(5) Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện
chính sách kinh tế, cải cách khu vực
hành chính công và khu vực kinh tế
nhà nước theo hướng chỉ giữ một số
ngành then chốt, giảm quy mô, đánh
giá lại mô hình tập đoàn kinh tế Nhà
nước, phát triển khu vực kinh tế tư
nhân trong nước, cũng như kết hợp
các nguồn lực trong và ngoài nước
đưa Việt Nam hội nhập nhưng giữ
được chủ quyền trong phát triển kinh
tế - coi hội nhập là nhân tố hỗ trợ để
phát triển nội lực.
(6) Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa dựa vào tiềm lực trong nước
và bối cảnh hội nhập quốc tế. Thu hút
đầu tư tư nhân trong nước và quốc tế
vào các dự án hạ tầng tạo điều kiện
phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh đô
thị hóa, dịch chuyển cơ cấu kinh tế,
đặc biệt cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
(7) Thúc đẩy quá trình dịch chuyển cơ
cấu kinh tế theo khu vực ngành, nội
ngành nhằm nâng cao năng suất, hiệu
quả và năng lực cạnh tranh trong hội
nhập. Dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo
hướng tạo ra năng suất xã hội cao
hơn, bảo đảm phát triển bền vững
trên cơ sở bố trí các khu vực công
nghiệp, đô thị hóa nhưng vẫn đảm
bảo môi trường sinh thái, rút ngắn
khoảng cách phân hóa giàu nghèo
giữa các vùng và các tầng lớp dân cư.
(8) Muốn khống chế được mức bội
chi, giảm nợ công là phải giảm chi và
tăng thu. Tăng thu trong bối cảnh hội
nhập là khó khăn do cắt giảm thuế
xuất - nhập khẩu, vì vậy chỉ có thể cải
thiện bằng cải cách thuế tăng nguồn
thu từ các loại thuế trực thu. Biện
pháp giảm chi là cơ cấu lại các khoản
chi kết hợp với cải cách bộ máy hành
chính Nhà nước. Biện pháp khống
chế nợ công là phải xem xét cơ cấu
lại nợ, hạn chế hoặc cắt giảm các dự
án đầu tư thiếu hiệu quả.
15 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 381 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng phát triển kinh tế Việt Nam theo mục tiêu chiến lược, kế hoạch giai đoạn 2011 - 2020 và những vấn đề đặt ra, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
CHUYÊN MỤC
KINH TẾ HỌC - XÃ HỘI HỌC
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM
THEO MỤC TIÊU CHIẾN LƢỢC, KẾ HOẠCH GIAI
ĐOẠN 2011 - 2020 VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
NGUYỄN THỊ CÀNH*
NGUYỄN CHÍ HẢI**
HUỲNH NGỌC CHƢƠNG***
Sử dụng số liệu từ Niên giám thống kê giai đoạn 2011 - 2018 và ước tính cho
hai năm 2019, 2020, bài viết tập trung phân tích thực trạng phát triển kinh tế Việt
Nam giai đoạn chiến lược 10 năm 2011 - 2020. Với phương pháp định tính, bài
viết phân tích và đánh giá chỉ số tăng trưởng, thu nhập bình quân, dịch chuyển
cơ cấu kinh tế và một số chỉ số kinh tế vĩ mô; so sánh kết quả thực hiện thời
gian qua với các mục tiêu đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế. Đồng thời bài
viết cũng chỉ ra những tồn tại, các nguyên nhân chưa thực hiện được các mục
tiêu, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế cho giai đoạn
tới.
Từ khóa: tăng trưởng, dịch chuyển cơ cấu kinh tế, kinh tế vĩ mô
Nhận bài ngày: 6/10/2019; đưa vào biên tập: 10/10/2019; phản biện: 25/10/2019;
duyệt đăng: 4/12/2019
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Quốc hội và Chính phủ đã ban hành
các Nghị quyết về chiến lược 10 năm
và kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế -
xã hội cho giai đoạn 2011 - 2020.
Trong đó có đặt ra các mục tiêu tăng
trưởng bình quân từ 7% - 8%/năm,
GDP bình quân đầu người theo giá
thực tế đạt khoảng 3.000 USD vào
năm 2020; bảo đảm ổn định kinh tế
vĩ mô; xây dựng cơ cấu kinh tế công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ hiện đại,
hiệu quả với tỷ trọng các ngành công
nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85%
trong GDP vào năm 2020... Liệu Việt
Nam có thực hiện được các chỉ tiêu
đặt ra theo các mục tiêu chiến lược,
kế hoạch?
Để trả lời cho câu hỏi trên, bài viết
*, **, ***
Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
NGUYỄN THỊ CÀNH VÀ CÁC TÁC GIẢ – THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
2
phân tích tình hình phát triển kinh tế
Việt Nam trong giai đoạn 2011 -
2018/2019/2020 qua các chỉ tiêu
tăng trưởng kinh tế, GDP bình quân
đầu người, dịch chuyển cơ cấu kinh
tế và một số chỉ số kinh tế vĩ mô.
Trên cơ sở phân tích thực trạng tình
hình, đối chứng so sánh kết quả thực
hiện được với các mục tiêu kinh tế
của chiến lược, kế hoạch, bài viết chỉ
ra những tồn tại, các nguyên nhân
của những tồn tại đồng thời đưa ra
các kiến nghị, giải pháp thúc đẩy
phát triển kinh tế cho giai đoạn tới.
2. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VIỆT NAM QUA MỘT SỐ CHỈ TIÊU
2.1. Về tốc độ tăng trƣởng kinh tế
Tính đến năm 2018, GDP theo giá
so sánh của Việt Nam xấp xỉ 3,5
triệu tỷ đồng, gấp 1,62
lần so với năm 2010 và
gấp 2,2 lần so với năm
2005. Tính đến năm
2018, GDP bình quân
đầu người đạt mức 58
triệu đồng, gấp 10,23
lần so với năm 2000, và
gấp 2,36 lần so với năm
2010. Như vậy, quy mô
nền kinh tế Việt Nam
nhìn chung đã có sự
mở rộng đáng kể so
với trước đây (Biểu đồ
1).
Tốc độ tăng trưởng
bình quân của Việt
Nam tăng khoảng
6,32%/năm trong giai
đoạn 2005 - 2010, sau
đó giảm mạnh xuống mức
5,83%/năm vào giai đoạn 2011 -
2015. Sự sụt giảm trong giai đoạn
2011 - 2015 chủ yếu do tác động từ
khủng hoảng kinh tế thế giới và sự
suy giảm của nền kinh tế Việt Nam.
Nền kinh tế cũng có sự phục hồi
đáng kể từ năm 2016, tính chung
trong giai đoạn 2016 - 2020, kinh tế
Việt Nam kỳ vọng có thể đạt mức
tăng trưởng bình quân 6,95%/năm(1).
Như vậy, trong giai đoạn 2011 -
2020, quy mô nền kinh tế Việt Nam
nói chung tăng trung bình khoảng
6,37%/năm (Biểu đồ 2). Kết quả này
không đạt được các mục tiêu chiến
lược 10 năm về tốc độ tăng trưởng
(7% - 8%). Nhìn chung tốc độ tăng
trưởng của kinh tế Việt Nam có xu
Biểu đồ 1. GDP và Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Nguồn. Tổng cục Thống kế, số liệu thống kê (2010 - 2018).
Biểu đồ 2. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam theo
các giai đoạn
Nguồn: Tổng cục Thống kế, số liệu thống kê (2010 -
2018) và ước tính các năm 2019 - 2020.
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (256) 2019
3
hướng gần với xu hướng tăng
trưởng của kinh tế thế giới (tăng,
giảm cùng chiều).
Tốc độ tăng trƣởng ở từng giai
đoạn 2011 - 2015 và 2016 - 2020
so với mục tiêu
Trong giai đoạn 2011 - 2015, mục tiêu
tăng trưởng kinh tế bình quân phải đạt
6,5% - 7%/năm. Việc đặt ra chỉ tiêu này
là lạc quan khi nền kinh tế thế giới
vừa trải qua khủng hoảng kinh tế 2008
và kinh tế Việt Nam tiếp tục ở giai
đoạn trì trệ với các điểm yếu ngày
càng bộc lộ rõ trong giai đoạn phát
triển trước đây để lại. Kết quả tăng
trưởng trong giai đoạn 2011 - 2015
thấp hơn rất nhiều so với mục tiêu đề
ra cũng như so với
giai đoạn 2006 -
2010 (đạt mức
6,15%/năm). Dù vậy,
một điểm tích cực
trong tăng trưởng
giai đoạn này là tốc
độ tăng trưởng dần
phục hồi và có tốc
độ tăng trưởng năm
sau cao hơn năm
trước (kể từ năm
2012), năm 2015,
tốc độ tăng trưởng
kinh tế đạt mức
6,68% cao nhất trong
giai đoạn 2011 -
2015.
Đến giai đoạn 2016 -
2020, mục tiêu đặt
ra cho giai đoạn này
phải đạt mức tăng
trưởng trung bình ở mức 6,5 -
7%/năm. Đây cũng là giai đoạn nền
kinh tế Việt Nam bắt đầu hồi phục và
có bước tăng trưởng tích cực, kết quả
3 năm gần đây nhất (2016, 2017,
2018) đều tăng trưởng trên 6% và liên
tục năm sau cao hơn năm trước. Năm
2018, tăng trưởng kinh tế đạt 7,08%,
đây là mức cao nhất từ sau khủng
hoảng kinh tế thế giới (năm 2008). Kết
quả này củng cố cho các dự báo kinh
tế lạc quan cho các năm sau (2019,
2020) ở mức bình quân 6,95%. Như
vậy, với viễn cảnh tích cực trong thời
gian gần đây, dự báo tăng trưởng
bình quân giai đoạn 2016 - 2020 sẽ
đạt mức 6,95%/năm, đạt chỉ tiêu đề ra
cho giai đoạn này (Biểu đồ 3).
Biểu đồ 3. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam qua các năm
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu Tổng cục Thống kê.
Biểu đồ 4. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam và trung bình
nhóm thu nhập trung bình thấp
Nguồn: Ngân hàng Thế giới (nguồn dữ liệu WDI(3)).
NGUYỄN THỊ CÀNH VÀ CÁC TÁC GIẢ – THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
4
So với nhóm nước thu nhập trung
bình thấp(2), ngoại trừ năm 2013 và
2014, nền kinh tế Việt Nam đều có
tăng trưởng kinh tế cao hơn tăng
trưởng trung bình của nhóm nước này
trong giai đoạn 2011 - 2017. Đây là
một tín hiệu tích cực so với các giai
đoạn trước đó, tăng trưởng của Việt
Nam chỉ đạt mức tương đương với
trung bình chung của nhóm quốc gia
có thu nhập trung bình thấp (Biểu đồ
4).
2.2. Thu nhập quốc dân/ngƣời
(GDP/ngƣời)
Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, trong
khi tốc độ tăng dân số được kìm hãm,
đã dẫn đến mức thu nhập GDP bình
quân trên đầu người mỗi năm một
tăng. Có thể nói tốc độ tăng thu nhập
bình đầu người dù có những thăng
trầm, nhưng tăng mạnh trong 3 năm
gần đây (2015 - 2018). Nếu năm 1990,
GDP trên đầu người của Việt Nam chỉ
khoảng trên 100 đô la Mỹ, thì đến năm
2017 đạt 2.385 USD/người, năm 2018
đạt 2.587 USD (theo số liệu Tổng cục
Thống kê) - ước tính tăng khoảng 24
lần; tốc độ tăng bình quân GDP/người
Biểu đồ 5. GDP/người và tốc độ tăng GDP/người của Việt Nam
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu Tổng cục Thống kê.
