Thực trạng sử dụng internet của học sinh cấp 3, trường chuyên Trần Đại Nghĩa,TP. Hồ Chí Minh, năm 2012

Các bậc phụ huynh bên cạnh việc tạo điều kiện để các em sử dụng Internet vào mục đích học tập, thư giãn, đồng thời cũng cần hoạch định thời gian sử dụng để các em tránh sa đà vào Internet. Thêm vào đó, các em học sinh của trường cũng cần được trang bị kiến thức về các tác hại của việc sử dụng Internet kéo dài, có thể khiến các em bị lệ thuộc vào nó. Cần có những nghiên cứu chuyên sâu hơn, kéo dài hơn và có thang đo cụ thể hơn để có thể kết luận mối quan hệ nhân quả giữa việc sử dụng Internet từ 20 giờ/tuần trở lên với các yếu tố liên quan. Việc so sánh và lấy mẫu ở quần thể lớn hơn hoặc nhiều nhóm học sinh hơn (có thể có cả trường công lập và trường tư thục) cũng sẽ giúp vẽ bức tranh hoàn chỉnh về thực trạng sử dụng Internet hiện nay ở đối tượng học sinh tại TP.HCM . Lời cảm ơn: Nhóm nghiên cứu xin chân thành cám ơn sự hỗ trợ của Ban giám hiệu và Đoàn thanh niên trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa đã giúp cho nghiên cứu được thành công.Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu cũng gửi lời cám ơn đến Ths.Bs.Võ Hữu Thuận (Viện Y tế công cộng TP.HCM) đã góp ý để bài báo được hoàn thiện

pdf7 trang | Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 552 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng sử dụng internet của học sinh cấp 3, trường chuyên Trần Đại Nghĩa,TP. Hồ Chí Minh, năm 2012, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  755 THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET CỦA HỌC SINH CẤP 3,   TRƯỜNG CHUYÊN TRẦN ĐẠI NGHĨA, TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012  Vũ Anh Kiệt*, Huỳnh Giao**, Nguyễn Thành Luân**  TÓM TẮT  Đặt vấn đề: Nghiên cứu được thực hiện nhằm khảo sát thực trạng sử dụng Internet ở một trường chuyên  TP.HCM, nơi khuyến khích học sinh ứng dụng các tiện ích Internet vào học tập.   Mục  tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ và mục đích sử dụng Internet của học sinh trường THPT chuyên  Trần Đại Nghĩa, và tìm mối liên quan giữa việc sử dụng từ 20 giờ/tuần trở lên với các vấn đề về sức khỏe thể  chất và tinh thần.  Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang toàn bộ trên 829 học sinh, sử dụng bộ câu hỏi tự điền kết  hợp với thời gian đo là giờ/tuần. Các kết quả được thống kê và tìm các mối liên quan thông qua phép kiểm định  chi bình phương.  Kết quả nghiên cứu: 94,5 % các em sử dụng Internet, và có gần 50% sử dụng từ 20 giờ/tuần trở lên. Mục  đích các em sử dụng khá đa dạng, và có đến gần 60% các em có các vấn đề về sức khỏe trong thời gian sử dụng.  Ngoài ra, nghiên cứu cũng tìm thấy mối liên quan với các vấn đề sức khỏe thể chất và tinh thần.  Kết luận: Các bậc phụ huynh cần quan tâm, giám sát việc sử dụng của con mình hơn để giúp các em tránh  sa đà Internet, và nhà trường cần có chương trình về tác hại của việc lạm dụng Internet để cảnh báo học sinh  tránh sa đà vào Internet.  