Thực trạng sử dụng các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2001 đến nay

Nhằm thực hiện tốt mục tiêu phát triển KCN nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung, tỉnh uỷ Bắc Ninh đã đưa ra một số mục tiêu phát triển KCN đến năm 2010 như sau: - Tỉ lệ lấp đầy của các KCN trên địa bàn tỉnh chiếm khoảng 60% tổng diện tích đã được đưa vào quy hoạch (tăng 16,72% so với tháng 12 năm 2006). - Nâng dần tỉ lệ đóng góp của các KCN cho nền kinh tế của tỉnh vào khoảng 35% vào năm 2010. - Phấn đấu đưa khoảng 80% các doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh vào hoạt động tại các KCN. - Mục tiêu đến năm 2010, các KCN trên địa bàn Bắc Ninh giải quyết khoảng 20 000 việc làm cho người lao động.

doc77 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1438 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng sử dụng các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2001 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại Đồng – Hoàn Sơn 230,8 104,39 45,23 6 KCN đô thị Yên Phong 340,73 129,65 38,05 Tổng cộng 2 407,53 1 041,98 43,28 (Nguồn: Báo cáo tổng hợp của BQL các KCN Bắc Ninh ) Từ bảng số liệu trên, cho thấy: - Tỉ lệ diện tích đất cho thuê trên địa bàn của tỉnh còn thấp (chỉ chiếm khoảng 43,28 % tổng số diện tích đã đưa vào quy hoạch). - Tỉ lệ diện tích cho thuê của từng KCN chênh lệnh khá lớn, dao động trong khoảng từ 29,67% đến 57,21%. Trong đó, KCN Tiên Sơn chiếm tỉ lệ lớn nhất (57,21%), KCN Quế Võ II thấp nhất (29,67%). Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, tỉ lệ lấp đầy khoảng từ 70% trở lên đạt được hiệu quả sử dụng về mặt đất đai, còn dưới 30% gây lãng phí nguồn lực rất lớn. Điều đó, cho thấy hiệu quả sử dụng đất đai trong quy hoạch các KCN trên địa bàn Bắc Ninh rất thấp. Bảng 2.2: Bảng tổng hợp tình hình cho thuê đất tại các KCN giai đoạn 2001-2006 Số TT Năm Tổng diện tích của các KCN ( chỉ tích các KCN đã đưa vào sử dụng ) Diện tích đã cho thuê Tỉ lệ (%) 1 2001 940,43 250,78 26,67 2 2002 940,43 502,13 53,39 3 2003 1 236 539,67 43,66 4 2004 1 466,8 840,00 57,27 5 2005 2 407,53 913,18 37,93 6 2006 2 407,53 1 041, 98 43,28 (Nguồn: Báo cáo tổng hợp của BQL các KCN Bắc Ninh ) Hình 2.1: Biểu đồ tỉ lệ cho thuê đất tại các KCN ở Bắc Ninh giai đoạn 2001-2006 Nhận xét: - Diện tích đất đã cho thuê tại các KCN Bắc Ninh có xu hướng tăng lên. Tăng mạnh nhất ở thời kỳ 2003-2004 (tăng 300,13 ha), kế đến thời kỳ 2001-2002 (tăng 251,35 ha); tăng chậm nhất từ năm 2004-2005 (tăng 73,18 ha). - Khả năng “ lấp chỗ trống” trong các KCN trên địa bàn tỉnh biến động mạnh qua các năm. Cao nhất là năm 2004 (57,27%), thấp nhất là năm 2001 (26,67%). Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là do sự gia tăng của diện tích đất quy hoạch KCN đã đưa vào sử dụng. Năm 2004, diện tích cho thuê cũng như tỉ lệ đất đã sử dụng tăng cao là do đây là năm đầu tiên các doanh nghiệp kinh doanh thực hiện việc di dời cơ sở sản xuất kinh doanh của mình vào hoạt động tại các KCN theo chủ trương của Đảng bộ và UBND tỉnh. Nhìn chung, khả năng “lấp chỗ trống” trong các KCN trên địa bàn biến động mạnh qua các năm, diện tích đất đã cho thuê còn tương đối thấp. Điều này, dẫn tới tình trạng lãng phí nguồn lực đất đai rất lớn trong quá trình đầu tư phát triển, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả khai thác đất phục vụ phát triển kinh tế của tỉnh. 2. Tỉ lệ vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích Trong những năm gần đây, số dự án đầu tư vào các KCN Bắc Ninh có xu hướng tăng dần cả về số lượng và quy mô dự án. Tính đến hết tháng 12 năm 2006, đã có 210 dự án đầu tư vào các KCN với tổng vốn đầu tư lên đến 1,6 tỷ USD. Các dự án đầu tư đang chuyển dần từ đầu tư theo chiều rộng sang đầu tư theo chiều sâu, ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất phù hợp với quan điểm và chủ trương của Đảng bộ và UBND tỉnh. Bảng 2.3: Bảng tổng hợp số vốn đầu tư tại các KCN Bắc Ninh (tính đến hết tháng 12/2006) Đơn vị: triệu USD/ha TT KCN Tổng vốn đầu tư Diện tích chiếm đất Tỉ lệ VĐT Trong nước (Triệu đồng) Nước ngoài (Triệu USD) Tổng vốn (Triệu USD) 1 KCN Tiên Sơn 4431131.5 145.362 754.5665 343.25 2.1983 2 KCN Nam Sơn - Hạp Lĩnh 1427881.0 1.3032 156.1998 114.6 1.3630 3 KCN đô thị Quế Võ 1072766.4 218.3388 458.4565 261.08 1.7560 4 KCN Quế Võ II 1856927.8 3.258 91.9206 89.01 1.0327 5 KCN Đại Đồng – Hoàn Sơn 2212345.3 5.2128 93.8779 104.39 0.8993 6 KCN đô thị Yên Phong 901303.5 0.000 9.7367 129.65 0.0751 Tổng cộng 11902355.5 373.4748 1618.1949 1041.98 1.5530 (Hệ số chuyển đổi: 1USD = 15 000 VNĐ) Nhận xét: Suất đầu tư chênh lệnh rất lớn đối với từng KCN. Trong đó, tỉ lệ vốn đầu tư tại KCN Tiên Sơn là lớn nhất (2,1983 triệuUSD/ha), còn KCN Yên Phong quá thấp (chỉ khoảng 0,0751 triệu USD/ha). Nhưng nhìn chung, suất đầu tư tại các KCN Bắc Ninh khá thấp (trừ KCN Tiên Sơn và KCN đô thị Quế Võ). Điều này cho thấy, các doanh nghiệp hoạt động tại các KCN vẫn chưa ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Sở dĩ có sự chênh lệnh này, nguyên nhân chủ yếu là do chủ trương kêu gọi đầu tư của tỉnh. Cụ thể: các KCN (KCN Tiên Sơn, KCN đô thị Quế Võ, KCN Nam Sơn - Hạp Lĩnh) được thành lập nhằm kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài và dự án công nghệ cao. Còn các KCN như: KCN đô thị Yên Phong, KCN Đại Đồng – Hoàn Sơn được quy hoạch chủ yếu để thu hút các cơ sở kinh doanh mà chủ yếu là các hộ gia đình từ các làng nghề truyền thống như: đồ gỗ mỹ nghệ (Đồng Kỵ), giấy dó (Phong Khê), đồ đồng (Đại Bái),… Suất đầu tư tại các KCN giai đoạn 2001-2006 tại các KCN Bắc Ninh có sự biến động khá lớn, giảm mạnh trong năm 2004, tăng nhanh trong năm 2005. Chi tiết bảng 2.4: Bảng 2.4: Tổng hợp tình hình đầu tư vào các KCN tại Bắc Ninh giai đoạn 2001-2006 TT Năm Tổng vốn đầu tư (Triệu USD) Diện tích đất sử dụng (ha) Tỉ lệ VĐT ( Triệu USD/ha) 1 2001 306.9547 250.78 1.224 2 2002 625.1519 502.13 1.245 3 2003 601.7321 539.67 1.115 4 2004 921.4800 840.00 1.097 5 2005 1767.9165 913.18 1.936 6 2006 1618.1949 1041.98 1.5530 (Nguồn: Báo cáo tổng hợp của BQL các KCN Bắc Ninh) Nhận xét: - Tỉ lệ VĐT một đơn vị diện tích rất thấp. Tính đến hết tháng 12 năm 2006, suất đầu tư trung bình tại các KCN chỉ khoảng 1.5530 triệu USD/ha. Chứng tỏ khả năng kêu gọi đầu tư (đặc biệt là các dự án ứng dụng trình độ kỹ thuật công nghệ tiên tiến) của tỉnh kém. - Tỉ lệ vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích biến động mạnh qua các năm và có xu hướng ngày càng giảm (trừ năm 2005). Trong năm 2004, suất đầu tư vào các KCN trên địa bàn giảm mạnh (từ 1,224 xuống còn 1,097 