Thực trạng ô nhiễm Trinitrotoluene (TNT) trong môi trường lao động và tình hình sức khỏe của người lao động ở một số đơn vị sản xuất, kiểm nghiệm, sửa chữa và bảo quản đạn dược quốc phòng khu vực phía Nam và đề xuất giải pháp khắc phục

KẾT LUẬN Môi trường lao động ở các đơn vị sản xuất, chế biến, kiểm nghiệm và bảo quản đạn dược quốc phòng khu vực Phía nam bị ô nhiễm nặng bởi chất nổ TNT. Nồng độ TNT trong môi trường lao động từ 0,027 – 1,145 mg/m3 không khí. Khu vực sản xuất đạn dược bị ô nhiễm nặng nhất, nồng độ TNT cao gấp 14 lần tiêu chuẩn vệ sinh cho phép. Người lao động làm việc lâu dài trong môi trường ô nhiễm TNT bị suy giảm sức khoẻ. Các bệnh lý mãn tính như thiếu máu, suy nhược thần kinh và viêm dạ dày ‐ tá tràng từ 16 ‐ 18%. Tỷ lệ nam công nhân tiếp xúc nghề nghiệp với TNT bị giảm ham muốn tình dục là 41,54%. Tỷ lệ rối loạn cương dương và xuất tinh sớm lần lượt là 10,77% và 7,69%. Tỷ lệ có tổn thương gan mãn tính biểu hiện ở chỉ số SGOT và SGPT cao hơn giá trị sinh lý bình thường ở những người tiếp xúc nghề nghiệp với TNT là 15,79%. KIẾN NGHỊ Cần có kế hoạch cải thiện điều kiện vệ sinh môi trường lao động để giảm mức độ ô nhiễm TNT trong môi trường lao động. Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục cho người lao động hiểu biết tác hại cuả bụi và các biện pháp phòng ngừa nhằm giảm thiểu tác hại của bụi TNT tới sức khỏe người lao động. Định kỳ khám sức khỏe và khám bệnh nghề nghiệp cho người lao động để phát hiện sớm những tổn thương do nhiễm độc TNT gây nên để điều trị kịp thời và lập hồ sơ giám định bệnh nghề nghiệp cho các đối tượng mắc bệnh nghề nghiệp.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 88 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng ô nhiễm Trinitrotoluene (TNT) trong môi trường lao động và tình hình sức khỏe của người lao động ở một số đơn vị sản xuất, kiểm nghiệm, sửa chữa và bảo quản đạn dược quốc phòng khu vực phía Nam và đề xuất giải pháp khắc phục, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  571 THỰC TRẠNG Ô NHIỄM TRINITROTOLUENE (TNT) TRONG MÔI TRƯỜNG  LAO ĐỘNG VÀ TÌNH HÌNH SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG   Ở MỘT SỐ ĐƠN VỊ SẢN XUẤT, KIỂM NGHIỆM, SỬA CHỮA   VÀ BẢO QUẢN ĐẠN DƯỢC QUỐC PHÒNG KHU VỰC PHÍA NAM   VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC  Nguyễn Văn Thuyên*, Hoàng Việt Phương*, Nguyễn Khánh Toàn**  TÓM TẮT  Đặt vấn  đề: Trinitrotoluen  (TNT)  là  loại  thuốc nổ được sử dụng khá rộng rãi  trong công nghiệp quốc  phòng, chủ yếu trong ngành sản xuất đạn dược. Khi vào cơ thể, TNT gây ra tổn thương rất đa dạng cho các cơ  quan tổ chức như gan, máu và cơ quan tạo máu, mắt, hệ thống thần kinh và các cơ quan đảm nhiệm chức năng  tình dục của nam giới    Mục tiêu: Nhằm đánh giá thực trạng ô nhiễm TNT trong môi trường lao động và các ảnh hưởng tới sức  khỏe của người lao động tại một số đơn vị sản xuất, kiểm nghiệm, sửa chữa và bảo quản đạn dược quốc phòng  phía Nam..  Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu dịch tễ học mô tả cắt ngang, kết hợp với hồi cứu số  liệu.   Kết quả: Nồng độ TNT trong môi trường lao động từ 0,027 ‐ 1,145 mg/m3 không khí. Nồng độ TNT ở khu  sản xuất đạn cao gấp 14 lần tiêu chuẩn cho phép. Người lao động làm việc lâu dài trong môi trường ô nhiễm  TNT bị suy giảm sức khoẻ. Các bệnh lý mạn tính như thiếu máu, suy nhược thần kinh và viêm dạ dày ‐ tá tràng  từ 16 ‐ 18%. Tỷ lệ nam công nhân tiếp xúc nghề nghiệp với TNT bị giảm ham muốn tình dục là 41,54%. Tỷ lệ  rối loạn cương dương và xuất tinh sớm lần lượt là 10,77% và 7,69%. Tỷ lệ những người tiếp xúc nghề nghiệp  với TNT có chỉ số SGOT và SGPT cao hơn giá trị sinh lý bình thường ở là 15,79%.   Kết  luận: Môi trường lao động ở các đơn vị sản xuất, chế biến, kiểm nghiệm và bảo quản đạn dược quốc  phòng khu vực Phía Nam bị ô nhiễm nặng bởi chất nổ TNT. Cần có biện pháp cải thiện điều kiện vệ sinh MTLĐ  để giảm mức độ ô nhiễm TNT.  Từ khóa: Trinitrotoluene (TNT)  ABSTRACT  TRINITROTOLUENE (TNT) POLLUTION STATUS IN WORKING ENVIRONMENT   AND THE HEALTH STATUS OF WORKERS AT SOME SOUTHERN NATIONAL DEFENSIVE UNITS  OF MUNITIONS MANUFACTURING, TESTING, REPAIRING AND PRESERVING   AND SOLUTION RECOMMENDATION  Nguyen Van Thuyen, Hoang Viet Phuong, Nguyen Khanh Toan  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6 ‐ 2014: 571 ‐ 576  Background: Trinitrotoluene (TNT) is an explosive which is widely used in the defense industry, primarily  in manufacturing ammunition. It can cause various damages to the organs in the body such as the liver, blood  and blood – forming organs, eyes, nervous systemand organs for sexual function of men.  * Trung tâm Y học dự phòng Quân đội Phía Nam  ** Bệnh viện Quận 9 – Thành phố Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: Ts. Nguyễn Văn Thuyên  ĐT:0909 224 581  Email: thuyenytdp2007@yahoo.com.vn  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 572 Objectives: The  study was  conducted  to  assess  the Trinitrotoluene  (TNT)  pollution  status  in working  environment and health ‐ related influences of workers at some Southern national defensive units of munitions  manufacturing, testing, repairing and preserving between 2010 and 2012, including K1, K8, T2 and Zx.   Methods: A cross ‐ sectional study with retrospective data.  