Từ khóa: Internet  ABSTRACT  SITUATION OF INTERNET USE OF STUDENTS IN TRAN DAI NGHIA HIGH SCHOOL   FOR THE GIFTED, HO CHI MINH CITY, 2012  Vu Anh Kiet, Huynh Giao, Nguyen Thanh Luan  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6 ‐ 2014: 755 ‐ 761  Background: The study was carried out to explore the actual Internet use at a specialized school in HCMC,  which encourages students to apply Internet for studying.  Objectives: Determine purposes and rate of using Internet of Tran Dai Nghia high school students, and  examine  the  relations between  the use  Internet  of 20 hours  and more per week with  the physical  and mental  health.  Method: A cross‐sectional study on 829 students, using questionnaire combined with the time scale hour  per week. The data were statistic and examined the correlations by chi‐squared test.  Results: 94.5% of students used Internet, and approximately 50% of them accessed Internet 20 hours and  more per week. Activities, which they joined, are varied. There were nearly 60% of Internet users who have health  problems during using Internet. In addition, the survey found the associations between Internet use and physical  and mental health among school students.  Conclusion: Parents  need  caring  and monitoring  the  Internet  use  of  their  children  to  help  them  avoid  abusing Internet, and the school should have a program to introduce to harm of abusing Internet in order to warn  * Viện Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh  ** Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: CN. Vũ Anh Kiệt  ĐT: 0962762479  Email: vukiet1990@yahoo.com  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 756 students of misusing Internet.  Keywords: Internet  ĐẶT VẤN ĐỀ  Internet  đã và  đang  trở  thành một  công  cụ  hữu  hiệu  nhất  để  tiếp  cận  nguồn  tri  thức  của  nhân loại. Tuy nhiên, việc lạm dụng Internet có  thể dẫn  đến  tình  trạng nghiện  Internet. Young  (1996) là người đầu tiên đề xuất các khái niệm về  nghiện  Internet(4):  sử  dụng  Intetnet  trên  40  giờ/tuần.  Với  sự  phát  triển  nhanh  chóng  của  máy  vi  tính,  điện  thoại  thông  minh  và  cả  Internet, một nghiên cứu trên đối tượng học sinh  cấp  3  tại  Đài  Loan  cho  rằng  ngưỡng  nghiện  Internet là từ 20 giờ/tuần trở lên.  Tại Việt Nam, chưa có một nghiên cứu nào  về vấn đề nghiện Internet và thời lượng sử dụng  Internet. Tuy  nhiên,  bệnh  viện  tâm  thần  trung  ương 2 đã ghi nhận có các  trường hợp rối  loạn  tâm  thần  và  hành  vi  liên  quan  đến  sử  dụng  Internet(1).  Theo  Trung  tâm  Internet Việt Nam  (VNNIC),  tỷ  lệ dân  số sử dụng  Internet  lên  tới  35,29% tính đến tháng 3 năm 2012(2). Theo điều  tra  quốc  gia  năm  2010  trên  10.000  thanh  thiếu  niên Việt Nam  (từ  14  đến 25)  cho  thấy  có  đến  trên 61% có sử dụng Internet, và  trung bình sử  dụng hơn 1 tiếng mỗi ngày. Tuy nhiên do cuộc  khảo sát ở nhiều vùng miền khác nhau nên thời  gian  sử  dụng  Internet  trung  bình  1  tiếng mỗi  ngày  chưa  phản  ánh  đúng  tình  hình  sử  dụng  Internet  ở  thanh  thiếu  niên  thành  thị,  nơi  có  nhiều điều kiện tiếp cận Internet hơn.   Việc  ứng  dụng  Internet  vào  học  tập  luôn  được ngành giáo dục  thành phố Hồ Chí Minh  khuyến khích, đặc biệt đối vớihọc sinh cấp 3 tại  những trường chuyên. Tuy nhiên, việc sử dụng  Internet ngoài mục  đích học  tập và  thiếu kiểm  soát có thể ảnh hưởng đến thời gian học tập, sức  khỏe cả về  thể chất và  tâm  thần. Do đó, chúng  tôi  thực hiện một  cuộc  điều  tra  trên  đối  tượng  học  sinh  cấp  3  trường  chuyên Trần  Đại Nghĩa  nhằm xác định tỷ lệ học sinh sử dụng Internet và  xác  định  mối  liên  quan  giữa  việc  sử  dụng  Internet  từ  20  giờ/tuần  trở  lên  (ngưỡng  gây  nghiện)  với một  số  yếu  tố  liên  quan  đến  sức  khỏe thể chất và tinh thần.   Mục tiêu  Xác định tỷ lệ sử dụng Internet, mục đích sử  dụng  và  các mối  liên  quan  giữa  việc  sử  dụng  Internet từ 20 giờ/tuần trở lên với các yếu tố sức  khỏe  thể  chất  và  tinh  thần  ở  học  sinh  cấp  3  trường chuyên Trần Đại Nghĩa.  ĐỐI  TƯỢNG ‐ PHƯƠNG  PHÁP  NGHIÊN  CỨU  Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên toàn bộ học  sinh cấp 3 trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa  được tiến thành vào tháng 5 năm 2012, thời điểm  mà các em đã xong kỳ thi học kỳ và đang chuẩn  bị nghỉ hè để gia tăng tỷ lệ tham gia nghiên cứu.   Thông tin được thu thập bao gồm các thông  tin về tuổi, lớp, mục đích sử dụng, thời gian sử  dụng  Internet  (tính  theo  giờ/tuần),  các  ảnh  hưởng về thể chất và tinh thần xảy ra trong thời  gian sử dụng  Internet. Học sinh được xác định  sử dụng Internet thông qua việc đánh dấu vào ô  “có sử dụng Internet” đồng thời có ghi thời gian  sử dụng vào các hoạt động  trên  Internet  tương  ứng  (nếu có sử dụng). Các vấn đề về sức khỏe  thể chất và tinh thần được xác định dựa trên các  tài  liệu  tham  khảo  và  trải  nghiệm  thực  tế  của  nhóm  nghiên  cứu.  Tuy  nhiên,  nghiên  cứu  chỉ  đơn thuần định nghĩa các biến này định tính mà  chưa có 1 thang đo lường chuyên biệt. Riêng với  thời gian  sử dụng  Internet, nghiên  cứu  đưa  ra  các hoạt động và đối tượng tham gia tự điền thời  gian  sử dụng  Internet  trung bình vào  các hoạt  động này, sau đó đối tượng tham gia tự ghi  lại  tổng thời gian trung bình sử dụng Internet trong  một tuần. Các phiếu khảo sát không hợp lệ sẽ là  phiếu  có  tổng  thời  gian  sử  dụng  lớn  hơn  100  giờ/tuần  hoặc  có  thời  gian  cho một  hoạt  động  trên Internet lớn hơn tổng thời gian sử dụng.   Chúng  tôi  sử  dụng  bộ  câu  hỏi  tự  điền  có  nhiều  lựa chọn để thu thập  thông  tin. Các điều  tra viên đã qua tập huấn sẽ đến từng lớp trao đổi  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  757 về mục đích nghiên cứu và cách sử dụng bộ câu  hỏi. Các  thông  tin  sẽ  được  lọc  và mã  hóa  lại,  nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1, xử lý số  liệu bằng R (package epicalc). Số liệu được thống  kê mô  tả bằng  tần số,  tỉ  lệ phần  trăm; xác định  mối  liên  quan  bằng  phép  kiểm  định  chi  bình  phương và mối tương quan bằng tỷ  lệ nguy cơ  hiện  hành  (PR).  