triệu USD/ha). Đến năm 2005, tỉ lệ này lại tăng mạnh (từ 1,097 lên 1,936 triệu USD/ha). Nguyên nhân chủ yếu là do: + Trong năm 2004, thực hiện chủ trương của tỉnh uỷ Bắc Ninh, một số các doanh nghiệp (chủ yếu là các làng nghề) đang hoạt động trên địa bàn di dời vào các hoạt động tại các KCN. Trong đó, có một phần khá lớn các doanh nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, sản xuất giấy, chế biến nông sản thực phẩm,…có nguồn vốn đầu tư thấp; chủ yếu sử dụng lao động thủ công là chính. + Trong năm 2005, các KCN được thành lập với mục đích thu hút đầu tư nước ngoài và các dự án công nghệ cao đã đi vào hoạt động như: KCN Tiên Sơn (quy hoạch giai đoạn 2), KCN đô thị Quế Võ đã thu hút được nhiều dự án lớn của công ty Canon, công ty Toyo Compounds Việt Nam, tập đoàn Longtech Precision Việt Nam,… Do tỉ lệ VĐT thấp dẫn tới việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong các KCN phục vụ phát triển sản xuất thấp. Điều này cũng là một trong những nguyên nhân cho thấy khả năng kêu gọi vốn đầu tư thấp, hướng đầu tư của các doanh nghiệp chưa thực sự đầu tư theo hướng phát triển các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ kỹ thuật cao. Tỉ lệ đóng góp cho GDP Theo ước tính, trong năm 2006 tổng sản phẩm toàn tỉnh đạt 9 261,82 tỷ đồng (tăng 13,2% so với năm 2005), trong đó phần đóng góp của các KCN vào khoảng 2 511,81 tỷ đồng (chiếm 27,12% tổng GDP). Điều đó có được là do các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN đi vào hoạt động đã đóng góp quan trọng trong việc huy động vốn đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn tỉnh. Tuy nhiên, tỉ lệ đóng góp này quá thấp (theo thống kê, tỉ lệ này ở Bình Dương và Vĩnh Phúc đều chiếm khoảng trên 35%) chứng tỏ phát triển KCN chưa thực sự trở thành động lực mạnh thúc đẩy sự phát triển kinh tế của địa phương. Bảng 2.5: Bảng tổng hợp tỉ lệ đóng góp cho GDP toàn tỉnh giai đoạn 2001-2006 Đơn vị: tỷ đồng Năm GDP Tốc độ tăng GDP Giá trị SXCN (tại các KCN) Tỉ lệ đóng góp GDP (%) 2001 4871.17 14.07 856.35 17.58 2002 5556.55 13.87 1148.54 20.67 2003 6327.24 13.61 1464.76 23.15 2004 7188.38 13.82 1628.17 22.65 2005 8181.82 14.12 2051.18 25.07 2006 9261.82 13.2 2511.81 27.12 (Nguồn: Báo cáo tổng hợp của BQL các KCN Bắc Ninh Niên giám thống kê - Cục thống kê Bắc Ninh 2001-2006) Hình 2.2: Biểu đồ tỉ lệ đóng góp cho GDP toàn tỉnh giai đoạn 2001-2006 Nhận xét: Mặc dù tỉ lệ đóng góp cho GDP trên địa bàn có xu hướng tăng trong thời gian qua nhưng tỉ lệ đóng góp vẫn còn tương đối thấp chỉ dao động trong khoảng từ 17,58% đến 27,12% (trong khi giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh lại chiếm khoảng 45.78% tổng GDP của tỉnh). Chứng tỏ, khả năng hiệu quả sử dụng các KCN trên địa bàn của tỉnh chưa cao. 4. Số lao động làm việc trong các khu công nghiệp Tính đến hết tháng 12 năm 2006, các KCN đã thu hút được 12 740 lao động vào làm việc, trong đó lao động địa phương có khoảng 7 580 người chiếm 59,5%. Với mức lương bình quân của công nhân lao động khoảng 1,3 triệu đồng/tháng. Về cơ cấu lao động: lao động phổ thông chiếm 32,45%; lao động có tay nghề cơ bản 42,12% và lao động có trình độ đại học 25,43%. Số lao động làm việc tại các KCN có xu hướng tăng nhanh qua các năm (năm 2001 là 4 350 lao động, năm 2005 là 8 240 và năm 2006 là 12 740 lao động), nguyên nhân chủ là do các doanh nghiệp trong các KCN đã đi vào hoạt động góp phần tạo việc làm cho người lao động. (Nguồn: Báo cáo tổng hợp của BQL các KCN) Như vậy, qua phân tích một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng các KCN cho thấy: Trong những năm gần đây, mặc dù tốc độ tăng các KCN trên địa bàn tỉnh tăng nhanh chóng nhưng hiệu quả sử dụng còn thấp, các KCN chưa thực sự trở thành động lực tác động mạnh đến sự phát triển kinh tế cũng như quá trình CNH – HĐH trong toàn tỉnh. III. Đánh giá các nhân tố tác động đến hiệu quả sử dụng các khu công nghiệp tại Bắc Ninh Nhóm các vấn đề về khung pháp lý Về cơ chế chính sách Trong việc thu hút vốn đầu tư, các nhà đầu tư (đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài) gặp tương đối nhiều khó khăn ngay từ khâu thành lập doanh nghiệp. Khó khăn trước hết từ tính không rõ ràng nhất quán của các văn bản pháp lý liên quan đến việc cấp phép đầu tư điều đó đã làm cho hệ thống thủ tục xem xét, phê duyệt mang tính chủ quan, tuỳ tiện gây tốn kém về thời gian và tiền bạc. Thực tế, khi một nhà đầu tư muốn đầu tư sản xuất kinh doanh. Trước hết, chủ đầu tư phải trình bày phương án kinh doanh, sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt chấp nhận phương án kinh doanh thì chủ đầu tư mới được cấp giấy phép đầu tư. Tuy nhiên, giấy phép đầu tư cũng chỉ là bước đầu, sau đó nhà đầu tư còn cần phải có được rất nhiều giấy tờ như: giấy phép xây dựng, giấy chứng nhận vệ sinh môi trường,… cần phải được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Sau đó, doanh nghiệp mới có thể bắt đầu đi vào sản xuất kinh doanh. Tính không rõ ràng, thiếu nhất quán của các văn bản pháp lý là tình trạng chung của hầu hết các KCN trên các tỉnh (thành phố) trong cả nước chứ không riêng của Bắc Ninh. Nguyên nhân chủ yếu do việc ban hành các văn bản pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước cấp trên. Về chính sách ưu đãi, mặc dù trong những năm gần đây Bắc Ninh đã tạo khá nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư vào các KCN như: ưu đãi về giá thuê đất, ưu đãi về vay vốn kinh doanh, … nhưng nhìn chung những ưu đãi này vẫn chưa thực sự thu hút các nhà đầu tư. Nguyên nhân chủ yếu là do giá thuê đất tại các KCN Bắc Ninh (mặc dù đã được ưu đãi) vẫn rất cao, cao hơn hẳn giá thuê đất tại KCN của các tỉnh có cùng điều kiện như Bắc Ninh (cao hơn 1,3 lần giá thuê đất ở Vĩnh Phúc và 1,2 giá thuê đất ở Hải Phòng và Bình Dương). Ngoài ra, một nguyên nhân nữa cần kể đến là do quyền hạn của chính quyền địa phương trong việc đưa ra các biện pháp khuyến khích đầu tư (như thuế, giá thuê đất,…) bị giới hạn trong phạm vi rất nhỏ bé. Điều đó đã dẫn tới sự hạn chế tính chủ động của tỉnh trong việc hoạch định chính sách nhằm thu hút đầu tư vào các KCN nói riêng và đầu tư vào địa bàn tỉnh nói chung. Cơ chế phân cấp và uỷ quyền thiếu đồng bộ Cơ chế phân cấp và uỷ quyền có ý nghĩa quyết định cho việc đơn giản hoá các thủ tục hành chính khi các nhà đầu tư nói chung và đầu tư vào các KCN nói riêng. Nguyên tắc “một cửa” mặc dù đã được đưa ra từ lâu nhưng thực tế, các thủ tục hành chính rườm rà và tuỳ tiện, còn chưa được sửa đổi đáng kể. Điều đó, được thể hiện thông qua thời gian trung bình để cấp phép đầu tư vào KCN Bắc Ninh