Trên sàn giao dịch, các hình ảnh, thông tin về sản phẩm được trưng bày cho người xem thấy rõ, nếu có những thắc mắc gì, doanh nghiệp có thể giải đáp ngay cho khách hàng. Đây là lợi thế giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của mình. Tuy nhiên, việc mua bán trên sàn giao dịch có làm tăng nguy cơ vi phạm bản quyền về nhãn hiệu, mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm của doanh nghiệp hay không? Để giải quyết vấn đề này, giải pháp tốt nhất cho doanh nghiệp là nhanh chóng đăng ký bản quyền về kiểu dáng, chất lượng, mẫu mã sản phẩm của mình đồng thời cũng nên luôn đổi mới, đa dạng hoá sản phẩm để tạo sự hấp dẫn đối với khách hàng.
86 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1079 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tại Việt Nam trong thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g trong và ngoài nước ngày càng gia tăng
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi trên, hàng thủ công mỹ nghệ Việt
Nam vẫn còn rất nhiều khó khăn, tồn tại sau:
- Sự cạnh tranh quyết liệt của các đối thủ mạnh và nhiều kinh nghiệm trên thế giới như Trung Quốc, Inđônêxia, Philippin, Thái Lan
- Khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn vay của ngân hàng và các tổ chức tín dụng, nhất là vốn tín dụng theo chính sách ưu đãi của nhà nước, kể cả vốn đầu tư cho sản xuất và vốn mua nguyên vật liệu, thu gom hàng hoá trong kinh doanh do những hàng rào về thủ tục vay vốn và yêu cầu tài sản thế chấp.
- Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ phần lớn được tiến hành tại các làng nghề truyền thống với cơ sở hạ tầng thấp kém. Vì vậy, khi ngành này có nhu cầu phát triển và mở rộng thì sẽ đòi hỏi rất nhiều chi phí cho hoạt động đầu tư xây dựng. Đây chính là những rào cản lớn đối với những doanh nghiệp nhỏ do những hạn chế về mặt tài chính.
- Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ tuy có thuận lợi lớn là chủ yếu sử dụng nguồn vật liệu dồi dào ở trong nước, nhưng việc tổ chức, khai thác, cung ứng một số nguyên vật liệu cho sản xuất chưa tốt. Các đơn vị sản xuất nhỏ để có được nguyên liệu cho sản suất thường phải mua lại từ nhiều nguồn cung ứng với giá cao, do đó làm tăng chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, và trong trường hợp này thường không có hoá đơn giá trị gia tăng để hoàn thuế xuất khẩu.
- Thủ tục hành chính trong tất cả các khâu sản xuất, lưu thông, giao nhận vận chuyển và xuất khẩu hàng hoá gây nhiều phiền hà cho người sản xuất kinh doanh trong việc bảo đảm thời hạn giao hàng của hợp đồng xuất khẩu.
- Công tác nắm bắt thông tin, xúc tiến thương mại và mở rộng thị trường còn nhiều hạn chế khiến cho doanh nghiệp ít có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với khách hàng nước ngoài để xây dựng các mối quan hệ làm ăn lâu dài và ổn định.
- Sản xuất còn manh mún, thiếu tập trung khiến cho khả năng đáp ứng được các đơn đặt hàng với khối lượng lớn của các doanh nghiệp Việt Nam là rất thấp. Do vậy, sản phẩm xuất vào các thị trường không nhiều và không ổn định. Các doanh nghiệp không chủ động được đầu ra cho sản phẩm mà thường làm theo các đơn đặt hàng của các doanh nghiệp nước ngoài.
- Mẫu mã sản phẩm thủ công mỹ nghệ còn đơn điệu, ít sáng tạo mẫu mã mới, không có sự đầu tư cho công tác thiết kế mà chủ yếu là gia công theo các mẫu mã đặt sẵn của các khách hàng nước ngoài. Điều này dẫn đến sự thụ động trong công tác tiếp cận và mở rộng thị trường.
Trên đây là những đánh giá về thực trạng tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta trong thời gian qua và những thuận lợi khó khăn mà các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp phải. Có thể thấy, đó đang thực sự là những rào cản to lớn cho sự phát triển của ngành thủ công mỹ nghệ nước ta. Điều đó đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của các doanh nghiệp và nhà nước trong việc đề ra những giải pháp tích cực nhằm khắc phục khó khăn và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu.
CHƯƠNG III
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ
I. PHƯƠNG HƯỚNG ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ
NGHỆ
Trong những năm gần đây, ngành thủ công mỹ nghệ luôn đươc coi là một trong những ngành kinh tế quan trọng, mang tính thế mạnh của Việt Nam, đóng vai trò tích cực trong việc giải quyết công ăn việc làm, tăng thu ngoại tệ cho đất nướcVề hướng đi cho sự phát triển của ngành tiểu thủ công nghiệp, Đảng ta đã chỉ rõ: “Phát triển đa dạng công nghiệp chế biến và tiểu thủ công nghiệp chế biến ở nông thôn, thị trấn, liên kết với công nghiệp ở đô thị lớn và khu công nghiệp tập trung. Phát triển các làng nghề, nhất là nghề làm hàng xuất khẩu”. Cụ thể hoá các mặt như sau:
Về sản xuất: đa dạng hoá mặt hàng để đáp ứng nhu cầu thị trường nước ngoài. Đầu tư cả chiều rộng và chiều sâu cho những mặt hàng thủ công mỹ nghệ có kim ngạch lớn, có thị trường ổn định.
Về công tác quản lý: coi trọng nhân tố con người, phát triển tài năng, trí tuệ của người lao động, phát huy tính hiệu quả và năng động của các thành phần kinh tế. Quản lý tốt chất lượng, giá cả và các nguồn lực khác để phát triển toàn diện vững chắc.
Về xuất khẩu: Mục tiêu đặt ra trong thời gian tới là đạt được những con số như sau:
Phương hướng xuất khẩu trong thời gian tới
Kim ngạch xuất khẩu
(triệu USD)
Năm
2005
Tỷ trọng
(%)
Năm
2010
Tỷ trọng
(%)
Đồ gỗ gia dụng
350-400
38,9-40
700-800
38,8-40
Đồ gỗ mỹ nghệ
120-150
13,3-15
240-300
13-15
Gốm sứ mỹ nghệ
250-300
27,7-30
500-600
27,8-30
Mây tre đan
60-80
6,7-8
120-160
6,6-8
Thảm các loại
20-25
2,2-2,5
40-50
2,2-2,5
Thêu ren thổ cẩm
20-25
2,2-2,5
40-50
2,2-2,5
Các loại khác
20-30
2,2-3
40-60
2,2-3
Tổng cộng
840-1010
100
1800-2000
100
Nguồn: Bộ Thương mại
Về thị trường: xây dựng chiến lược thị trường toàn diện, đa dạng hoá, đa phương hoá thị trường. Củng cố và phát triển những thị trường đã có, mở rộng các thị trường mới. Ngoài khai thác các thị trường quy mô nhỏ, việc lựa chọn những thị trường trọng điểm, tiềm năng với dung lượng lớn, ổn định, phong phú về chủng loại là hết sức cần thiết, đặc biệt là những thị trường có nhu cầu lớn đối với các mặt hàng Việt Nam có khả năng phát triển.
* Một số định hướng khác
Định hướng phát triển theo vùng và lãnh thổ
Vùng 1: Vùng Đồng Bằng Nam Bộ và vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Tập trung vào các tỉnh thành:Thành phố Hồ Chí Minh, An Giang, Đồng
Tháp...lấy Thành phố Hồ Chí Minh làm trung tâm. Dự kiến sản lượng chiếm
40-50% toàn ngành.
Vùng 2: Vùng Đồng Bằng Sông Hồng và một số tỉnh phụ cận gồm: Hà Nội, Hà Tây, Hải Dưong, Hưng Yên, Hải Phòng,Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Phú Thọ, Phú Yên lấy Hà Nội làm trung tâm. Dự kiến sản lượng chiếm
30-40% toàn ngành.
