Để đánh giá tính hiệu quả của một dự
án DLDVCĐ, các chỉ số kinh tế như thu nhập
đầu người, lượt khách, doanh thu du lịch
theo năm, thường đóng vai trò quyết định.
Ngược lại, khi đánh giá tính bền vững của dự
án DLDVCĐ, vấn đề không chỉ tập trung vào
các chỉ số thống kê trong thời gian dự án được
triển khai mà còn phải thực hiện đánh giá, dự
đoán hướng phát triển và dựa vào chỉ số thống
kê dài hạn sau khi dự án kết thúc. Trong thực
tiễn, để phát triển một điểm DLDVCĐ theo các
nguyên tắc bền vững, đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn
của các bên liên quan bao gồm chính quyền địa
phương - cộng đồng - tổ chức tài trợ - hệ thống
doanh nghiệp du lịch chứ không chỉ dựa vào
một hoặc hai chủ thể. Trường hợp ở Ta-Bhing,
chúng tôi cho rằng việc chỉ dựa vào FIDR hoặc
nỗ lực của chính quyền để phát triển DLDVCĐ
là chưa đủ. Thêm vào đó, Ta-Bhing là một trong
những trường hợp nghiên cứu phức tạp, có sự
đan xen, chồng lấn các dự án phát triển cộng
đồng, y tế, nông nghiệp, phục hồi nghề truyền
thống với dự án DLDVCĐ. Hơn nữa, mục tiêu
của nhà tài trợ FIDR là khá tham vọng khi tập
trung vào việc phát triển toàn diện (chứ không
chỉ là du lịch) một cộng đồng thuộc nhóm dân
tộc ít người. Do đó, để phát triển DLDVCĐ một
cách toàn diện, phải có các giải pháp đồng bộ
về cơ chế chính sách, về tổ chức, quy hoạch,
quản lý và cả về truyền thông, giáo dục, có như
vậy, DLDVCĐ của dân tộc Cơ Tu mới có hiệu
quả dài lâu trong tương lai, đảm bảo tính phát
triển bền vững đúng như định hướng ban
đầu của các bên liên quan khi quyết định làm
DLDVCĐ nơi đây.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 397 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng phát triển du lịch dựa vào cộng đồng của dân tộc cơ tu tại xã Ta-Bhing, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 32 (Tháng 6 - 2020)86
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
CỦA DÂN TỘC CƠ TU TẠI XÃ TA-BHING, HUYỆN NAM GIANG,
TỈNH QUẢNG NAM
TRƯƠNG SỸ TÂM*
LÊ HỒNG THANH*
Tóm tắt
Khoảng hơn chục năm trở lại đây, du lịch dựa vào cộng đồng bắt đầu xuất hiện và dần phát triển ở
Việt Nam, gắn với việc khai thác và phát huy bản sắc văn hóa độc đáo của cộng đồng. Được triển khai từ
năm 2012, mô hình du lịch dựa vào cộng đồng của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing, huyện Nam Giang, tỉnh
Quảng Nam được định hướng phát triển theo hướng bền vững, chú trọng đến việc bảo vệ môi trường,
phục hồi và phát huy giá trị văn hóa truyền thống người Cơ Tu. Trên cơ sở các kết quả điền dã dân tộc học,
bài viết phân tích thực trạng hoạt động du lịch dựa vào cộng đồng của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing; áp
dụng khung phân tích SWOT chỉ ra cơ hội, thách thức, điểm mạnh, điểm yếu cũng như một số vấn đề đặt
ra đối với du lịch cộng đồng nơi đây.
Từ khóa: Du lịch dựa vào cộng đồng, Cơ Tu, Ta-Bhing, phát triển bền vững
Abstract
Over the past ten years, community-based tourism has begun to appear and gradually developed
in Vietnam, associated with the exploitation and promotion of the unique cultural identity of the
community. Launched in 2012, the community-based tourism model of the Co Tu ethnic group in Ta-
Bhing commune, Nam Giang district, Quang Nam province is oriented towards sustainable development,
with a focus on environmental protection, restoration and promotion of the traditional cultural values of
the Co Tu people. Based on the ethnographic fieldwork results, the article both analyzes the real situation
of community-based tourism activities of the Co Tu ethnic group in Ta-Bhing commune and researches
the application of the SWOT model to point out opportunities, challenges, strengths and weaknesses as
well as some issues posed for community-based tourism here.
Keywords: Community-based tourism, Co Tu, Ta-Bhing, sustainable development
Đặt vấn đề
Là một trong những loại hình du lịch khá phổ biến trên thế giới, du lịch dựa vào cộng đồng (Community-based
tourism) mới du nhập vào Việt Nam trong
hơn một thập kỷ qua. Đây là mô hình du lịch
gắn bó chặt chẽ với văn hóa bản địa, ít chịu
sự tác động của quá trình toàn cầu hóa đang
diễn ra hết sức mạnh mẽ hiện nay. Điểm khác
biệt của mô hình du lịch dựa vào cộng đồng
(DLDVCĐ) so với các loại hình du lịch khác là
ngoài việc nhấn mạnh vào hiệu quả kinh tế,
còn hướng tới mục tiêu bảo tồn văn hóa, bảo
vệ môi trường tự nhiên tại các điểm du lịch.
Bên cạnh đó, DLDVCĐ nhấn mạnh đến vai trò
của cộng đồng bản địa trong hoạt động phát
triển du lịch, từ đó giúp nâng cao vị thế của các
nhóm dân tộc thiểu số. Với những đặc thù này,
DLDVCĐ rất phù hợp với xu hướng phát triển
bền vững nói chung và phát triển du lịch bền
vững nói riêng ở Việt Nam.
Được triển khai từ năm 2012, mô hình
DLDVCĐ của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing,
huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam được định
hướng phát triển theo hướng bền vững, mang * ThS., Viện Văn hóa, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
87Số 32 (Tháng 6 - 2020)
VĂN HÓA DU LỊCH
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
lại nhiều hiệu quả về kinh tế, văn hóa, xã hội
cho người dân nơi đây, trở thành một mô hình
DLDVCĐ tiêu biểu. Có được những thành công
này là nhờ sự hỗ trợ rất lớn từ các tổ chức phi
chính phủ, các tổ chức hợp tác quốc tế và các
cấp chính quyền địa phương. Điều này đặt ra
vấn đề là: Sau khi các tổ chức phi chính phủ rút
khỏi điểm du lịch và chính quyền địa phương
cắt giảm sự hỗ trợ, những ưu thế của DLDVCĐ
trong việc bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo
tồn nền văn hóa truyền thống của người Cơ
Tu, có được đảm bảo trong thời gian tới hay
không? Đồng bào có tự đứng vững được để
tiếp tục làm du lịch không? Từ kết quả nghiên
cứu thực địa1 để phân tích thực trạng hoạt
động DLDVCĐ của dân tộc Cơ Tu ở Ta-Bhing,
bài viết hy vọng phần nào mang lại cái nhìn
khách quan và câu trả lời thỏa đáng.