Bảng 1. Thu nhập bình quân/người của Việt Nam so với các nước cùng nhóm
Nước
Số năm ở trạng thái thu nhập GNI bình
quân/người
năm 2017
Tăng trưởng GNI bình quân/người
Thấp Trung bình thấp 1990-2000 2001-2010 2011-2017
Indonesia 11 20 3540 0,35% 14,93% 2,80%
Uzbekistan 10 17 2000 0,00% 10,18% 4,57%
India 20 11 1790 1,48% 11,72% 4,56%
Sudan 20 11 2380 -4,63% 15,56% 8,24%
Vietnam 22 9 2160 12,17% 12,59% 8,02%
Ghana 23 8 1880 -1,61% 17,18% 5,04%
Cameroon 11 20 1370 -3,29% 8,46% -0,12%
Myanmar 27 4 1210 0,00% 0,00% 2,89%
Pakistan 21 10 1580 1,55% 8,93% 5,44%
Kenya 27 4 1460 1,01% 10,47% 6,33%
Bangladesh 27 4 1470 3,08% 6,84% 9,14%
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu Ngân hàng Thế giới.
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (256) 2019
5
của giai đoạn 2011 - 2018 đạt khoảng
5,5%/năm, trong đó ba năm cuối tăng
bình quân khoảng 7%/năm. Nếu tốc
độ tăng GDP/người tiếp tục tăng bình
quân 7%/năm thì GDP/người có thể
đạt được 3.000 USD/người vào năm
2020 (Biểu đồ 5). Dù vậy, nếu so sánh
với mục tiêu được đặt ra trong kế
hoạch phát triển giai đoạn 2016 - 2020
là tối thiểu 3.200 USD/người thì khả
năng đạt được mục tiêu này là không
cao.
Việt Nam cũng đã có 9 năm kể từ khi
được xếp hạng vào nhóm nước thu
nhập trung bình thấp, cho tới năm
2017 tính theo GNI/người Việt Nam
đạt mức hơn 2.160 USD/người, bằng
khoảng 61% so với Indonesia, nước
đang ở mức thu nhập bình quân cao
nhất trong nhóm nước thu nhập trung
bình thấp (Bảng 1).
Xét trên khía cạnh tăng trưởng thu
nhập bình quân/người, Bangladesh,
Việt Nam, Sudan là những quốc gia
có tốc độ tăng trưởng thu nhập bình
quân/người nhanh nhất với mức tăng
trưởng từ 8%/năm trở lên xét trong
giai đoạn 2011 - 2017. Trong đó, tăng
trưởng thu nhập bình quân đầu người
của Việt Nam đạt mức 8,02%/năm,
nhưng so với các giai đoạn 10 năm
trước đó, tốc độ gia tăng thu nhập
bình quân/người cũng đã giảm mạnh.
Như vậy, nếu tăng trưởng thu nhập
bình quân đầu người của Việt Nam
tiếp tục ổn định ở mức như giai đoạn
2011 - 2017, thì đến năm 2030, thu
nhập bình quân đầu người của Việt
Nam đạt mức hơn 5.874 USD/người,
khi đó (2030), Việt Nam sẽ nằm trong
nhóm nước có mức thu nhập trung
bình cao. Tuy vậy, mức thu nhập bình
quân này chỉ chưa tới 50% so với
mức ngưỡng thu nhập cao vào năm
2017 (hơn 12.000 USD/người).
2.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo 3 khu vực ngành
Quy mô nền kinh tế mở rộng đi kèm
với việc gia tăng tỷ trọng các ngành
công nghiệp, dịch vụ trong nền kinh tế.
Biểu đồ 6. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo khu vực ngành kinh tế
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu Tổng cục Thống kê.
NGUYỄN THỊ CÀNH VÀ CÁC TÁC GIẢ – THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
6
Khu vực nông nghiệp có vai trò thu
hẹp dần trong nền kinh tế, năm 2005
tỷ trọng nông nghiệp đạt mức 21,6%
GDP thì đến năm 2018 chỉ còn hơn
14,3% GDP và dự báo đến năm 2020
chỉ còn chiếm 13,4% GDP Việt Nam.
Cùng với quá trình thu hẹp vai trò của
nông nghiệp trong nền kinh tế thì công
nghiệp và dịch vụ đóng vai trò ngày
càng tăng; trong đó các ngành dịch vụ
dự báo đến năm 2020 đạt đến mức
xấp xỉ 39% GDP, công nghiệp và xây
dựng đạt tỷ trọng hơn 36% GDP trong
nền kinh tế Việt Nam (Biểu đồ 6).
Khu vực nông nghiệp cũng là khu vực
có tốc độ tăng trưởng thấp nhất trong
nền kinh tế với mức tăng trưởng cao
nhất của khu vực này là 4,96% năm
2008. Năm 2008 cũng là năm mà khu
vực xây dựng - công nghiệp có tốc độ
tăng trưởng thấp nhất, chỉ ở mức
4,13%, thấp hơn cả khu vực nông
nghiệp. Khu vực công nghiệp và xây
dựng cũng là khu vực có tăng trưởng
biến động lớn nhất trong ba khu vực
của nền kinh tế, sự dao động lớn của
khu vực kinh tế quan
trọng này cũng là một
“phong vũ biểu” của
nền kinh tế. Trong
những năm nền kinh
tế tăng trưởng ổn
định và tích cực, khu
vực công nghiệp -
xây dựng luôn có tốc
độ tăng trưởng khá
cao, đặc biệt kể từ
năm 2014 đến nay,
tốc độ tăng trưởng
của khu vực công nghiệp - xây dựng
luôn cao nhất trong 3 khu vực của nền
kinh tế. Khu vực dịch vụ trong nền
kinh tế luôn có mức tăng trưởng khá
và dao động thấp hơn nhiều so với 2
khu vực còn lại. Tuy nhiên, kể từ năm
2005 cho đến nay, khu vực dịch vụ
đang có xu hướng tăng trưởng chậm
dần, trong giai đoạn 2005 - 2009, tăng
trưởng bình quân khu vực dịch vụ đạt
7,75%/năm, đến giai đoạn 2011 -
2018, tăng trưởng bình quân khu vực
này chỉ đạt 6,76%/năm (Biểu đồ 7).
