCL chỉ chiếm 16% trong
tổng số hộ trồng lúa trên cả nước nhưng
sản xuất hơn một nửa tổng sản lượng
lúa. Mặc dù diện tích trồng lúa bình
quân mỗi hộ của vùng ĐBSCL là cao
nhất nước (1,29 ha), và có 14 % số hộ có
diện tích trồng lúa trên 2 ha, nhưng với
quy mô canh tác như vậy vẫn là quá nhỏ,
sản lượng tăng chủ yếu nhờ thâm canh,
tăng sử dụng các yếu tố đầu vào, nhất là
phân bón. Điều này dẫn đến thu nhập
thấp cho nông dân trồng lúa, nhất là khi
so với các ngành nông nghiệp khác và
toàn bộ nền kinh tế.
1.2. Tiêu thụ trong nước
Theo Nguyễn Đình Cung (2017),
cùng với thu nhập của các nhóm dân cư
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
54
tăng lên, nhu cầu tiêu thụ gạo trung bình
của người Việt Nam, ngày càng giảm, từ
mức 160kg/người/năm năm 1993, giảm
còn 125kg/người năm 2010 và năm 2014
chỉ là 113kg/người. Cơ cấu chi tiêu của
các nhóm dân cư cũng thay đổi theo
hướng giảm tỷ lệ tiêu thụ gạo trong tổng
chi ăn uống thường xuyên, giảm từ gần
50% năm 2002 xuống còn gần 40% tổng
chi năm 2012. Tính trung bình cả nước,
chi cho gạo giảm từ 40% năm 2002
xuống còn khoảng 30% năm 2012. Số
liệu khảo sát mức sống hộ gia đình năm
2014 cho thấy con số này chỉ là gần
20%. Trong những năm gần đây, thị
trường gạo trong nước xuất hiện xu
hướng tiêu dùng gạo nhập khẩu, nhất là
gạo thơm của Thái Lan và Campuchia.
Với thu nhập ngày càng tăng, một bộ
phận người tiêu dùng Việt Nam đang
tìm đến gạo Thái Lan và gạo Campuchia
vì chất lượng gạo tốt hơn. Nhu cầu tiêu
dùng tăng đã dẫn đến hiện tượng nhập
lậu gạo Thái Lan về bán ở một số thị
trường, ví dụ như thành phố Hồ Chí
Minh.
1.3. Xuất khẩu
Cùng với sự gia tăng liên tục sản
lượng lúa, lượng gạo xuất khẩu khu vực
ĐBSCL cũng gia tăng. Tuy nhiên, tốc độ
tăng lượng gạo xuất khẩu không được
liên tục, có xu hướng giảm nhẹ từ năm
2013 đến nay. Sau khi đạt đỉnh điểm
xuất khẩu gạo cao nhất vào năm 2012
với lượng gạo xuất khẩu là 4,2 triệu tấn
tấn, lượng gạo xuất khẩu bắt đầu giảm từ
năm 2013, đến năm 2015 chỉ còn 3,4
triệu tấn. Thị trường xuất khẩu gạo chủ
yếu của ĐBSCL là Trung Quốc,
Philippines, Malaysia. Từ sau 2012, kim
ngạch xuất khẩu gạo giảm vai trò quan
trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu
của vùng.
Bảng 1. Lượng gạo xuất khẩu ở Đồng bằng sông Cửu Long
Lượng gạo xuất khẩu các tỉnh vùng ĐBSCL (Tấn)
2010 2011 2012 2013 2014 2015
3.445.807 3.352.292 4.243.087 3.802.195 3.412.687 3.412.418
(Nguồn: Niên giám thống kê các tỉnh vùng ĐBSCL)
1.4. Thách thức đối với ngành lúa
gạo
Ngành hàng lúa gạo vùng ĐBSCL
đang phải đối mặt với nhiều thách thức
sau:
Quy mô đất sản xuất lúa nhỏ.
Theo Thông báo của Tổng cục Thống
kê về kết quả sơ bộ tổng điều tra nông
thôn, nông nghiệp và thủy sản năm
2016, tính đến thời điểm 01/7/2016, trên
phạm vi cả nước có tổng số 2.262 cánh
đồng lớn; trong đó, có 1.661 cánh đồng
trồng lúa, chiếm 73,4%. Riêng ở
ĐBSCL, tại “Hội nghị lúa gạo vùng
ĐBSCL” cho biết, quy mô sản xuất
trung bình của hộ trồng ĐBSCL là 1
ha/hộ, có hơn 48% hộ có từ 0,5 ha –
2,ha. Diện tích cánh đồng lớn chỉ chiếm
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
55
dưới 5% diện tích canh tác lúa. Liên kết
trực tiếp giữa nông dân với doanh
nghiệp đã hình thành nhưng còn chậm,
chiếm chưa đến 4% tổng sản lượng lúa
thu hoạch hàng năm. Theo Tổ chức Hợp
tác Phát triển Đức (GIZ) (Nguyễn công
Thành và cộng sự, 2013), hộ chuyên
trồng lúa phải có ít nhất 2ha thì mới vượt
qua ngưỡng đói nghèo. Ước tính với
diện tích 0,5 ha/hộ gia đình chỉ có thể
đạt thu nhập 3,9 triệu đồng/người/năm
(tỉnh An Giang năm 2003), thấp hơn
mức chuẩn nghèo nông thôn. Đã bắt đầu
xuất hiện nông dân bỏ nghề trồng lúa để
kiếm việc làm khác cho thu nhập cao
hơn trên diện rộng (Nguyễn Thế Tràm,
2015).