Vùng 3: Vùng Duyên Hải Miền Trung và một số tỉnh khu 4 cũ gồm: Đà Nẵng, Quảng Nam, Thừa Thiên Huế lấy thành phố Đà Nẵng làm trung tâm. Dự kiến sản lượng chiếm 10% toàn ngành.
Định hướng cho đầu tư công nghệ
Kết hợp hài hoà giữa đầu tư chiều sâu, cải tạo và đầu tư mở rộng mới, nhanh chóng thay thế những thiết bị và công nghệ lạc hậu, nâng cấp thiết bị còn có khả năng khai thác, bổ sung thiết bị mới để nâng cao chất lượng sản phẩm.
Định hướng về phát triển nguyên liệu
Phát triển vùng nguyên liệu để chủ động về nguyên liệu và quá trình xử lí nguyên liệu cần chú trọng từ đó hạ giá thành sản phẩm và thu hẹp nhập khẩu nguyên liệu.
Định hướng phát triển về mặt hàng chủ lực
Cơ cấu mặt hàng thủ công mỹ nghệ rất đa dạng và phong phú cần có chính sách đầu tư sản xuất và xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực - những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn và thu được nguồn ngoại tệ cao đồng thời giải quyết phần lớn số lao động dư thừa như hàng gốm sứ, mây tre đan, thêu ren thổ cẩm, đồ gỗ gia dụng, gỗ mỹ nghệ.
II. CÁC BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM
1. Về phía Nhà nước
1.1. Tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng
Luật doanh nghiệp ra đời và được đưa vào áp dụng đã tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với Chính phủ thì nhiệm vụ quan trọng hàng đầu hiện nay là tích cực tạo ra môi trường thúc đẩy nâng cao năng suất. Trong lĩnh vực này (như hàng rào thương mại, định giá) Chính phủ cần phải giảm bớt sự can thiệp, nhưng ở lĩnh vực khác (như bảo vệ cạnh tranh, tiến hành giáo dục và nâng cao tố chất) thì Chính phủ cần phải phát huy vai trò tích cực của mình. Nghĩa là Chính phủ cần phải tạo ra môi trường tốt cho cạnh tranh, chứ không phải là trực tiếp tham gia cạnh tranh. Về thực chất, Chính phủ có thể được coi như một vị trọng tài trên sân cỏ, tức là người giám sát những người tham gia cuộc chơi phải chơi cho đúng luật và tạo điều kiện thuận lợi như nhau cho tất cả các “cầu thủ” được thể hiện mình.
1.2. Thành lập các hiệp hội ngành nghề
Các doanh nghiệp sản xuất – xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, quy mô không lớn. Vì vậy, các doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi tham gia vào thị trường rộng lớn trên toàn thế giới. Tuy vậy, các doanh nghiệp hoàn toàn có thể hợp nhau lại trong một hiệp hội, nâng cao sức mạnh đoàn kết và cũng chính là không ngừng củng cố sức mạnh của bản thân doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp còn có thể hợp tác với nhau dưới hình thức “Tập hợp ngành”. Tập hợp ngành chính là sự gắn kết thực thể Chính phủ, công ty, hãng cung ứng và các thể chế địa phương với nhau xoay quanh chương trình
nghị sự chung có tính chất xây dựng và khả thi. Đến khi đó, một tập hợp ngành sẽ tạo ra một số ưu thế cho các doanh nghiệp thành viên khi tham gia cạnh tranh. Các doanh nghiệp khi tham gia vào một hiệp hội ngành nghề sẽ được chia sẻ các thông tin về thị trường, khách hàng, nguồn hàng, sẽ được tìm hiểu các kinh nghiệm của các doanh nghiệp khác cùng hoạt động trong lĩnh vực của mình. Khi gặp tranh chấp, các doanh nghiệp sẽ không phải đơn thương độc mã đối phó với các doanh nghiệp nước ngoài mà sẽ luôn nhận được sự hỗ trợ từ phía hiệp hội và các doanh nghiệp trong nước khác.
1.3. Chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu
Do đặc điểm và khó khăn trong sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ như đã trình bày ở trên (cơ sở sản xuất kinh doanh các loại hàng này chủ yếu là các đơn vị nhỏ, ít vốn, hàng hoá thường là loại cồng kềnh, giá trị thấp, không dễ bán và vận chuyển, giao hàng...) nên Nhà nước có thể có chính sách hỗ trợ một phần chi phí xúc tiến thương mại, tiếp thị mở rộng thị trường xuất khẩu. Mặt khác, trong thương mại quốc tế, không có hoặc ít thấy nước nào không dành một phần kinh phí nhất định của ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho công tác xúc tiến thương mại nhất là cho việc khuyếch trương xuất khẩu. Trong lĩnh vực xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, Nhà nước có thể hỗ trợ dưới các hình thức sau:
- Hỗ trợ 50% chi phí thuê gian hàng cho cơ sở sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ tham gia hội chợ triển lãm nước ngoài, 50% chi phí còn lại được hỗ trợ nếu trong quá trình hội chợ triển lãm đơn vị ký hợp đồng xuất khẩu với giá trị trên 20.000 USD.
Việc hỗ trợ này có thể thực hiện trực tiếp đối với các doanh nghiệp từ một trung tâm xúc tiến thương mại hoặc thông qua các công ty quốc doanh được giao nhiệm vụ tổ chức tham gia hội chợ triển lãm quốc tế.
- Cho thành lập thêm một số trung tâm xúc tiến thương mại (chủ yếu là khuyếch trương xuất khẩu) tại một số nơi ở nước ngoài tương tự như “Việt Nam square” tại Osaka, Nhật (có thể thêm ở vùng Trung Đông, Pháp, Đức, Nga, Mỹ hoặc Canada, mỗi nơi một trung tâm).
Các trung tâm này có các gian hàng cho các doanh nghiệp trong nước thuê để trưng bày chào bán hàng xuất khẩu với giá khuyến khích. Riêng hàng thủ công mỹ nghệ được miễn phí (vừa qua một số doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đã thấy được tác dụng của trung tâm Osaka trong việc thúc đẩy bán hàng và đề nghị được hỗ trợ chi phí).
- Phục vụ lễ hội của các nước trên thế giới là một hướng quan trọng thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Trên thế giới hàng năm có rất nhiều lễ hội của các dân tộc, nếu nắm bắt nhu cầu, thiết kế mẫu mã hàng phù hợp nhu cầu của từng lễ hội về ăn mặc, trò chơi giải trí, vật lưu niệm... thì có thể có nhiều loại hàng để bán, nhất là các loại hàng thủ công mỹ nghệ, kể cả hàng thổ cẩm của các đồng bào dân tộc ở nước ta.
Vừa qua, một công ty của Hà Nội khi qua Tây Ban Nha đã nắm bắt được nhu cầu và ký hợp đồng xuất 40 container 40 feet mũ lá theo yêu cầu phục vụ lễ hội của họ, vì thời gian còn ngắn nên cả làng nghề “nón chuông“ làm không hết việc, phải thêm 4 làng xung quanh hỗ trợ mà cũng rất vất vả mới hoàn thành kịp thời gian giao hàng.
Để có thể triển khai việc xuất khẩu phục vụ các nhu cầu lễ hội và Nôen của các nước trên thế giới như là một trong các mũi nhọn khuyếch trương xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong những năm tới, đề nghị:
+ Ở những nơi Việt Nam có đại diện thương mại thì giao nhiệm vụ cho họ tìm hiểu khảo sát nhu cầu phục vụ lễ hội và Nôen tại địa bàn, khi phát hiện nhu cầu và đối tác thì cử ngay nhóm công tác đến tận nơi khảo sát, thiết kế
mẫu mã hàng chào bán và ký hợp đồng cho các cơ sở sản xuất trong nước xuất khẩu và giao hàng. Chi phí cho nhóm công tác trong một vài năm đầu do Nhà nước hàng hỗ trợ 100%. Nếu ký được hợp đồng có giá trị thì được xét thưởng.