Các  thông  tin  nhận  dạng  cá  nhân được bảo mật và điều này đã được thông  báo đến đối  tượng  tham gia  trước khi  thu  thập  số liệu.   KẾT QUẢ   Bảng 1. Các đặc tính của mẫu theo giới, khối lớp, học  lực (n=829)  Đặc tính Tần số (%) Giới Nữ 516 (62,2) Nam 313 (37,8) Khối lớp Lớp 10 335 (40,4) Lớp 11 272 (32,8) Lớp 12 222 (26,8) Học lực Giỏi 678 (81,8) Khá 140 (16,9) Kết quả nghiên cứu thu được 974 phiếu (đủ  100% học  sinh  toàn  trường  theo  số  liệu phòng  đào tạo), sau khi sàng lọc chỉ còn 829 phiếu hợp  lệ (đạt 85,1%) trong đó tỷ lệ số học sinh nam và  nữ, học sinh ở các khối lớp đảm bảo đúng tỷ lệ  học sinh hiện có của trường trong năm học này.   Bảng 2. Các đặc tính của mẫu theo thời gian sử dụng  Internet (n=829)  Đặc tính Tần số (%) Sử dụng Internet 783 (94,5) Thời gian sử dụng < 10 giờ 234 (28,3) 10 - 19 giờ 232 (28,0) 20 – 29 giờ 132 (16,0) 30 – 39 giờ 97 (11,7) 40 – 49 giờ 50 (6,0) >=50 - < 100 giờ 83 (10,0) Tỷ  lệ  học  sinh  sử  dụng  Internet  là  94,5%,  trong  đó  có  đến hơn  40% học  sinh  sử dụng  ở  mức từ 20 giờ trở lên trong một tuần, và 16% sử  dụng từ 40 giờ/tuần trở lên.  Biểu đồ 1.Mục đích sử dụng Internet (n=783).  Đối  tượng  tham  gia  sử  dụng  Internet  vào  mục đích học tập chiếm tỷ lệ cao nhất (87,6%), kế  đến là các hoạt động giải trí như nghe nhạc, xem  phim,  trò  chuyện  trên mạng, mạng  xã  hội  (từ  79,7% – 87%). Các hoạt động giải trí khác như trò  chơi trực tuyến, đọc truyện chiếm tỷ lệ cũng khá  cao (lần lượt 48,5% và 45,2%).   0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100 Tìm thông tin học tập Nghe nhạc Đọc tin tức Xem phim, video Chat, trò chuyện Mạng xã hội Chơi game Đọc truyện Diễn đàn Khác 87,6 87 86,8 82,6 81,6 79,7 48,5 45,2 28,1 4,1 % Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 758 Biểu đồ 2. Thời gian trung bình dành cho các hoạt động trên Internet (n=783).  Nếu mục  đích học  tập,  đọc  tin  chiếm  tỷ  lệ  cao nhất  thì  thời gian dành  cho  các hoạt  động  này  lại  khá  thấp  (lần  lượt  4,3  và  3,6  giờ/tuần)  trong khi thời gian giành cho các hoạt động giải  trí như mạng xã hội, nghe nhạc lại cao gần gấp  đôi (lần lượt 7,8 và 7,1 giờ/tuần).  Biểu đồ 3. Những vấn đề sức khoẻ thể chất trong khi sử dụng Internet (n=783)  Tỷ  lệ học sinh có vấn đề về sức khỏe  trong  khi sử dụng Internet chiếm đến gần 59,9%. Tỷ lệ  học  sinh bị  ảnh hưởng về mắt  chiếm  tỷ  lệ  cao  nhất  (38,3%),  ảnh  hưởng  đến  lưng,  vùng  cột  sống cao thứ hai (33,2%).   