Result:  TNT  concentrations  in  the working  environment were  from 0.027  to 1.145 mg/m3  of  air. TNT  concentrations in the manufacturing area of the shells were 14 times higher than the permitted standard. Workers  exposed  to TNT polluted  environment  for a  long  time had  impaired health. Chronic diseases  such as anemia,  neurasthenia and gastro ‐ duodenal made up 16 ‐ 18%. 41.54% of male workers occupationally exposed to TNT  had decreased libido. The percentage of erectile dysfunction and premature ejaculation were 10.77% and 7.69%  respectively. The percentage of people occupationally exposed  to TNT had SGOT and SGPT  indicators which  were higher than the normal physiological value was 15.79%.  Conclusion: Workplace environmentat some military explosive material factories were seriously polluted by  TNT  exploxives. Measures  to  improve  sanitary  conditions  in working  environment  to  reduce TNT pollution  levels need to be accounted.  Key words: Trinitrotoluene (TNT)   ĐẶT VẤN ĐỀ  Trinitrotoluen  (TNT)  là  loại  thuốc  nổ  được  sử dụng  khá  rộng  rãi  trong  công  nghiệp  quốc  phòng  để  sản  xuất  đạn  pháo  và  nhiều  ngành  kinh tế khác.  Việt Nam  là một nước đang phát triển, nhu  cầu  sử  dụng  TNT  ngày một  tăng,  do  vậy  số  người  lao  động  tiếp  xúc  với  TNT  ngày  càng  nhiều.  Trong  điều  kiện  khí  hậu  nóng  ẩm,  phương  tiện bảo hộ  lao động còn  thô sơ,  thiếu  thốn, ý  thức  tự bảo vệ của người  lao động còn  hạn chế, TNT dễ dàng xâm nhập vào cơ thể qua  đường da, hô hấp và  tiêu hóa. Khi vào  cơ  thể,  TNT và các sản phẩm chuyển hóa của nó gây ra  tổn thương rất đa dạng cho các cơ quan tổ chức  như  gan,  máu  và  cơ  quan  tạo  máu,  mắt,  hệ  thống thần kinh và các cơ quan đảm nhiệm chức  năng  tình dục  của nam giớiĐây  là một  thực  trạng  đã  và  đang  diễn  ra  ở  nước  ta  cần  phải  được quan tâm nghiên cứu.   Mục tiêu nghiên cứu  Khảo sát thực trạng ô nhiễm TNT trong môi  trường lao động ở một số đơn vị sản xuất, kiểm  nghiệm,  sửa  chữa và bảo quản  đạn dược quốc  phòng ở khu vực Phía Nam.  Đánh giá  tình hình sức khỏe của người  lao  động phơi nhiễm nghề  nghiệp  với TNT  và  đề  xuất một số giải pháp khắc phục.  ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Địa điểm và thời gian nghiên cứu  Nghiên cứu được tiến hành ở các đơn vị kho  bảo quản, trạm sửa chữa bảo dưỡng, xưởng sản  xuất đạn dược và trung tâm kiểm nghiệm thuốc  nổ của các đơn vị quốc phòng khu vực Phía nam  gồm: K1, K8, T2 và Zx. Thời gian nghiên cứu từ  5/2010 – 10/2012.  Đối tượng nghiên cứu  Môi trường lao động  Vi khí hậu (nhiệt độ không khí, độ ẩm không  khí, vận tốc chuyển động của không khí). Nồng  độ TNT trong không khí tại các vị trí lao động.  Người lao động  Gồm  213  công  nhân  được  chia  thành  2  nhóm:  Nhóm  tiếp xúc: gồm 95 người,  tuổi  từ 19‐ 49. Tiêu chuẩn: tiếp xúc với TNT ở các vị trí từ  1 năm trở  lên  làm việc ở các vị trí có nồng độ  TNT  vượt  TCCP.  