mất khoảng 40 ngày (trong khi ở Vĩnh Phúc chỉ mất 01 tuần, Bình Dương mất khoảng 20 ngày). Cụ thể: - Đầu tiên, chủ đầu tư phải chuẩn bị đầy đủ các số liệu cho phương án sản xuất kinh doanh nộp cho phòng Quản lý đầu tư (thuộc BQL các KCN) để được phê duyệt. Thời gian chờ phê duyệt mất khoảng 15 ngày, sau đó nhà đầu tư mới được cấp giấy phép đăng ký kinh doanh. - Tiếp đến, chủ đầu tư còn phải xin giấy phép xây dựng (do bộ phận thẩm định xây dựng của Sở Kế hoạch – Đầu tư cấp phép), giấy chứng nhận vệ sinh môi trường (do phòng quy hoạch môi trường của BQL cấp), giấy phép thuê lao động (do phòng Quản lý lao động cấp), giấy phép đầu tư (do phòng Quản lý đầu tư) và một số giấy tờ cần thiết khác (thời gian xin cấp phép các loại giấy tờ cần thiết này mất khoảng 25 ngày). Trong khi, tại KCN ở tỉnh Vĩnh Phúc nhà đầu tư khi quyết định đầu tư vào các KCN tại tỉnh chỉ phải chuẩn bị đầy đủ các số liệu cần thiết cho phương án sản xuất kinh doanh; các chuyên gia của KCN sẽ giúp họ thành lập hồ sơ và lo hoàn tất mọi thủ tục còn lại nhằm hoàn tất thủ tục cấp phép đầu tư (chỉ mất khoảng 01 tuần). Bên cạnh đó, các chi phí phát sinh trên đều do KCN tự bỏ tiền ra lo cho khách hàng mà không thu một khoản chi phí nào. Hệ thống phê duyệt phức tạp này không những gây ra sự chậm trễ và không chắc chắn, làm gia tăng mức độ rủi ro và các chi phí giao dịch đối với các dự án đầu tư ngay từ giai đoạn đầu tiên. Điều này có thể làm cho chủ đầu tư mất đi cơ hội đầu tư kinh doanh. Ngoài ra, hệ thống cấp phép phức tạp, không rõ ràng trên nhũng nhiễu, hạch sách cũng như tham ô của các cán bộ nhà nước trong việc xét duyệt cấp phép đầu tư cho các doanh nghiệp. Trong tình hình khoa học kỹ thuật và công nghệ đang có những bước tiến vượt bậc và với nhu cầu cuộc sống ngày càng đa dạng như hiện nay, thì việc thay đổi quy mô và lĩnh vực kinh doanh một cách linh hoạt nhằm thích nghi với thị trường là một nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nhưng theo quy định Bắc Ninh cũng như quy định của Việt Nam, mỗi lần thay đổi quy mô và lĩnh vực kinh doanh, chủ đầu tư lại phải xin phép và quy trình lại hoàn toàn không khác gì so với xin phép lần đầu. Như vậy, việc đăng ký bổ sung, sửa đổi đăng ký kinh doanh đã là một trở ngại lớn cho các nhà đầu tư. Điều này đã ảnh hưởng không tốt đến quá trình xây dựng cũng như khai thác sử dụng các KCN trên địa bàn Bắc Ninh. Hiện nay, các công ty kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN chịu sự quản lý trực tiếp của UBND tỉnh mà không chịu sự quản lý của BQL các KCN. Chính vì vậy, khó đảm bảo hiệu quả các hoạt động doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng trong KCN nói riêng cũng như gây tác động xấu đến hiệu quả sử dụng các KCN. 2. Nhóm các vấn đề liên quan đến bộ máy của Ban quản lý các khu công nghiệp 2.1 Cơ cấu tổ chức: BQL các KCN trên địa bàn Bắc Ninh bao gồm: 25 thành viên. Trong đó: ( 01 trưởng ban, 02 phó trưởng ban, còn lại 22 thành viên). Hoạt động theo cơ chế đơn vị hành chính sự nghiệp với ba chức năng chính. Đó là: - Tổ chức triển khai quy hoạch và đầu tư xây dựng hạ tầng KCN. - Quản lý hoạt động đầu tư và xây dựng các doanh nghiệp thuê đất sản xuất. - Quản lý sau đầu tư. Được chia thành 07 bộ phận là: Phòng quản lý doanh nghiệp, phòng quản lý xuất nhập khẩu, phòng quản lý đầu tư, phòng quy hoạch môi trường, đại diện BQL tại các KCN, phòng quản lý lao động và văn phòng ban. Với hệ thống tổ chức quản lý là đơn vị thuộc UBND cấp tỉnh, nhưng trong quá trình hoạt động lại: - Thiếu mối liên hệ về nghiệp vụ chuyên môn với các cơ quan quản lý chuyên ngành cấp dưới ( vì mỗi KCN lại có một BQL do UBND huyện nơi xây dựng KCN quản lý) dẫn tới việc lúng túng và thiếu cụ thể trong quản lý. Gây trở ngại lớn cho các nhà đầu tư, nhất là việc kéo dài thời gian thực hiện các thủ tục cần thiết ngay từ khi doanh nghiệp mới đăng ký kinh doanh. - Khả năng tiếp cận cũng như đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư còn thấp. - Lực lượng quản lý mỏng, thiếu khả năng và môi trường phối hợp với cơ quan chuyên môn cũng như các cơ quan quản lý nhà nước khác (chủ yếu do BQL tự đặt cơ chế hoạt động không có sự thống nhất). Do vậy, cần thiết phải nghiên cứu để hoàn thiện củng cố mô hình tổ chức quản lý đối với BQL các KCN Bắc Ninh nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của BQL. 2.2 Về cơ sở vật chất của BQL Văn phòng làm việc của BQL ở tầng 2 của khu nhà 3 tầng, được chia làm 08 phòng làm việc. Trong đó, 01 phòng làm việc của Trưởng ban, 02 phòng làm việc của Phó trưởng ban, còn lại 05 phòng làm việc của nhân viên. Đơn vị được trang bị khá nhiều tài sản nhưng nhìn chung trang thiết bị phục vụ cho BQL còn nhiều yếu kém. Mặc dù, đã trang bị hệ thống máy vi tính (25 máy/25 nhân viên) nhưng BQL chưa đủ khả năng để nối mạng với cơ quan chuyên môn cấp dưới. Điều này dẫn tới phối hợp giữa BQL và cơ quan quản lý cấp dưới chưa kịp thời và thiếu nhịp nhàng; ảnh hưởng xấu đến hiệu quả quản lý, điều hành của BQL. Điều đó đã gây trở ngại cho các nhà đầu tư, nhất là việc kéo dài thời gian thực hiện các thủ tục cần thiết, ảnh hưởng đến hiệu quả thu hút vốn đầu tư tại các KCN. 2.3 Về năng lực của BQL Hiện nay, BQL có 25 nhân viên. Trong đó, có 18 đồng chí có trình độ Đại học, 05 đồng chí có trình độ Cao đẳng và 02 đồng chí có trình độ trung cấp. Mặc dù hiện nay, BQL đã được trang bị hệ thống máy vi tính (mỗi người một máy) nhưng hiệu quả ứng dụng vẫn chưa cao. Cụ thể: + Một số công việc của BQL ( như: quy hoạch đất đai, thẩm định xây dựng, …) các nhân viên trong phòng vẫn làm theo phương pháp thủ công, trong khi những công việc này nếu ứng dụng những phần mềm chuyên dụng của máy tính sẽ góp phần giải quyết nhanh chóng, chính xác. Chính khả năng áp dụng khoa học kỹ thuật không cao gây ra tình trạng lãng phí cả về thời gian và tiền bạc. + Trong quá trình quản lý hồ sơ lưu trữ vẫn sử dụng phương pháp lưu trữ thông qua giấy tờ gây lãng phí khá lớn vào mua sắm thiết bị văn phòng phẩm và gây mất thời gian trong quá trình tìm kiếm hồ sơ lưu trữ. Ngoài ra còn có thể gây ra tình trạng mất mát, hư hỏng nếu tài liệu được lưu trữ trong thời gian dài. Số lao động tại BQL các KCN là 25 người (trong đó có 05 nhân viên hợp đồng). Với số biên chế như vậy, BQL khó có khả năng đáp ứng được yêu cầu công việc do một cá nhân phải đảm đương khá nhiều việc. Nếu so sánh với BQL các KCN tại một số tỉnh thành khác như: Bình Dương, Vĩnh Phúc, thành phố Hồ Chí Minh,… thì số lượng này còn quá ít ỏi (ở Bình Dương và Vĩnh Phúc là 40 người, ở thành phố Hồ Chí Minh là 52 người). Năng lực của bộ máy điều