0 1 2 3 4 5 6 7 8 Mạng xã hội Nghe nhạc Chat, trò chuyện Chơi game Đọc truyện Xem phim, video Đọc tin tức Diễn đàn Tìm thông tin học tập 7,8 7,1 6 5,6 5,1 4,6 4,3 3,8 3,6 giờ / tuần 0 10 20 30 40 50 Không bị gì Mỏi mắt, mờ mắt Đau lưng, mỏi vai Mệt mỏi, uể oải Nhức đầu, chóng mặt Đau bụng, đau dạ dày Khác 40,1 16,3 33,2 38,3 3,6 26,2 6,4 % Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  759 Biểu đồ 4. Những tác động lên sức khỏe tinh thần của việc sử dụng Internet (n=783)  Đa  số  học  sinh  nhận  xét  Internet  giúp  thư  giãn (97,1%), giúp học tập (86,7%). Tuy nhiên có  một  số  lượng không nhỏ  các  em học  sinh  cảm  thấy không thể sống thiếu Internet (34,6%), bị la  rầy do sử dụng Internet (18,3%).   Bảng 3. Mối liên quan giữa việc sử dụng Internet từ 20 giờ/tuần trở lên với một số thông tin nền và các vấn đề  sức khỏe, tinh thần (n=783).  Nội dung Sử dụng từ 20 giờ/tuần χ2 PR (KTC 95%) Có (%) Không (%) Thông tin nền Giới Nam (n=290) 144 (49,7) 146 (50,3) 7,2 1,26 (1,06 - 1,49) Nữ (n=493) 195 (39,6) 298 (60,4) Lớp 10 (n=324) 149 (46,0) 175 (54,0) 22,8 1 11 (n=263) 133 (50,6) 130 (49,4) 1,10 (0,92-1,32) 12 (n=196) 57 (29,1) 139 (70,9) 0,76 (0,61–0,95) Sức khỏe thể chất Mệt mỏi, uể oải Có (n=205) 101 (29,8) 104 (23,4) 3,7 1,27 (1,00 – 1,62) Không (n=578) 238 (70,2) 340 (76,6) Sức khỏe tinh thần Khiến bị la rầy Có (n=143) 75 (22,1) 68 (15,3) 5,5 1,44 (1,06 – 1,95) Không (n=640) 264(77,9) 376 (84,7) Giúp chứng tỏ bản thân Có (n=76) 45 (13,3) 31 (7,0) 8,0 1,90 (1,22 – 2,97) Không (n=707) 294(86,7) 413 (93,0) Cảm thấy không thể sống thiếu Internet Có (n=271) 161(47,5) 110 (24,8) 42,8 1,92 (1,58 – 2,33) Không (n=512) 178(52,5) 334 (75,2) * Các mối liên được trình bày đều có ý nghĩa thống kê  0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100 Thư giãn Học tập Không thể sống thiếu Internet Bị la rầy Chứng tỏ bản thân Ngại giao tiếp trực tiếp 86,7 97,1 18,3 9,7 4,6 34,6 % Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 760 Nghiên  cứu  không  tìm  thấy mối  liên  quan  giữa việc sử dụng Internet từ 20 giờ/tuần trở lên  với  các  biến  học  lực, mỏi mắt  – mờ mắt,  đau  lưng – mỏi vai, nhức đầu – chóng mặt, đau bụng  – đau dạ dày, giúp học tập, giúp thư giãn, ngại  giao tiếp.   Học  sinh  nam  có  khuynh  hướng  sử  dụng  Internet nhiều hơn nữ (gấp 1,26 lần) và học sinh  lớp 12 thì thời gian sử dụng Internet càng ít hơn  lớp dưới. Thêm vào  đó, việc  tìm  thấy mối  liên  quan giữa mệt mỏi  ‐ uể oải,  trong đó người sử  dụng Internet từ 20 giờ/tuần trở lên thì mệt mỏi  cao gấp 1,27 lần so với người sử dụng thời gian  ít hơn. Ngoài ra, nghiên cứu cũng tìm thấy mối  liên  quan  giữa  việc  sử  dụng  Internet  từ  20  giờ/tuần với các yếu  tố không  tốt cho sức khỏe  tinh thần như khiến các em bị la rầy và cảm thấy  không thể sống thiếu Internet (lần lượt gấp 1,44  và 1,92 lần).   