1. Khái quát về dự án du lịch dựa vào cộng
đồng của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing
Dự án Du lịch dựa vào cộng đồng Cơ Tu do
Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) hỗ
trợ ngân sách và Tổ chức Cứu trợ và phát triển
quốc tế (FIDR)2 phối hợp với UBND huyện Nam
Giang tổ chức triển khai tại xã Ta-Bhing. Đây
là một xã vùng thấp thuộc huyện Nam Giang
có diện tích 2.28,18 km² gồm 7 thôn, dân số
2.218 người gồm các dân tộc Kinh, Cơ Tu, Giẻ
Triêng, Ve, trong đó, người Cơ Tu là đông nhất3.
Nơi đây có thế mạnh về văn hóa tộc người đặc
sắc, bên cạnh đó, lại thuộc khu vực rừng núi
Trường Sơn - Tây Nguyên với cảnh quan hùng
vĩ và sản vật rừng phong phú.
Khởi nguồn cho sự ra đời của dự án DLDVCĐ
là việc tổ chức FIDR hỗ trợ đồng bào dân tộc
Cơ Tu khôi phục nghề dệt thổ cẩm (dệt cườm)
truyền thống vốn đã bị mai một, vì sản phẩm
không có đầu ra. Dự án khôi phục nghề dệt
thổ cẩm được triển khai trong thời gian 2008 -
2012. Cho đến năm 2011, Hợp tác xã (HTX) thổ
cẩm đầu tiên của bà con dân tộc Cơ Tu được
thành lập. Đây cũng là HTX dân tộc thiểu số
đầu tiên của tỉnh Quảng Nam và được chứng
nhận “Làng nghề truyền thống”. Sản phẩm dệt
cườm Cơ Tu bắt đầu tạo được chỗ đứng trên
thị trường, được bày bán ở nhiều điểm du lịch
như Đà Nẵng, Hội An, Thành phố Hồ Chí Minh
và được nhiều du khách ưa thích. Qua quá
trình triển khai dự án này, người Cơ Tu đã có
đủ năng lực để tự quản lý sản xuất, xúc tiến
bán hàng cũng như điều hành hoạt động của
nhóm. Cũng từ đó, người Cơ Tu nơi đây đã bắt
đầu nhận ra giá trị của “văn hóa Cơ Tu” như một
“báu vật” cần gìn giữ và phát huy.
Từ thành công của dự án khôi phục nghề
dệt thổ cẩm, cùng với chính sách phát triển
kinh tế địa phương thông qua du lịch, người
dân và chính quyền huyện Nam Giang đã tiếp
tục đề nghị FIDR hỗ trợ triển khai dự án Du lịch
dựa vào cộng đồng Cơ Tu từ năm 2012. Dự án
hướng đến mục tiêu phát huy tinh thần chủ
động của cộng đồng trong việc phát triển kinh
tế - du lịch, bảo vệ môi trường, văn hóa và thay
đổi chất lượng cuộc sống. Qua hình thức du
lịch này, những người làm dự án mong muốn
du khách có thể thưởng thức và trân trọng các
giá trị văn hóa truyền thống của người Cơ Tu
cũng như giao lưu học hỏi với người dân địa
phương, nhằm đóng góp vào sự phát triển
bền vững của cộng đồng người Cơ Tu.
Để phát hiện, bảo tồn và phát huy các giá
trị văn hóa vật thể, phi vật thể của dân tộc Cơ
Tu trên địa bàn Quảng Nam, phục vụ cho phát
triển du lịch, các nhà sáng lập dự án đã sử dụng
phương pháp rất độc đáo là “Săn tìm kho báu”.
Theo chúng tôi, tên phương pháp này được gợi
mở từ một tập tục xa xưa nhưng khá nổi tiếng
của tộc người Cơ Tu ở Quảng Nam là tục “Săn
máu”4. Đây là một tập tục đã từng gây nên nỗi
ám ảnh về những trận chiến đẫm máu trong
quá khứ. Với phương pháp này, người Cơ Tu phải
tự trả lời câu hỏi “Kho báu của họ là cái gì?”; khi
đó, thay vì “săn máu”, họ sẽ “săn tìm” những báu
vật trong kho tàng văn hóa truyền thống của
dân tộc mình. Sau một thời gian tìm tòi, nghiên
cứu, trao đổi, đồng bào Cơ Tu đã tìm ra được
những “báu vật” của mình, đó chính là: nghề dệt
thổ cẩm truyền thống, điệu múa truyền thống
Tung Tung Ya Yá, nhà cộng đồng - Gươl, ẩm thực
truyền thống Với những “báu vật” tìm được,
tổ chức FIDR hướng dẫn người dân cách biến
chúng thành những sản phẩm du lịch.
Với phương châm “vừa học vừa làm”, ngay
từ những ngày đầu khi dự án còn sơ khai, các
chuyên gia đã cùng với người dân tổ chức đón
đoàn để bà con hiểu được thế nào là một đoàn
khách du lịch, biết được các nhu cầu khi đi du
lịch của khách, từ đó tự rút kinh nghiệm, tự cải
Số 32 (Tháng 6 - 2020)88
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
thiện. DLDVCĐ của dân tộc Cơ Tu bắt đầu từ
con số “0” và dần phát triển. Trên cơ sở đó, HTX
du lịch Ta-Bhing được thành lập, hoạt động du
lịch dần đi vào khuôn khổ và bước đầu bộc lộ
tính chuyên nghiệp.
Với sự hỗ trợ của các chuyên gia về du
lịch của Nhật Bản, những người làm dự án đã
nghiên cứu rất kỹ về tiềm năng du lịch của địa
phương, về văn hóa truyền thống của người
Cơ Tu, về sức tải của cộng đồng, về cách thức
kinh doanh, và đưa ra một bộ quy định về
làm du lịch, gồm các nội dung sau:
Thứ nhất, không đón khách lẻ, chỉ đón đoàn
từ 6 người trở lên5. Quy định này xuất phát từ
suy nghĩ của bà con rằng khách đi theo đoàn
sẽ dễ quản lý vì họ có trưởng đoàn, còn khách
lẻ thì bà con khó quản lý. Hơn nữa nếu đón
khách lẻ thì “vô hình trung là họ đã làm mất đi
cái tính chia sẻ trong cách làm du lịch cộng đồng
trên địa bàn, họ làm là làm theo nhóm nên khi
tiếp khách du lịch là họ cũng tiếp đón theo đoàn
hoặc nhóm chứ không tiếp theo cá nhân” (PVS,
O., nữ, 34 tuổi, cán bộ dự án của FIDR).