hành còn hạn chế cả về số lượng, chất lượng và kinh nghiệm. BQL chưa chủ động đề xuất những giải pháp đặc thù phù hợp với điều kiện của Bắc Ninh mà chỉ dừng ở những kiến nghị chung chung mang tính vĩ mô áp dụng cho cả nước. Chưa tích cực học hỏi kinh nghiệm ở các tỉnh bạn để mạnh dạn đề xuất ý kiến áp dụng cho các KCN tại Bắc Ninh. Cũng do số nhân viên của Ban quá ít, chưa có khả năng cũng như điều kiện thành lập hệ thống nghiên cứu nhằm tiếp cận cũng như đáp ứng các yêu cầu của nhà đầu tư còn thấp, ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả thu hút đầu tư vào các KCN. Nhóm các vấn đề liên quan đến đất đai và hạ tầng cơ sở Về đất đai Theo luật đất đai, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được quyền thuê đất để làm mặt bằng sản xuất kinh doanh. Thời gian thuê phụ thuộc vào nhiều yếu tố mang tính chủ quan cho tưìng trường hợp cụ thể. Hơn nữa, để có thể thuê được mảng đất phù hợp hoàn toàn không dễ dàng. Cõ lẽ vì vậy, doanh nghiệp nước ngoài thường lựa chọn hình thức Liên doanh, trong đó doanh nghiệp Việt Nam đóng góp quyền sử dụng đất. Trong những năm gần đây, mặc dù tỉnh đã tạo nhiều ưu đãi cho các doanh nghiệp trong quá trình thuê đất nhưng nhìn chung giá thuê đất tại Bắc Ninh nói chung và tại các KCN nói riêng vẫn tương đối cao so với các địa phương khác có cùng điều kiện như địa phương (gấp 1,3 lần giá thuê đất tại tỉnh Vĩnh Phúc, gấp 1,2 lần giá thuê đất tại Hải Phòng,…). Bên cạnh đó, quản lý phí tại tại các KCN Bắc Ninh cũng còn quá cao so với các địa phương khác, ảnh hưởng xấu đến việc thu hút đầu tư vào các KCN tại địa bàn. Với mục tiêu “lấp đầy”, các KCN không được phép chỉ chú trọng tới nguồn đầu tư nước ngoài mà bên cạnh đó còn phải quan tâm tới việc thu hút các nguồn đầu tư ở trong nước. Mặt khác, một số doanh nghiệp muốn mở rộng quy mô sản xuất nhưng lại gặp một số trở ngại lớn về mặt bằng sản xuất tại cơ sở cũ. Nhưng nếu như doanh nghiệp muốn thuê thêm đất để phát triển sản xuất thì thủ tục hành chính rất phức tạp. Một số nhà đầu tư còn cho rằng thủ tục thuê thêm đất mở rộng phát triển kinh doanh còn phức tạp hơn nhiều so với ban đầu. Nguyên nhân của tình trạng trên là do tỉnh chưa có những chính sách khuyến khích thoả đáng cũng như việc giảm thiểu các thủ tục hành chính. Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến một số nhà đầu tư khi đăng ký kinh doanh đã thuê đất vượt quá quy mô kinh doanh của mình gây ra tình trạng tỉ lệ VĐT trên một đơn vị diện tích còn thấp vừa gây lãng phí nguồn lực lại vừa kém hiệu quả trong quá trình sử dụng của các KCN. Hiện tại, quyền sử dụng đất được bảo đảm trên cơ sở tự do sử dụng có chỉ rõ mục đích sử dụng và người sử dụng. Khả năng chuyển nhượng đất vẫn còn nhiều hạn chế. Những hàng rào cản trở việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất chính là nằm trong các thủ tục hành chính. Hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tại các KCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh chưa được cấp giấy phép chứng nhận quyền sử dụng đất (chỉ cấp giấy chứng nhận cho các doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng). Trong khi họ phải trả tiền thuê đất một lần trong thời gian nhiều năm song họ lại không được cấp giấy chứng nhận “con”. Đây là một điều thiệt thòi cho các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN (so với các doanh nghiệp hoạt động ngoài KCN) bởi lẽ mặc dù họ đã phải bỏ ra một khoản vốn tương đối lớn song lại không có quyền dùng tài sản này (bằng quyền sử dụng đất) để thế chấp khi cần vay tín dụng. Khó khăn này không chỉ riêng ở Bắc Ninh mà ở hầu hết các KCN cả nước. Nhưng nếu như cơ quan địa chính cung ngân hàng nỗ lực giải quyết thì chắc chắn chỉ cần một thời gian ngắn, họ sẽ tháo gỡ được một vướng mắc quan trọng đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong các KCN. Điều này sẽ góp phần quan trọng thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào các KCN mà không đầu tư rải rác vào các khu dân cư tại địa phương. 3.2 Về cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng trong các KCN ở Bắc Ninh nhìn chung còn yếu, ít nơi đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư. Trong số các KCN được thành lập ở Bắc Ninh thì đến nay mới chỉ có 02 KCN (KCN Tiên Sơn và KCN Quế Võ) được đầu tư hạ tầng kỹ thuật tương đối đồng bộ, bước đầu đã đáp ứng được công tác đầu tư xây dựng và hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN. Còn hầu hết (06 KCN còn lại) thì cơ sở hạ tầng hầu như rất ít, không đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư. Cụ thể: - Đối với KCN Tiên Sơn: Các hạng mục hạ tầng kỹ thuật đã lần lượt được đầu tư xây dựng như: Trạm điện 110/22KW – 80MVA; trạm cấp nước sạch 6 500 m3/ngày đêm; trung tâm điều hành; hệ thống đường trung tâm (đường quảng trường đô thị), đường nhánh phân khu chức năng; hệ thống thoát nước sạch và nước thải. Đặc biệt KCN đã đầu tư xây dựng khu đô thị, khu dân cư, khu cung cáp dịch vụ với diện tích quy hoạch là 30 ha là nơi đầu tư xây dựng nhà ở cho các đối tượng cán bộ; công nhân lao động trong các doanh nghiệp hoạt động tại KCN; có đầu tư các dịch vụ vui chơi, giải trí; chợ và các công trình phúc lợi khác. - Đối với KCN Quế Võ Hạ tầng kỹ thuật cũng được quy hoạch tương đối và đầu tư tương đối đồng bộ bao gồm: Trạm điện 110/22KW – 60MVA; trạm cung cấp nước sạch 6 500 m3/ngày đêm; trung tâm điều hành; hệ thống đường trung tâm, đường nhánh; hệ thống thoát nước. Đặc biệt, để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong các KCN và phát triển KCN, UBND tỉnh đã quy hoạch cảng nội địa ICD rộng 30 ha, khu đô thị dân cư và dịch vụ Kinh Bắc rộng 120 ha. Nhìn chung, việc đầu tư hạ tầng kỹ thuật KCN ở Bắc Ninh, mặc dù chủ đầu tư cũng như tỉnh đã cố gắng lớn, xong với hình thức đầu tư “cuốn chiếu” nên hệ thống các cơ sở hạ tầng tại các KCN (trừ KCN Tiên Sơn và KCN Quế Võ) hầu như rất ít, chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư. Thực tế còn cho thấy, nhiều doanh nghiệp ở Bắc Ninh đã phải tự bỏ tiền ra đầu tư công trình hạ tầng (mà vẫn chưa được hưởng các chế độ ưu đãi) khiến chi phí phất sinh không nhỏ. Đây là bất cập lớn mà BQL các KCN Bắc Ninh đang chỉ đạo để có những chuyển biến tích cực. Vì vậy, trong thời gian tới, tỉnh cần tiếp tục đẩy mạnh hoạt động đầu tư cũng như kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư nhằm hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng tại các KCN một cách đồng bộ. Nhóm các vấn đề liên quan đến dịch vụ Các dịch vụ trong KCN còn thiếu Mặc dù, tỉnh chủ trương phát triển KCN theo hướng KCN đô thị