Tỷ lệ người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế
đi khám định kỳ chỉ chiếm 39,4%, có tới
48,6% người cao tuổi khi nào ốm thì mới đi
khám; cao hơn tỷ lệ người cao tuổi khám sức
khỏe định kỳ của cả nước (27,5%) năm 2015
[4]. Dù có bảo hiểm y tế nhưng người cao tuổi
không đi khám sức khỏe định kỳ thường
xuyên, chỉ khi ốm đau họ mới nghĩ đến
chuyện khám bệnh. Chỉ có 41,5% người cao
tuổi có bảo hiểm y tế đến cơ sở y tế để khám
chữa bệnh khi ốm trong vòng 4 tuần trước
điều tra. Phần lớn người cao tuổi không xử trí
gì hoặc tự điều trị (18,1% và 40,4%). Người
cao tuổi không đến khám tại các cơ sở y tế có
thể do sự quản lý trong lĩnh vực y dược còn
hạn chế khi người dân có thể dễ dàng mua
thuốc ở bên ngoài mà không cần có sự kê
đơn của bác sĩ, bên cạnh đó, kho tàng thuốc
dân gian cùng hệ thống hành nghề y học dân
tộc gia truyền đa dạng khiến cho nhiều người
dân tìm cách tự điều trị thay vì đến cơ sở y tế.
Trong lần ốm gần nhất, người cao tuổi có
thẻ bảo hiểm y tế chủ yếu lựa chọn cơ sở y tế
đầu tiên đến khám là bệnh viện huyện
(43,6%), sau đó là trạm y tế xã (23,1%); bệnh
viện Trung ương (12,8%) và thấp nhất là bệnh
viện tỉnh với 5,1%. Kết quả này phù hợp với
nghiên cứu của Nguyễn Quốc Anh, 2016:
người cao tuổi sử dụng dịch vụ chăm sóc sức
khỏe của bệnh viện tuyến huyện chiếm tỷ lệ
cao nhất (27,9%), chỉ có 8,8% người cao tuổi
sử dụng trạm y tế xã [7]. Ở lần khám thứ 2
trong cùng lần ốm gần nhất, người cao tuổi
chủ yếu lựa chọn khám tại bệnh viện huyện
(54,5%); bệnh viện Trung ương (27,3%) và
bệnh viện tỉnh (18,2%); không có người cao
tuổi nào khám tại trạm y tế xã hay cơ sở y tế
tư nhân lần thứ 2. Kết quả nghiên cứu trên cả
nước với cho thấy ba phần tư dịch vụ khám
ngoại trú được thực hiện tại trạm y tế xã và
bệnh viện huyện; 90% dịch vụ nội trú được
thực hiện tại bệnh viện huyện và tỉnh [8].
Lý giải những sự khác biệt này có thể do
Huyện Đan Phượng là một huyện ngoại thành
Hà Nội, việc tiếp cận với các dịch vụ y tế và
cơ sở y tế tuyến Trung ương dễ dàng vì vậy tỷ
lệ người cao tuổi sử dụng bệnh viện Trung
ương khá cao so với tuyến tỉnh; với vị trí địa lý
thuận tiện và với chính sách thông tuyến trong
khám chữa bệnh bảo hiểm y tế được áp dụng
từ tháng 1/2016 nên việc tiếp cận với các dịch
vụ y tế tại bệnh viện huyện được dễ dàng.
Chưa đến 1/2 số người cao tuổi có bảo
hiểm y tế đến khám tại các cơ sở y tế khi ốm,
tuy nhiên, khi đi khám hầu hết người cao tuổi
đều sử dụng thẻ bảo hiểm y tế (chiếm 71,8%
người cao tuổi đến khám). Kết quả này cao
hơn so với nghiên cứu tại Hà Nam, năm 2012
với tỷ lệ 62,4% người cao tuổi sử dụng bảo
hiểm y tế để khám khi ốm. Người cao tuổi
không sử dụng bảo hiểm y tế khi đi khám có
thể do thủ tục khám chữa bệnh bảo hiểm y tế
phiền hà làm mất nhiều thời gian, thuốc bảo
hiểm y tế chưa đáp ứng được nhu cầu của
người bệnh, việc cung ứng dịch vụ y tế chất
lượng cho người tham gia bảo hiểm y tế hạn
chế [9].