Năng suất lao động sản xuất lúa gạo
thấp.
Nông dân ĐBSCL ưa chuộng trồng
giống lúa có năng suất cao, nhưng phẩm
chất thấp (như giống IR50404) để dễ bán
vì thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của
Việt Nam là Trung Quốc với nhu cầu
gạo phẩm cấp thấp phù hợp với mức thu
nhập của họ. Lúa năng suất cao nhưng
phẩm chất thấp, giá bán thấp nên năng
suất lao động không cao. Một nguyên
nhân khác khiến cho năng suất lao động
ngành lúa gạo thấp là nông dân trồng
quá nhiều giống lúa khác nhau, làm cho
sản phẩm gạo không đồng nhất, gạo
thành phẩm được pha tạp từ nhiều giống
lúa khác nhau nên sức cạnh tranh kém,
không bán được giá cao, năng suất lao
động thấp. Viện lúa ĐBSCL cho biết họ
đã lai tạo ra 161 giống lúa khác nhau và
nông dân thực tế đã sử dụng 40-50 giống
khác nhau với chất lượng khác nhau.
Trong khi đó, tại Thái Lan, họ chỉ sử
dụng phần lớn 3 giống lúa thơm có chất
lượng khá tương đồng (Nguyễn Văn
Sơn, 2013). Do đó, chất lượng gạo Việt
Nam thấp và không đồng đều, nhiều
giống trộn lẫn làm cho giá gạo xuất khẩu
của Việt Nam luôn thấp hơn giá gạo của
Thái Lan.
Sản xuất lúa gạo sử dụng quá nhiều
phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực
vật
Phân bón là loại vật tư góp phần đáng
kể làm tăng năng suất cây trồng, đặc biệt
là đối với cây lúa. Theo đánh giá của
Viện Dinh dưỡng Cây trồng Quốc tế
(IPNI), phân bón đóng góp khoảng 30-
35% tổng sản lượng cây trồng. Vì vậy
nó được sử dụng với một lượng khá lớn
hàng năm. Tuy nhiên, nếu sử dụng
không đúng cách, phân bón lại chính là
một trong những tác nhân gây nên sự ô
nhiễm môi trường sản xuất nông nghiệp
và môi trường sống.
Hiện nay, có nhiều vấn đề môi trường
gây ra từ sản xuất lúa gạo như: sử dụng
phân bón hóa học và hóa chất bảo vệ
thực vật làm tăng ô nhiễm của hệ sinh
thái. Ngoài ra, còn có tác động của các
loại khí gây hiện tượng ấm lên toàn cầu
được tạo ra, đặc biệt là khí mêtan (CH4).
Do ngập nước trên ruộng lúa cắt đứt
nguồn cung cấp oxy, sau đó vi sinh vật
kỵ khí lên men các chất hữu cơ trong
đất, gây ra việc sản xuất khí CH4. Khí
CH4 được sản xuất từ canh tác lúa chiếm
đến 20% phát thải khí CH4 toàn cầu,
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như phân
bón cho lúa và môi trường đất (Nguyễn
Đức Thành và Đinh Tuấn Minh, 2015).
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
56
Hầu hết người nông dân trồng lúa
hiện nay đều bón quá dư thừa lượng
đạm, gây nên hiện tượng lúa lốp, tăng
quá trình cảm nhiễm với sâu bệnh, dễ bị
đổ ngã. Biểu hiện của việc bón dư thừa
đạm qua quan sát bằng mắt thường cho
thấy màu lá cây thường xanh mướt hoặc
nếu quá dư thừa thì lá màu xanh đậm.
Nếu sử dụng bảng so màu lá thì độ đậm
của màu lá càng được thấy rõ hơn.
Chương trình 3 giảm, 3 tăng cũng là
những minh chứng cho việc lạm dụng
bón quá dư thừa lượng đạm. Sử dụng
quá nhiều phân bón, cây lúa dễ bị nhiễm
bệnh, vì vậy lượng thuốc bảo vệ thực vật
hóa học cũng được sử dụng tăng theo.
Nguy cơ suy thoái đất và ô nhiễm môi
trường là rất lớn. Tính bền vững của sản
xuất lúa gạo đang là một câu hỏi lớn, vì
sản phẩm gạo cho tiêu dùng trong nước
và xuất khẩu không đảm bảo an toàn vệ
sinh thực phẩm và sức khỏe con người
(Nguyễn Đình Cung, 2017).