Nhóm  chứng:  gồm  118  người,  tuổi  từ 20 – 51. Tiêu  chuẩn: Thời gian  làm việc từ 1 năm trở lên. Không tiếp xúc hoặc  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  573 tiếp xúc với TNT dưới TCCP, cùng đơn vị của  nhóm tiếp xúc.   Các đối tượng đều có  tiền sử không có  tiếp  xúc với hóa  chất  độc hại khác, không mắc  các  bệnh như viêm gan virus, nghiện rượu, đái tháo  đường và các bệnh mãn tính khác.  Phương pháp nghiên cứu  Thiết kế nghiên cứu  Dịch tễ học mô tả cắt ngang, kết hợp với hồi  cứu số liệu.  Chỉ tiêu nghiên cứu  Vi  khi  hậu  và  nồng  độ  TNT  trong MTLĐ  theo  từng  vị  trí  làm  việc  của  người  lao  động.  Phương  pháp  đo  các  yếu  tố môi  trường  theo  thường quy kỹ thuật của Viện YHLĐ và VSMT,  Bộ Y Tế. Đánh giá chất  lượng môi  trường  theo  tiêu  chuẩn  VSCN  (Quyết  định  3733/2002/QĐ– BYT và TCVN 5508:2009).  Khám  lâm sàng và xét nghiệm CLS để phát  hiện các  tổn  thương do TNT gây nên. Điều  tra  thời  gian  tiếp  xúc,  tiền  sử  bệnh  tật  qua  hồ  sơ  quản  lý  sức  khỏe  của  đơn  vị.  Điều  tra  về  sức  khỏe tình dục của nam giới theo mẫu phiếu quy  định của Bộ Y tế.  Phương pháp xử lý số liệu  Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 13.0.   KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN  Môi trường lao động  Bảng 1: Vi khí hậu trong nhà kho, trạm sửa chữa, xưởng sản xuất và khu kiểm nghiệm thuốc nổ  Vị trí khảo sát Nhiệt độ (0C) Độ ẩm (%) Vận tốc gió (m/s) Min - Max Không đạt TCCP Min - Max Không đạt TCCP Min - Max Không đạt TCCP Kho bảo quản đạn(n= 115) 27,4 - 33,7 8(6,95%) 74 - 84 4(3,48%) 0,15 - 0,64 72(62,61%) Trạm sửa chữa đạn (n=85) 28,6 - 32,4 14 (16,47%) 75 - 84 4(4,7%) 0,17 - 0,55 32(37,64%) Khu vực sản xuất đạn (n=70) 24,5 - 32,5 19 (27,14%) 55 - 89 22 (31,42%) 0,12 - 0,45 39(55,71%) Khu kiểm nghiệm thuốc nổ (n=50) 29,4 - 32,3 3(6%) 77 - 82 2(4%) 0,18 - 0,55 7(14%) Tổng: 320 24,5 - 33,7 44(13,75%) 55 - 89 32(10%) 0,12 - 0,64 150(46,88%) TCVN 5508:2009 18 - 32 40 - 80 0,2 - 1,5 Kết quả nghiên cứu cho thấy nhiệt độ không  khí  ở các khu vực khảo sát dao động  từ 24,5 –  33,70C. Độ ẩm tương đối của không khí các vị trí  lao động từ 55 ‐ 89%, trong đó 10% số mẫu khảo  sát không đạt TCCP. Tốc độ chuyển động không  khí từ 0,12 – 0,64m/s. Trong 320 mẫu khảo sát có  46,88% tổng số mẫu không đạt TCCP.   Kết quả nghiên cứu này tương tự với nghiên  cứu của Nguyễn Kiên Cường và cộng sự(3), ở các  xưởng sản xuất và kho bảo quản vật liệu nổ về  tỷ  lệ  số mẫu  đo  nhiệt  độ,  độ  ẩm,  tốc  độ  gió  không  đạt TCCP  lần  lượt  là 11,53%; 65,38% và  50,32%.   Trong điều kiện nhiệt độ không khí quá cao  một số vật liệu nổ có thể nhanh chóng thoái biến,  hư hỏng và  có  thể  trở nên nguy hiểm, mất  an  toàn. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng các chất nổ  có chứa Nitroglycerin có thể phát nổ ngay cả khi  nhiệt độ rất thấp(1).  Độ  ẩm  trong  các  kho  chứa  bảo  quản  đạn  dược quá cao sẽ gây ảnh hưởng đến chất lượng  và tuổi thọ của đạn dược và có thể trở nên nguy  hiểm  trong quá  trình  bảo  quản,  sửa  chữa,  vận  chuyển và sử dụng. Kết quả nghiên cứu về nồng  độ  TNT  trong môi  trường  lao  động  được  thể  hiện ở bàng dưới đây.  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 574 Bảng 2: Nồng độ TNT trong không khí tại nhà kho, trạm sửa chữa, xưởng sản xuất và khu kiểm nghiệm thuốc  nổ  Vị trí khảo sát. Số mẫu Nồng độ TNT trong không khí (mg/m 3). n Min - Max Không đạt TCCP Kho bảo quản đạn 75 0,027 – 0,35 17 (22,67%) Trạm sửa chữa, bảo quản đạn. 65 0,037 – 0,240 25 (33,33%) Khu vực sản xuất đạn. 50 0,075 – 1,145 36 (72,0%) Khu kiểm nghiệm thuốc nổ. 50 0,085 – 0,340 28 (37,33%) Tổng 240 0,027 - 1,145 106 (44,17%) TCCP.3733/2002/QĐ–BYTTWA (Trung bình 8 giờ) ≤ 0,1 Kết quả nghiên cứu (bảng 2) cho thấy nồng  độ TNT từ 0,027 – 1,145 mg/m3 không khí. Trong  240 mẫu  đo  TNT,  có  44,17%  số mẫu  đo  TNT  không đạt TCCP. Kết quả nghiên cứu của chúng  tôi phù hợp với nghiên cứu của Hoàng Thị Lan  Anh, Lê Kiên và cộng sự(2) nghiên cứu ở các đơn  vị  sản xuất, bảo quản vật  liệu nổ  cho  thấy  các  mẫu đo TNT không đạt  tiêu chuẩn vệ sinh cho  phép ở các nhà máy từ 5,2% ‐ 11,8% tổng số mẫu  đo. Các mẫu đo TNT vượt tiêu chuẩn cho phép  thường dao động  trong khoảng  từ 30 – 100  lần  chiếm khoảng 70% số mẫu vượt tiêu chuẩn, đặc  biệt có mẫu cao gấp 657 lần tiêu chuẩn cho phép.   Kết quả nghiên  cứu phù hợp  đánh giá  của  Nguyễn  Kiên  Cường,  Nguyễn  Phúc  Thái  và  cộng sự(3) khi khảo sát tình trạng ô nhiễm TNT  trong môi trường lao động tại các nhà kho, trạm  xưởng  sửa  chữa vật  liệu nổ  ở  các  đơn vị quốc  phòng khu vực Phía Bắc cho thấy tỷ  lệ mẫu đo  nồng  độ  TNT  không  đạt  TCVSLĐ  là  37,9%.  Nồng độ TNT  trung bình  là 0,128 mg/m3. Tình  trạng ô nhiễm TNT ở môi trường lao động ở các  đơn  vị  nghiên  cứu  ô  nhiễm  hết  sức  nặng  nề.  Người lao động bị phơi nhiễm nghề nghiệp với  TNT sẽ ảnh hưởng xấu  tới sức khoẻ,  lâu dài sẽ  suy giảm về thể lực và mắc bệnh do thấm nhiễm  TNT mãn tính.  Sức khỏe người lao động  Bảng 3: Một số triệu chứng và bệnh lý cấp và mãn  tính ở các đối tượng nghiên cứu  Chỉ tiêunghiên cứu Nhóm tiếp xúc (n = 95) Nhóm chứng (n = 118) p n % n % Đắng miệng 81 85,26 52 44,07 <0,01 Uể oải 23 24,21 9 7,63 <0,01 Đau nhức đầu 25 26,32 23 19,49 >0,05 Mất màu da, tóc 7 7,37 5 4,24 >0,05 Cay mắt 26 27,37 1 0,85 <0,01 Viêm ngứa da 22 23,16 6 5,08 <0,01 Viêm mũi họng 30 31,58 31 26,27 >0,05 Thiếu máu 18 18,95 3 2,54 <0,01 Suy nhược TK 16 16,84 2 1,69 <0,01 Viêm dạ dày - tá tráng 17 17,89 1 0,85 <0,01 Kết quả nghiên cứu cho thấy, các biểu hiện  lâm  sàng  khi  lao  động  như  đắng miệng,  cay  mắt và viêm ngứa da ở nhóm tiếp xúc lần lượt  là 85,26%, 27,37% và 23,16% và nhóm chứng là  44,07%,  0,85%  và  5,08%.  Sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê.  Các  bệnh  lý  mãn  tính  như  thiếu máu,  suy  nhược  thần  kinh  và  viêm  dạ  dày ‐ tá tràng ở nhóm tiếp xúc cũng cao hơn rõ  rệt so với nhóm chứng.   Theo chúng tôi, người lao động tiếp xúc lâu  dài với TNT  có  các bệnh mãn  tính và  các biểu  hiện lâm sàng khi tiếp xúc với TNT nói trên tỷ lệ  cao phản ánh  đúng đặc điểm  lao  động và  tính  chất công việc của họ. Ảnh hưởng của TNT của  môi  trường  gây  kích  thích  lên  da, mắt, miệng  gây  ra  triệu  chứng  đặc  trưng  của  nhiễm  độc  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  575 TNT và  thâm nhiễm  lâu ngày gây  ra  các bệnh  mạn tính khác.  Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ công nhân  tiếp  xúc  nghề  nghiệp  TNT  bị  suy  nhược  thần  kinh ở nhóm tiếp xúc cao hơn rõ rệt so với nhóm  chứng  với  p  <0,01.  Kết  quả  này  phù  hợp  với  nghiên  cứu  của Nguyễn  Liễu(4)  thấy  tỷ  lệ  suy  nhược  thần kinh ở nhóm  tiếp xúc nghề nghiệp  với TNT là 30,47%.  Bảng 4: Một số chỉ tiêu về huyết học và chức năng gan  Chỉ tiêunghiên cứu Nhóm tiếp xúcN=95 Nhóm chứngN=118 Chỉ sốBình thường p Bạch cầu (109/l)  ± SD 6,1 ±1,25 5,7±1,15 3,5 - 11,0 < 0,05 Min - Max 3,5 - 14,8 4,8 - 9,1 Hồng cầu (1012/l) * Nam:  ± SD 5,05± 0,65 5,12± 0,75 4,5 - 6,0 > 0,05 * Nữ: ± SD 4,54 ±0,55 4,65 ±0,57 3,6 - 5,6 > 0,05 SGOT (U/l)  ± SD 30,5 ±2,64 29,4 ±2,57 0 - 40 < 0,01 Số người có SGOT cao hơn chỉ số bình thường 15 (15,79%) 2 (1,69%) < 0,01 SGPT (U/l)  ± SD 33,5±2,75 32,5 ±2,82 < 0,01 Số người có SGPT cao hơn chỉ số bình thường 15 (15,79%) 0 (0%) 0 - 50 < 0,001 Kết quả nghiên cứu cho thấy các giá trị trung  bình của chỉ số SGOT và SGPT ở nhóm tiếp xúc  nghề nghiệp với TNT là 30,5 ± 0,64 (U/l) và 33,5 ±  0,75 (U/l) đều cao hơn nhóm đối chứng là 28,4 ±  0,57 (U/l) và 30,2 ± 0,82 (U/l) nhưng sự khác biệt  chưa  có  ý  nghĩa  thống  kê,  với  p  >0,05  và  đều  nằm trong giới hạn chỉ số sinh lý bình thường.   Gan  là  cơ  quan  dễ  bị  tổn  thương  khi  bị  nhiễm độc. TNT có thể gây tổn thương gan cấp  tính, bán cấp và mạn tính tuỳ theo điều kiện tiếp  xúc. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ số người  có  chỉ  số SGOT và SGPT  ở nhóm  tiếp xúc  cao  hơn  nhóm  chứng  với  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống kê (p <0,01). Theo nghiên cứu của Nguyễn  Liễu(4) cho thấy tỷ lệ công nhân tiếp xúc với TNT  có tỷ lệ viêm gan mạn là 12,53% cao hơn so với  nhóm không  tiếp  xúc. Cũng  theo Trịnh Thanh  Hùng, Nguyễn Liễu, Đỗ Phương Hường(5) tỷ lệ  viêm gan mạn ở nhóm tiếp xúc là 13,7% cao hơn  nhóm chứng 4,82% với p <0,05.   Bảng 5: Một số rối loạn chức năng tình dục ở nam  công nhân tiếp xúc với TNT  Chỉ tiêu nghiên cứu Nhóm tiếp xúc(n=65) Nhóm chứng (n= 83) p Cường chức năng tình dục 0 0 >0,05 Giảm ham muốn tình dục 27 (41,54%) 4 (4,82%) <0,01 Rối loạn cương dương 7 (10,77%) 0 (0%) <0,01 Xuất tinh sớm 5 (7,69%) 0 (0%) <0,01 Tổng số 39 (60%) 4 (4,82%) Vấn đề sức khoẻ sinh sản ngày càng được  quan  tâm  nhiều  hơn.  Đối  với  nam  giới  nội  dung vấn đề sức khoẻ sinh sản rất rộng, song  người ta thường quan tâm đến chức năng tình  dục. Khi đánh giá chức năng tình dục của nam  công  nhân  tiếp  xúc  với  TNT  nghề  nghiệp  người ta thường quan tâm tới các chỉ tiêu như  rối  loạn  cương  dương,  xuất  tinh  sớm,  giảm  ham muốn tình dục  Kết quả nghiên cứu của chúng tôi, cho thấy  tỷ lệ nam công nhân tiếp xúc nghề nghiệp với  TNT  bị  giảm  ham muốn  tình  dục  là  41,54%,  cao hơn so với nhóm chứng  là 4,82%, sự khác  biệt có ý nghĩa  thông kê với p <0,01. Tỷ  lệ rối  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 576 loạn cương dương và xuất tinh sớm lần lượt là  10,77% và 7,69% ở nhóm tiếp xúc cũng cao hơn  rõ  rệt  so  với  nhóm nhóm  chứng  với p  <0,01.  Kết  quả  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  cũng  phù  hợp với nghiên  cứu  của  tác giả Wu LP(6) khi  nghiên cứu ở 42 Nam công nhân tiếp xúc nghề  nghiệp  với  TNT  và  72  người  nhóm  chứng,  nhận  thấy  tỷ  lệ  rối  loạn  tình  dục  ở  nhóm  nghiên  cứu  là  38,1%  cao  hơn  rõ  rệt  so  với  nhóm chứng là 11,1% với p <0,01.   Có nhiều  tác nhân  liên quan  tới  chức năng  tình  dục  của  nam  giới  như  trạng  thái  tâm  lý,  bệnh  toàn  thân, nghiện  rượu,  thuốc  láThuốc  nổ TNT có thể gây tổn thương ở nhiều cơ quan  khác nhau, nhất  là hệ  thống  thần kinh và  thần  kinh thực vật. Sự tổn thương phối hợp đó có thể  là nguyên nhân chủ yếu làm rối loạn chức năng  tình dục ở nam giới khi tiếp xúc nghề nghiệp với  TNT. Mặt khác, nhiều nghiên cứu của các tác giả  khác nhau đều cho rằng TNT còn có tác động rõ  rệt hócmôn sinh dục nam – Testosteron. Chính  điều này cùng với nhiều yếu  tố khác phối hợp  làm suy giảm chức năng tình dục ở nam giới.  KẾT LUẬN   Môi trường  lao động ở các đơn vị sản xuất,  chế  biến,  kiểm  nghiệm  và  bảo  quản  đạn dược  quốc phòng khu vực Phía nam bị ô nhiễm nặng  bởi  chất  nổ  TNT.  Nồng  độ  TNT  trong  môi  trường  lao  động  từ 0,027 – 1,145 mg/m3 không  khí. Khu vực sản xuất đạn dược bị ô nhiễm nặng  nhất, nồng độ TNT cao gấp 14 lần tiêu chuẩn vệ  sinh cho phép.   