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 10 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng sử dụng bảo hiểm y tế của người cao tuổi tại xã Thọ An, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội, năm 2017, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
110 TCNCYH 113 (4) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG BẢO HIỂM Y TẾ
CỦA NGƯỜI CAO TUỔI TẠI XÃ THỌ AN,
HUYỆN ĐAN PHƯỢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI, NĂM 2017
Trần Thị Thanh Thủy, Lê Thị Mai, Nguyễn Đăng Vững
Viện đào tạo Y học Dự phòng và Y tế Công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội.
Nghiên cứu mô tả cắt ngang 374 người cao tuổi với mục tiêu mô tả thực trạng sử dụng bảo hiểm y tế của
người cao tuổi tuổi tại xã Thọ An, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội, năm 2017. Kết quả cho thấy, tỷ lệ
người có thẻ bảo hiểm y tế là 75,6%; người cao tuổi tham gia bảo hiểm y tế chủ yếu do được tổ chức bảo
hiểm xã hội, ngân sách nhà nước đóng hoặc hỗ trợ. Người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế đi khám sức khỏe
định kỳ là 39,4%. Tỷ lệ người cao tuổi đến khám tại các cơ sở y tế khi bị ốm là 41,5%. Khi bị ốm, người cao
tuổi có thẻ bảo hiểm y tế đi khám ở bệnh viện huyện chiếm tỷ lệ cao nhất. Tỷ lệ người cao tuổi sử dụng thẻ
bảo hiểm y tế để khám, chữa bệnh khi ốm là 71,8%.
Từ khóa: Bảo hiểm y tế, người cao tuổi, sử dụng dịch vụ y tế, Hà Nội
Địa chỉ liên hệ: Trần Thị Thanh Thủy, Viện Đào tạo Y học
Dự phòng và Y tế công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội
Email: tranthanhthuy@hmu.edu.vn
Ngày nhận: 10/5/2018
Ngày được chấp thuận: 15/8/2018
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Luật Bảo hiểm Y tế đã ra đời từ năm 2008,
là cơ sở pháp lý cho hoạt động chăm sóc sức
khỏe thông qua bảo hiểm Y tế. Năm 2014,
Quốc hội khóa 13 đã ban hành luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Luật Bảo hiểm Y tế với
nhiều quy định mới và mở rộng quyền lợi cho
người tham gia bảo hiểm Y tế. Tỷ lệ bao phủ
bảo hiểm Y tế ở nước ta không ngừng tăng
qua các năm, từ 42,0% năm 2008 lên 75,3%
năm 2015 hướng tới mục tiêu bảo hiểm y tế
toàn dân [1]. Tuy nhiên, nhiều người dân mua
bảo hiểm Y tế nhưng chưa bao giờ đi khám
bệnh nếu chưa bị bệnh nên không thấy tác
dụng thiết thực của bảo hiểm Y tế.
Việt Nam đã chính thức bước vào giai
đoạn già hóa dân số năm 2011, người cao
tuổi ngày càng tăng với tỷ trọng người cao
tuổi từ 65 tuổi trở lên tăng từ 7,0% năm 2011
lên 11,3% năm 2015 [2]. Với sự gia tăng dân
số không ngừng đang đặt ra những thách
thức to lớn tới việc đảm bảo an sinh xã hội và
chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi và một
trong những mục tiêu quan trọng đó là thực
hiện tốt việc chăm sóc sức khỏe người cao
tuổi thông qua bảo hiểm Y tế. Tuy nhiên, trên
cả nước, tỷ lệ người cao tuổi tham gia bảo
hiểm Y tế còn thấp, chỉ chiếm 50,9% số người
cao tuổi năm 2014; tỷ lệ người cao tuổi được
khám sức khỏe định kỳ chỉ đạt 27,5%; chỉ có
1/3 số người cao tuổi sử dụng thẻ bảo hiểm Y
tế để khám chữa bệnh [3; 4]. Do đó, nghiên
cứu này được thực hiện với mục tiêu mô tả
thực trạng sử dụng bảo hiểm y tế của người
cao tuổi tại xã Thọ An, huyện Đan Phượng,
thành phố Hà Nội, năm 2017.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng và phương pháp
TCNCYH 113 (4) - 2018 111
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Người cao tuổi từ 60 tuổi trở lên, sinh sống
tại xã Thọ An, huyện Đan Phượng, thành phố
Hà Nội ở thời điểm nghiên cứu.
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 12 năm
2016 đến tháng 5 năm 2017.
- Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được
tiến hành tại xã Thọ An, huyện Đan Phượng,
thành phố Hà Nội.
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả
cắt ngang.
- Cỡ mẫu: Áp dụng công thức:
Trong đó:
Z1-α/2: Hệ số giới hạn tin cậy, với mức ý
nghĩa thống kê α (α = 0,05 tương ứng với giá
trị của Z1-α/2 = 1,96 với độ tin cậy 95%).
p: Tỷ lệ người cao tuổi sử dụng bảo hiểm y
tế khi khám chữa bệnh (thu được từ điều tra
thử 30 người cao tuổi: Tỷ lệ người cao tuổi sử
dụng bảo hiểm y tế là 33,3%).
1 - p: Tỷ lệ người cao tuổi không sử dụng
Bảo hiểm y tế khi khám chữa bệnh.
d: Sai số mong muốn. Chọn d = 0,05.
Thay các giá trị vào công thức tính được
cỡ mẫu là 340 người cao tuổi. Đề phòng
trường hợp không điền đủ thông tin hoặc từ
chối tham gia nghiên cứu, chúng tôi tăng cỡ
mẫu thêm 10% là 374 người cao tuổi.
- Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu theo
phương pháp ngẫu nhiên hệ thống.
Lập danh sách người cao tuổi, theo số liệu
báo cáo cuối năm 2016 của Ủy ban Nhân dân
xã Thọ An.
Xác định khoảng cách mẫu k: k = Tổng số
người cao tuổi/374 = 1177/374 = 3,1 (làm
tròn, lấy k = 3).
Chọn người cao tuổi đầu tiên bằng
phương pháp ngẫu nhiên đơn sao cho số thứ
tự của người đó trong danh sách nhỏ hơn
hoặc bằng k (≤ 3).
Người tiếp theo được chọn bằng cách lấy
số thứ tự của người đầu tiên +k; +2k; +3kv;
cứ thế cho đến khi đủ cỡ mẫu nghiên cứu.
- Kỹ thuật và công cụ thu thập số liệu:
Công cụ thu thập số liệu: Bộ câu hỏi phỏng
vấn được thiết kế sẵn.
Phương pháp thu thập số liệu: Phỏng vấn
trực tiếp đối tượng tại hộ gia đình bằng bộ câu
hỏi.
2. Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu được mã hóa, làm sạch trước và
sau khi nhập vào máy tính bằng phần mềm
Epidata 3.1. Sử dụng phần mềm Stata 12 để
phân tích số liệu, tính toán tần suất, tỷ lệ %,
trình bày bảng, biểu đồ.
3. Đạo đức nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu được giải thích rõ về
mục đích, nội dung nghiên cứu; chỉ phỏng vấn
những người cao tuổi đồng ý tham gia nghiên
cứu; đối tượng tham gia trên tinh thần tự
nguyện và có quyền từ chối trả lời bất cứ
câu hỏi nào. Các thông tin thu được đảm bảo
giữ bí mật và chỉ phục vụ cho mục tiêu
nghiên cứu.
n =
Z2(1- α/2) . (p.(1 - p)
(d)2
112 TCNCYH 113 (4) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
III. KẾT QUẢ
Bảng 1. Tỷ lệ người cao tuổi có thẻ bảo hiểm Y tế theo các nhóm đối tượng
được luật Bảo hiểm Y tế quy định
Tần số Tỷ lệ (%)
Có thẻ bảo hiểm y tế 284 75,9
Do người lao động và người sử dụng lao động đóng 0 0,0
Do tổ chức bảo hiểm xã hội đóng 102 35,9
Do ngân sách nhà nước đóng 60 21,1
Được ngân sách nhà nước hỗ trợ mức đóng 10 3,5
Tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình 112 39,4
Không có bảo hiểm y tế 90 24,1
Tổng 374 100,0
Trong số 374 người cao tuổi tham gia nghiên cứu, có 284 người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế
chiếm 75,9%. Trong số người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế, nhóm đối tượng tham gia bảo hiểm y
tế theo hộ gia đình chiếm 39,4%, nhóm do tổ chức bảo hiểm xã hội đóng chiếm 35,9%; nhóm do
ngân sách nhà nước đóng và hỗ trợ mức đóng lần lượt chiếm 21,1% và 3,5%.