+ Ở những nơi ta chưa có cán bộ thương mại thường trú thì giao cho ban xúc tiến thương mại cùng công ty hội chợ, triển lãm của bộ nghiên cứu có kế hoạch cử nhóm công tác (gồm hoạ sĩ, nghệ nhân, cán bộ kinh doanh ngành hàng thủ công mỹ nghệ) đến tìm hiểu, khảo sát, thiết kế mẫu mã bán hàng theo cơ chế chính sách đã nêu.
- Cho phép các tổ chức, cá nhân được nhận tiền thù lao hoặc tiền hoa hồng môi giới và cho phép các công ty xuất khẩu được trả các khoản tiền này theo mức thoả thuận khi ký và thực hiện được hợp đồng xuất khẩu.
- Ngoài ra, theo viện nghiên cứu thuộc liên minh các hợp tác xã Việt Nam cho biết, hội đồng hàng thủ công mỹ nghệ quốc tế thường có mời nghệ nhân ngành nghề thủ công của các nước tham gia hội thảo, biểu diễn thao tác nghề nghiệp. Hội bảo trợ thợ thủ công ở Mỹ có chương trình hỗ trợ 10.000 làng nghề của thế giới và thường có mời nghệ nhân của các nước sang Mỹ biểu diễn thao tác nghề nghiệp. Tại Arhentina vào tháng tư hàng năm có tổ chức hội chợ hàng thủ công mỹ nghệ, có năm mời đến 700 nghệ nhân của các nước tham gia biểu diễn thao tác nghề, có gian trưng bày miễn phí cho nghệ nhân.
Ta nên có chính sách khai thác các hoạt động quốc tế này mở rộng phát triển ngành nghề truyền thống của ta phục vụ đẩy mạnh xuất khẩu. Tuỳ theo trường hợp cần thiết Nhà nước hỗ trợ chi phí cho các nghệ nhân của ta tham gia các hoạt động này, kết hợp với việc giới thiệu mẫu mã hàng, nghệ nhân có thể chào bán ký hợp đồng xuất khẩu theo uỷ nhiệm của các công ty sản xuất kinh doanh ở trong nước và nghệ nhân được hưởng thù lao hoặc hoa hồng
theo kết quả chào bán và thực hiện các hợp đồng xuất khẩu ký được thông qua các hoạt động này.
2. Về phía các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ (gọi chung là các đơn vị sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu)
2.1. Hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường
Trong kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, việc phân đoạn thị trường theo các tiêu thức địa lý, theo đó chia toàn bộ thị trường của các đơn vị thành các khu vực địa lý (thị trường châu Á + thị trường Bắc Âu, thị trường Trung Đông,) là hợp lý bởi các nước trong cùng một khu vực thị trường có những đặc điểm tương đồng trên nhiều phương diện: Nền văn hoá, các trào lưu nghệ thuật, các yếu tố chính trị, trình độ phát triển kinh tế và thu nhập,có ảnh hưởng lớn tới việc hình thành nhu cầu về hàng thủ công mỹ nghệ. Tuy nhiên, sự phân chia đó quá khái quát, không nhận thức được thị trường trọng điểm mà các đơn vị cần tác động gây nhiều lãng phí vô ích về chi phí xuất khẩu, đặc biệt bỏ qua nhiều cơ hội có thể khai thác tiềm năng thị trường. Vì vậy, trong việc tìm kiếm nghiên cứu và lựa chọn thị trường mục tiêu các đơn vị cần phải nghiên cứu và phân tích sâu hơn nữa.
* Nghiên cứu nhu cầu thị trường
Theo nghiên cứu của nhiều chuyên gia nhu cầu của thị trường thế giới về hàng thủ công mỹ nghệ là rất lớn và các hãng sản xuất xuất khẩu vẫn chưa đáp ứng được hoàn toàn nhu cầu đó. Đây là một đặc điểm rất thuận cho kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ song vấn đề đặt ra cho các đơn vị là phải nắm được nhu cầu thị trường trên cả 3 mặt: Nhu cầu đó xuất hiện ở đâu? Nhu cầu xuất hiện khi nào? Quy mô thị trường là bao nhiêu và quy mô đó có
tồn tại bền vững không? Để xác định được các tham số đó trên các thị trường khác nhau, các đơn vị phải tập trung vào một số vấn đề:
- Trào lưu tiêu dùng xuất hiện trên thị trường của từng thị trường về hàng thủ công mỹ nghệ điều này rất quan trọng bởi lẽ các mặt hàng tiêu dùng thông thường, hàng thủ công mỹ nghệ thoả mãn nhu cầu cấp cao hơn là nhu cầu và nhu cầu thưởng thức cái đẹp. Do đó, nhu cầu về các mặt hàng thủ công mỹ nghệ phụ thuộc nhiều vào trào lưu đặc tính tiêu dùng của từng thị trường. Do hàng TCMN cũng mang tính đặc thù nên việc tiêu thụ mặt hàng này cũng phụ thuộc khá nhiều vào yếu tố văn hóa. Đối với những nền văn hóa khác nhau có ngôn ngữ, phong tục tập quán khác nhau thì nhu cầu đối với các sản phẩm giàu tính nghệ thuật này cũng có đôi chút khác biệt. Nên chăng các doanh nghiệp sẽ xây dựng các chiến lược khác nhau đối với mỗi nhóm thị trường có sự tương đồng về các yếu tố văn hóa. Đơn cử như các doanh nghiệp Trung Quốc khi xuất khẩu sản phẩm TCMN sang thị trường Nhật Bản đã thuê các chuyên gia Nhật Bản sang cố vấn về thị hiếu người tiêu dùng Nhật Bản và đã tạo ra được những sản phẩm phù hợp với tâm lí người Nhật để từ đó đẩy mạnh XK sang thị trường này.
- Thu nhập của khách hàng: cũng bởi không phải là mặt hàng tiêu dùng thiết yếu nên đôi khi nhu cầu hàng thủ công mỹ nghệ không tỏ ra bức thiết lắm đối với người tiêu dùng. Họ có thể rất thích nhưng không mua vì túi tiền hạn hẹp.
- Gia đình: một số sản phẩm thủ công mỹ nghệ phục vụ nhu cầu cá nhân nhưng đa số các sản phẩm thủ công mỹ nghệ có giá trị cao lại phục vụ nhu cầu cả gia đình như bàn ghế, tủ, thảm Nghiên cứu gia đình xác định được khung cảnh sống của gia đình, tầng lớp xã hội của gia đình đó, từ đó các đơn vị có thể đánh giá được là các mặt hàng kinh doanh có phù hợp với các yếu tố trên hay không và như vậy có thể kết luận rằng thị trường có chấp nhận các sản phẩm của các đơn vị hay không, nếu không thì làm thế nào cho phù hợp.
* Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh
Mặc dù nhu cầu thị trường về mặt hàng thủ công mỹ nghệ là rất lớn nhưng các đối thủ cạnh tranh của các đơn vị có những chiến lược nghiên cứu thị trường ưu việt nên đã phát hiện ra nhu cầu này nhanh hơn rất nhiều. Vì thế, việc nghiên cứu, học hỏi đồng thời phát hiện ra điểm yếu của đối thủ cạnh tranh là một nội dung cần thiết được đưa vào công tác nghiên cứu thị trường. Để tìm hiểu các đối thủ cạnh tranh, các đơn vị có thể nghiên cứu dựa trên một số các tham số cơ bản sau:
- Sản phẩm: Mặt hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất bởi các hãng sẽ có chất lượng khác nhau do nguyên liệu đầu vào và qui trình sản xuất khác nhau. Tuy nhiên về cơ bản là dựa trên sự học hỏi mẫu mã của nhau để chế tạo sản phẩm. Trong việc nghiên cứu sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh, các đơn vị cần tìm hiểu thêm mẫu mã, các ưu điểm nổi bật cũng như những điểm chưa hoàn chỉnh trong các sản phẩm đó, từ đó có thể đưa ra các sản phẩm có đặc tính ưu việt hơn.