Cùng với quá trình chuyển dịch trong
cơ cấu các ngành kinh tế, cấu trúc
phân bổ lực lượng lao động của Việt
Nam chuyển dịch vào các ngành nghề
thuộc khu vực công nghiệp, dịch vụ.
Dù vậy, cho đến năm 2017, tỷ lệ lao
động thuộc khu vực nông - lâm - thủy
sản vẫn chiếm hơn 40% lao động của
Việt Nam. Dù đã có những bước tiến
lớn trong phát triển các ngành công
nghiệp, đặc biệt là các ngành sử dụng
nhiều lao động nhưng tỷ lệ lao động
trong các ngành công nghiệp, xây
Biểu đồ 7: Tốc độ tăng trưởng của ba khu vực ngành kinh
tế
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu Tổng cục Thống kê.
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (256) 2019
7
dựng cho đến năm 2017 mới chỉ đạt
xấp xỉ 25,8% tổng lực lượng lao động
Việt Nam.
Dự kiến đến năm 2020, tỷ trọng lao
động trong nông nghiệp đạt mức
33,49%, tỷ trọng lao động trong khu
vực công nghiệp và xây dựng đạt mức
29,34% (Biểu đồ 8). Bên cạnh đó, lực
lượng lao động của nền kinh tế đang
tăng trưởng ngày càng chậm lại theo
quá trình già hóa dân số và kết quả
của quá trình kế hoạch hóa dân số
của Việt Nam trước đây. Bắt đầu từ
năm 2015, tốc độ gia tăng lực lượng
lao động của nền kinh tế đều nhỏ, trên
dưới 1%/năm, điều này báo hiệu bắt
đầu của quá trình suy giảm lực lượng
lao động.
Nhìn ở một khía cạnh khác, dù lực
lượng lao động trong ngành nông
nghiệp chiếm hơn 40% lao động của
nền kinh tế nhưng tổng số doanh
nghiệp trong khu vực này ước đến
năm 2018 chỉ đạt hơn 7 nghìn doanh
nghiệp, chiếm khoảng 1% tổng số hơn
672 nghìn doanh nghiệp đang hoạt
động trong nền kinh tế Việt Nam. Điều
này cho thấy, phần lớn lao động trong
khu vực nông nghiệp không làm việc
ở các doanh nghiệp mà chủ yếu ở các
hình thức sản xuất truyền thống như
hộ gia đình. Trong cơ cấu doanh
nghiệp tại Việt Nam, khu vực dịch vụ
vẫn là nơi có số lượng doanh nghiệp
nhiều nhất chiếm khoảng 70,5% số
doanh nghiệp trong toàn nền kinh tế.
Đối với khu vực xây dựng - công
nghiệp, đến năm 2018, ước tính có
khoảng 190,7 nghìn doanh nghiệp
đang hoạt động, gấp khoảng 5,3 lần
so với số doanh nghiệp hoạt động
năm 2005; điều này cho thấy sự tăng
nhanh số lượng doanh nghiệp trong
lĩnh vực này, dù vậy, tốc độ gia tăng
số lượng doanh nghiệp này vẫn thấp
hơn nhiều so với khu vực dịch vụ, do
đó, tỷ trọng số doanh nghiệp trong khu
vực này giảm dần. Từ năm 2005, tỷ
trọng doanh nghiệp đang hoạt động
trong khu vực xây dựng - công nghiệp
chiếm khoảng 33,8% thì đến năm
2018 ước tính chỉ còn ở mức 28,36%
Biểu đồ 8. Quy mô và cơ cấu lao động theo khu vực ngành
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu Tổng cục Thống kê.
NGUYỄN THỊ CÀNH VÀ CÁC TÁC GIẢ – THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
8
số lượng doanh nghiệp đang hoạt
động trong nền kinh tế (Biểu đồ 9).
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế so với
mục tiêu
Trong giai đoạn 2011 - 2015, nền kinh
tế tiếp tục dịch chuyển mạnh sang khu
vực công nghiệp, dịch vụ. Tính đến
năm 2015, tỷ lệ khu vực công nghiệp
và dịch vụ chiếm khoảng 72,45% GDP
nền kinh tế; trong đó, riêng ngành công
nghiệp chiếm khoảng 34,16% GDP.
Giai đoạn này cũng chứng kiến tốc độ
tăng trưởng khu vực công nghiệp
giảm sút mạnh từ năm 2011 đến 2013
khi tốc độ tăng trưởng của khu vực
công nghiệp chỉ đạt 5,08% ở năm
2013 so với 7,6% vào năm 2011. Tuy
vậy, tốc độ tăng trưởng của khu vực
công nghiệp đã phục hồi ở các năm
2014, 2015 (Biểu đồ 10). Giai đoạn
2011 - 2015, khu vực công nghiệp
tăng bình quân 7,12%/năm cao hơn
so với giai đoạn 2006 - 2010 (chỉ ở
mức 6,18%/năm). Trong khi khu vực
nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng
bình quân tương đương với giai đoạn
trước (ở mức 2,85%/năm so với 2,86%/
năm giai đoạn 2006 - 2010) thì khu
vực dịch vụ chứng kiến sự suy giảm
về tốc độ tăng trưởng, giai đoạn 2011 -
2020 tăng trưởng bình quân chỉ đạt
6,48%/năm so với giai đoạn 2006 -
2010 ở mức bình quân 7,75%/năm.