Thứ hai, mỗi tháng, HTX chỉ đón 3 - 4 đoàn
du khách chứ không đón khách ồ ạt. Điều này
vừa nhằm đảm bảo chất lượng tour, vừa để
đồng bào vẫn giữ được tập tục đi làm nương
dài ngày và sinh hoạt bình thường - những điều
vốn góp phần làm nên bản sắc của người Cơ Tu.
Thứ ba, khách du lịch phải đặt tour trước 1
tuần để bà con sắp xếp đón tiếp.
Thứ tư, tour chỉ diễn ra trong ngày, tức là
khách không nghỉ qua đêm ở trong làng. Trước
mắt, việc phát triển tour trong ngày, không lưu
trú sẽ giảm bớt chi phí xây dựng nơi nghỉ cho
du khách và không làm xáo trộn mô hình thôn
làng của đồng bào Cơ Tu. Một chuyên gia người
Nhật của FIDR giải thích: “Nếu có homestay thì bà
con phải đầu tư, ít nhất phải có nhà vệ sinh đàng
hoàng, có phòng, có giường tử tế để phục vụ, v.v.
Nếu làm như vậy thì bà con phải vay mượn mới
có thể làm được. Nhưng với hình thức như đã
làm thì bà con không có gì vẫn có thể làm được
du lịch” (PVS, M., nữ, 36 tuổi).
Ngoài ra, du khách cần chú ý thực hiện
nghiêm những quy định sau: Không tự ý đi lại
trong thôn, không vào nhà dân, không chụp
ảnh nếu chưa được phép của người dân; Không
cho trẻ em tiền; Không vào nhà người dân hỏi
mua những vật dụng, hàng hóa mà phải mua
ở các điểm bán hàng được quy định...
Một điều đặc biệt là tất cả các thôn trong
xã đều tham gia vào dự án, việc điều phối các
tour cũng như chia thu nhập sẽ được thực hiện
công bằng cho các thôn. HTX du lịch Ta-Bhing
là đầu mối duy nhất nhận tour, nhận khách và
lần lượt phân bổ về các thôn. Tiền thu được từ
các tour sẽ được HTX phân phối đều cho các
thôn, tránh sự mâu thuẫn, cạnh tranh giữa các
thôn. Đến nay, cộng đồng Cơ Tu đã tự vận hành
được dự án; việc kết nối với các doanh nghiệp
lữ hành vẫn tiếp tục được duy trì, hoạt động
đón khách diễn ra thường xuyên, đều đặn.
2. Thực trạng hoạt động du lịch dựa vào
cộng đồng của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing
2.1. Sản phẩm du lịch
Dựa trên những “báu vật” trong kho tàng
văn hóa Cơ Tu như đã nói ở trên, FIDR cùng
bà con đã biến thành các sản phẩm du lịch
hấp dẫn. Có thể kể ra một số sản phẩm du lịch
mang tính đặc thù của người Cơ Tu như:
Xem và tham gia điệu múa truyền thống:
Người Cơ Tu có nhiều điệu múa truyền thống
như Tung Tung Ya Yá, Đinh Tút, múa sạp,
trong đó, điệu Tung Tung Ya Yá có ý nghĩa
nhận diện bản sắc dân tộc rất sâu sắc. Đây là
điệu múa dành cho cả nam và nữ. Tung Tung
là điệu múa nam, có ý nghĩa vươn lên cao,
mạnh mẽ hơn và vững chãi hơn; Ya Yá là điệu
múa nữ, động tác uyển chuyển, toát lên sự đằm
thắm, chung thủy và không bị khuất phục. Đến
với thôn Pà Xua, sau khi được thưởng thức điệu
múa Tung Tung Ya Yá do nhóm âm nhạc truyền
thống Cơ Tu thực hiện, du khách sẽ được trưởng
nhóm giới thiệu về ý nghĩa các động tác trong
điệu múa, được mời cùng tham gia múa dưới sự
hướng dẫn của các thành viên nhóm.
Tìm hiểu nghề dệt thổ cẩm: Dệt cườm là
một kỹ thuật độc đáo của người Cơ Tu. Cườm
được thiết kế theo kiểu hình học và một số
môtip tượng trưng cho tự nhiên như lá, ngôi
sao Đến với HTX dệt thổ cẩm thôn Zơ Ra, du
khách sẽ được giới thiệu về lịch sử nghề dệt
thổ cẩm của người Cơ Tu, 12 công đoạn dệt
một mảnh vải, đặc trưng hoa văn Du khách
được trực tiếp làm thử 1 công đoạn bất kỳ, mặc
thử trang phục truyền thống Cơ Tu và chụp
ảnh lưu niệm.
89Số 32 (Tháng 6 - 2020)
VĂN HÓA DU LỊCH
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Thưởng thức ẩm thực truyền thống: Bữa
ăn hàng ngày của người Cơ Tu khá đơn giản,
thường gồm cơm hoặc sắn với rau trồng trên
rẫy và cá, ốc bắt được từ các con suối. Vào dịp
lễ, tết hoặc thết đãi khách quý, bà con mới nấu
những món ăn cầu kỳ. Những món ăn làm nên
nét đặc sắc trong văn hóa ẩm thực của người
Cơ Tu gồm có: Càroi Acon Ghi Zớ (chả nhộng
ong), Slua (cháo sắn), bánh Gất tát (bánh ngô),
Hóo cor (cơm lam), bánh Cuốt hay A cút (bánh
sừng trâu), các loại thịt nướng, cá nướng, đặc
biệt nhất là món Zờ Rá - một loại thức ăn hỗn
hộp, nấu nhuyễn từ lá rừng, tiêu, thịt thú rừng
hoặc cá suối. Về đồ uống, người Cơ Tu có một
số món rượu ngon, được ủ từ các loại cây, lá
rừng như Tr’đin, Tà Vạt và Aviết. Khi tiếp khách
du lịch, trưởng nhóm ẩm thực và các hướng
dẫn viên ngồi cùng mâm với du khách, giới
thiệu về nguồn gốc nguyên liệu, cách chế
biến, ý nghĩa của các món ăn, thức uống
Ngoài ra, còn rất nhiều sản phẩm du lịch
hấp dẫn khác như: Nhà Gươl, các nhạc cụ
truyền thống, các bài hát, bài thơ, truyện kể
dân gian, kiến trúc nhà cửa, đồ mây đan, sản
vật núi rừng làm quà lưu niệm
Một chuyến tham quan, trải nghiệm
DLDVCĐ của dân tộc Cơ Tu thường diễn ra
trong vòng một ngày, thời gian khoảng 5 - 6
giờ. Một số tour mẫu đã được xây dựng để áp
dụng tại đây (Bảng 1).