- Thị trường của các đối thủ cạnh tranh: Thực chất của việc nghiên cứu thị trường của đối thủ cạnh tranh là việc xác định thị phần của họ. Qua việc nghiên cứu này, các đơn vị có thể xác định lượng tiêu thụ và mức gắn bó của họ với thị trường. Việc nghiên cứu thị trường mà các đơn vị có thể khai thác đòi hỏi phải được tiến hành lâu dài, kiên trì kết hợp với các phương pháp quảng cáo để khơi dậy được tiềm năng của thị trường.
- Giá cả của đối thủ cạnh tranh: đối với các mặt hàng mà nhu cầu thị trường để thể hiện tương đối rõ ràng, giá cả trở thành một vấn đề quyết định tới cạnh tranh. Khi đó các đơn vị không thể bỏ qua việc nghiên cứu giá cả cùng các dịch vụ sau bán của các đối thủ cạnh tranh nhằm đưa ra một mức giá phù hợp với sản phẩm của mình.
* Lựa chọn thị trường trọng điểm
Việc xác định các thị trường mục tiêu của các đơn vị chủ yếu dựa trên những thông tin đã có sẵn, qua các số liệu từ các đại diện thương mại của các đại sứ quán ở nước ngoài. Mặc dù qui mô hiện tại của thị trường sẽ làm chắc chắn thêm các quyết định thâm nhập thị trường và đưa ra các gợi ý tốt về tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu nhưng trong kinh doanh, người làm công tác thị trường cần phải xác định được qui mô tương lai của thị trường các đơn vị có thể khai thác được. Mặc dù nhu cầu của thị trường đối với các sản phẩm thủ công mỹ nghệ mà các đơn vị đang hoặc có thể đáp ứng là rất cao và có dấu hiệu ổn định nhưng trong tương lai nhu cầu đó như thế nào và liệu các đơn vị có khả năng đưa ra một chính sách cạnh tranh giành thắng lợi không?
Mặt khác, việc phân đoạn thị trường theo tiêu thức khu vực địa lý, như đã trình bày ở trên, gây chi phí lớn cho xuất khẩu, bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh cũng như đòi hỏi phải có nghiên cứu sâu sắc hơn, lựa chọn đúng thị trường trọng điểm.
Như vậy, có thể nói rằng việc xác định đúng thị trường trọng điểm là một mục tiêu chiến lược vô cùng quan trọng trong hoạt động xuất khẩu của các đơn vị. Để có thể lựa chọn được thị trường trọng điểm, các đơn vị phải đưa ra các tiêu chuẩn và việc nghiên cứu thị trường sẽ phải định hướng vào các tiêu chuẩn đó thông qua các mục tiêu mang tính chất chiến thuật. Các tiêu chuẩn lựa chọn sẽ là:
- Qui mô của thị trường (hiện tại và tương lai) về mặt hàng thủ công mỹ
nghệ.
- Sự phát triển nhu cầu thị trường. Liên quan đến tiêu chuẩn này, các
đơn vị cần tập trung nghiên cứu các yếu tố hình thành nên nhu cầu thị trường.
Kinh tế xã hội, chính trị, nền văn hoá, các trào lưu và xu thế tiêu dùng mặt hàng thủ công mỹ nghệ.
- Các chi phí kinh doanh có thể xuất hiện: chi phí vận tải, chi phí bán hàng, thuế nhập khẩu của nước đó.
- Những ưu thế cạnh tranh của đối thủ: các yếu tố giá cả, mẫu mã, thị
phần
- Mức độ rủi ro khi kinh doanh trên thị trường.
Trên nguyên tắc toàn bộ các thị trường của các đơn vị trên thế giới đều được chọn lọc thông qua các tiêu chuẩn trên. Song điều kiện của các doanh nghiệp không cho phép tìm hiểu một cách đầy đủ tất cả các thị trường trong từng khu vuực thị trường, các đơn vị sẽ phải chọn một số thị trường chủ yếu để đưa vào phạm vi nghiên cứu. Trên khu vực Châu Á, các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan sẽ là những thị trường trọng điểm được đưa vào mục tiêu nghiên cứu. Trên khu vực Tây Âu, các thị trường Pháp, Đức. Khu vực Trung Đông có Iran là thị trường có khả năng tiêu thụ tương đối lớn. Các đơn vị cần phải khảo sát nhu cầu của các thị trường này để thu thập các thông tin, đẩy mạnh lượng bán và khai thác các nhu cầu của thị trường. Trong quá trình nghiên cứu xử lý thông tin các đơn vị cần phải quan tâm tính đồng nhất của các thị trường, từ đó có thể tìm được cách khai thác trên các thị trường khác nhau. Trên thực tế, sự phân ranh giới địa lý giữa các nước chỉ mang tính chất tương đối đối với các nhà kinh doanh. Đặc điểm nổi bật mà họ quan tâm là sự khác nhau về nhu cầu và các yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu. Khi thấm nhuần tư tưởng này các đơn vị sẽ lựa chọn được những thị trường trọng điểm của mình không chỉ trên một nước, mà trên một nhóm nước có điểm tương đồng về nhu cầu hàng thủ công mỹ nghệ.
* Lựa chọn mặt hàng chiến lược và nâng cao chất lượng sản phẩm
Muốn xây dựng được các mặt hàng chiến lược phải dựa trên những thế mạnh đó là nguồn nguyên liệu. Nguồn lao động và có thị trường. Qua nghiên cứu chiến lược cho kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, các đơn vị cần phải xác định được cho mình thế mạnh cả ở đầu vào và đầu ra.
- Về mặt thị trường xuất khẩu cho các mặt hàng này, thể hiện qua nghiên cứu thị trường là các thị trường: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan cho các mặt hàng thêu, gốm, gỗ mỹ nghệ và cói; Pháp, Đức cho mặt hàng thêu và gỗ mỹ nghệ; Trung Đông về mặt hàng cói
- Về mặt nguyên liệu, nguồn lao động: Đối với hàng thủ công mỹ nghệ thì nguồn nguyên liệu có sẵn ở trong nước và nguồn lao động dồi dào. cụ thể: nghề thêu phát triển ở Hà Nam, Ninh Bình; nghề gốm phát triển ở Bát Tràng, Quảng Ninh; cói phát triển ở Ninh Bình, Hà Nam, Thanh Hoá; gỗ mỹ nghệ ở Bắc Ninh, Ninh Bình, Hà Nội. Tại những vùng này bên cạnh nguồn nguyên liệu dồi dào là cả một đội ngũ lao động lành nghề. Cũng ở vùng này đã sinh ra những nghệ nhân tài hoa với đôi tay vàng đã tạo ra những sản phẩm độc đáo nổi tiếng ở cả trong và ngoài nước.
Trên cơ sở những mặt hàng chính đã được xác định là việc nâng cao chất lượng hàng và đa dạng hoá hình thức mẫu mã để thoả mãn một cách tốt nhất nhu cầu thị trường quốc tế. Thực ra đối với mặt hàng thủ công mỹ nghệ thì chất lượng và hình thức có tầm quan trọng tương đương nhau. Muốn tăng kim ngạch xuất khẩu những mặt hàng này cần chú trọng đến cả hai. Chất lượng hàng mỹ nghệ phụ thuộc vào chất lượng nguyên liệu và xử lí nguyên liệu. Thực tế cho thấy sản phẩm mỹ nghệ của Việt Nam nói chung rất độc đáo, tinh xảo, mang tính mỹ thuật cao, nhưng khi xuất khẩu trải qua thời gian với điều kiện khí hậu khác nhau hàng hoá bị xuống cấp nhanh chóng. Đây thực chất phụ thuộc vào quy trình xử lí nguyên vật liệu cũng như xử lí sản phẩm sau giai đoạn sản xuất. Một vấn đề hết sức khó khăn cho việc đảm bảo
chất lượng hàng hoá là sự phụ thuộc rất lớn của sản phẩm vào thời tiết, ví như hàng cói gặp khí hậu ẩm là dễ mốc. Tương tự như vậy là sản phẩm gỗ mỹ nghệ nếu không được xử lý cẩn thận thì khi gặp thời tiết nóng, lạnh sẽ cong vênh, nứt nẻđòi hỏi những sản phẩm phải được xử lí thật kỹ từ khi còn là nguyên liệu thô. Quá trình xử lí càng kỹ thì sự biến chất càng giảm, chất lượng được nâng cao.