Mục tiêu đặt ra đến năm 2020, nền
kinh tế có cơ cấu công nghiệp - dịch
vụ đạt mức 85% GDP. Tính đến năm
2018, tỷ trọng công nghiệp - dịch vụ
đã đạt mức 74,35% GDP, theo dự báo,
nếu nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng
ổn định như ba năm vừa qua (2016 -
2018) thì đến năm 2020, tỷ trọng các
ngành kinh tế của Việt Nam lần lượt
theo nông nghiệp - công nghiệp - dịch
vụ là: 13,36% - 36,52% và 38,96%;
phần còn lại là thuế sản phẩm. Theo
số liệu mới nhất của Tổng cục Thống
kê, cơ cấu nền kinh tế năm 2018, khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
Biểu đồ 9. Cơ cấu số doanh nghiệp trong các khu vực kinh tế
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu Tổng cục Thống kê.
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (256) 2019
9
chiếm tỷ trọng 14,57% GDP; khu vực
công nghiệp và xây dựng chiếm
34,28%; khu vực dịch vụ chiếm
41,17%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp
sản phẩm chiếm 9,98% (cơ cấu tương
ứng của năm 2017 là: 15,34%;
33,40%; 41,26%; 10%). Như vậy, nếu
xu hướng dịch chuyển cơ cấu kinh tế
theo ba khu vực ngành đến năm 2020
có thể đạt được mục tiêu chiến lược,
là khu vực nông nghiệp còn dưới 15%
thì hai khu vực công nghiệp và dịch vụ
sẽ chiếm trên 85% (phân bổ thuế sản
phẩm theo tỷ lệ tương ứng cho ba khu
vực).
Bên cạnh cơ cấu về các ngành kinh tế,
mục tiêu đặt ra đến năm 2020, cơ cấu
lao động trong ngành nông nghiệp chỉ
còn chiếm khoảng 30 - 35%, tính đến
năm 2018, tỷ trọng lao động trong
ngành nông nghiệp đạt mức 37,7%
giảm mạnh từ mức hơn 44% của năm
2015. Như vậy, với tốc độ gia tăng
các hoạt động trong các ngành công
nghiệp, dịch vụ như hiện nay, mục
tiêu cơ cấu lao động trong ngành
nông nghiệp có khả năng đạt được
vào năm 2020.
2.4. Các chỉ số kinh tế vĩ mô
Kinh tế tăng trưởng phụ thuộc rất
nhiều vào tình hình ổn định các yếu tố
vĩ mô. Tình hình kinh tế vĩ mô của Việt
Nam trong giai đoạn qua tương đối ổn
định. Theo đó lạm phát được kiềm
chế, bội chi ngân sách giảm dần, cán
cân thương mại ba năm liền xuất siêu,
đạt vượt xa so với mục tiêu đề ra
(theo mục tiêu kế hoạch 5 năm đề ra
là giảm nhập siêu xuống dưới 10%
kim ngạch xuất khẩu); lạm phát được
kiềm chế dưới 4%, đặc biệt ba năm
cuối của chiến lược, tỷ lệ lạm phát
tương đối ổn định; bội chi ngân sách
cũng được kiềm chế dưới mức 5%
GDP.
Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như lạm
phát (chỉ số CPI), bội chi ngân sách,
nợ công, thặng dư cán cân thương
mại trong giai đoạn 2016 - 2018 đều
có sự dịch chuyển theo hướng tích
cực, đóng góp vào đà phục hồi và
tăng trưởng kinh tế từ năm 2014. Nếu
Biểu đồ 10. Tăng trưởng khu vực ngành kinh tế của Việt Nam giai đoạn (2011 - 2015)
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu Tổng cục thống kê.
NGUYỄN THỊ CÀNH VÀ CÁC TÁC GIẢ – THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
10
chiếu theo ước tính cho 2 năm kế tiếp
2019 và 2020, hầu hết những chỉ tiêu
vĩ mô kể trên đều có giá trị trung bình
trong giai đoạn 2016 - 2020 tốt hơn
hẳn giai đoạn 2011 - 2015. Điều đó
cho thấy tất cả những biện pháp thúc
đẩy, ổn định và phát triển kinh tế của
Chính phủ dù không phải có tác dụng
ngay lập tức ở một số khía cạnh
nhưng xét về lâu dài cho cả một giai
đoạn thì đã đạt hiệu quả.
- Cụ thể, chỉ số CPI cho cả giai đoạn
2016 - 2020 theo ước tính đều được
kiểm soát ở mức từ 2,6% - 3,5% (đạt
mục tiêu chiến lược). Tính ổn định ở
mức thấp của chỉ số CPI qua cả giai
đoạn cho thấy khả năng kiểm soát giá
cả rổ hàng hóa chung rất tốt của
Chính phủ, đặc biệt là việc ổn định giá
lương thực và một số dịch vụ công
cộng.
- Bội chi ngân sách nhà nước có dấu
hiệu giảm qua các năm liên tục trong
giai đoạn 2016 - 2020 theo ước tính.
Từ mức trên 5,5% năm 2016 đã giảm
xuống dưới 4% những năm đầu trong
giai đoạn 4 năm kế tiếp 2017 - 2020.
Điều đó cho thấy các biện pháp giảm
chi tiêu công của Chính phủ trong một
giai đoạn dài đã có hiệu quả dù tỷ lệ
thu ngân sách so với GDP giảm dần
qua các năm tính đến hiện tại.