Hiện tại có hai loại tour, một loại tour lễ hội
festival thường gồm từ 6 khách trở lên và đi
vào 3 hoặc 4 thôn, có tham gia vào các lễ hội;
một loại tour gồm từ 2 đến 5 người là tour tìm
hiểu khám phá đời sống dân tộc
người Cơ Tu, thì chỉ đi 1 thôn
hoặc 2 thôn.
Giá vé một tour trải nghiệm
là 1.200.000 đồng/người. Giá này
chưa bao gồm chi phí di chuyển
từ các nơi khác đến. Vẫn với mức
giá này, nhưng nếu là đoàn dưới
6 người thì sẽ không có phần
tái hiện lễ hội cộng đồng. Đoàn
phải từ 6 người trở lên đồng bào
mới tổ chức được hoạt động
cồng chiêng đón tiếp, mô phỏng
một số sinh hoạt thuộc phần hội,
múa hát, trò diễn trong lễ hội.
Quy mô tổ chức chương trình này còn tùy vào
lượng khách, đoàn khách càng đông thì càng
thuận lợi cho đồng bào tổ chức.
2.2. Lượng khách và doanh thu du lịch
Không phải đến năm 2012 khi dự án
DLDVCĐ được triển khai, du khách mới biết
đến đồng bào Cơ Tu ở Ta-Bhing, mà trước đó,
du khách đã có nhiều ấn tượng về cộng đồng
này khi nghề dệt thổ cẩm truyền thống của
người Cơ Tu trở nên nổi tiếng. Chính vì thế,
ngay sau khi dự án được triển khai đã thu hút
một lượng khách du lịch nhất định, mang lại
doanh thu cho cộng đồng.
Ngay trong năm đầu tiên dự án được triển
khai thử nghiệm (từ tháng 5/2012 đến tháng
6/2013), đã có 20 đoàn với 260 du khách, chủ
yếu là khách châu Âu và Nhật Bản đến tham
quan, mang về doanh thu hơn 93 triệu đồng,
trong đó thu nhập của các nhóm cộng đồng
hơn 51 triệu đồng, số tiền còn lại được giữ để
đầu tư mua sắm phục vụ hoạt động sau này [4].
“Từ năm 2012 đến nay, trung bình mỗi năm
có 700 - 800 khách du lịch đến với xã Ta-Bhing,
Nam Giang; cá biệt, năm 2017 có khoảng 1.000
du khách, trong khoảng 50 đoàn, chủ yếu là
khách quốc tế như Nhật Bản, Pháp. Doanh
thu riêng mảng phí tour năm 2017 của Hợp
tác xã Ta-Bhing đạt 560 triệu đồng. Riêng việc
bán các mặt hàng đặc sản địa phương cho du
khách năm 2017 đạt hơn 540 triệu đồng” [5].
Theo thông tin từ ông Bríu Thương - Chủ tịch
Hội đồng quản trị HTX du lịch Ta-Bhing, trong
6 tháng đầu năm 2018, HTX đón hơn 300 lượt
khách đến tham quan, doanh thu khoảng 300
Thời gian Lịch trình
08:00 - 10:00 - Khởi hành từ Đà Nẵng/Hội An đến Nam Giang
10:00 - 15:00 - Tham quan và giao lưu với bà con Cơ Tu tại nhà Gươl
- Thưởng thức điệu múa truyền thống Cơ Tu
- Thưởng thức âm nhạc, tham gia chơi nhạc cụ truyền
thống Cơ Tu
- Thưởng thức bữa ăn đón khách truyền thống của người
Cơ Tu
- Tản bộ sinh thái: Thăm thác, đi bộ trong rừng, thăm nhà
ở của đồng bào
- Học hỏi cách thức dệt cườm thủ công truyền thống
- Mua sắm các đặc sản địa phương (sản phẩm từ dệt, đan
lát, rượu, sản vật rừng)
16:00 - 18:00 - Trở về Đà Nẵng/Hội An
Bảng 1. Tour du lịch mẫu được xây dựng tại Ta-Bhing
Số 32 (Tháng 6 - 2020)90
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
triệu đồng. Doanh thu từ phí tour của HTX
là 600 triệu đồng/năm và từ bán sản phẩm
khoảng 950 triệu đồng. HTX đang vận hành
rất tốt và bà con rất phấn khởi với nguồn thu
nhập thêm không nhỏ từ du lịch [3].
Lượng du khách đến Ta-Bhing có sự tăng
trưởng khá mạnh mẽ, từ chỗ chỉ có vài trăm
người trong năm đầu tiên đến cả nghìn người
mỗi năm sau này. Điều đó cho thấy hiệu quả
của dự án cũng như sự hấp dẫn từ những “kho
báu” của đồng bào Cơ Tu. Thực ra, nếu so sánh
với các loại hình du lịch và các điểm du lịch
khác, lượng du khách này không phải là một
con số quá lớn, nhưng đó chính là kết quả nằm
trong tính toán của những người làm dự án và
chính những người dân về “sức tải” của cộng
đồng để hạn chế tối đa tác động tiêu cực của
du lịch đến đời sống của đồng bào nơi đây.
Khách du lịch chủ yếu đến từ các nước châu
Âu và Nhật Bản. Theo thông tin từ một chuyên
gia quản lý dự án người Nhật của FIDR, trong
số những tour đã đến Ta-Bhing, có khoảng
70% là du khách nước ngoài, 30% là du khách
trong nước (PVS, M., nữ, 36 tuổi). Không khó
để lý giải về sự áp đảo của lượng khách nước
ngoài, bởi điều thu hút đối với họ chính là được
tìm tòi, trải nghiệm những nét văn hóa rất mới
lạ ở các tộc người. Hơn nữa, dự án này được sự
hỗ trợ từ những chuyên gia người Nhật, nên
họ chính là những đại sứ quảng bá cho du lịch
cộng đồng nơi đây, bằng chứng là có tới 70 -
80% tổng số du khách nước ngoài đến từ Nhật
Bản. Trong khi đó, đối với khách nội địa, chi phí
cho một lần trải nghiệm tại đây khá cao, do đó,
chỉ phù hợp với đối tượng khách ưa mạo hiểm,
khám phá và có khả năng chi trả cao.