nhưng các dịch vụ về cơ sở hạ tầng xã hội như: nhà ở, trường học, ngân hàng,… còn thiếu trầm trọng. Trong số các KCN Bắc Ninh được thành lập chỉ có KCN Tiên Sơn và KCN đô thị Quế Võ được đầu tư các cơ sở hạ tầng xã hội. Còn 06 KCN còn thì hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội rất thiếu thốn. Cụ thể: Đối với KCN Tiên Sơn và KCN Quế Võ đã được đầu tư xây dựng các khu dân cư, khu đô thị dịch vụ. Một loạt các nhà ở, biệt thự và chung cư ra đời xung quanh Từ Sơn và Quế Võ đã góp phần đảm bảo sự phát triển bễn vững của KCN. Đồng thời, góp phần quan trọng đáp ứng nhu cầu ăn, ở của các chủ đầu tư cũng như nhu cầu của người lao động. Đối với các KCN khác (06 KCN còn lại), hệ thống các cơ sở hạ tầng nhìn chung là còn thiếu và yếu. Hiện nay, người lao động tại các KCN này vẫn chủ yếu thuê nhà ở trong các vùng dân cư phụ cận. Điều đó, đã gây ảnh hưởng lớn đến an ninh trật tự trong khu vực và đặc biệt là các nhu cầu về văn hoá, thể thao cũng như các dịch vụ khác phục vụ phát triển của con người đang bị thiếu hụt nghiêm trọng. Ngoài ra, do khoảng cách khá xa từ các KCN đến các khu dân cư, khu đô thị dịch vụ đã khiến các doanh nghiệp hoạt động tại các KCN Bắc Ninh còn phải chịu cước phí dịch vụ rất cao so với các KCN tại các địa phương khác (điện, nước, viễn thông, phí vận chuyển,…). Điều này đã làm giảm ưu thế cạnh tranh trong việc thu hút các nhà đầu tư vào các KCN. 4.2 Chưa có dịch vụ cung cấp thông tin cho doanh nghiệp Trong xu thế hội nhập hiện nay, thông tin đang ngày càng trở thành một yếu tố quan trọng trong việc củng cố và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghệp. Trong thời gian qua dịch vụ cung cấp thông tin rất yếu và hầu như không có. Chưa hình thành được các trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp với nhiều hình thức khác nhau (như nhóm tư vấn, Website, báo chuyên đề,…) nhằm cung cấp thông tin pháp luật, thông tin thị trường cũng như việc tổ chức các khoá khoá huấn luyện kiến thức kinh doanh (đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong các KCN), hỗ trợ tìm kiếm đối tác kinh doanh, tìm kiếm khách hàng,... Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến các nhà đầu tư do dự trong quá trình lựa chọn đầu tư vào các KCN trên địa bàn. CHƯƠNG III Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh đến năm 2010 I. Quan điểm, phương hướng và mục tiêu phát triển khu công nghiệp Quan điểm phát triển khu công nghiệp Thực hiện Nghị quyết của Trung ương (khoá VIII), Nghị quyết của tỉnh uỷ Bắc Ninh (năm 2002) và trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm phát triển KCN của các tỉnh bạn (đặc biệt là các tỉnh có cùng điều kiện), Bắc Ninh đã xây dựng quan điểm phát triển KCN trên địa bàn tỉnh theo hướng: Thứ nhất, phát triển các KCN đô thị. Phân tích theo vấn đề sử dụng và tạo việc làm cho người lao động làm việc tại các doanh nghiệp trong KCN thì việc giải quyết nhu cầu về nhà ở cho công nhân cũng như hạ tầng xã hội là hết sức cần thiết. Nhưng hiện nay, lao động tại các KCN ở Bắc Ninh chủ yếu thuê nhà ở trong dân tại các vùng phụ cận. Điều đó, đã ảnh hưởng lớn đến an ninh trật tự trong khu vực và đặc biệt là nhu cầu về văn hoá thể thao cũng như các dịch vụ phát triển con người đang bị thiếu hụt trầm trọng. Nhằm giải quyết tình trạng này, chính quyền Bắc Ninh chủ trương xây dựng phát triển các KCN đô thị. Tức là tại các KCN, tỉnh chủ trương quy hoạch quỹ đất xây dựng các khu chung cư, khu đô thị phục vụ nhu cầu ăn ở của công nhân cũng như nhằm cung cấp các dịch vụ phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN. Thứ hai, phát triển các KCN theo hướng ứng dụng khoa học công nghệ kỹ thuật cao vào sản xuất. Tức là phát triển các KCN nhằm thu hút các dự án công nghệ cao vào sản xuất tại các KCN. Như chúng ta đã biết, hiện nay một doanh nghiệp nói riêng và một nền kinh tế của một quốc gia nói chung để có thể tồn tại và phát triển phải sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Vì vậy, phát triển KCN theo hướng ứng dụng khoa học công nghệ kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất là một trong những điều kiện mang tính tiền đề quan trọng giúp kinh tế địa phương phát triển một cách bền vững. Thứ ba, phát triển đồng bộ KCN với việc xây dựng cơ sở hạ tầng bên ngoài và phát triển hệ thống dịch vụ bên phục vụ KCN. Thứ tư, kết hợp đẩy mạnh việc khai thác KCN với việc bảo vệ môi trường sinh thái. Phương hướng phát triển khu công nghiệp Nghị quyết đại hội VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Cải tạo các KCN hiện có về kết cấu hạ tầng và công nghệ sản xuất. Xây dựng mới một số KCN, phan bố rộng trên các vùng”. Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng hiện nay và dự báo triển vọng trong những năm tới nhằm thực hiện tốt mục tiêu phát triển KCN, tỉnh uỷ Bắc Ninh đã đưa ra một số phương hướng phát triển KCN như sau: Thứ nhất, phương châm là không nên hướng vào tăng số lượng mà chủ yếu là phải thu hút được các nhà đầu tư, kể cả trong và ngoài nước đầu tư vào những KCN đã có; từng bước điền đầy diện tích đã được đưa vào quy hoạch. Thực tế đã chứng minh, số lượng KCN nhiều hay ít không quan trọng, mà điều quan trọng hơn là hiệu quả sử dụng của nó (tức là hiệu quả về mặt kinh tế - xã hội và môi trường sinh thái). Thứ hai, đối với các KCN đã được cấp giấy phép nhưng chưa triển khai hoặc mới bắt đầu phát triển cơ sở hạ tầng, nhưng chưa có phương án thu hút đầu tư rõ ràng thì có thể rút giấy phép đầu tư. Còn đối với các KCN bắt đầu triển khai xây dựng có khó khăn nhưng có kế hoạch thu hút đầu tư khả thi thì phân làm hai loại: - Những KCN mới được thành lập, chưa rõ giải pháp huy động vốn phát triển hạ tần, công tác đền bù giải phóng mặt bằng có khó khăn và hạ tầng ngoài hàng rào yếu kém thì tạm thời giãn tiến độ xây dựng. - Những KCN đã chuẩn bị được mặt bằng, thu xếp được vốn để phát triển hạ tầng và đã có một số nhà đầu tư đăng ký đầu tư vào KCN thì thúc đẩy các KCN này phát triển hạ tầng theo hình thức cuốn chiếu tạo mặt bằng công nghiệp theo tiến độ thu hút đầu tư, trang thủ cơ hội kêu gọi nguồn vốn đầu tư. Thứ ba, khi xây dựng các KCN mới nên hướng vào các KCN có quy mô vừa và nhỏ, tránh xu hướng tham xây dựng quy mô lớn, bao chiếm nhiều diện tích như trước đây. Song dù quy mô nào, các KCN mới xây dựng từ nay về sau cũng cần bảo đảm có cơ sở hạ tầngốhàn chỉnh theo tiêu chuẩn quốc tế. Trong các KCN xây dựng mới cần quan tâm thu hút các doanh nghiệp có công nghệ sản xuất cao, sản xuất ra sản phẩm xuất khẩu hoặc sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu với quy mô lớn. Thứ tư, nâng cao khả năng quản lý vĩ mô và tổ chức điều hành triển khai phát triển các KCN. Tuy nhiên, trong quá trình quy hoạch phát triển KCN cần phải xác định được hướng thu hút phát triển những loại hình doanh nghiệp nào phù hợp với định hướng dịch chuyển cơ cấu kinh doanh mà UBND tỉnh Bắc Ninh đã chủ trương chỉ đạo. Ngoài BQL các KCN, tỉnh uỷ Bắc Ninh cần xây dựng phương án về xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật; thu hút các dự án đầu tư trong và ngoài nước; đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công nhân để tạo nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của tầng KCN. 3. Mục tiêu phát triển khu công nghiệp Nhằm thực hiện tốt mục tiêu phát triển KCN nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung, tỉnh uỷ Bắc Ninh đã đưa ra một số mục tiêu phát triển KCN đến năm 2010 như sau: - Tỉ lệ lấp đầy của các KCN trên địa bàn tỉnh chiếm khoảng 60% tổng diện tích đã được đưa vào quy hoạch (tăng 16,72% so với tháng 12 năm 2006). - Nâng dần tỉ lệ đóng góp của các KCN cho nền kinh tế của tỉnh vào khoảng 35% vào năm 2010. - Phấn đấu đưa khoảng 80% các doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh vào hoạt động tại các KCN. - Mục tiêu đến năm 2010, các KCN trên địa bàn Bắc Ninh giải quyết khoảng 20 000 việc làm cho người lao động. (Nguồn: Báo cáo tổng hợp của BQL các KCN Bắc Ninh) III. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các khu công nghiệp trên địa bàn Kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy, các KCN đã và đang đóng vai trò là những đầu tàu, những khâu đột phá có tác dụng kích thích mạnh mẽ đầu tư, sản xuất phục vụ xuất khẩu va tạo nền tảng cho sự phát triển toàn diện nền công nghiệp đất nước. Với các đặc tính riêng có, KCN có khả năng tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc đổi mới và phát triển kinh tế ở Bắc Ninh nói riêng và của Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, do mới bước đầu áp dụng và phát triển mô hình KCN còn gặp phải một số khó khăn, vướng mắc, các KCN chưa thể phát huy hết khả năng và hoạt động đạt hiệu quả cao như mong đợi. Từ tình hình thực tế như vậy đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng có những đối sách kịp thời, triển khai thực hiện các biện pháp nhằm tăng hiệu quả hoạt động của mỗi KCN. Sau đây là một số giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy nhanh quá trình sử dụng các KCN tại Bắc Ninh trong thời gian tới. Nhóm các giải pháp về khung pháp lý Nhằm giảm thiểu những khó khăn xuất hiện do tính không rõ ràng, không nhất quán của các văn bản pháp lý; hạn chế các thủ tục rườm rà, phức tạp trong quá trình cấp phép cũng như sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, BQL các KCN cũng như chính quyền địa phương cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau: Thứ nhất, tạo điều kiện ưu đãi các nhà đầu tư về vấn đề thủ tục hành chính khi đầu tư nhằm tăng tính hấp dẫn cho các thu hút đầu tư. Bắc Ninh có thể học tập kinh nghiệm của tỉnh Vĩnh Phúc trong quá trình cấp phép đầu tư. Tức là, khi chủ đầu tư có quyết định đầu tư vào KCN thì họ chỉ phải chuẩn bị phương án sản xuất kinh doanh; sau đó các chuyên gia của KCN có thể giúp đỡ họ hoàn tất hồ sơ cũng như các giấy tờ cần thiết khác (giấy phép xây dựng, giấy chứng nhận vệ sinh môi trường) để doanh nghiệp có thể đi vào hoạt động trong một thời gian ngắn (khoảng 01 hoặc 02 tuần). Thứ hai, tiếp tục phân cấp uỷ quyền cho BQL các KCN một cách đồng bộ, tạo điều kiện thực hiện cơ chế “một cửa, tại chỗ”. Để tạo điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện cơ chế “một cửa, tại chỗ”, tỉnh uỷ cần tiếp tục phân cấp và uỷ quyền cho BQL các KCN trong việc ra quyết định có liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN. Ví dụ như thẩm định thiết kế kỹ thuật, thẩm định xây dựng (hiện nay, vẫn do bộ phận thẩm định xây dựng do Sở Kế hoạch – Đầu tư tỉnh Bắc Ninh thẩm định),… Thứ ba, HĐND và UBND tỉnh cần giao cho BQL thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các công ty kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN. Sự theo dõi và hợp tác của BQL đối với hoạt động của các công ty kinh doanh cơ sở hạ tầng là một nhân tố quan trọng cho hoạt động của KCN. Đồng thời cũng đảm bảo các hoạt động này luôn ở trong khuôn khổ pháp luật nhà nước. Vì vậy, việc sớm giao chức năng quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng cho BQL các KCN là rất cần thiết và hợp lý. 2. Nhóm các giải pháp liên quan đến bộ máy quản lý khu công nghiệp Hiệu quả làm việc của BQL ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng của các KCN. Vì vậy, giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của BQL đang là vấn đề vấn đề quan tâm hàng đầu củ tỉnh Bắc Ninh. Thứ nhất, tăng cường mối liên hệ về nghiệp vụ chuyên môn với các cơ quan quản lý chuyên ngành cấp dưới nhằm tăng cường hiệu quả trong quá trình quản lý. Đồng thời, góp phần hạn chế, tiến tới xoá bỏ các trở ngại cho các nhà đầu tư, nhất là việc hạn chế kéo dài thời gian thực hiện các thủ tục cần thiết cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Thứ hai, tỉnh uỷ cần sớm tăng cường định biên cho BQL để đáp ứng yêu cầu công việc, tránh tình trạng một cá nhân phải đảm đương khá nhiều việc như hiện nay. Mặc dù, xu thế cải cách hành chính hiện nay là làm gọn nhẹ bộ máy. Tuy vậy, không có nghĩa là giảm bình quân ở tất cả các cơ quan. Với số lượng biên chế như hiện nay (25 người), BQL khổng thể triển khai hình thành các nhóm tư vấn, nhóm chuyên gia,… giúp đỡ các nhà đầu tư khi họ có ý định đầu tư vào các KCN. Vì vậy, việc cho phép BQL tăng thêm số lượng cán bộ có đủ trình độ để đảm đương công việc có thể từ từ theo từng năm là hết sức cần thiết. Thứ ba, tỉnh uỷ cần tăng cường kinh phí cho BQL để nối mạng (xây dựng mạng Lan) cho BQL các KCN và các cơ quan chuyên môn cấp dưới (BQL ở từng KCN). Xây dựng mạng Lan cho BQL các KCN và các cơ quan chuyên môn cấp dưới là một trong những nhân tố mang tính quyết định đến năng lực quản lý của BQL cũng như các cơ quan chuyên môn cấp dưới. Bởi nối mạng cho Ban và các cơ quan chuyên môn cấp dưới giúp BQL cập nhật thông tin một cách nhanh chóng, chính xác. Đồng thời, giảm thiểu chi phí về thời gian và tiền bạc trong quá trình đi lại lấy số liệu, tìm kiếm thông tin cũng như chi phí về “văn phòng phẩm” trong quá trình gửi các loại giấy tờ (như công văn, báo cáo,…) của BQL và các cơ quan chuyên môn. Qua đó, góp phần nâng cao năng lực quản lý của BQL và của cơ quan chuyên môn cấp dưới. Thứ tư, tạo điều kiện giúp cán bộ công nhân viên trong Ban học vi