Bảng 2. Tình hình khám sức khỏe của người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế
Nội dung Tần số Tỷ lệ (%)
Đi khám sức khỏe định kỳ 112 39,4
Khi nào ốm thì đi khám 138 48,6
Không đi khám 34 12,0
Tổng 284 100,0
Chỉ có 39,4% người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế đi khám sức khỏe định kỳ; có 48,6% người
cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế chỉ khi nào ốm mới đi khám và 12,0% người cao tuổi không đi khám
sức khỏe kể cả khi ốm.
Bảng 3. Hướng xử trí khi ốm của người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế
Hướng xử trí Tần số Tỷ lệ (%)
Không xử trí gì 17 18,1
Tự điều trị 38 40,4
Đến khám tại cơ sở y tế 39 41,5
Tổng 94 100
TCNCYH 113 (4) - 2018 113
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Trong tổng số 94 người cao tuổi có bảo hiểm y tế và bị ốm trong vòng 4 tuần trước điều tra, tỷ
lệ người cao tuổi đến khám tại cơ sở y tế chiếm 41,5%; có 40,4% người cao tuổi tự điều trị và
18,1% người cao tuổi không xử trí gì khi ốm.
0,0%
54,5%
18,2%
27,3%
0,0%
23,1%
43,6%
5,1%
12,8%
15,4%
0% 10% 20% 30% 40% 50% 60%
TYT xã
Bv huyện
Bv tỉnh
Bv Trung ương
CSYT tư nhân
CSYT đầu tiên lựa chọn KCB CSYT thứ 2 lựa chọn KCB
Biểu đồ 1. Cơ sở y tế đầu tiên và thứ 2 người cao tuổi có bảo hiểm y tế
lựa chọn để khám chữa bệnh khi bị ốm
* CSYT: cơ sở y tế; BV: bệnh viện; KCB: khám chữa bệnh; TYT: trạm y tế
Ở cả lần khám đầu tiên và thứ 2 khi bị ốm, người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế chủ yếu đến
khám tại bệnh viện huyện (có 43,6% người cao tuổi lựa chọn bệnh viện huyện để đi khám đầu
tiên ngay sau khi bị ốm, 54,5% số người cao tuổi sau khi đã khám tại cơ sở y tế khác lựa chọn
bệnh viện huyện để khám chữa bệnh tiếp theo). Trạm y tế xã có 23,1% số người cao tuổi có bảo
hiểm y tế lựa chọn là cơ sở y tế để khám chữa bệnh đầu tiên khi bị ốm. Tỷ lệ người cao tuổi lựa
chọn bệnh viện tỉnh và Trung ương để khám chiếm tỷ lệ thấp hơn. Không có người cao tuổi nào
lựa chọn trạm y tế và cơ sở y tế tư nhân để khám tiếp sau khi đã khám tại cơ sở y tế khác.
Trong số những người cao tuổi bị ốm và có thẻ bảo hiểm y tế đến khám tại các cơ sở y tế, có
71,8% người cao tuổi sử dụng thẻ bảo hiểm y tế và 28,2% người cao tuổi không sử dụng thẻ bảo
hiểm y tế để khám khi ốm.
IV. BÀN LUẬN
Tỷ lệ người cao tuổi tham gia bảo hiểm y
tế khá cao (75,9%), cao hơn so với tỷ lệ
chung của cả nước năm 2014 (50,9%) và cao
hơn so với tỷ lệ người cao tuổi tham gia bảo
hiểm y tế tại Sóc Sơn, Hà Nội năm 2016
(62,79%) [3; 5]. Nhóm người cao tuổi tham gia
bảo hiểm y tế theo hộ gia đình chiếm 39,4%;
nhóm do bảo hiểm xã hội đóng (35,9%); nhóm
được ngân sách nhà nước đóng hoặc hỗ trợ
mức đóng (24,6%). Như vậy, chủ yếu người
cao tuổi có bảo hiểm y tế do tổ chức bảo hiểm
xã hội, ngân sách nhà nước đóng hoặc hỗ trợ.
Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của
Bộ Y tế, năm 2016 cho thấy thành phần tham
gia bảo hiểm y tế chủ yếu là nhóm được ngân
sách nhà nước hỗ trợ, nhóm tự đóng bảo
hiểm y tế còn thấp (từ 8 - 10%) [1]. Tuy nhiên,
tỷ lệ người cao tuổi tự đóng bảo hiểm y tế
114 TCNCYH 113 (4) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
theo hộ gia đình cũng khá cao so với cả nước
trong khi đây là hình thức bảo hiểm y tế mới
chỉ đưa vào triển khai được 2 năm, từ năm
2015 sau khi luật số 46/2014/QH13 có hiệu
lực. Những thay đổi trong chính sách liên
quan đến bảo hiểm y tế ít nhiều đã tác động
đến tình hình tham gia bảo hiểm y tế của
người cao tuổi khi nhiều gia đình lựa chọn
hình thức bảo hiểm y tế hộ gia đình để được
hưởng mức đóng ưu đãi [6].