Trước những băn khoăn về phí tour (tức
giá vé để được tham quan, trải nghiệm du lịch
cộng đồng tại Ta-Bhing), chuyên gia dự án
người Nhật của FIDR lý giải: “Về giá cả, đoàn
càng đông thì chi phí càng rẻ”. Chuyên gia cho
biết thêm: “Vì bà con ở miền núi, ở những địa
điểm xa đồng bằng nên phương tiện đi lại khó
khăn, chi phí cho mua thực phẩm cũng như các
nhu yếu phẩm khác cao hơn so với ở thành phố.
Thêm nữa, ở những điểm du lịch khác thì doanh
thu bà con nhận được khi có đoàn du lịch tới rất
ít, chủ yếu thuộc về các công ty du lịch nên chi
phí mà khách du lịch phải bỏ ra sẽ rẻ hơn. Còn
ở đây, khi tính giá tour, ngoài những sản phẩm
du lịch bà con trực tiếp phục vụ khách, còn phải
tính đến chi phí quản lý, chi phí tái đầu tư nữa, ví
dụ như tập huấn cho nhóm, khôi phục các sản
phẩm văn hóa truyền thống nên phí tour sẽ
cao hơn. Chính vì có nguồn kinh phí vận hành
riêng, nên bà con nơi đây có thể tự hoạt động
trong 1 hoặc 2 năm mà sẽ không gặp khó khăn
gì” (PVS, O., nữ, 36 tuổi).
2.3. Cơ sở hạ tầng và dịch vụ du lịch
Đến Ta-Bhing, điều khiến du khách bất ngờ
là nếu nhìn vẻ bề ngoài thì ở đây không có gì
giống một điểm du lịch bởi sự vắng bóng của
hệ thống nhà nghỉ, khách sạn, cửa hàng
Đối với một số du khách, sự sơ sài về cơ sở hạ
tầng (nhất là hệ thống nhà vệ sinh công cộng)
gây ra không ít khó khăn; có những du khách
muốn ngủ lại qua đêm để tìm hiểu sâu hơn
về cuộc sống của người dân nhưng không có
dịch vụ lưu trú qua đêm.
Tại các thôn như thôn Zơ Ra, có một số điểm
bán hàng lưu niệm, không phải tự phát mà do
HTX du lịch Ta-Bhing lập nên và quản lý. Trong
thôn Zơ Ra có một nhà sàn là nơi các bà các chị
tập trung làm sản phẩm thổ cẩm. Bên cạnh đó
là nhà trưng bày, giới thiệu và bán các sản phẩm
dệt thổ cẩm. Khách du lịch đến Ta-Bhing không
tiêu tiền trực tiếp tại mỗi nhà dân, mà thông
qua các “phiếu mua hàng” để đổi lấy hàng hóa
tại các điểm bán hàng tập trung.
Để đặt được một tour DLDVCĐ ở Ta-Bhing,
du khách phải đăng ký trước một tuần và chỉ
liên hệ qua email, chứ không có số điện thoại.
Đối với người lần đầu đặt tour, việc liên hệ khá
khó khăn và du khách thường phải mất thời
gian chờ đợi. Bên cạnh đó, với quy định chỉ
đón khách theo đoàn, không đón khách lẻ,
dẫn đến thiệt thòi cho những du khách muốn
trải nghiệm, nghiên cứu một mình với tư cách
nhập thân văn hóa. Ngoài ra, việc không cho
khách ngủ qua đêm tại làng khiến cho nhu cầu
tìm hiểu sâu về cộng đồng Cơ Tu trở nên khó
khăn. Nói về điều này, chuyên gia dự án người
Nhật của FIDR cho biết: “Khi đặt tour, du khách
nên thông qua các công ty du lịch, còn đặt tour
trực tiếp tại cộng đồng thì bà con lại không có
phương tiện để đưa đón, chính vì vậy sẽ gặp khó
khăn khi di chuyển. Các công ty sẽ chủ động bán
tour và sắp xếp đoàn cho mình trên trang web
91Số 32 (Tháng 6 - 2020)
VĂN HÓA DU LỊCH
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
của họ. Nếu lên trang web của cộng đồng thì
thường liên lạc qua email để bà con có thời gian
sắp xếp, trả lời và khách phải chủ động việc đi lại
từ nơi khác đến Ta-Bhing” (PVS, M., nữ, 36 tuổi).
Tuy nhiên, khi được phỏng vấn, bỏ qua một số
sự bất tiện nói trên, hầu hết du khách đều cảm
thấy hài lòng về sự đón tiếp cũng như tình cảm
chân thành của đồng bào và đều có nhiều ấn
tượng tốt đẹp về văn hóa và con người Cơ Tu.
2.4. Sự tham gia của cộng đồng
Đối với DLDVCĐ, cộng đồng đóng vai trò
quan trọng trong việc tạo môi trường du lịch
hấp dẫn. Cộng đồng bản địa không chỉ là chủ
nhân văn hóa mà còn có thể là một hướng dẫn
viên giới thiệu, quảng bá hiệu quả về văn hóa,
lịch sử của địa phương với du khách. Bởi, bản
thân họ nắm giữ những tri thức rất quý báu
về tự nhiên, về văn hóa nơi họ đã sinh ra, lớn
lên và đang sống. Khi người dân bản địa được
hưởng lợi ích trực tiếp từ các di sản do thiên
nhiên ban tặng và tổ tiên để lại, thì họ không
chỉ coi đó là di sản mà còn là tài sản của cộng
đồng. Điều đó sẽ thúc đẩy họ tích cực tham gia
đóng góp vào các dự án phát triển du lịch bền
vững tại địa phương.
Việc phát huy tối đa tính tích cực, chủ động
của cộng đồng Cơ Tu trong hoạt động du lịch
chính là một thành công rất lớn được đánh giá
cao của Dự án DLDVCĐ của dân tộc Cơ Tu ở
Ta-Bhing. Đến nay, mô hình này đã thu hút sự
tham gia của hơn 2.500 người Cơ Tu với 451
hộ, tập trung chủ yếu tại xã Ta-Bhing, huyện
Nam Giang [1].
Xuất phát từ chính sáng kiến của người dân
về việc họ muốn giới thiệu gì cho khách, dự án
đã thành lập ở mỗi thôn các nhóm sáng kiến
cộng đồng theo thế mạnh của từng thôn. Hiện
nay HTX du lịch Ta-Bhing đã có hơn 20 nhóm
sáng kiến. Tại mỗi nhóm lại có trưởng nhóm
và các hướng dẫn viên riêng. Các thành viên
trong ban điều hành tour có nhiệm vụ điều
phối các nhóm cùng hợp tác phục vụ khách.