2. Những tác nhân chính trong
chuỗi giá trị lúa gạo
2.1. Người nông dân
Các chủ thể tham gia trồng lúa ở
ĐBSCL gồm có hộ gia đình (người nông
dân), các tổ chức hợp tác và các liên kết
giữa doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo
với nông dân trồng lúa. Trong đó, người
nông dân chiếm tỷ lệ lớn nhất và cũng là
chủ thể hưởng lợi thấp nhất trong chuỗi
giá trị lúa gạo. ĐBSCL có gần 2 triệu hộ
nông dân với hơn 2 triệu ha đất canh tác
lúa (Thời báo tài chính Việt Nam, 2017).
Trung bình mỗi hộ nông dân canh tác
khoảng 1ha đất lúa. Xét về cơ cấu, ở
ĐBSCL có đến 48% hộ nông dân có
diện tích canh tác lúa từ 0,5-2ha. Như
vậy, có rất nhiều nhà sản xuất lúa nhỏ lẻ
nên họ thường gặp bất lợi, rủi ro do biến
động thị trường. Mặt khác, do đặc điểm
của sản xuất nông nghiệp phụ thuộc
nhiều vào điều kiện tự nhiên, nên nông
dân trở thành mắt xích dễ bị tổn thương
trong chuỗi cung ứng. Khi giá giảm, thì
nông dân là mắt xích gánh chịu thiệt hại
nhiều nhất do ở đầu nguồn của chuỗi
cung ứng. Ngược lại, khi giá tăng, nông
dân cũng không phải là người được
hưởng lợi trọn vẹn, do quá trình cung
ứng qua nhiều mắt xích trung gian trong
chuỗi cung ứng.
Chủ thể thứ hai có tham gia vào khâu
trồng lúa, là một số tổ chức hợp tác hay
Công ty kinh doanh lương thực nhằm
tạo nguồn cung lúa gạo cho công việc
kinh doanh của mình.
Các hợp tác xã cũng còn tồn tại với
tính chất khác với hợp tác xã thời bao
cấp. Những hợp tác xã hoạt động có hiệu
quả không nhiều. Tuy nhiên, số lượng ít,
phạm vi nhỏ, chưa đủ mạnh trong việc
đại diện, bảo vệ quyền lợi của người
nông dân trong chuỗi giá trị lúa gạo. Ở
ĐBSCL, xuất hiện nhiều hình thức liên
kết giữa các công ty kinh doanh lúa gạo
với người nông dân thông qua các mối
liên kết phổ biến là: Công ty cung cấp
vật tư, giống, hướng dẫn kỹ thuật canh
tác và bao tiêu sản phẩm; hoặc doanh
nghiệp và nông dân thỏa thuận tiêu thụ
lúa gạo, nông dân tự lo vật tư và lựa
chọn giống. Những hình thức hợp tác
này phổ biến ở các tỉnh có sản lượng lúa
lớn như An Giang, Đồng Tháp, ... để
hình thành “cánh đồng mẫu lớn”. Đây là
hình thức tổ chức sản xuất có lợi cho cả
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
57
đôi bên, vì nó giúp giảm chi phí sản
xuất, bảo đảm được nguồn cung nguyên
liệu ổn định và tiêu thụ sản phẩm với giá
cả hợp lý.
Thế nhưng, từ vụ đông xuân 2011 -
2012 đến nay, tình hình xuất khẩu gạo
gặp khó khăn, cạnh tranh gay gắt, giá cả
liên tục bấp bênh; không còn thuận lợi
như năm 2011 (Thúy An, 2017). Mô
hình cánh CĐML đang được nhân rộng
tại ĐBSCL với diện tích hàng chục ngàn
hécta đã bộc lộ nhiều bất cập, nhược
điểm, đặc biệt là khó khăn về đầu ra sản
phẩm. Mối quan hệ giữa hai chủ thể
chính là nông dân - doanh nghiệp rạn
nứt. Khi giá lúa sụt giảm, doanh nghiệp
tìm mọi lý do để không mua lúa của
nông dân. Vì thế, tình trạng nông dân
trong cánh đồng mẫu lớn bán lúa cho
thương lái bên ngoài trở nên phổ biến và
cảnh bị ép giá đi kèm với điệp khúc
trúng mùa mất giá quay trở lại! Tuy
nhiên, cũng không loại trừ khi giá lúa
lên cao, nông dân sẵn sàng bỏ hợp đồng
để bán cho doanh nghiệp khác hoặc
thương lái bên ngoài. Mặt khác, các
doanh nghiệp dù cố gắng vẫn không xử
lý hết lượng lúa lớn của nông dân cùng
một thời điểm vì hệ thống lò sấy, kho
chứa hạn chế. Cả nước có 153 doanh
nghiệp xuất khẩu gạo nhưng cho tới nay,
số đơn vị tham gia xây dựng cánh đồng
mẫu lớn, đặc biệt là hợp đồng bao tiêu
lúa cho nông dân, chỉ đếm trên đầu ngón
tay. Tình trạng phá vỡ hợp đồng thường
xuyên xảy ra do nông dân không tuân
thủ quy trình sản xuất, lúa hàng hóa
không đáp ứng phẩm chất theo đơn đặt
hàng. Ngược lại, doanh nghiệp không
đảm bảo tiến độ thu mua, giá thu mua
chưa mang tính khuyến khích đối với
nông dân. Phạm Văn Dư, (Bộ NN-
PTNT), nhìn nhận: “Thời gian qua, do
năng lực thu mua còn hạn chế, không
thống nhất tiêu chí, giá cả thu mua là
nguyên nhân dẫn đến tình trạng phá vỡ
hợp đồng, doanh nghiệp”. Mối quan hệ
giữa doanh nghiệp và nông dân chưa
bình đẳng. Doanh nghiệp tồn tại nhờ
nông dân nhưng nông dân luôn ở thế bị
động, chỉ biết sản xuất và phó thác sản
phẩm của mình cho doanh nghiệp. Vì
vậy, mô hình “cánh đồng mẫu lớn” vẫn
còn là số ít so với số hộ canh tác đơn lẻ
của toàn vùng.