Tỷ lệ người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế
đi khám định kỳ chỉ chiếm 39,4%, có tới
48,6% người cao tuổi khi nào ốm thì mới đi
khám; cao hơn tỷ lệ người cao tuổi khám sức
khỏe định kỳ của cả nước (27,5%) năm 2015
[4]. Dù có bảo hiểm y tế nhưng người cao tuổi
không đi khám sức khỏe định kỳ thường
xuyên, chỉ khi ốm đau họ mới nghĩ đến
chuyện khám bệnh. Chỉ có 41,5% người cao
tuổi có bảo hiểm y tế đến cơ sở y tế để khám
chữa bệnh khi ốm trong vòng 4 tuần trước
điều tra. Phần lớn người cao tuổi không xử trí
gì hoặc tự điều trị (18,1% và 40,4%). Người
cao tuổi không đến khám tại các cơ sở y tế có
thể do sự quản lý trong lĩnh vực y dược còn
hạn chế khi người dân có thể dễ dàng mua
thuốc ở bên ngoài mà không cần có sự kê
đơn của bác sĩ, bên cạnh đó, kho tàng thuốc
dân gian cùng hệ thống hành nghề y học dân
tộc gia truyền đa dạng khiến cho nhiều người
dân tìm cách tự điều trị thay vì đến cơ sở y tế.
Trong lần ốm gần nhất, người cao tuổi có
thẻ bảo hiểm y tế chủ yếu lựa chọn cơ sở y tế
đầu tiên đến khám là bệnh viện huyện
(43,6%), sau đó là trạm y tế xã (23,1%); bệnh
viện Trung ương (12,8%) và thấp nhất là bệnh
viện tỉnh với 5,1%. Kết quả này phù hợp với
nghiên cứu của Nguyễn Quốc Anh, 2016:
người cao tuổi sử dụng dịch vụ chăm sóc sức
khỏe của bệnh viện tuyến huyện chiếm tỷ lệ
cao nhất (27,9%), chỉ có 8,8% người cao tuổi
sử dụng trạm y tế xã [7]. Ở lần khám thứ 2
trong cùng lần ốm gần nhất, người cao tuổi
chủ yếu lựa chọn khám tại bệnh viện huyện
(54,5%); bệnh viện Trung ương (27,3%) và
bệnh viện tỉnh (18,2%); không có người cao
tuổi nào khám tại trạm y tế xã hay cơ sở y tế
tư nhân lần thứ 2. Kết quả nghiên cứu trên cả
nước với cho thấy ba phần tư dịch vụ khám
ngoại trú được thực hiện tại trạm y tế xã và
bệnh viện huyện; 90% dịch vụ nội trú được
thực hiện tại bệnh viện huyện và tỉnh [8].
Lý giải những sự khác biệt này có thể do
Huyện Đan Phượng là một huyện ngoại thành
Hà Nội, việc tiếp cận với các dịch vụ y tế và
cơ sở y tế tuyến Trung ương dễ dàng vì vậy tỷ
lệ người cao tuổi sử dụng bệnh viện Trung
ương khá cao so với tuyến tỉnh; với vị trí địa lý
thuận tiện và với chính sách thông tuyến trong
khám chữa bệnh bảo hiểm y tế được áp dụng
từ tháng 1/2016 nên việc tiếp cận với các dịch
vụ y tế tại bệnh viện huyện được dễ dàng.
Chưa đến 1/2 số người cao tuổi có bảo
hiểm y tế đến khám tại các cơ sở y tế khi ốm,
tuy nhiên, khi đi khám hầu hết người cao tuổi
đều sử dụng thẻ bảo hiểm y tế (chiếm 71,8%
người cao tuổi đến khám). Kết quả này cao
hơn so với nghiên cứu tại Hà Nam, năm 2012
với tỷ lệ 62,4% người cao tuổi sử dụng bảo
hiểm y tế để khám khi ốm. Người cao tuổi
không sử dụng bảo hiểm y tế khi đi khám có
thể do thủ tục khám chữa bệnh bảo hiểm y tế
phiền hà làm mất nhiều thời gian, thuốc bảo
hiểm y tế chưa đáp ứng được nhu cầu của
người bệnh, việc cung ứng dịch vụ y tế chất
lượng cho người tham gia bảo hiểm y tế hạn
chế [9].