Sau mỗi chuyến đón đoàn, ban điều hành
và các nhóm sáng kiến đều tổ chức các cuộc
họp đánh giá để cải thiện chất lượng phục vụ
cho lần sau. Bên cạnh đó, chính quyền phối
hợp với các chuyên gia Nhật Bản tổ chức các
buổi tập huấn để hướng dẫn người dân các kỹ
năng làm DLDVCĐ. Các kiến thức về kỹ năng
giao tiếp, các khóa đào tạo dịch vụ ẩm thực,
về hướng dẫn viên du lịch tại địa phương,
những câu chuyện dân gian, các loại hình âm
nhạc, nghệ thuật truyền thống,... đã được khơi
dậy và được tổ chức một cách hợp lý, để cung
cấp kỹ năng cho đồng bào nhằm phục vụ du
khách một cách tốt nhất.
Điều đáng chú ý là, người dân ở Ta-Bhing
vẫn duy trì các công việc và đời sống sinh hoạt
như bình thường, chỉ khi có tour thì mọi người
mới tham gia làm du lịch. Một người dân địa
phương đã tham gia khoảng 3 năm với tư cách
là thuyết minh viên, cho biết, chị rất vui khi có
cơ hội làm du lịch như thế này, bởi chị vẫn đảm
bảo được các công việc bình thường của một
người phụ nữ Cơ Tu như chăm sóc con cái, làm
nương rẫy, mà lại có thêm thu nhập từ làm
du lịch. Chị có cơ hội hiểu hơn về những giá
trị đặc sắc truyền thống của chính cộng đồng,
địa phương nơi mình sinh sống. Từ đó chị sẽ
truyền tải đến du khách những giá trị này bằng
tình yêu và sự tôn trọng đối với dân tộc mình
(PVS, C., nữ, 29 tuổi).
Khi được hỏi rằng đâu là điều mà bạn cảm
thấy ấn tượng nhất khi đến thăm Ta-Bhing,
một du khách chia sẻ: “Có nhiều điều ấn tượng,
nhưng điều làm cho tôi ấn tượng nhất đó là sự
thân thiện và lòng hiếu khách của bà con. Thực
ra ở nhiều nơi khác người ta cũng rất nhiệt tình,
rất thân thiện nhưng ở đây mình cảm nhận được
sự gần gũi tự nhiên của bà con, tức là không phải
người ta đang phải cố tỏ ra thân thiện với mình”
(PVS, T., nam, 45 tuổi).
2.5. Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch
Công tác tuyên truyền, quảng bá về
DLDVCĐ Cơ Tu đã và đang được thực hiện với
nhiều phương thức khác nhau. Chuyên gia của
FIDR cho biết: “Về công tác quảng bá du lịch thì
chúng tôi đa số tận dụng phương tiện internet
như facebook, website, v.v. Bên cạnh đó, chúng
tôi đang liên kết với 10 công ty du lịch, lữ hành.
Nhưng trên thực tế thì chúng tôi không cho một
công ty nào đứng ra quản lý hay kiểm soát cộng
đồng. Những công ty đó chỉ liên kết và thông
qua cộng đồng để đặt tour” (PVS, M., nữ, 36
tuổi). Theo ông Đinh Hài - Giám đốc Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Nam, mô
hình “DLDVCĐ của dân tộc Cơ Tu” có những
nét riêng biệt độc đáo, vì vậy cần mở rộng kết
Số 32 (Tháng 6 - 2020)92
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
nối với các điểm du lịch khác như thác Grăng
và đường mòn Hồ Chí Minh. Ông Hài khẳng
định: “Thời gian tới, Sở sẽ giúp quảng bá mô
hình này trên website du lịch Quảng Nam cũng
như trong các hoạt động xúc tiến du lịch trong và
ngoài nước. Đặc biệt sẽ giới thiệu 3 đơn vị lữ hành
là Công ty Cổ phần Du lịch dịch vụ Hội An, Công
ty Cổ phần Du lịch và thương mại Lê Nguyễn và
Công ty Du lịch mạo hiểm lên khảo sát đưa khách
đến” [4]. Một cán bộ Phòng Văn hóa và Thông
tin huyện Nam Giang cho biết: “Phòng đang xúc
tiến quảng bá bằng hình thức phát tờ rơi, trên các
trang mạng xã hội internet. Từ năm 2016, Phòng
bắt đầu có cán bộ phụ trách về mảng công nghệ
thông tin” (PVS, R., nam, 25 tuổi).
Đến với DLDVCĐ Cơ Tu ở Ta-Bhing, du khách
sẽ được tặng một số tờ rơi giới thiệu về tour du
lịch mang tên “Hương sắc Cơ Tu”. Trong đó có
những thông tin sơ lược về dự án, về những
sản phẩm du lịch tiêu biểu; một số đề nghị đối
với du khách tham quan, trải nghiệm tour. Về
thông tin liên hệ với đơn vị điều hành tour, tờ
rơi cung cấp 2 địa chỉ email (cotucbt@fidr.vn và
fidrvn@fidr.vn) và 1 số điện thoại cố định.
Việc quảng bá thông tin du lịch trên
internet là một hình thức quảng bá phổ biến
hiện nay. Tuy nhiên, khi tìm kiếm trên website
là website chính
thức của Trung tâm Thông tin xúc tiến du lịch
Quảng Nam, thì không có thông tin về điểm
hay tour du lịch nào mang tên “DLDVCĐ của
dân tộc Cơ Tu ở Ta-Bhing”, mà chỉ giới thiệu về
nghề dệt thổ cẩm Cơ Tu, làng truyền thống
của người Cơ Tu. Điều đó cho thấy, những
thông tin du lịch trên trang web của Trung
tâm Thông tin xúc tiến du lịch Quảng Nam là
những thông tin cũ và chưa được cập nhật.
3. Nhận xét về du lịch dựa vào cộng đồng
của dân tộc Cơ Tu ở xã Ta-Bhing và một số
vấn đề bàn luận
Để nhận diện những thuận lợi, khó khăn,
cơ hội, thách thức của mô hình DLDVCĐ của
dân tộc Cơ Tu tại Ta-Bhing, chúng tôi áp dụng
khung phân tích SWOT6 là một công cụ của
ngành quản trị hiện đại giúp đánh giá và kiểm
soát được những yếu tố bên trong - bên ngoài,
từ đó đưa ra được những chiến lược phù hợp
cho sự phát triển đúng hướng.