Bên cạnh những việc nâng cao chất lượng là cải tiến mẫu mã hình thức. Đối với hàng thủ công mỹ nghệ có một lợi thế đó là việc cải tiến mẫu mã không đòi hỏi tốn kém lại dể thực hiện. Ví dụ như hàng cói, chỉ cần pha chế tỷ lệ phẩm khác nhau là đã có những mầu sắc phong phú da dạng hay việc cải tiến những đường nết hoa văn của các sản phẩm khác. Từ đó tạo nên sức hấp dẫn với khách hàng quốc tế.
* Lựa chọn mức giá tối ưu
Giá cả là một yếu tố quan trọng trong việc kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Thực tế ở Việt Nam, giá bán của các đơn vị phụ thuộc nhiều vào giá bán của đối thủ cạnh tranh và luôn luôn thay đổi. Trong kinh doanh, đành rằng giá cả là một yếu tố ảnh hưởng tới quyết định mua của khách hàng. Song khi giá cả quá thấp cũng có thể đưa tới sự ngờ vực của họ về sản phẩm của các đơn vị sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ.
Mục tiêu của nghiên cứu giá cả trước hết phụ thuộc vào sản phẩm của công ty cũng như sản phẩm của đối thủ cạnh tranh cùng mức giá các đối thủ đưa ra. Trong nhóm hàng thủ công mỹ nghệ, đặc điểm chung là các sản phẩm đều là các hàng khảo giá hay hàng mua sắm, nghĩa là khi lựa chọn sản phẩm, các khách hàng sẽ đưa ra sự so sánh giữa các sản phẩm khác nhau để lựa chọn trên cơ sở những ưu điểm của sản phẩm và mức giá của những nhà xuất khẩu khác nhau. Một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ có đặc điểm đồng nhất. Khi đó, giá cả trở nên quan trọng và các đơn vị buộc phải nghiên cứu các mức giá
khác nhau trên thị trường. Ngược lại một số sản phẩm lại là các hàng khảo giá không đồng nhất. đối với các mặt hàng này, đặc tính ưu việt của hàng hoá sẽ quyết định tới giá cả và các đơn vị có thể áp dụng chính sách linh hoạt giá cả với các sản phẩm khác nhau của mình.
Việc xác định giá cả còn phụ thuộc vào các điều kiện giao hàng trong trường hợp xuất khẩu trực tiếp, thông qua các kênh trung gian. Nghĩa là giá bán cũng có thể bao gồm cả việc bảo hiểm hoặc phí vận tải hàng hoá.
Nghiên cứu, xác định giá cả trong hoạt động xuất khẩu là một mục tiêu rất quan trọng và phải được tiến hành rất thường xuyên, nhất là đối với các sản phẩm đồng nhất với các đối thủ cạnh tranh. Một điều cần chú ý trong việc xác định giá cả là các đơn vị phải có đầy đủ thông tin cần thiết trước khi đưa ra các quyết định bớt giá, chiếu cố hay tăng giá. Và các đơn vị cũng phải xác định việc nghiên cứu nhằm vào các mục tiêu làm giá là lợi nhuận được định hướng hay tăng cường thị phần trên các thị trường cụ thể
Ngoài việc nghiên cứu và nắm bắt thị trường theo các phương pháp trên, để cải thiện tốt hơn tình trạng hiện nay về công tác thị trường trong kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, các đơn vị cần phải thực hiện các biện pháp sau:
Áp dụng các biện pháp tích cực để giữ vững thị trường và khách hàng truyền thống, đặc biệt là các khách hàng lớn. Nghiên cứu để hình thành các cam kết với khách hàng có quan hệ buôn bán thường xuyên nhằm bảo đảm hai bên cùng phát triển và cùng có lợi.
Cần thường xuyên quan hệ với các cơ quan ngoại giao, thường vụ, văn phòng đại diện, các tổ chức thương mại tại Việt Nam và nước ngoài để tìm kiếm khách hàng. Trong đó cần quan tâm giải quyết các công việc từ gửi thư, chúc
mừng năm mới, ngày lễ quốc khánh, gửi danh thiếp, gửi bản chào hàng, gửi quà lưu niệm cho đến có cơ chế hợp lý để trả công môi giới ký kết hợp đồng.
Cần xây dựng trước kế hoạch tham dự hội chợ triển lãm trong nước cũng như hội chợ triển lãm quốc tế để có đủ thời gian cần thiết nghiên cứu thị trường và chuẩn bị mọi mặt được chu đáo nhằm mang lại hiệu quả thiết thực. Qua hội chợ triển lãm, các đơn vị có điều kiện giao dịch ký kết hợp đồng, tìm hiểu khả năng và nhu cầu của khách hàng đồng thời là cơ hội của khách hàng hiểu hơn nữa về các đơn vị và sản phẩm.
- Khuyến khích mọi người phát huy khả năng năng động sáng tạo trong việc tìm kiếm khách hàng, ký kết hợp đồng thông qua chế độ thưởng, hoa hồng cho người môi giới.
- Thành lập một phòng thị trường thay cho sự kiêm nhiệm của phòng kinh doanh. phòng thị trường có tính độc lập tương đối và nhân sự phù hợp sẽ phát huy được vai trò là xây dựng chiến lược thị trường toàn diện gắn thị trường với sản xuất trong nước nhằm “bán hàng mà khách hàng cần chứ không phải bán cái mình có”. Cụ thể phòng thị trường sẽ chịu trách nhiệm tổ chức tốt kênh thông tin để thu thập đầy đủ thông tin về thị trường, tổ chức tốt việc xử lý thông tin thật nhanh, kết hợp với năng lực phán đoán thị trường và dự báo thị trường một cách chính xác từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn về thị trường.
2.2. Kết hợp sản xuất với xuất khẩu
Để tăng kim ngạch xuất khẩu cũng như nâng cao hiệu quả xuất khẩu các đơn vị nên kết hợp sản xuất với xuất khẩu thông qua việc hình thành các xưởng sản xuất. Sự kết hợp này cho phép nâng cao hiệu quả kinh doanh vì các đơn vị có thể thu lợi nhuận từ hai nguồn: sản xuất + xuất khẩu. đồng thời với
sự kết hợp này cho phép tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu bởi những lý do sau:
- Đáp ứng tốt, kịp thời nhu cầu thị trường: qua hoạt động xuất khẩu các đơn vị nắm được khách hàng với nhu cầu thị hiếu và thói quen tiêu dùng của họ từ đó có cơ sở để tổ chức sản xuất.
- Tạo được nguồn hàng chất lượng ổn định, mẫu mã phù hợp với nhu cầu thị trường.
- Chủ động về mặt hàng: vì trực tiếp sản xuất nên các đơn vị có thể chủ động về số lượng, chất lượng, giá cả. Có khả năng cải tiến kỹ thuật mặt hàng để phù hợp với từng thị trường riêng biệt.
- Hình thành xưởng sản xuất không đòi hỏi chi phí nhiều về cơ sở vật chất, trang bị, chi phí đào tạo không nhiều và thời gian đào tạo không lâu.
Về địa điểm, xưởng sản xuất có thể đặt tại Hà Nội, hoặc cũng có thể ở các vùng có sẵn nguyên liệu. Nếu xưởng đóng ở Hà Nội thì phải có tổ chức cung ứng vật tư nguyên vật liệu kịp thời cũng như bảo đảm dự trữ đầy đủ, đồng bộ. Nếu xưởng sản xuất đóng tại các tỉnh xa thì phải làm tốt công tác quản lý và tổ chức sản xuất, để đảm bảo vừa tổ chức sản xuất trực tiếp vừa có sự chỉ đạo trực tiếp, hỗ trợ sản xuất của các đơn vị.
Xưởng sản xuất là một đơn vị sản xuất có chức năng:
+ Nghiên cứu sáng tác, cải tiến những công nghệ kĩ thuật sản xuất các mặt hàng mỹ nghệ, tạo ra nhiều đề tài mẫu mã mới.