2.2. Thu mua và chế biến
Do điều kiện tự nhiên với hệ thống
sông rạch chằng chịt, rất thuận lợi cho
vận chuyển thủy, do đó hình thành và
phát triển hệ thống thương lái mua lúa
gạo đến tận từng thửa ruộng của nông
dân ngay khi vừa thu hoạch xong. Việc
mua bán lúa gạo thuận lợi cho cả người
bán và người mua.
Tuy nhiên, trong thực tế, quan hệ giữa
người nông dân và thương lái rất phức
tạp, người nông dân thường bị chịu thiệt
nhiều hơn. Thương lái với phương tiện
vận chuyển thủy lớn để đưa lúa gạo về
các nhà máy xay xát, chế biến một cách
nhanh chóng, nên họ trở nên độc quyền
và người nông dân thường gặp bất lợi
trong thương lượng giá cả. Một quan hệ
khác giữa thương lái và nông dân cũng
được hình thành, đó là việc thương lái
cung cấp vật tư, lúa giống để độc quyền
thu mua lúa vào cuối vụ với một mức
giá thỏa thuận trước. Do đó, nếu đến
thời điểm thu hoạch, giá giảm, người
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
58
nông dân bị ép giá; nếu giá tăng, người
nông dân cũng không được hưởng lợi từ
việc tăng giá.
Tại ĐBSCL xuất hiện mô hình “cánh
đồng mẫu lớn” tại An Giang với những
quan hệ có lợi cho cả người nông dân và
doanh nghiệp. Đây là mô hình liên kết
chuỗi giá trị tương đối hoàn chỉnh, theo
đó người nông dân có quyền lựa chọn
những điều kiện có lợi nhất cho mình.
Tuy nhiên, trong thực tế, người nông
dân thường không thực hiện cam kết với
doanh nghiệp, mà thường bán lúa tươi
cho thương lái tại nơi thu hoạch với mức
giá thỏa thuận mà họ thấy trước mắt có
lợi cho họ, vì họ không có kho dự trữ. Vì
vậy, họ vẫn phải chịu phụ thuộc vào
thương lái. Thương lái có vai trò hết sức
quan trọng trong việc kết nối giữa người
sản xuất lúa với doanh nghiệp kinh
doanh lúa gạo, kể cả kinh doanh nội địa
và xuất khẩu. Theo Nguyễn Đình Cung
(2017), có đến 93% lúa gạo tại ĐBSCL
được thu gom bởi các thương lái. Sau
đó, các thương lái sẽ bán đứt khoảng
13% lúa cho các nhà máy xay xát; 69%
sẽ được họ mang đi xay xát rồi bán cho
các nhà máy lau bóng, xuất khẩu; 11%
số lúa được thương lái bán cho các nhà
bán buôn, bán lẻ trong nước sau khi đã
được xay xát.
2.3. Tiêu thụ trong nước
Các chủ thể chính tham gia thị trường
tiêu thụ gạo trong nước gồm lực lượng
bán lẻ ở quy mô cá nhân, doanh nghiệp
tư nhân trong nước kinh doanh gạo theo
hình thức truyền thống. Ngoài ra, tại
ĐBSCL cũng bắt đầu hình thành hình
thức bán lẻ gạo hiện đại tại các siêu thị.
Tuy nhiên, hình thức bán lẻ truyền thống
vẫn là phổ biến, bởi vì bán lẻ theo hình
thức hiện đại, các siêu thị thường đòi
chiết khấu cao và họ còn phải chịu thuế
VAT, trong khi các hộ kinh doanh gạo lẻ
theo quy mô cá nhân hay hộ gia đình
không phải đóng thuế VAT.