Áp dụng SWOT, chúng tôi nhận thấy
DLDVCĐ của dân tộc Cơ Tu ở Ta-Bhing có
những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách
thức sau:
* Điểm mạnh:
- Không phải huy động vốn do được FIDR
lấy làm điểm hỗ trợ (Gồm nhiều lĩnh vực không
chỉ du lịch).
- Nguồn khách quốc tế có khả năng chi tiêu
cao ổn định đến từ FIDR.
- Đặc trưng văn hóa truyền thống, cách
thức tổ chức cộng đồng, kiến trúc, phong tục
tập quán đặc sắc, rất khác biệt với các nhóm
dân tộc thiểu số khác.
- Văn hóa truyền thống được bảo tồn khá
nguyên vẹn từ trang phục đến kiến trúc nhà ở,
nhà cộng đồng, các tập tục cổ xưa và biểu diễn
dân gian - lễ hội.
- Được FIDR quảng bá miễn phí qua sản
phẩm dệt, được Nhà nước hỗ trợ quảng bá
trong các hội làng nghề, sự kiện trong nước.
- Nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên hay
môi trường tự nhiên nguyên sơ chưa bị ảnh
hưởng nhiều bởi công nghiệp hóa.
- Có nghề truyền thống.
- Tập tục, hành vi tín ngưỡng đã từng xảy ra
như tục săn máu có thể gây tò mò cho khách
du lịch thuộc nhóm đối tượng là các nhà
nghiên cứu nhân chủng học, nhân học, tôn
giáo tín ngưỡng và xã hội học (và những nhóm
khách cùng mối quan tâm khác).
* Điểm yếu:
- Cộng đồng chưa có nhiều kinh nghiệm
xây dựng sản phẩm du lịch và tiến hành tổ
chức phục vụ du lịch.
- Mục tiêu bị phân tán: Ngoài DLDVCĐ, xã
Ta-Bhing phải phân bổ nguồn lực cho mục tiêu
phát triển nghề truyền thống.
- Khó thu hút khách du lịch nội địa.
- Chưa có trang web riêng và các hình thức
tuyên truyền quảng bá còn nghèo nàn.
- Năng lực ngoại ngữ của cộng đồng còn thấp.
- Một số tập tục, hành vi từng xảy ra trong
quá khứ ảnh hưởng xấu tới tâm lý khách du
lịch (Tục săn máu đã được tác giả người Pháp
viết thành sách, phát hành toàn thế giới, nhiều
bài báo gần đây cũng đề cập đến tập tục này).
93Số 32 (Tháng 6 - 2020)
VĂN HÓA DU LỊCH
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
- Chưa tổ chức được hoạt động homestay,
hoạt động điển hình trong sản phẩm DLDVCĐ
dẫn tới việc cộng đồng vẫn khá khép kín đối
với khách du lịch.
- HTX du lịch Ta-Bhing hoạt động chưa thực
sự hiệu quả.
- Ví trị địa lý xa xôi, khó khăn cho di chuyển,
tiếp cận điểm của khách du lịch.
- Chưa tự chủ quy trình khép kín trong
DLDVCĐ (thị trường, tổ chức bán sản phẩm du
lịch, thực hiện sản phẩm du lịch).
* Cơ hội:
- Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam ngày
càng đông, trong đó khách du lịch có trách
nhiệm, du lịch xanh và DLDVCĐ có tỷ lệ ngày
càng tăng (đến từ các quốc gia phát triển).
- Ngành Du lịch Việt Nam quan tâm nhiều
hơn đến công tác xúc tiến phát triển du lịch
ra thị trường quốc tế (đầu tư tiền và chất
xám nhiều hơn vào hoạt động marketing,
promotion).
- Hệ thống pháp luật trong lĩnh vực du lịch
ngày càng được hoàn thiện. Tránh được chi phí
“lót tay”, bôi trơn khi đăng ký hoặc vận hành
sản phẩm.
- Hệ thống giao thông vận tải ở Quảng Nam
ngày càng phát triển và được hiện đại hóa.
- Thông tin liên lạc phát triển, trong đó có
thể kể đến internet, tỷ lệ điện thoại di động
được sử dụng trong giới trẻ
- Nhiều điểm DLDVCĐ khác đang trong giai
đoạn thoái trào do thời gian phát triển lâu, dịch
vụ nhàm chán và không duy trì được mục tiêu
phát triển bền vững (ví dụ: bản Lác, Hòa Bình).
- Có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ FIDR, giai đoạn 3
có thêm sự tham gia của tổ chức cấp cao hơn là
JICA với nguồn vốn và phạm vi hoạt động rộng
hơn. Đặc biệt JICA đã có nhiều kinh nghiệm
trong các dự án DLDVCĐ trên khắp nước ta.
* Thách thức
- Nhiều điểm DLDVCĐ khác đã rất phát
triển và hút khách từ các trung tâm du lịch lớn
như các điểm DLDVCĐ miền núi phía Bắc, các
tỉnh Tây Nguyên và Hội An.
- Áp lực phát triển du lịch bền vững dẫn đến
những quy định bảo vệ môi trường, bảo tồn di
sản văn hóa nghiêm ngặt hơn dành cho hoạt
động du lịch dẫn đến không thể phát triển du
lịch đại chúng (lấy số lượt khách làm chủ đạo).
- Kinh tế khủng hoảng, thị trường bị thu
hẹp lại do khách du lịch thắt chặt chi tiêu.
- Thị trường du lịch bị giới hạn bởi nguồn
khách do FIDR liên hệ và giới thiệu về điểm.
- Xuất hiện nhiều điểm DLDVCĐ mới do các
tỉnh thành học tập mô hình DLDVCĐ từ các
điểm đã được thực hiện thành công.
- Các công ty du lịch - lữ hành quan tâm
không nhiều đến điểm.
- Mục tiêu phát triển bền vững trên cả ba
khía cạnh khó được đảm bảo do phụ thuộc
nhiều vào sự hỗ trợ bên ngoài (FIDR, chính
quyền địa phương).
Kết luận
Để đánh giá tính hiệu quả của một dự
án DLDVCĐ, các chỉ số kinh tế như thu nhập
đầu người, lượt khách, doanh thu du lịch
theo năm, thường đóng vai trò quyết định.