+ Quản lý và nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu.
+ Tổ chức sản xuất kinh doanh.
Để thực hiện tốt các chức năng trên, các xưởng phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
* Nghiên cứu sáng tác chế thử
- Nghiên cứu đề ra các tiêu chuẩn kĩ thuật và biện pháp đối với việc xử lý các nguyên liệu cho sản xuất đảm bảo cho hàng hoá xuất khẩu đạt chất lượng cao.
- Thực hiện chế thử và lập qui trình sản xuất hàng loạt theo mẫu hoặc theo thiết kế của khách.
- Sưu tầm nghiên cứu thị hiếu thị trường để sáng tác mẫu mới phù hợp với điều kiện sản xuất trong nước và yêu cầu thị trường.
- Giải quyết chế độ bản quyền cho các đơn vị sản xuất, đăng ký bản quyền đối với những mẫu mã đề tài do đơn vị mình đặt ra cho xưởng nghiên cứu và sản xuất thử thành công.
- Tổ chức trưng bày các sản phẩm mẫu mã hoàn chỉnh, có hệ thống để
giới thiệu, chào bán và bán tại chỗ.
* Tổ chức thu hoá, đóng gói bao bì, giao hàng
- Tổ chức thu hoá hàng rời để đóng gói và giao hàng đối với các hợp đồng yêu cầu chất lượng cao, trị giá hàng hoá lớn, đặc biệt là giao hàng bằng container và các thương nhân Nhật Bản, Tây Âu. Chịu trách nhiệm về phẩm chất hàng hoá sau khi đã thu hoá.
- Kết hợp hoạt động phục vụ công tác kinh doanh của các đơn vị trong lĩnh vực xuất khẩu với việc tổ chức sản xuất, mở rộng quan hệ giao dịch, trưng bày bán hàng tại chỗ, tăng thêm thu nhập cho các đơn vị kinh doanh.
- Tuân thủ mọi qui chế quản lý kinh tế của Nhà nước và các qui định khác của đơn vị mình.
2.3. Tạo nguồn hàng kịp thời và có chất lượng
Việc nghiên cứu lựa chọn nguồn hàng tốt góp phần đáp ứng kịp thời chính xác nhu cầu của thị trường, thực hiện đúng thời hạn hợp đồng với chất lượng tốt.
Kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ của các đơn vị chỉ phát triển, đạt hiệu quả cao khi các đơn vị có những biện pháp đồng bộ, cân đối từ thu mua, thực hiện hợp đồng, thanh toán, giao hàng.Trong đó khâu tạo nguồn hàng, ổn định có chất lượng là khâu cực kỳ quan trọng và là khâu đầu tiên, khâu quyết định trong quy trình nghiệp vụ, đồng thời chứng tỏ liệu các đơn vị có khả năng phát triển ở giai đoạn sau hay không. Như vậy để tạo được nguồn hàng ổn định có chất lượng các đơn vị phải có mối quan hệ tốt với các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Mối quan hệ này phải dựa trên cơ sở bình đẳng, hợp tác tương trợ lẫn nhau trên cơ sở cùng có lợi.
Các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đa phần là thiếu vốn. Để đảm bảo cho các cơ sở sản xuất có thể cung ứng vốn cũng như máy móc thiết bị cần thiết. Trên cơ sở có vốn, cơ sở sản xuất mua được nguyên liệu chất lượng cao và ổn định, máy móc thiết bị sẽ cho phép tăng năng suất lao động và ổn định chất lượng.
Cùng với việc cung ứng là cải thiện chế độ thu mua. Các đơn vị cần áp dụng giá mua như như thế nào cho hợp lý đồng thời giải quyết được vấn đề lãi của đơn vị với tạo động lực khuyến khích người lao động sản xuất. Đối với những cơ sở sản xuất mà đơn vị có quan hệ thường xuyên lâu dài cần phải nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các đơn vị về cải tiến mẫu mã cho phù hợp nhu cầu thị trường. Đồng thời có chế độ kiểm tra chặt chẽ mặt chất lượng đúng như cam kết. Tạo được mối quan hệ tốt như vậy giữa các đơn vị và các nguồn hàng kịp thời và có chất lượng là một sự thành công chắc chắn.
Mặc dù vậy, tạo được nguồn hàng kịp thời và có chất lượng theo những phương pháp được đề xuất ở trên rất phù hợp cho các hợp đồng xuất khẩu vừa và nhỏ của các đơn vị, còn đối với các hợp đồng lớn? Những hợp đồng mà khả năng đáp ứng về vốn vượt ra ngoài khả năng huy động vốn của các đơn vị Trong trường hợp này, các đơn vị không thể tập trung đủ hàng cho hợp đồng, bởi lẽ các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ qui mô thườn rất nhỏ, tư bản ít, họ không có khả năng bán chịu để giữ mối quan hệ làm ăn lâu dài hay để được hưởng các mức giá cao hơn. Hoạt động kinh doanh trong mấy năm qua, các đơn vị đã bỏ lỡ một số cơ hội có được hợp đồng kinh doanh có giá trị lớn, có khách hàng mới với nguyên do là không đủ năng lực thực hiện hợp đồng. Do vậy, trong thời gian tới để tăng cường hoạt động kinh doanh xuất khẩu của mình, đồng thời tạo dựng quan hệ làm ăn tốt với các chân hàng các đơn vị cần phải mở rộng liên doanh liên kết với các đơn vị khác trong cùng ngành. Cụ thể của mối quan hệ này là các đơn vị sẽ giao một phần của hợp đồng mà tự mình không thể thực hiện được cho đơn vị liên kết, ngược lại công ty sẽ được thực hiện một phần hợp đồng của các đơn vị liên kết khi họ cũng không thể tự mình gánh vác mà thu lãi. Mối quan hệ này phải được thực hiện với các điều kiện các bên cùng có lợi cho từng hợp đồng liên kết thực hiện, đó thực sự là nền tảng của sự hợp tác hữu hảo và bền vững. Như vậy với sự liên doanh liên kết này có thể phát huy được lợi thế của các bên, khắc phục được tình trạng khi thừa khi thiếu năng lực kinh doanh xuất khẩu của các đơn vị như hiện nay.
2.4. Duy trì, củng cố quan hệ làm ăn với bạn hàng cũ và tìm kiếm bạn hàng mới
Trong quá trình kinh doanh, việc thực hiện một số hợp đồng với các điều kiện về cơ bản là tương đương nhau, chỉ khác một phần là một chủ thể của hợp đồng là khác nhau mà kết quả là khác nhau, nhiều khi lại trái ngược.
Có hợp đồng được thực hiện rất thuận lợi, có hợp đồng gặp rắc rối, phải huỷ bỏ, có khi phải thưa kiện cũng chỉ khác nhau về đối tác thực hiện. Vấn đề bạn hàng thực sự có được là rất khó khăn, còn giữ được bạn hàng lại khó hơn nhiều. Để chiến thắng trong cạnh tranh, cần thiết có sự nỗ lực vươn lên trên đối thủ cạnh tranh và hợp tác chặt chẽ với các bạn hàng. Muốn giữ được bạn hàng trong quan hệ làm ăn lâu dài, các đơn vị cần tuân thủ ba nguyên tắc cơ bản sau:
- Cần thiết có sự tin tưởng lẫn nhau, việc thận trọng trong quan hệ là tốt nhưng không qúa đa nghi. Sự tin tưởng sẽ đảm bảo quan hệ có thể phát triển tốt, nếu như đồng thời ta biết sử sự hợp lý trong quan hệ lợi ích kinh tế.
- Nền tảng của quan hệ kinh tế vững bền là sự hoà đồng về lợi ích kinh tế. Nói như vậy nhưng không phải là khẳng định rằng tình cảm, sự hiểu biết lẫn nhau, tin tưởng lẫn nhau là không quan trọng.