2.4. Thị trường xuất khẩu
Từ sau khi có Nghị định 109/2010
/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo, số
doanh nghiệp tham gia xuất khẩu gạo có
giảm xuống. Khu vực ĐBSCL có
VINAFOOD II và hệ thống các doanh
nghiệp cả tư nhân và Nhà nước kinh
doanh xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, các
doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ vai trò
chủ đạo trong xuất khẩu gạo, bởi vì các
doanh nghiệp xuất khẩu lương thực nhà
nước được ưu tiên giao thực hiện các
hợp đồng chính phủ. Các hợp đồng xuất
khẩu gạo chính phủ được giao cho Hiệp
Hội Lương Thực Việt Nam quản lý và
phân bổ cho các thành viên của Hiệp
hội; trong đó, VINAFOOD là chủ tịch
của Hiệp hội. Những hợp đồng chính
phủ là chỗ dựa quan trọng để các doanh
nghiệp lương thực nhà nước chiếm ưu
thế trong xuất khẩu gạo.
Nhận xét chung
Ngành lúa gạo khu vực ĐBSCL đã và
đang giữ vai trò quan trọng trong việc
đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và
xuất khẩu của cả nước. Xu hướng cung
xuất khẩu gạo trong tương lai sẽ lớn hơn
cầu do các quốc gia nhập khẩu gạo lớn
như Philippines và Indonesia đang nỗ
lực đầu tư mạnh cho ngành lúa gạo với
kỳ vọng sớm tự túc lương thực. Các
quốc gia Châu Phi cũng đang phát triển
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
59
diện tích trồng lúa để đảm bảo an ninh
lương thực. Đồng thời, các quốc gia tiềm
năng như Ấn Độ, Myanmar và
Campuchia cũng đang gia tăng năng suất
lúa. Trong khi đó nhu cầu tiêu thụ gạo
tại các quốc gia Châu Á có xu hướng ổn
định hoặc giảm nhẹ từ 2030 (Thúy An,
2017). Xu hướng nêu trên về cung gạo,
và xu hướng mở cửa các thị trường nông
sản theo các hiệp định thương mại tự do,
thì việc kinh doanh xuất khẩu gạo trong
tương lai nên hướng vào việc cung ứng
các loại gạo chất lượng cao và đặc thù
cho các nhóm khách hàng khác nhau.
Các loại gạo chất lượng thấp chủ yếu
được tiêu thụ nội địa cho các tầng lớp
dân nghèo thay vì được xuất khẩu.
Về cấu trúc thị trường
Trong cấu trúc thị trường lúa gạo khu
vực ĐBSCL cũng như cả nước hiện nay,
thì doanh nghiệp xuất khẩu là tác nhân
chi phối mạnh nhất, là tác nhân quyết
định giá cả lúa gạo trên thị trường trong
nước. Thương lái gắn với doanh nghiệp
xuất khẩu, sau biết được nhu cầu của
doanh nghiệp xuất khẩu thì mới tiếp cận
với nông dân để thu mua lúa. Hệ thống
xay xát vẫn là lực lượng gia công, làm
thuê cho các thương lái.
Theo kinh nghiệm của Thái Lan và
Ấn Độ, thì hệ thống xay xát lúa gạo của
ĐBSCL cũng sẽ phát triển theo cấu trúc
thị trường của các nước này. Nghĩa là,
hệ thống xay xát sẽ giữ vai trò trung
tâm, là nơi tập trung vốn, công nghệ và
thông tin thị trường điều phối cung cầu
giữa nhu cầu xuất khẩu và tiêu thụ trong
nước và nguồn cung lúa gạo của các hộ
nông dân (Lê Thanh Phong và Phạm
Thành Lợi, 2012).
Vai trò người nông dân
Sản xuất lúa gạo của người nông dân
khu vực ĐBSCL dựa trên hình thức kinh
tế hộ, quy mô diện tích nhỏ, lại trồng
nhiều vụ (3 vụ) trên năm. Nguồn lực sản
xuất bị hạn chế về vốn, không có khả
năng dự trữ lúa sau thu hoạch nên phải
bán lúa tươi cho thương lái. Hình thức
“cánh đồng mẫu lớn” chưa thật sự tạo sự
gắn bó lâu dài với người nông dân.
Những hình thức hợp tác giữa người
nông dân với các doanh nghiệp thương
mại lương thực thường có tính tạm thời.
Hình thức hợp tác xã khó phát triển vì
vẫn còn bị ám ảnh tâm lý thời bao cấp.