tính nhằm nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình làm việc; quá trình lưu trữ hồ sơ, tài liệu nhằm hạn chế tình trạng áp dụng phương pháp thủ công trong một số công việc (như:quy hoạch đất đai, thẩm định xây dựng,…) cũng như hạn chế chi phí về “văn phòng phẩm” cho BQL. Ngoài ra, BQL cũng cần tạo điều kiện giúp cán bộ công nhân viên trong Ban học hỏi chuyên môn; đi thực tế nhằm học hỏi kinh nghiệm quản lý của các tỉnh bạn để mạnh dạn đề xuất ý kiến áp dụng cho các KCN ở Bắc Ninh. Thứ năm, tỉnh uỷ Bắc Ninh có thể thuê các công ty tư nhân tham gia quản lý KCN. Khi tỉnh uỷ trực tiếp quản lý các KCN, để có thể nâng cao được hiệu quả quản lý tỉnh uỷ cần thực hiện đồng bộ các giải pháp về cơ cấu tổ chức, nguồn tài chính cũng như năng lực của BQL. Trong khi đó, nếu thuê tư nhân quản lý tạo điều kiện làm gọn nhẹ bộ máy quản lý, tỉnh uỷ không cần nghiên cứu đưa ra một cách đồng bộ hệ thống về cơ cấu tổ chức, nguồn tài chính cũng như năng lực của bộ máy quản lý. Thực tế đã chứng minh, hiệu quả hoạt động của các công ty tư nhân cao hơn rất nhiều so với hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước. Mục đích của mọi hoạt động kinh doanh là lợi nhuận. Vì vậy, nếu tư nhân tham gia quản lý sẽ khó tránh khỏi việc “theo đuổi” lợi nhuận của các công ty tư nhân, khó đạt được hiệu quả về mặt xã hội. Đồng thời, đây lại là một vấn đề mới. Do đó, địa phương cần nghiên cứu đưa ra các điều kiện ràng buộc đối với các công ty này cũng như việc nghiên cứu thử nghiệm trước khi mở rộng hình thức hoạt động này. Mặc dù khó khăn, nhưng nếu được tổ chức chặt chẽ, chỉ đạo tốt; có sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành trung ương, và địa phương vẫn có khả năng thực hiện được. 3. Nhóm các giải pháp liên quan đến đất đai và hạ tầng cơ sở Về đất đai Thực hiện mục tiêu ưu đãi đối với các vấn đề liên quan đến đất đai cho các doanh nghiệp nhằm tạo môi trường thuận lợi thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào các KCN đang là vấn đề gây nhiều tranh cãi và bức xúc nhất trong quá trình đầu tư của Bắc Ninh nói chung và của Việt Nam nói riêng. Để khắc phục tình trạng này, Bắc Ninh cần thực hiện một số giải pháp sau: Đầu tiên, trong khi chờ Chính phủ đưa ra quyết định giảm giá thuê đất, UBND tỉnh cần có chính sách hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp trong việc thuê đất tại các KCN (có thể từ nguồn thu thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp mà tỉnh được hưởng). Việc thu hút các doanh nghiệp vào các KCN là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn, nó không chỉ góp phần tăng trưởng kinh tế mà còn tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững của Bắc Ninh. Chính vì vậy, tỉnh uỷ cần tập trung các nguồn lực, đặc biệt là các nguồn lực tài chính (các quỹ hỗ trợ) để hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong KCN. Bắc Ninh có thể học tập kinh nghiệm của những địa phương khác (như Vĩnh Phúc, Bình Dương, Hà Nội) như: sử dụng nguồn ngân sách của tỉnh để hỗ trợ việc di dời, hỗ trợ doanh nghiệp thuê đất hoặc giảm thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp (chỉ giảm từ khoản mà tỉnh được hưởng),… cho các doanh nghiệp khi họ có nhu cầu đầu tư vào các KCN, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp đang hoạt động tại KCN khi họ có nhu cầu mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Ngoài ra, tỉnh có thể tạo điều kiện hỗ trợ cho doanh nghiệp có thể trả tiền thuê đất trong nhiều lần thay vì phải trả một lần như trước đây. Thứ hai, trước mắt trong khi chờ sửa đổi Luật đất đai, tỉnh cần nghiên cứu biện pháp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất “con” (ngoài giấy chứng nhận cấp cho cho các doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng) nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể thế chấp vay vốn Ngân hàng khi cần thiết (giấy chứng nhận “con” này không thể dùng để chuyển nhượng vào các mục đích khác ngoài thế chấp Ngân hàng để vay vốn). Thứ ba, một trong các biện pháp hữu hiệu nhất nâng cao hiệu quả sử dụng các KCN là tỉnh không tiếp tục mở rộng việc xây dựng các KCN trên địa bàn. Bắc Ninh là một trong số những tỉnh thành “đất chật, người đông” (diện tích khoảng 807 km2, đến tháng 12 năm 2006 mật độ dân số là 1 163 người/km2); Bắc Ninh lại có khá nhiều KCN (08 KCN có quy mô lớn), 25 cụm công nghiệp có quy mô vừa và nhỏ và 62 làng nghề truyền thống. Vì vậy, một trong những biện pháp thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng các KCN là Bắc Ninh không nên tiếp tục xây dựng các KCN mới để tránh tình trạng đầu tư “dàn trải” vừa gây lãng phí nguồn lực vừa làm giảm hiệu quả sử dụng các KCN trong quá trình đầu tư phát triển. 3.2 Về cơ sở hạ tầng Đầu tiên, tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong các KCN ở Bắc Ninh như: hệ thống giao thông, điện, cấp thoát nước, … nhằm giảm thiểu những chi phí phát sinh khi nhà đầu tư đầu tư vào các KCN và cung cấp các dịch vụ cho KCN một cách đồng bộ với giá hợp lý. Dịch vụ cung cấp điện, cấp thoát nước, giao thông, viễn thông,… là những dịch vụ quan trọng cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN. Để có thể nâng cao tính hấp dẫn của các KCN, những dịch vụ không những cần được cung cấp một cách kịp thời mà cần có một mức giá thoả đáng; tạo điều kiện thuận lợi có điều kiện giảm chi phí so với đầu tư vào địa điểm khác. Tiếp đến, tỉnh cần đưa ra các chính sách ưu đãi nhằm kêu gọi các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đầu tư vào các hạng mục hạ tầng. Do đầu tư vào các hạng mục hạ tầng kỹ thuật nhìn chung phải cần nguồn vốn lớn, thời gian thu hồi vốn chậm. Vì vậy, việc đưa ra các chính sách ưu đãi (như: giảm thiểu các thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp khi xin cấp phép xây dựng; tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khi vay vốn tín dụng;…) là một trong những biện pháp quan trọng kêu gọi các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đầu tư vào cơ sở hạ tầng, thúc đẩy quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng trong các KCN, đặc biệt là trong trường hợp nguồn ngân sách của tỉnh còn rất hạn hẹp. 4. Nhóm các vấn đề liên quan đến dịch vụ Các dịch vụ KCN BQL các KCN và các cơ quam liên quan cần có những biện pháp cung cấp các dịch vụ cho các doanh nghiệp hoạt động trong KCN một cách đồng bộ và hợp lý. Để làm được điều này, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau: Thứ nhất, tiếp tục đầu tư xây dựng các khu dân cư, khu đô thị gắn liền với các KCN nhằm hoàn thiện hệ thống cung cấp các dịch vụ cho