Ngược lại, khi đánh giá tính bền vững của dự
án DLDVCĐ, vấn đề không chỉ tập trung vào
các chỉ số thống kê trong thời gian dự án được
triển khai mà còn phải thực hiện đánh giá, dự
đoán hướng phát triển và dựa vào chỉ số thống
kê dài hạn sau khi dự án kết thúc. Trong thực
tiễn, để phát triển một điểm DLDVCĐ theo các
nguyên tắc bền vững, đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn
của các bên liên quan bao gồm chính quyền địa
phương - cộng đồng - tổ chức tài trợ - hệ thống
doanh nghiệp du lịch chứ không chỉ dựa vào
một hoặc hai chủ thể. Trường hợp ở Ta-Bhing,
chúng tôi cho rằng việc chỉ dựa vào FIDR hoặc
nỗ lực của chính quyền để phát triển DLDVCĐ
là chưa đủ. Thêm vào đó, Ta-Bhing là một trong
những trường hợp nghiên cứu phức tạp, có sự
đan xen, chồng lấn các dự án phát triển cộng
đồng, y tế, nông nghiệp, phục hồi nghề truyền
thống với dự án DLDVCĐ. Hơn nữa, mục tiêu
của nhà tài trợ FIDR là khá tham vọng khi tập
trung vào việc phát triển toàn diện (chứ không
chỉ là du lịch) một cộng đồng thuộc nhóm dân
tộc ít người. Do đó, để phát triển DLDVCĐ một
cách toàn diện, phải có các giải pháp đồng bộ
về cơ chế chính sách, về tổ chức, quy hoạch,
quản lý và cả về truyền thông, giáo dục, có như
Số 32 (Tháng 6 - 2020)94
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
vậy, DLDVCĐ của dân tộc Cơ Tu mới có hiệu
quả dài lâu trong tương lai, đảm bảo tính phát
triển bền vững đúng như định hướng ban
đầu của các bên liên quan khi quyết định làm
DLDVCĐ nơi đây.
T.S.T; L.H.T
Chú thích
1 Các trích dẫn phỏng vấn sâu trong bài viết là
tư liệu điền dã dân tộc học của nhóm tác giả tại
xã Ta-Bhing, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam,
tháng 7/2018.
2 FIDR là một tổ chức phi chính phủ Nhật Bản,
được Bộ Ngoại giao Việt Nam cấp Giấy Đăng ký
Văn phòng Dự án tại Đà Nẵng, hoạt động trong
lĩnh vực hỗ trợ cải thiện dinh dưỡng, cải thiện
an ninh lương thực và phát triển DLDVCĐ. Tính
đến nay, FIDR đã và đang triển khai hơn 40 dự
án trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, cứu trợ, tại
một số tỉnh, thành phố ở khu vực miền Trung -
Tây Nguyên.
3 Số liệu tính đến 31/12/2012 theo Cổng
thông tin điện tử huyện Nam Giang.
4 “Săn máu, lấy đầu người” từng là một tập
tục có thật của người Cơ Tu ở Quảng Nam và khu
vực miền Trung - Tây Nguyên. Tập tục này có từ
xa xưa nhưng được công chúng biết đến và làm
rúng động dư luận khi cuốn sách Những kẻ săn
máu (Les Chasseurs de Sang) của Le Pichon - một
người lính viễn chinh Pháp - được công bố. Trong
hồi ký của nhà cách mạng Quách Xuân cũng
nhắc nhiều đến tập tục này của người Cơ Tu. Cho
đến nay, trong các công trình nghiên cứu về tộc
người Cơ Tu, các nhà nghiên cứu Việt Nam đều
thừa nhận: Săn máu là một tập tục có thật trong
quá khứ của dân tộc Cơ Tu, là những cuộc chiến
“săn máu - nợ đầu” kéo dài ngay trong tộc người
này. Những mùa săn máu của người Cơ Tu trước
đây chủ yếu liên quan đến quan niệm về thần linh
của cộng đồng, dùng máu người để cúng Giàng,
mong cho mùa màng được tốt, trong làng không
còn ai bị “chết xấu”. Những trận chiến như vậy
thường được đồng bào gọi với cái tên “giặc mùa”.
5 Về sau, trên thực tế, bà con vẫn tiếp khách
nhóm nhỏ hơn, từ 2 đến 5 người nhưng chương
trình tour sẽ rút gọn, du khách không được trải
nghiệm phần tái hiện lễ hội cộng đồng, cũng
không đi hết cả 7 thôn, mà chỉ đi tham quan 2 thôn,
khám phá cuộc sống thường nhật của bà con.
6 SWOT là chữ cái đầu của 4 từ tiếng Anh: S
(strength): điểm mạnh; W (weak): điểm yếu; O
(oppotunity): cơ hội; T (threat): thách thức hay
nguy cơ. SWOT là sản phẩm từ một nghiên cứu
của Trường Đại học Standford (Mỹ) được tiến
hành trên 500 tổ chức, doanh nghiệp toàn nước
Mỹ. Không chỉ được sử dụng trong lĩnh vực kinh
tế học, phương pháp SWOT còn được áp dụng
trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác, trong đó
có du lịch.
Tài liệu tham khảo
1. BT (2017), “Mô hình Du lịch dựa vào cộng
đồng Cơ Tu phát huy hiệu quả”,
antv.gov.vn/tin-tuc/kinh-te/mo-hinh-du-lich-
dua-vao-cong-dong-co-tu-phat-huy-hieu-
qua-217265.html
2. Nguyễn Đình Hòe, Vũ Văn Hiếu (2001), Du lịch
bền vững, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
3. Gia Khang (2018), “Phát triển du lịch dựa
vào giá trị văn hóa Cơ Tu”,
vn/du-lich/201807/phat-trien-du-lich-dua-vao-
gia-tri-van-hoa-co-tu-806512/
4. Khánh Linh (2013), “Dự án Du lịch dựa
vào cộng đồng Cơ Tu: Cải thiện sinh kế cho
người dân”,
thoi-su-kinh-te/201307/du-an-du-lich-dua-vao-
cong-dong-co-tu-cai-thien-sinh-ke-cho-nguoi-
dan-323339/
5. P.H (2018), “Người Cơ Tu làm du lịch cộng
đồng”, https://baotintuc.vn/dan-toc-mien-nui/
nguoi-cotu-lam-du-lich-cong-dong-2018040916
2014782.htm
6. Đặng Quang Thành (2000), Phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc trong kinh doanh du lịch, Nxb.
Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
7. Trương Sỹ Tâm (chủ nhiệm) (2018), Du lịch
dựa vào cộng đồng theo hướng bền vững của đồng
bào dân tộc Cơ Tu xã Ta-Bhing, huyện Nam Giang,
tỉnh Quảng Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Trường, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
8. Bùi Thị Hải Yến (chủ biên) (2012), Du lịch
dựa vào cộng đồng, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 31 - 5 - 2020
Ngày phản biện, đánh giá: 5 - 6 - 2020
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 6 - 2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_phat_trien_du_lich_dua_vao_cong_dong_cua_dan_toc.pdf