Các chương trình hỗ trợ của Chính phủ
chưa thực sự đến được với nông dân. Vì
những nguyên nhân trên, nông dân là tác
nhân chịu nhiều rủi ro nhất về biến động
giá lúa và giá các đầu vào, không được
hưởng tính kinh tế nhờ quy mô. Do vậy,
cần thay đổi chính sách hạn điền, tạo
điều kiện tích tụ ruộng đất, phát triển sản
xuất với quy mô lớn, nhiều doanh
nghiệp kinh doanh nông nghiệp sẽ hình
thành và phát triển, người nông dân
được tự do chuyển nhượng đất đai và
mục đích sử dụng đất lúa thì kinh tế
nông nghiệp nói chung, kinh tế lúa gạo
nói riêng sẽ có tương lai tốt đẹp hơn.
Vai trò của thương lái
Thương lái ở ĐBSCL thường có quy
mô kinh doanh nhỏ, nhưng rất nhiều về
số lượng, đang giữ vai trò quan trọng
trong chuỗi cung ứng lúa gạo và sẽ còn
tồn tại lâu dài khi mà doanh nghiệp xuất
khẩu gạo chưa có được thị trường xuất
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
60
khẩu ổn định. Hoạt động chính của
thương lái là tự đi mua lúa, thuê xay xát
và bán lại cho các doanh nghiệp cung
ứng hoặc doanh nghiệp xuất khẩu gạo.
Mối quan hệ gắn bó giữa thương lái với
các nhà máy xay xát sẽ càng chặt chẽ
hơn cùng với xu hướng ngày càng phát
triển của hệ thống xay xát.
Về các cơ sở xay xát
Hiện tại, các doanh nghiệp xay xát ở
ĐBSCL chủ yếu là qui mô vừa và nhỏ.
Có một số ít doanh nghiệp có tích lũy
vốn để mở rộng đổi mới công nghệ, mở
rộng quy mô. Vai trò của doanh nghiệp
xay xát chủ yếu là gia công cho thương
lái. Số doanh nghiệp xay xát mua lại gạo
của thương lái và tích trữ tại kho hoặc
trực tiếp đi mua lúa của nông dân và trữ
lúa rất ít. Vì vậy, để tận dụng hết lợi thế
kinh tế nhờ qui mô, doanh nghiệp xay
xát phải tự đi tìm nguồn cầu ổn định
thông qua liên kết với một số doanh
nghiệp xuất khẩu hoặc các siêu thị trong
nước; đồng thời tìm nguồn cung ổn định
để có thể đáp ứng nhu cầu của khách
hàng. Với xu hướng phát triển ấy, doanh
nghiệp xay xát tiến dần tới nắm giữ vị trí
trung tâm để điều phối cho thị trị trường
lúa gạo.
Các doanh nghiệp cung ứng và xuất
khẩu
Hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu
gạo ở ĐBSCL đều thu mua gạo qua
thương lái, sau một vài tháng ký được
hợp đồng xuất khẩu gạo. Họ chỉ mới đầu
tư xây dựng kho dự trữ gạo thay vì nên
dự trữ lúa. Chỉ có vài doanh nghiệp thực
sự có vùng nguyên liệu thông qua các
hợp đồng với nông dân trên các cánh
đồng mẫu lớn.
Trước áp lực cạnh tranh mạnh từ các
nước Thái Lan, Ấn Độ, Myanmar,
Campuchia trong những năm tới, các
doanh nghiệp xuất khẩu gạo buộc phải
tìm kiếm thêm thị trường bên ngoài
ngoài thị trường truyền thống. Do đó
doanh nghiệp xuất khẩu gạo sẽ phải ủy
thác thu gom và kiểm soát chất lượng
gạo thông qua các doanh nghiệp xay xát
thay vì trực tiếp thu mua từ thương lái
như hiện tại.
Bán buôn và bán lẻ gạo trong nước
Hiện nay, bán buôn và bán lẻ gạo
trong nước vẫn chủ yếu diễn ra ở các
chợ truyền thống. Các cửa hàng bán gạo
thường mua gạo trực tiếp từ thương lái
hoặc thông qua các đầu mối bán buôn.
Các cơ sở bán buôn gạo có kho chứa gạo
và mua gạo trực tiếp từ thương lái.
Với sự phát triển ngày càng mạnh của
hệ thống các siêu thị tại khu vực thành
thị, người dân trong nước sẽ có xu
hướng mua gạo có nhãn mác và nguồn
gốc tại đó. Các siêu thị sẽ gắn kết với
các doanh nghiệp xay xát để có nguồn
cung gạo ổn định cả về khối lượng và
chất lượng.
3. KẾT LUẬN
Ngành lúa gạo ĐBSCL – nhìn từ góc
độ chuỗi giá trị, có các tác nhân chính
gồm người nông dân, thương lái, doanh
nghiệp xay xát, doanh nghiệp cung ứng
và doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Xét về
vị thế trong chuỗi giá trị, người nông
dân luôn là tác nhân bị thiệt nhiều nhất,
nên xuất hiện tình trạng nhiều nông dân
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
61
trồng lúa bán ruộng đất chuyển sang làm
các nghề khác, mà nguyên nhân sâu xa
là quy mô đất sản xuất lúa nhỏ, nhưng
không được tự do chuyển đổi mục đích
sử dụng đất lúa; thiếu thông tin thị
trường; thiếu vốn sản xuất nhưng khả
năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng khó
khăn, nên phải phụ thuộc vào thương lái.