BÀN LUẬN  Qua khảo sát với tỷ lệ sử dụng Internet ở học  sinh cấp ba  trong  trường phù hợp với khảo sát  gần đây của Yahoo! & Kantar media năm 2011 ở  các thành phố lớn cũng có tỷ lệ sử dụng là 91% ở  độ tuổi 15 đến 19. Tuy nhiên, việc hơn 40% các  em sử dụng Internet ở mức có thể gây nghiện (từ  20 giờ/tuần trở lên) là một vấn đề đáng quan tâm  vì  trường  THPT  chuyên  Trần  Đại  Nghĩa  là  trường dạy 2 buổi, cả ngày thứ 7 và học sinh còn  có thể đi học thêm vào buổi chiều tối nên tỷ lệ sử  dụng  Internet  vào  ngưỡng  có  thể  gây  nghiện  như vậy là khá cao. Về mục đích sử dụng, hoạt  động mà các em thường hay sử dụng đó là tìm  thông  tin học  tập, nghe nhạc,  đọc  tin  tức, xem  phim, chat,  trò chuyện và mạng xã hội  tới hơn  80%. Kết  quả  cũng  tương  đương  với  khảo  sát  của  SAVY  2  khi  tỷ  lệ  thanh  niên  sử  dụng  Internet  vào  tìm  kiếm  thông  tin,  nghe  nhạc  chiếm  hơn  70%.  Tuy  nhiên  SAVY  chưa  đưa  mạng  xã  hội  vào  khảo  sát  nên  chưa  đánh  giá  được hoạt động này.  Có nhiều vấn  đề  sức khỏe  đã  được các em  đưa ra như vấn đề về mắt  (đau mắt, mỏi mắt),  vấn  đề về  lưng  (đau  lưng, mỏi vai), vấn  đề về  thần kinh  (mệt mỏi, uể oải)  trong  thời gian  sử  dụng  Internet.  Tuy  nhiên  nghiên  cứu  chỉ  tìm  thấy mối liên quan giữa thời gian sử dụng từ 20  giờ/tuần  trở  lên  với mệt mỏi uể  oải.  Điều  này  cũng phù hợp với  các nhận xét  của Young khi  mô tả về các  trường hợp nghiện Internet thì họ  thường xuyên bị mệt mỏi, các vấn đề sức khỏe  khác (như ảnh hưởng lên mắt, cột sống) cũng đã  được ghi nhận nhưng kết quả cũng không  thật  sự  rõ  ràng. Do  đó,  các  em  học  sinh  cần  được  trang bị những kiến  thức về việc kiểm  soát  sử  dụng  Internet để  tránh bị các  tác động đến sức  khỏe trong khi sử dụng Internet.  Về các  tác động đến sức khỏe  tinh  thần, đa  số các em cho rằng Internet có tác động tích cực  như giúp học tập, giúp thư giãn; tuy nhiên, vẫn  có khá nhiều các em có  tác động  tiêu cực như:  cảm thấy không thể sống thiếu Internet, khiến bị  la rầy, và ngại giao  tiếp  trực  tiếp. Các  tác động  này  tuy  không  thể  đo  lường  cụ  thể  chính  xác  nhưng việc các em xác nhận với tỉ lệ khá cao như  vậy cho thấy Internet cũng có thể gây ra các tác  động  tiêu  cực  đến  người  dùng.  Thêm  vào  đó,  nghiên cứu tìm thấy mối liên quan giữa việc sử  dụng Internet từ 20 giờ/tuần trở lên với các vấn  đề như cảm thấy không thể sống thiếu Internet,  khiến  bị  la  rầy,  giúp  chứng  tỏ  bản  thân  càng  giúp xác định hơn nữa việc sử dụng Internet dài  có thể dẫn đến  lạm dụng và gây nên mối quan  hệ không tốt với các bậc phụ huynh. Các mô tả  của Young cũng như một số nghiên cứu khác (3)  cho thấy trầm cảm thường  là nguyên nhân dẫn  đến nghiện Internet; tuy cuộc điều tra của chúng  tôi không sử dụng thang đo để xác định mức độ  trầm  cảm  của  các  em  nhưng  qua  kết  quả  thu  được thì nếu các em sa đà vào Internet hoàn toàn  có thể bị nghiện và có thể bị trầm cảm kèm theo  (do các em tự thu mình lại và chỉ thỏa mãn được  trên thế ảo).  Điểm mạnh của nghiên cứu  là đã thực hiện  trên  đối  tượng học  sinh  trường THPT  chuyên,  những học sinh  luôn được cho rằng các em chỉ  có tập trung vào việc học nhưng kết quả đã phản  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  761 ánh việc các em cũng biết sử dụng Internet vào  nhiều mục đích khác nhau cũng như rất dễ sa đà  vào Internet. Thứ hai, nghiên cứu thực hiện  lấy  mẫu  toàn  bộ  (tỷ  lệ mất mẫu  chỉ  khoảng  15%)  cũng như đã áp dụng biện pháp kiểm  soát  sai  lệch  thông  tin  (cho  điều  tra viên  đến  từng  lớp  hướng dẫn  điền bộ  câu hỏi  cũng như giải  đáp  thắc mắc  trước  khi  điều  tra)  nên  kết  quả  đảm  bảo tính khách quan.   