các doanh nghiệp như: hệ thống cung cấp nguyên vật liệu; nhận gia công, chế biến;…cũng như hệ thống cung cấp các dịch vụ như: nhà ở, trường học,… phục vụ nhu cầu đời sống người lao động. Thứ hai, cần có các biện pháp khuyến khích nhằm kêu gọi các chủ đầu tư đầu tư xây dựng nhà để bán hoặc cho thuê cũng như việc xây dựng các trường tư thục, các trung tâm vui chơi giải trí,… liền kề các KCN nhằm cung cấp các dịch vụ tốt nhất cho các nhà đầu tư cũng như người lao động làm việc trong các KCN. Tuy nhiên, việc phát triển nhà ở cho công nhân cần gắn liền với các giải pháp về vấn đề đất, vốn và tổ chức kinh doanh nhà. Theo đó, quỹ đất dành để xây dựng nhà phải được giải quyết ngay từ khâu thiết kế quy hoạch KCN. 4.2 Thành lập các nhóm nghiên cứu, nhóm tư vấn nhằm cung cấp thông tin cho doanh nghiệp Thứ nhất, hình thành các trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp với nhiều hình thức khác nhau như: cung cấp thông tin pháp luật, thông tin thị trường, tổ chức các khoá huấn luyện kiến thức kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm đối tác kinh doanh,… Với việc tập trung các doanh nghiệp trên một địa bàn sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc cung cấp thông tin, tư vấn cho những doanh nghiệp này. Tỉnh uỷ cần hỗ trợ cho việc hình thành một vài trung tâm tư vấn các KCN. Những trung tâm này (có thể do tỉnh uỷ thành lập hoạt động không vì lợi nhuận) sẽ cung cấp những dịch vụ từ đơn giản (ví dụ có thiết bị văn phòng như máy tính, máy Fax,… phục vụ một số doanh nghiệp nhỏ); cung cấp thông tin pháp luật, thị trường, thực hiện dịch vụ kế toán, dịch vụ vệ sinh… đến các dịch vụ phức tạp hơn như tư vấn quản lý, tư vấn pháp luật, mở khoá bồi dưỡng ngắn hạn;… Thứ hai, xây dựng trang chủ (Website) cho các KCN tại Bắc Ninh nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận và sử dụng phương thức thương mại điện tử. BQL các KCN Bắc Ninh cần mở một trang chủ trên mạng Internet (Website) để thông qua đó tự giới thiệu, tự quảng cáo cho các KCN cũng như cho các doanh nghiệp trong các KCN. Đồng thời, cũng dễ dàng liên lạc, cung cấp thông tin, giải đáp thắc mắc cho các nhà đầu tư khi họ có ý định tham gia đầu tư vào các KCN của Bắc Ninh. Bên cạnh đó, BQL các KCN cũng cần tổ chức hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong KCN thành lập những trang Web riêng có của công ty nhằm cung cấp thông tin, tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong quá trình tìm kiếm đối tác kinh doanh cũng như khách hàng của mình. Thứ ba, thành lập các nhóm nghiên cứu yêu cầu của các nhà đầu tư và xu hướng đầu tư trong giai đoạn tới nhằm đáp ứng các yêu cầu đó cũng như cung cấp những thông tin cần thiết cho chủ đầu tư khi họ có ý định đầu tư vào các KCN tại Bắc Ninh. V. Kiến nghị Nhằm giảm thiểu những khó khăn cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng của các KCN trên địa bàn, BQL cũng như chính quyền địa phương cần nghiên cứu đưa ra các kiến nghị đối với Trung ương như sau: Thứ nhất, nhà nước cần rà soát các văn bản pháp lý liên quan sửa đổi, bổ sung và chi tiết hoá tạo điều kiện thực thi pháp luật một cách nhất quán trong việc cấp phép đầu tư vào các KCN nói riêng và đầu tư nói chung. Cụ thể như: Đối các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN nhà nước nên uỷ quyền cho BQL các KCN cấp các loại giấy tờ có liên quan ngay từ khi chủ đầu tư muốn tham gia kinh doanh. Hệ thống văn bản pháp lý hiện nay còn chưa được hoàn chỉnh, chồng chéo, không nhất quán. Việc rà soát lại các văn bản pháp lý, bãi bỏ những quy định không phù hợp, cụ thể hoá và nhất quán cách hiểu các văn bản pháp lý không những tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan quản lý nhà nước trong công việc điều hành nền kinh tế. Thông qua giải pháp này, chúng ta có thể thảm thiểu được hệ thống rườm rà, phức tạp đồng thời hạn chế được tình trạng “nhũng nhiễu” của cán bộ quản lý trong quá trình xét duyệt những thủ tục liên quan trong quá trình cấp phép đầu tư vào các KCN. Thứ hai, nhà nước cần tiếp tục ban hành các thông tư hướng dẫn thực hiện cơ chế “một cửa, tại chỗ” nhằm giúp các nhà đầu tư cũng như người lao động không phải theo cơ chế “nhiều cửa, nhiều nơi” với những thủ tục phức tạp gây tốn kém về thời gian và tiền bạc. Thứ ba, nhà nước nên nghiên cứu nhằm tăng thêm quyền hạn của chính quyền Bắc Ninh nói riêng và chính quyền của các tỉnh (thành phố) khác nói chung trong việc chủ động đưa ra các biện pháp khuyến khích đầu tư như: ưu đãi về thuế, về giá đất,… nhằm tạo tính chủ động hơn cho các tỉnh thành trong việc thu hút đầu tư vào các KCN. Thứ tư, nhà nước cần uỷ quyền cho BQL các KCN cấp các loại giấy phép như: giấy phép xây dựng, giấy phép lao động,… nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư cũng như người lao động nhằm giảm thiểu công sức của họ trong quá trình xin cấp phép. Trên đây, là một số giải pháp và kiến nghị đối với nhà nước mà trong quá trình nghiên cứu, phân tích, tìm hiểu tôi đã đưa ra nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng của các KCN trên địa bàn của tỉnh Bắc Ninh. KẾT LUẬN Sau thời gian thực tập ở phòng Tài chính - Kế hoạch thuộc huyện Tiên Du - tỉnh Bắc Ninh, cùng với sự giúp đỡ rất tận tình tạo mọi điều kiện thuận lợi của các cô, chú, anh, chị trong phòng đã giúp đỡ. Cùng với sự chỉ bảo nhiệt tình của các thầy, cô trong khoa Kế hoạch – Phát triển; đặc biệt là sự giúp đỡ, chỉ bảo của thầy Thạc sĩ Vũ Cương đã giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn các cô, chú, anh, chị,…trong phòng Tài chính - Kế hoạch cùng các thầy cô giáo trong khoa Kế hoạch – Phát triển đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện giúp tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Xin chân thành cảm ơn! Danh mục các chữ viết tắt: 1. BQL 2. KCN 3. KCX 4. UBND 5. HĐND 6. VĐT Ban quản lý Khu công nghiệp Khu chế xuất Uỷ ban nhân dân Hội đồng nhân dân Vốn đầu tư Mục lục Danh mục các bảng, biểu, hình vẽ: Bảng 2.1: Tổng hợp tình hình cho thuê đất tại các KCN Bắc Ninh (tính đến hết tháng 12/2006) 37 Bảng 2.2: Bảng tổng hợp tình hình cho thuê đất tại các KCN giai đoạn 2001-2006 38 Hình 2.1: Biểu đồ tỉ lệ cho thuê đất tại các KCN ở Bắc Ninh giai đoạn 2001-2006 39 Bảng 2.3: Bảng tổng hợp số vốn đầu tư tại các KCN Bắc Ninh 40 Bảng 2.4: Tổng hợp tình hình đầu tư vào các KCN tại Bắc Ninh 42 Bảng 2.5: Bảng tổng hợp tỉ lệ đóng góp cho GDP toàn tỉnh giai đoạn 2001-2006 44 Hình 2.2: Biểu đồ tỉ lệ đóng góp cho GDP toàn tỉnh giai đoạn 2001-2006 44

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0090.doc
Tài liệu liên quan