Mô hình cánh đồng lớn xuất hiện ở
ĐBSCL chưa được hoàn thiện, chưa tạo
được niềm tin đối với người trồng lúa.
Thương lái đóng vai trò tích cực trong
việc tiêu thụ sản phẩm của người nông
dân. Tuy nhiên, thương lái chỉ đóng vai
trò trung gian, làm môi giới, mua lúa của
nông dân để bán lại cho doanh nghiệp
cung ứng và hưởng chênh lệch giá giữa
giá bán và giá mua lúa của nông dân. Do
đó, người nông dân không có quyền
trong việc mặc cả giá. Cơ sở xay xát,
chủ yếu làm gia công cho doanh nghiệp
cung ứng. Chưa có cơ sở xay xát có
vùng nguyên liệu đầu vào và có rất ít cơ
sở xay xát cung ứng trực tiếp cho doanh
nghiệp xuất khẩu. Doanh nghiệp xuất
khẩu gạo chủ yếu là doanh nghiệp nhà
nước, được hưởng các đặc quyền về
phân phối hạn ngạch xuất khẩu gạo của
chính phủ. Tuy nhiên, doanh nghiệp xuất
khẩu gạo cũng chưa có thị trường xuất
khẩu ổn định, còn phụ thuộc vào khả
năng ký kết được hợp đồng với nước
ngoài. Để đạt mục tiêu tới một nền sản
xuất lúa gạo có giá trị gia tăng cao và
trong toàn chuỗi và định vị hợp lý vai trò
và lợi ích của từng tác nhân trong chuỗi,
bảo đảm sự phát triển lâu dài ngành lúa
gạo tại ĐBSCL trong tương lai, những
giải pháp sau đây được đề xuất, nhằm
tiến tới đạt được mục tiêu nêu trên:
- Có chính sách khuyến khích phát
triển hệ thống xay xát lúa gạo trở thành
tác nhân chính trong cấu trúc thị trường
lúa gạo, theo đó hệ thống xay xát có cơ
sở vật chất, công nghệ hiện đại đảm có
khả năng dự trữ lớn, có vùng nguyên
liệu, có thị trường ổn định, đảm bảo chất
lượng thành phẩm.
- Hướng thị trường tiêu thụ gạo về thị
trường nội địa với những quy định chặt
chẽ về chuẩn mực chất lượng, thương
hiệu và nguồn gốc xuất xứ gạo của
ĐBSCL. Vì chỉ khi có niềm tin vững
chắc về chất lượng và thương hiệu gạo
trong nước thì mới có nền tảng vững
chắc tiến ra thị trưởng thế giới.
- Sửa đổi điều kiện trở thành doanh
nghiệp xuất khẩu gạo theo hướng mở
rộng hơn, nhằm tạo khả năng gia nhập
thị trường tốt hơn cho doanh nghiệp xuất
khẩu gạo nhằm giảm được các áp đặt bất
lợi cho các tác nhân trong cấu trúc thị
trường lúa gạo, đặc biệt là người nông
dân. Có chính sách hỗ trợ cho nông dân
sản xuất nhỏ bán ruộng để chuyển đổi
sang ngành nghề khác.
- Tổ chức lại Hiệp Hội Lương Thực
Việt Nam để đảm bảo Hiệp hội phải có
đại diện đầy đủ của doanh nghiệp tư
nhân, chính quyền địa phương và nông
dân trong thương mại lúa gạo.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
62
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Thủy, 2014. Đẩy mạnh sản
xuất lúa gạo ở Đồng bằng sông Cửu
Long. Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn.
2. Cổng Thông tin điện tử Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, 2009.
Ảnh hưởng của việc sử dụng phân bón
tới môi trường.https:/www.mard.gov.vn.
3. Đào Thế Anh và cộng sự, 2013.
Nghiên cứu chuỗi giá trị gạo đồng bằng
sông Cửu Long tại An Giang và hậu
Giang”. Tạp chí Khoa học và Công nghệ
công nghiệp Việt Nam, số 7 (46).
4. Đào Thế Anh và Thái văn Tình,
2015. Chuỗi giá trị lúa gạo Đồng bằng
sông Cửu Long: Chính sách nông nghiệp
và thương mại thiếu hiệu quả. Tạp chí
Nghiên cứu Kinh tế số 447.
5. Hồ Thị Kim Thi, 2012. Nông dân
trong chuỗi giá trị lúa gạo hàng hóa ở
Đồng bằng sông Cửu Long. Tiểu luận
môn Kinh tế Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn.