- Trong mối quan hệ cần giữ chữ “tín”, không vì lợi ích trước mắt mà bỏ qua chữ tín của các đơn vị trên thương trường. Nếu chúng ta bỏ qua chữ “tín” thì đồng nghĩa với việc bỏ đi bạn hàng và lợi ích kinh tế lâu dài mà nó lại là mục đích hoạt động cuả các đơn vị.
Việc mở rộng quan hệ với bạn hàng mới để tránh rủi ro khi làm ăn với họ, trước khi có thể kí kết hợp đồng các đơn vị phải khảo sát và lắm thật rõ về bạn hàng với các đặc điểm sau:
- Loại hình doanh nghiệp từ đó ta sẽ biết được phương thức hoạt động của doanh nghiệp. Ai là người chịu trách nhiệm trước hoật động kinh doanh của doanh nghiệp và đặc biệt trong quan hệ kinh doanh với doanh nghiệp mình.
- Sự nổi tiếng của họ như thế nào? Xem xét trên các khía cạnh về vốn, cơ
sở vật chất, khả năng kinh doanh, khả năng thanh toán và khả năng tín dụng.
- Hình thức kinh doanh hợp tác với ta có thuộc hình thức kinh doanh chủ
yếu của họ không?
- Xem xét hiệu quả, quy mô của mối quan hệ so với khả năng của họ và của ta.
2.5. Quản lý chặt chẽ trong khâu thanh toán
Quản lý khâu thanh toán là vấn đề quan trọng trong kinh doanh thương mại quốc tế. Các đơn vị cũng như nhiều nhà xuất khẩu Việt Nam đều nhận thấy sự phức tạp trong khâu này và trong thực tế đây cũng là khâu thường xuyên xảy ra tranh chấp. Hậu quả là các cuộc thưa kiện kéo dài tốn kém và các nhà xuất khẩu thường phải chịu thiệt thòi. Hiện nay, chúng ta hầu như áp dụng phương thức thanh toán L/C cho hoạt động xuất khẩu, đây là phương thức thanh toán có nhiều ưu điểm. Tuy nhiên để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu cho khâu này, các đơn vị phải tổ chức tốt cho khâu này từ khi kí kết hợp đồng, quá trình thực hiện hợp đồng đến cả sau khi thực hiện hợp đồng. Các rủi ro thanh toán thường gặp mà các đơn vị cần phải tránh, đặc biệt cho thực hiện hợp đồng với khách hàng có quan hệ làm ăn lâu dài, đó là:
- Rủi ro biến động tỷ giá bất lợi, đồng tiền thanh toán bị mất giá.
- Rủi ro từ phía ngân hàng phát hành L/C không có uy tín trong thanh toán, dẫn đến không giữ đúng cam kết thanh toán của ngân hàng đã ghi trong L/C đối với các đơn vị
- Rủi ro xuất phát từ nguồn gốc là do không thực hiện đúng các điều kiện ghi trong L/C có các nội dung cơ bản như sau: thời hạn giao hàng chậm so với qui định trong L/C, chuyên chở hàng hoá không đúng qui định của L/C, cơ cấu mặt hàng không phù hợp nội dung L/C.
L/C.
- Rủi ro thanh toán hình thức hoặc nội dung chứng từ không phù hợp với
- Một số rủi ro khác.
Để tránh các rủi ro trên, nâng cao hiệu quả công tác thanh toán quốc tế, các đơn vị nên thực hiện quản lý khâu thanh toán theo cách thức sau:
- Trước khi kí kết hợp đồng vẫn tìm hiểu bạn hàng là ai? Nắm bắt thiện chí, nhu cầu nhập khẩu của họ tránh sự lừa đảo đáng tiếc xảy ra.
- Tránh sự biến động tỷ giá về đồng tiền thanh toán bị mất giá do từ khi kí đến thời điểm thanh toán thường rất dài, đảm bảo giá trị hợp đồng thu về bằng cách thêm vào các điều khoản bảo đảm tỷ giá ngay khi kí kết hợp đồng, có thể bằng cách bảo đảm sau:
+ Bảo đảm bằng vàng.
+ Bảo đảm bằng đồng tiền có giá trị ổn định.
+ Bảo đảm theo rổ tiền tệ.
- Yêu cầu ngay trong hợp đồng chi tiết quan trọng trong nội dung L/C như chỉ định ngân hàng thanh toán, ngân hàng thông báo sao cho đơn vị nắm chắc được quyền hưởng lợi L/C và những nghĩa vụ ràng buộc.
- Luôn cẩn thận với L/C do ngân hàng phát hành gửi đến, phân tích kỹ từng nội dung nhỏ của L/C nhận được, không nên chỉ quan tâm đến nội dung chủ yếu mà bỏ qua chi tiết nhỏ thực tế lại rất quan trọng trong thanh toán. Việc xem xét các chi tiết ấy phải được tiến hành chủ động tích cực, Sự phù hợp giữa L/C và hợp đồng, khả năng thực hiện và ý đồ của người nhập khẩu.
- Nếu gặp khó khăn trong thời hạn giao hàng, thời hạn xuất trình chứng từ và các chứng từ thanh toán các đơn vị cần phải kiên quyết yêu cầu điều chỉnh L/C cho phù hợp.
- Phải hết sức cố gắng để có bộ chứng từ hoàn hảo theo đúng yêu cầu của L/C từng chi tiết nhỏ nhặt nhất phải phù hợp với luật lệ điều tiết của L/C trong thời hạn hiệu lực của L/C.
- Nếu cần thiết thì sử dụng cố vấn của ngân hàng để đạt được chứng từ
hoàn hảo, nên tôn trọng những lời khuyên của ngân hàng.
2.6. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong hoạt động xuất khẩu
Nếu các đơn vị huy động vốn được nhiều hơn như hiện nay, điều chắc chắn rằng kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thu lại được nhiều lợi nhuận, sức cạnh tranh lớn. Do vậy các đơn vị phải huy động từ mọi nguồn có thể được và phải sử dụng có hiệu quả. Nguồn vốn mà các đơn vị có thể huy động là từ các ngân hàng, các đơn vị các tổ chức khác và vốn của cán bộ công nhân viên trong công ty.
Muốn sử dụng có hiệu quả các đơn vị cần giải quyết tốt các công việc như thu hồi công nợ, giải phóng hàng tồn kho, chống phát sinh công nợ mới và hàng tồn kho mới. Đầu tư có trọng điểm vào những hoạt động có khả năng mang lại hiệu quả và thu hồi vốn nhanh.
Cùng với việc sử dụng vốn có hiệu quả là tiết kiệm chi tiêu, giảm chi phí hành chính, phí kinh doanh, tập trung vốn cho kinh doanh.
2.7. Tạo thương hiệu và không ngừng nâng cao uy tín thương hiệu trên thị trường quốc tế
Vấn đề thương hiệu trong bối cảnh hiện nay không còn là điều cảnh báo đối với những mặt hàng nông sản hay những mặt hàng của ngành công nghiệp chế biến nữa mà ngay cả đối với những mặt hàng TCMN khi mặt hàng này đang là điển hình cho việc phải mượn thương hiệu để xuất khẩu. Những năm vừa qua các doanh nghiệp làm hàng TCMN rất lơ là đối với việc bảo hộ kiểu dáng, nhãn hiệu hàng hóa. Họ thường thông qua người môi giới
để xuất khẩu hàng. Các đối tác trung gian thường lựa chọn kiểu dáng hoặc lấy từ những mẫu mã người sản xuất đưa ra còn nhà sản xuất cứ theo mẫu mã trong đơn đặt hàng mà làm. Điều này cực kỳ nguy hiểm khi các nhà môi giới chớp cơ hội đăng kí thương hiệu ở nước mà mặt hàng đó được tiêu thụ. Lúc đó việc xuất khẩu sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào người môi giới và vì lợi nhuận, họ sẽ không ngần ngại quay lại o ép chính các nhà sản xuất. Bài học từ việc mất các thương hiệu nổi tiếng của ta vẫn còn nóng hổi đối với các nhà sản xuất. Bởi vậy, ngay bây giờ và ngay lập tức các nhà sản xuất hàng TCMN, các làng nghề thủ công truyền thống phải thực hiện đăng kí thương hiệu và kiểu dáng sản phẩm trước khi quá muộn.