- Nợ công dù vẫn cao nhưng có dấu
hiệu giảm cho thấy tín hiệu tích cực
trong nỗ lực tăng cường, giám sát nợ
công và các biện pháp tái cơ cấu nợ
công của Chính phủ.
- Xuất khẩu trở thành một trong những
nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
trong giai đoạn 2011 - 2020. Thặng dư
cán cân thương mại của Việt Nam
tăng nhiều trong giai đoạn 2016 -
2020 theo ước tính khoảng 6,8 tỷ
USD so với mức nhập siêu trên 3 tỷ
USD năm 2015. Việt Nam thực sự đã
có những bước đi đúng đắn khi tích
cực tham gia các hiệp định thương
mại quốc tế, thắt chặt và mở rộng thị
trường xuất khẩu đối với các bạn
hàng lớn như Mỹ, Trung Quốc, các
nước Châu Âu. Bên cạnh đó việc tích
hợp công nghệ, kỹ thuật nhằm đạt
được các tiêu chuẩn chất lượng quốc
tế đã giúp hàng hóa Việt Nam xuất
khẩu ngày càng được chấp nhận rộng
rãi hơn. Vai trò của các hiệp hội xuất
khẩu cũng đáng được ghi nhận khi
góp phần bảo vệ và quảng bá hình
ảnh sản phẩm trong nước ra quốc tế.
- Năng suất lao động đã được cải
thiện theo thời gian, đóng góp của yếu
tố tổng năng suất lao động trong tăng
trưởng kinh tế đã tăng lên và giảm
dần sự phụ thuộc vào các ngành thâm
dụng vốn và lao động.
Có thể nói, trong giai đoạn từ năm
2011 - 2020, qua chỉ số kinh tế vĩ mô
về: tăng trưởng, lạm phát, nợ công,
thặng dư, cán cân thương mại, xuất
khẩu, tỷ suất lao động... cho thấy một
số điểm sáng về tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam.
3. MỘT SỐ TỒN TẠI, HẠN CHẾ VÀ
NGUYÊN NHÂN
3.1. Một số tồn tại, hạn chế
Giai đoạn 2011 - 2020, tăng trưởng
kinh tế tại Việt Nam cũng cho thấy một
số điểm bất cập, hạn chế sau:
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (256) 2019
11
Thứ nhất, dù thâm hụt ngân sách nhà
nước và nợ công có dấu hiệu giảm
nhưng tỷ lệ chi ngân sách nhà nước
so với GDP không có dấu hiệu giảm.
Tỷ trọng thu ngân sách nhà nước so
với GDP của Việt Nam bắt đầu giảm,
từ trên 27% năm 2006, giảm dần
xuống trên 20% năm 2015, ba năm
gần đây (2016 - 2018) giảm xuống
trên dưới 20% - 22%. Chi ngân sách
so với GDP của Việt Nam chiếm tỷ lệ
cao hơn so với thu ngân sách so với
GDP. Cụ thể tăng từ trên 26,44% năm
2011 đến trên 28% năm 2013 và trên
dưới 25% hiện nay. Do tỷ lệ chi ngân
sách so với GDP cao hơn tỷ lệ thu
ngân sách so với GDP nên tỷ lệ thâm
hụt ngân sách cao, nhiều năm tỷ lệ
thâm hụt ngân sách vượt quá ngưỡng
5% GDP, thậm chí năm 2012 tỷ lệ
thâm hụt ngân sách khá cao (khoảng
6,6% GDP). Nợ công vẫn ở rất gần
mức trần mà Quốc hội đặt ra (dưới
65% so với GDP) cho thấy cần một
nền tảng bền vững hơn trong việc
kiềm chế và kiểm soát nợ công, đặc
biệt là nợ nước ngoài, khả năng trả
nợ và kỷ luật tài khóa. Trung bình nợ
công trong 5 năm 2011 - 2015 là
56,98% trên GDP, ước tính mức nợ
công trung bình giai đoạn 2016 - 2020
tăng lên khoảng 61% so với GDP.
Bảng 2. Chỉ số ICOR của Việt Nam theo
các giai đoạn chiến lược và kế hoạch
Giai đoạn ICOR
2011 - 2015 5.67
2011 - 2020 5.82
2016 - 2020 5.92
Nguồn: Tính toán của tác giả.
Thứ hai, chất lượng tăng trưởng chưa
cao và thiếu ổn định, hiệu quả đầu tư
thấp thể hiện chỉ số ICOR còn cao ở
mức xấp xỉ 6 (Bảng 2).
Yếu tố chủ yếu đóng góp vào tăng
trưởng kinh tế Việt Nam trong giai
đoạn 2011 - 2020 vẫn chủ yếu là do
việc gia tăng yếu tố đầu vào (vốn và
lao động). Tốc độ tăng trưởng kinh tế
và thu nhập bình quân đều khá cao
nhưng thách thức để Việt Nam vượt
lên mức thu nhập trung bình cao đòi
hỏi cần duy trì tốc độ tăng trưởng
nhanh ít nhất tương đương với giai
đoạn 2011 - 2020 trong giai đoạn tiếp
theo. Hơn thế nữa, chất lượng tăng
trưởng đến năm 2030 (dự kiến đạt
mức thu nhập trung bình cao) sẽ
quyết định khả năng vượt bẫy thu
nhập trung bình hướng đến mức thu
nhập cao vào năm 2045. Do đó, Việt
Nam cần vượt qua các thách thức về
chất lượng tăng trưởng để đạt mức
tăng trưởng đủ nhanh và bền vững.
Thứ ba, dù chỉ số CPI bình quân được
kiểm soát tốt nhưng chỉ số CPI một số
mặt hàng vẫn cần sự kiểm soát chặt
chẽ hơn nữa của Chính phủ, đặc biệt
là ngành y tế. Chỉ số CPI của ngành y
tế dao động bất thường với biên độ
lớn trong cả giai đoạn 2011 - 2020, có
lúc lên tới hơn 42% ở năm 2017.