6. Hoàng thị Thu Huyền, 2015. Tác
động của tích tụ ruộng đất đến hiệu quả
sản xuất nông nghiệp và đời sống kinh tế
xã hội ở nông thôn Tây nam bộ. Tạp chí
Khoa học xã hội số 9+10.
48592/Nhung-van-de-dat-ra-cho-canh-
dong-mau-lon-o-Dong-bang-song-Cuu-
Long.
7. Lê Thanh Phong và Phạm Thành
Lợi, 2012. Đánh giá tác động môi trường
của sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu
Long. Tạp chí Khoa học Trường Đại học
Cần Thơ.
8. Lưu Thanh Đức Hải, 2004. Vấn đề
hòa hợp thị trường lúa gạo ĐBSCL kết
quả của chính sách tự do hóa thị trường
lương thực ở Việt Nam. Tạp chí Khoa
học Trường Đại học Cần Thơ.
9. Nguyễn Công Thành và cộng sự,
2013. Nghiên cứu chế biến lúa gạo xuất
khẩu ở Đồng bằng sông Cửu Long. Viện
Khoa học và Kỹ thuật miền Nam.
10. Nguyễn Văn Sơn, 2013. Bàn về
việc hoàn thiện chuỗi cung ứng lúa gạo
xuất khẩu của Việt Nam. Hội thảo và
triển lãm quốc tế về “Hậu cần vận tải
hàng hải Việt Nam năm 2013.
11. Nguyễn Đức Thành và Đinh Tuấn
Minh, 2015. Thị trường lúa gạo Việt
Nam: Cải cách để hội nhập – Cách tiếp
cận cấu trúc thị trường. Nhà xuất bản
Hồng Đức.
12. Nguyễn Đình Cung, 2017. Báo
cáo rà soát thể chế chuỗi giá trị lúa gạo.
Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung
ương. Hà Nội, tháng 3/2017.
13. Nguyễn Tiến Dũng và Lê Khương
Ninh, 2015. Các yếu tố ảnh hưởng đến
hiệu quả kinh tế trong sản xuất lúa của
nông hộ ở thành phố Cần Thơ. Tạp chí
Khoa học Trường Đại học Cần Thơ.
14. Thời báo tài chính Việt Nam,
2017. Hội nghị “Giải pháp phát triển bền
vững ngành hàng lúa gạo vùng Đồng
bằng sông Cửu Long”. Tổ chức tại thành
phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, ngày
15/3/2017.
15. Tổng Cục thống kê. Niên giám
thống kê các tỉnh ĐBSCL năm 2010 đến
2015.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
63
16. Thúy An, 2017. Đồng bằng sông
Cửu Long: Tích tụ ruộng đất nhìn từ
thực tế.
ngày 20/6/2017.
17. Võ Thị Thanh Lộc và Nguyễn
Phú Son, 2011. Phân tích chuỗi giá trị
lúa gạo vùng Đồng bằng sông Cửu
Long. Tạp chí khoa học Đại học Cần
Thơ.
18. Võ Thị Thanh Lộc và Lê Nguyễn
Đoan Khôi, 2011. Phân tích tác động các
chính sách và chiến lược nâng cấp chuỗi
ngành hàng lúa gạo. Tạp chí Khoa học
Trường Đại học Cần Thơ.
19. Võ Thị Yến Hà, 2014. Tăng
cường năng lực tham gia chuỗi giá trị
toàn cầu đẩy mạnh tiêu thụ lúa gạo Đồng
bằng sông Cửu Long. Tạp chí Nghiên
cứu Tài chính Kế toàn, số 02 (127).
20. Võ Văn Thanh, Lê Ngọc Quỳnh
Lam và Nguyễn Thị Kim Pho, 2015.
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công
nghệ, Tập 18, số Q2-2015.
CURRENT SITUATION OF RICE SECTOR IN THE MEKONG
DELTA UNDER PERSPECTIVE OF RICE VALUE CHAIN IN
PERIOD OF 2010-2015
Nguyen Ngoc Quang
Office of Can Tho City People’s Committee
(Email: nnquang.ct@gmail.com)
ABSTRACT
Through the secondary data from various sources and with the qualitative method, the
research paper gives general comments on the current situation of rice production,
purchasing, milling and rice export in the Mekong Delta under the perspective of rice value
chain. The research paper analyzes the factors in the rice value chain, the relationship
among factors and especially with the government policies. The analysis shows that
farmers, the primary source of inputs, are always in a weak position. Rice exporters enjoy a
large share of the benefits of the value chain under the preferred state policy for rice
exporters. Based on the analysis, the research paper proposes a number of macro measures
to improve the rice market structure in the Mekong Delta, achieving higher added value in
the whole chain and locating reasonably the roles and benefits of each factor in the chain,
ensuring the long-term development of the rice sector in the Mekong Delta in the future.
Keywords: Value chain, rice, farmers, purchasing, export, the Mekong Delta.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
thuc_trang_nganh_lua_gao_dong_bang_song_cuu_long_giai_doan_2.pdf