Người  lao động  làm việc  lâu dài  trong môi  trường ô nhiễm TNT bị suy giảm sức khoẻ. Các  bệnh  lý mãn  tính  như  thiếu máu,  suy  nhược  thần kinh và viêm dạ dày ‐ tá tràng từ 16 ‐ 18%.  Tỷ  lệ nam công nhân  tiếp xúc nghề nghiệp với  TNT bị giảm ham muốn tình dục  là 41,54%. Tỷ  lệ  rối  loạn  cương dương  và  xuất  tinh  sớm  lần  lượt là 10,77% và 7,69%. Tỷ lệ có tổn thương gan  mãn tính biểu hiện ở chỉ số SGOT và SGPT cao  hơn giá  trị sinh  lý bình  thường ở những người  tiếp xúc nghề nghiệp với TNT là 15,79%.  KIẾN NGHỊ  Cần có kế hoạch cải thiện điều kiện vệ sinh  môi  trường  lao động để giảm mức độ ô nhiễm  TNT  trong môi  trường  lao  động.  Tăng  cường  công  tác  tuyên  truyền  giáo  dục  cho  người  lao  động hiểu biết tác hại cuả bụi và các biện pháp  phòng  ngừa  nhằm  giảm  thiểu  tác  hại  của  bụi  TNT tới sức khỏe người lao động.  Định  kỳ  khám  sức  khỏe  và  khám  bệnh  nghề nghiệp cho người  lao động để phát hiện  sớm những tổn thương do nhiễm độc TNT gây  nên để điều trị kịp thời và lập hồ sơ giám định  bệnh nghề nghiệp cho các đối tượng mắc bệnh  nghề nghiệp.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Đoàn Thị Hải Lý, Nguyễn phúc Thái, Hoàng Thị Lan Anh và  cs (2009). Thực trạng môi trường lao động và sự thâm nhiễm  TNT vào cơ thể người lao động tại một kho bảo quản – sửa  chữa vật liệu nổ. Tạp chí Y học thực hành. số 2. 644 ‐ 645.  2. Hoàng Thị Lan Anh, Lê Kiên và  cs  (2012). Thực  trạng môi  trường lao động tại một số nhà máy sản xuất vật liệu nổ. Tạp  chí Y học thực hành. 849. 48 ‐ 50.  3. Nguyễn Kiên Cường, Nguyễn Phúc Thái, Đoàn Thi Hải Lý,  Lại Quốc Tuấn, Hoàng Thị Lan Anh,Lê Kiên, Phạm Hồng  Phúc và  cs  (2012). Môi  trường  lao  động và  sự  thâm nhiễm  TNT của công nhân trong các kho bảo quản và trạm. xưởng  sửa chữa đạn dược. Tạp chí Y học thực hành. số 849 ‐ 850.78 ‐  84.  4. Nguyễn Liễu (1995). Nghiên cứu tác dụng của thuốc nổ TNT  đối với sức khoẻ của những người tiếp xúc với chúng trong  thời gian dài. Luận án phó  tiến sỹ y học. Học viện quân y.  Tr.144 ‐ 165.  5. Trịnh Thanh Hùng, Nguyễn Liễu, Đỗ Phương Hường (2005).  Nhận xét  chức năng  tình dục  của nam  công nhân  tiếp xúc  nghề  nghiệp  với  thuốc  nổ  TNT.  Báo  cáo  khoa  học  ‐  HNKHYHLĐ QT lần II tại HN. Tr. 406 ‐ 413.  6. Wu  LP, Chang  YX, Jiang  QG  (1994).  Effects  of exposure to TNT on  sex  hormones  in  male  workers.  Chemical. 28(3):162 ‐ 3.  Ngày nhận bài báo:       20/5/2014  Ngày phản biện nhận xét bài báo:   27/6/2014  Ngày bài báo được đăng:     14/11/2014 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthuc_trang_o_nhiem_trinitrotoluene_tnt_trong_moi_truong_lao.pdf
Tài liệu liên quan