Thứ tư, cơ cấu kinh tế chuyển dịch
đúng hướng trên tổng thể (như đã nêu
ở mục 2.3, cơ cấu kinh tế chuyển dịch
mạnh sang khu vực công nghiệp và
dịch vụ, khu vực nông nghiệp giảm,
đáp ứng cho mục tiêu công nghiệp
hóa) nhưng cơ cấu nội ngành chưa
NGUYỄN THỊ CÀNH VÀ CÁC TÁC GIẢ – THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
12
chuyển về chất, đặc biệt là trong các
ngành có hàm lượng công nghệ cao,
cũng như giá trị gia tăng tại Việt Nam.
Các ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo chỉ chiếm trên dước 15% GDP,
trong đó cơ khí, điện tử, hóa dược
chiếm tỷ lệ khiêm tốn dưới 5% GDP.
Thứ năm, như đã nêu ở phần trên,
tổng giá trị thương mại tăng nhanh,
đóng góp vào tăng trưởng kinh tế
nhưng xuất khẩu từ khu vực kinh tế
nội địa thấp, xuất khẩu chủ yếu từ khu
vực FDI (trên 72%) cùng với các hàng
hóa xuất khẩu có giá trị gia tăng thấp
(hàng nông sản hoặc các sản phẩm
gia công như dệt may).
Thứ sáu, thực hiện chiến lược đột phá
về hoàn thiện thể chế, phát triển
nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực
chất lượng cao và xây dựng cơ sở hạ
tầng đồng bộ đã có những kết quả
nhất định thể hiện qua việc tác động
của các yếu tố này đến tăng trưởng
kinh tế, tăng năng suất lao động. Tuy
nhiên, các kết quả mang tính đột phá
của chiến lược trên chưa rõ ràng,
thậm chí còn nhiều mặt hạn chế, tức
thực hiện chưa triệt để.
3.2. Nguyên nhân của những hạn
chế, tồn tại
Nguyên nhân đầu tiên của những hạn
chế, chưa đạt mục tiêu đề ra, nhất là
trong kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) là
việc điều hành, quản lý kinh tế của
Chính phủ còn nhiều bất cập. Nhiều
hạn chế, yếu kém mà Đại hội Đảng
lần thứ 11 (2011) chỉ ra, đã không
được khắc phục kịp thời và triệt để,
thậm chí một số khía cạnh còn trở nên
trầm trọng hơn. Cụ thể như mô hình
tăng trưởng kinh tế cơ bản vẫn chưa
được đổi mới; đầu tư kém hiệu quả
của Nhà nước đối với các tổng công
ty, các dự án công; khó khăn, bất cập
từ bên ngoài như khủng hoảng kinh
tế...
Đặc biệt, những điểm nghẽn chủ yếu
trong nền kinh tế mà Đại hội Đảng lần
thứ 11 đã chỉ ra chậm được khắc
phục, bao gồm:
- Thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa chưa được
cụ thể và thể chế hóa, còn có sự lúng
túng, thiếu nhất quán ở cả trong lý
luận và thực tế. Chưa giải quyết tốt
các trục trặc trong mối quan hệ giữa
nhà nước và thị trường, tức quản lý
nhà nước chưa phù hợp với sự vận
hành của thể chế kinh tế thị trường.
- Nguồn nhân lực chất lượng cao tuy
đã được chú trọng đầu tư phát triển,
song do cách làm, cách quản lý còn
nhiều bất cập, nên nguồn nhân lực
chất lượng cao ở nhiều lĩnh vực,
ngành nghề vẫn chưa đáp ứng yêu
cầu, thậm chí thiếu hụt nghiêm trọng,
kể cả đội ngũ quản lý.
- Hệ thống hạ tầng, nhất là hạ tầng kỹ
thuật của nền kinh tế, tuy đã được
tăng cường nhưng vẫn chưa theo kịp
đà phát triển kinh tế. Tình trạng ách
tắc giao thông, ô nhiễm môi trường ở
các thành phố lớn ngày càng nghiêm
trọng.
- Trình độ khoa học công nghệ còn
thấp, tỷ lệ ứng dụng khoa học công
nghệ vào sản xuất và đời sống còn
hạn chế. Đến nay, môi trường đầu tư
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (256) 2019
13
kinh doanh tuy có cải thiện, nhưng
vẫn chưa khuyến khích doanh nghiệp
đầu tư đổi mới công nghệ.
- Các giải pháp của chiến lược và kế
hoạch đưa ra cho các giai đoạn 2011 -
2020, nhìn chung khá đầy đủ toàn
diện, nhưng việc thực hiện trong thực
tế không như mong đợi. Lý do có thể
do thiếu nguồn lực, thiếu quyết tâm
chính trị, chưa có lộ trình, chưa có các
kế hoạch hành động và bước đi phù
hợp.
4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ THÚC ĐẨY
TĂNG TRƢỞNG VÀ CHUYỂN DỊCH
CƠ CẤU KINH TẾ CHO GIAI ĐOẠN
SẮP TỚI
Để đạt được các mục tiêu tăng trưởng
như mong muốn (trên 7%/năm) và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ngoài đảm bảo các điều kiện về nguồn
lực (vốn, lao động, công nghệ, mô
hình kinh tế) cần phải có các giải pháp
để thực thi. Các giải pháp bao gồm:
(1) Cải tiến mô hình tăng trưởng theo
hướng tăng chất lượng tăng trưởng
và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo
hướng bền vững bằng chính sách thu
hút đầu tư tư nhân trong và ngoài
nước vào những ngành nghề tạo tiền
đề cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Cải cách giáo dục và đào tạo
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
đảm bảo cho thu hút đầu tư phát triển
các ngành kinh tế có trình độ công
nghệ cao có năng suất và giá trị gia
tăng cao để có thể cạnh tranh trên thị
trường quốc tế.