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ người cao tuổi có bảo hiểm y tế là
75,9%; phần lớn người cao tuổi được hưởng
bảo hiểm y tế do bảo hiểm xã hội, ngân sách
TCNCYH 113 (4) - 2018 115
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
nhà nước đóng hoặc hỗ trợ (64,3%). Tỷ lệ
người cao tuổi đi khám sức khỏe định kỳ thấp,
chiếm 39,4% người cao tuổi có thẻ bảo hiểm
y tế.
Tỷ lệ người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế
khi bị ốm đến khám tại các cơ sở y tế thấp
(41,5%);chủ yếu người cao tuổi tự điều trị
hoặc không điều trị gì (58,5%). Người cao tuổi
sử dụng bảo hiểm y tế để khám tại bệnh viện
tuyến huyện là chủ yếu. Tỷ lệ người cao tuổi
sử dụng bảo hiểm y tế khi khám chữa bệnh
chiếm 71,8% người cao tuổi có bảo hiểm đi
khám tại các cơ sở y tế.
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự hỗ
trợ, giúp đỡ của lãnh đạo ủy ban nhân dân xã
Thọ An, Huyện Đan Phượng Thành phố Hà
Nội và những người cao tuổi đã tham gia
nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế và nhóm đối tác Y tế (2016).
Báo cáo chung tổng quan ngành y tế năm
2015: Tăng cường y tế cơ sở hướng tới bao
phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân. Nhà xuất
bản Y học.
2. Tổng cục thống kê (2015). Điều tra dân
số và nhà ở giữa kỳ thời điểm 1/4/2014: Các
kết quả chủ yếu. Nhà xuất bản Thống kê.
3. Ủy ban Quốc gia về Người cao tuổi
Việt Nam (2014). Báo cáo tình hình và kết
quả thực hiện công tác Người cao tuổi năm
2013 và phương hướng nhiệm vụ năm 2014.
4. Đình Nam (2017). Lập hồ sơ quản lý
sức khỏe cho người dân cả nước, <http://
vuducdam.chinhphu.vn/Home/Lap-ho-so-quan
-ly-suc-khoe-cho-nguoi-dan-ca-nuoc/20172/
23626.vgp>, truy cập ngày 20/4/2017.
5. Phạm Thắng (2016). Chăm sóc sức
khỏe người cao tuổi Việt Nam: Thực trạng và
giải pháp. Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm chăm
sóc sức khỏe người cao tuổi, Bệnh viện Lão
khoa Trung ương, ngày 06/09/2016, Bộ Y tế.
6. Quốc hội (2014). Luật sửa đổi một số
điều của Luật Bảo hiểm y tế, số 46/2014/
QH13, ngày 13 tháng 6 năm 2014.
7. Nguyễn Quốc Anh (2016). Mô hình
bệnh tật của Người cao tuổi. Tạp chí Dân số
Việt.
8. Viện Chiến lược và Chính sách y tế,
Vụ Bảo hiểm y tế (2013). Báo cáo đánh giá
ba năm thực thi luật Bảo hiểm y tế.
9. Bộ Y tế (2011). Báo cáo kết quả nghiên
cứu khả năng thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân.
Summary
THE REALITY OF USING HEALTH INSURANCE BY ELDERLY AT THO
AN COMMUNE, DAN PHUONG, HA NOI, 2017
A cross-sectional descriptive study was carried out to describe the utilization of health
insurance among 374 elderly people in Tho An Commune, Dan Phuong District, Hanoi during
2017. The coverage of health insurance in elderly people was 75.6%. The health insurance cards
were mainly supported by the social insurance or by the goverment budget. 39.4% of the insured
elderly would use the insurance card for periodic health examination. 71.8% would use the health
insurance cards for examination and treatment. Among them, 41.5% will seek treatment at local
health clinics. It is noted that the district hospital has the highest rate of visits.
Keywords: Health insurance, healthcare utilization, Hanoi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
thuc_trang_su_dung_bao_hiem_y_te_cua_nguoi_cao_tuoi_tai_xa_t.pdf