2.8. Thành lập sàn giao dịch hàng thủ công mỹ nghệ trên mạng Internet
Sự bùng nổ của Internet trong những năm gần đây cùng sự phát triển về thương mại điện tử đã giúp các doanh nghiệp gặp gỡ, tiếp xúc với nhau ở bất kỳ đâu, bất kỳ thời điểm nào mà không có giới hạn về không gian và thời gian. Sàn Giao dịch hàng thủ công mỹ nghệ trên mạng Internet sẽ là nơi đầu tiên cung cấp đầy đủ, toàn diện các thông tin về hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam, trưng bày và giới thiệu sản phẩm của các công ty thủ công mỹ nghệ hàng đầu Việt Nam và tạo cơ hội giao thương giữa các công ty này với thị trường nước ngoài.
Sàn giao dịch sẽ giúp doanh nghiệp tạo thêm một kênh bán hàng có hiệu quả và phù hợp với xu thế phát triển kinh tế thế giới hơn tất cả các hình thức đã có trước đây. Và dĩ nhiên khi tham gia sàn giao dịch, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thêm nhiều cơ hội gặp gỡ và đối thoại trực tiếp với các nhà nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ quốc tế.
Tuy vậy, một trong những hạn chế của doanh nghiệp Việt Nam là thiếu và yếu những kiến thức về hoạt động xuất nhập khẩu, luật pháp thương mại cùng các kiến thức cơ bản về thương mại điện tử. Vì vậy, khi xây dựng sàn giao
dịch, các nhà tổ chức nên thường xuyên có những hoạt động hỗ trợ, tư vấn, giải quyết những vướng mắc, khó khăn gặp phải trong quá trình giao dịch.
Trên sàn giao dịch, các hình ảnh, thông tin về sản phẩm được trưng bày cho người xem thấy rõ, nếu có những thắc mắc gì, doanh nghiệp có thể giải đáp ngay cho khách hàng. Đây là lợi thế giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của mình. Tuy nhiên, việc mua bán trên sàn giao dịch có làm tăng nguy cơ vi phạm bản quyền về nhãn hiệu, mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm của doanh nghiệp hay không? Để giải quyết vấn đề này, giải pháp tốt nhất cho doanh nghiệp là nhanh chóng đăng ký bản quyền về kiểu dáng, chất lượng, mẫu mã sản phẩm của mình đồng thời cũng nên luôn đổi mới, đa dạng hoá sản phẩm để tạo sự hấp dẫn đối với khách hàng.
Trên thực tế, hàng thủ công mỹ nghệ là sản phẩm chủ yếu được làm bằng tay nên việc “nhái” trên Sàn Giao dịch trực tuyến lại khó khăn hơn ở ngoài. Trên các trang web, các sản phẩm chỉ được biểu hiện bằng những tấm ảnh chụp ở nhiều góc độ khác nhau mà thôi. Nếu có bắt chước thì chỉ bắt chước được kiểu dáng, mẫu mã còn chất lượng, kết cấu của nó thì lại phải cầm sản phẩm trên tay mới có thể xác định được. Vì thế vấn đề bản quyền, mẫu mã, kiểu dáng không phải chỉ lên sàn giao dịch mới bị vi phạm mà nó đã có từ trước đó rất lâu. Để giải quyết vấn đề này, các doanh nghiệp cần phải đăng ký với Nhà nước bản quyền sản phẩm của mình mới là cách để cứu mình, để sản phẩm của mình không bị đánh cắp, bắt chước.
Trên đây là một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam giai đoạn 2001- 2010. Hy vọng rằng, trong tương lai ngành hàng này ngày càng phát triển lớn mạnh và khẳng định được vị trí của mình trên trường quốc tế. Từ đó tạo điều kiện đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, xã hội theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Liệu điều đó
có trở thành sự thật hay không? Còn phụ thuộc rất nhiều vào việc thực hiện một cách thiết thực, linh hoạt các giải pháp trên của Nhà nước và các doanh nghiệp.
CHƯƠNG I 1
VAI TRÒ CỦA HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM 1
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ 1
Giới thiệu chung về nghề truyền thống hàng thủ công mỹ nghệ 1
2. Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam 3
2.1. Hàng gốm sứ 3
2.2. Hàng mây tre đan 4
2.3. Hàng gỗ thủ công mỹ nghệ 5
2.4. Hàng thêu ren 6
2.5. Hàng thổ cẩm 7
3. Đặc thù của hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống 7
3.1. Trong sản phẩm thủ công mỹ nghệ, văn hoá tinh thần kết tinh trong văn hoá vật thể 8
3.2. Hàng thủ công mỹ nghệ mang đậm tính cá biệt, phong cách của mỗi nghệ nhân và nét đặc trưng địa phương, tồn tại trong sự giao lưu với cộng đồng 8
3.3. Hàng thủ công mỹ nghệ là loại sản phẩm nghệ thuật, kết tinh từ những thành tựu kỹ thuật - công nghệ truyền thống, phương pháp thủ công tinh xảo với đầu óc sáng tạo nghệ thuật 9
II. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM. 10
1. Thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 10
2. Tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao đời sống nhân dân 11
3. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả, thúc đẩy sản xuất phát triển 12
4. Góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế 13
5. Mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam 14
6. Duy trì các ngành nghề truyền thống, tăng cường giao lưu văn hóa giữa các dân tộc 14
ĐIỂM “LỢI THẾ CẠNH TRANH” CỦA MICHAEL PORTER 15
IV. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ 18
1. Nguồn nguyên liệu 18
2. Nguồn vốn 20
3. Nhu cầu thị trường đối với hàng thủ công mỹ nghệ 21
4. Các đối thủ cạnh tranh 23
5. Các chính sách của nhà nước liên quan đến hàng thủ công mỹ nghệ 23
CHƯƠNG II 26
THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 26
I. QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT VÀ TỔ CHỨC TIÊU THỤ HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA 26
1. Quá trình sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ 26
2. Cơ chế tổ chức thu mua hàng 28
2.1. Cơ chế thu mua 28
2.2. Tổ chức thu mua 29
II. CƠ CẤU MẶT HÀNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM 30
1. Nhóm sản phẩm gỗ 32
2. Nhóm hàng gốm sứ mỹ nghệ 35
3. Nhóm hàng mây tre đan 37
4. Nhóm hàng thảm các loại (thảm len, thảm đay cói, thảm sơ dừa) 41
5. Nhóm hàng thêu ren thổ cẩm 41
6. Nhóm hàng thuộc các ngành nghề thủ công khác (chạm bạc, khắc 43
III. THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM 44
1. Thị trường EU: 45
2. Thị trường Nhật 46
3. Thị trường Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc 47
4. Thị trường Mỹ 48
5. Thị trường Nga và Đông Âu 50
IV. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM VỪA QUA 51
1. Kết quả đã đạt được 51
2. Những tồn tại, khó khăn 54
CHƯƠNG III 57
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ 57
I. PHƯƠNG HƯỚNG ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ 57
NGHỆ 57
II. CÁC BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM 60
1. Về phía Nhà nước 60
1.1. Tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng 60
1.2. Thành lập các hiệp hội ngành nghề 60
1.3. Chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu 61
2. Về phía các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ (gọi chung là các đơn vị sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu) 64
2.1. Hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường 64
2.2. Kết hợp sản xuất với xuất khẩu 72
2.3. Tạo nguồn hàng kịp thời và có chất lượng 75
2.4. Duy trì, củng cố quan hệ làm ăn với bạn hàng cũ và tìm kiếm bạn hàng mới 76
2.5. Quản lý chặt chẽ trong khâu thanh toán 78
2.6. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong hoạt động xuất khẩu 80
2.7. Tạo thương hiệu và không ngừng nâng cao uy tín thương hiệu trên thị trường quốc tế 80
2.8. Thành lập sàn giao dịch hàng thủ công mỹ nghệ trên mạng Internet 81
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8074.doc