(2) Cải cách hành chính phải đảm bảo
tự do hóa thị trường các nhân tố như
thị trường đất đai, thị trường vốn, thị
trường công nghệ và thị trường lao
động, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp và người dân tiếp cận các
nguồn lực một cách dễ dàng, tiết kiệm
chi phí xã hội tăng hiệu quả của nền
kinh tế.
(3) Cần các giải pháp về chính sách
hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh
của khu vực doanh nghiệp trong nước.
Theo đó Nhà nước cần tạo điều kiện
cho khu vực tư nhân trong nước nâng
cao khả năng cạnh tranh, nâng cao
năng suất và hiệu quả hoạt động. Đa
số các doanh nghiệp Việt Nam có quy
mô nhỏ, vì vậy, Nhà nước cần có
chính sách hỗ trợ để các doanh
nghiệp nhỏ và vừa thuộc khu vực tư
nhân trong nước nâng cao năng suất,
hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh
tranh.
(4) Nâng cao hiệu lực quản lý, điều
hành của Nhà nước để đảm bảo các
yêu cầu hội nhập. Hiệu lực quản lý
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam phải thể hiện bằng hệ
thống các công cụ sau: (i) tiếp tục
hoàn thiện hệ thống luật pháp nhằm
tạo ra một khung pháp lý cho mọi
quan hệ kinh tế và quan hệ xã hội,
điều chỉnh các chủ thể của hoạt động
kinh tế; (ii) đổi mới nội dung và
phương pháp kế hoạch hóa chuyển từ
chức năng phân phối sang chức năng
dự báo, quy hoạch, thông tin và cân
đối; (iii) can thiệp và điều tiết "bàn tay
vô hình" của cơ chế thị trường bằng
NGUYỄN THỊ CÀNH VÀ CÁC TÁC GIẢ – THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
14
các chính sách đòn bẩy kinh tế, trong
đó quan trọng nhất là chính sách tài
chính quốc gia, tín dụng, tiền tệ, ngân
hàng. Ðây là các lĩnh vực xung yếu
nhất và nhạy bén nhất của kinh tế thị
trường; (iv) Nhà nước can thiệp vào
thị trường trực tiếp bằng chính sản
phẩm và dịch vụ của mình, đặc biệt
những hàng hóa và dịch vụ công tạo
ra môi trường đầu tư tốt để thu hút
đầu tư tư nhân trong và ngoài nước.
(5) Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện
chính sách kinh tế, cải cách khu vực
hành chính công và khu vực kinh tế
nhà nước theo hướng chỉ giữ một số
ngành then chốt, giảm quy mô, đánh
giá lại mô hình tập đoàn kinh tế Nhà
nước, phát triển khu vực kinh tế tư
nhân trong nước, cũng như kết hợp
các nguồn lực trong và ngoài nước
đưa Việt Nam hội nhập nhưng giữ
được chủ quyền trong phát triển kinh
tế - coi hội nhập là nhân tố hỗ trợ để
phát triển nội lực.
(6) Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa dựa vào tiềm lực trong nước
và bối cảnh hội nhập quốc tế. Thu hút
đầu tư tư nhân trong nước và quốc tế
vào các dự án hạ tầng tạo điều kiện
phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh đô
thị hóa, dịch chuyển cơ cấu kinh tế,
đặc biệt cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
(7) Thúc đẩy quá trình dịch chuyển cơ
cấu kinh tế theo khu vực ngành, nội
ngành nhằm nâng cao năng suất, hiệu
quả và năng lực cạnh tranh trong hội
nhập. Dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo
hướng tạo ra năng suất xã hội cao
hơn, bảo đảm phát triển bền vững
trên cơ sở bố trí các khu vực công
nghiệp, đô thị hóa nhưng vẫn đảm
bảo môi trường sinh thái, rút ngắn
khoảng cách phân hóa giàu nghèo
giữa các vùng và các tầng lớp dân cư.
(8) Muốn khống chế được mức bội
chi, giảm nợ công là phải giảm chi và
tăng thu. Tăng thu trong bối cảnh hội
nhập là khó khăn do cắt giảm thuế
xuất - nhập khẩu, vì vậy chỉ có thể cải
thiện bằng cải cách thuế tăng nguồn
thu từ các loại thuế trực thu. Biện
pháp giảm chi là cơ cấu lại các khoản
chi kết hợp với cải cách bộ máy hành
chính Nhà nước. Biện pháp khống
chế nợ công là phải xem xét cơ cấu
lại nợ, hạn chế hoặc cắt giảm các dự
án đầu tư thiếu hiệu quả.
CHÚ THÍCH
(1)
Nghiên cứu này dự báo mức tăng trưởng của năm 2019, 2020 đạt tốc độ tăng trưởng
bình quân của giai đoạn 2016 - 2018.
(2)
Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, các chỉ báo tăng trưởng được cập nhật đến năm
2017.
(3)
truy cập ngày 2/8/2019.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. Ngân hàng Thế giới,
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (256) 2019
15
truy cập ngày 8/8/2019.
2. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2011. Nghị quyết số
10/2011/QH13 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015,
truy cập ngày 8/8/2019.
3. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2016. Nghị quyết số
142/2016/QH13 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020,
truy cập ngày 8/8/2019.
4. Tổng cục Thống kê. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội các năm 2011 - 2017, 2018.
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, www.cpv.org.vn, truy cập ngày 2/8/2019.
5. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam. 2011. Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2011 - 2020. Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_phat_trien_kinh_te_viet_nam_theo_muc_tieu_chien_l.pdf