Tuy nhiên, do hạn chế về các nguồn lực, nên  chúng tôi không thể đánh giá trực tiếp sức khỏe  thể chất và tinh thần. Bên cạnh đó, bản thân việc  sử dụng nghiên cứu cắt ngang cũng không  đủ  bằng chứng để khẳng định bất cứ mối quan hệ  nhân quả nào mà chỉ đơn thuần mô tả tình hình  sử dụng Internet của mẫu nghiên cứu. Thêm vào  đó, cuộc điều tra cũng đã có thiếu sót khi không  khảo sát nơi các em  thường sử dụng cũng như  phương  tiện  các  em  sử  dụng  để  lên  Internet.Chúng  tôi nhận  thấy việc  điều  tra  thời  lượng  sử dụng  nên  tiến  hành  kéo dài  liên  tục  (khoảng 1  tháng) hoặc cho  đối  tượng viết nhật  ký để có thể đánh giá chính xác nhu cầu và thói  quen sử dụng. Việc nghiên cứu trên những đối  tượng học sinh khác như học sinh học một buổi,  học sinh trường tư thục và nghiên cứu định tính  tìm hiểu  lý do các em sử dụng  Internet  sẽ góp  phần vẽ lên bức tranh hoàn chĩnh về vấn đề sử  dụng Internet ở  lứa tuổi học sinh và đưa ra các  giải  pháp  phù  hợp  hơn. Nhóm  nghiên  cứu  hi  vọng có thể giúp các nghiên cứu về sau cải tiến  phương pháp thu thập thông tin, dữ  liệu về đề  tài sử dụng Internet, một chủ đề còn khá mới mẻ  ở nước ta.   KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ  Qua  kết  quả nghiên  cứu,  tỷ  lệ học  sinh  sử  dụng  Internet  của  trường  là  khá  cao  (94,5%),  trong đó gần 50% các em sử dụng với ngưỡng có  thể gây nghiện. Bên  cạnh  đó,  có  các vấn  đề về  sức khỏe thể chất và tinh thần trong thời gian các  em sử dụng Internet.   Các bậc phụ huynh bên  cạnh việc  tạo  điều  kiện để các em sử dụng  Internet vào mục đích  học tập, thư giãn, đồng thời cũng cần hoạch định  thời  gian  sử  dụng  để  các  em  tránh  sa  đà  vào  Internet.  Thêm  vào  đó,  các  em  học  sinh  của  trường cũng cần được trang bị kiến thức về các  tác hại của việc sử dụng Internet kéo dài, có thể  khiến các em bị lệ thuộc vào nó.  Cần có những nghiên cứu chuyên sâu hơn,  kéo dài hơn và có  thang đo cụ  thể hơn để có  thể kết  luận mối quan hệ nhân quả giữa việc  sử dụng Internet từ 20 giờ/tuần trở lên với các  yếu  tố  liên  quan. Việc  so  sánh  và  lấy mẫu  ở  quần  thể  lớn  hơn  hoặc  nhiều  nhóm  học  sinh  hơn (có thể có cả trường công lập và trường tư  thục) cũng sẽ giúp vẽ bức tranh hoàn chỉnh về  thực  trạng  sử  dụng  Internet  hiện  nay  ở  đối  tượng học sinh tại TP.HCM .  Lời cảm ơn: Nhóm nghiên cứu xin chân thành cám ơn sự hỗ  trợ  của  Ban  giám  hiệu  và  Đoàn  thanh  niên  trường  THPT  chuyên Trần Đại Nghĩa  đã giúp  cho nghiên  cứu  được  thành  công.Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu cũng gửi lời cám ơn đến  Ths.Bs.Võ Hữu Thuận (Viện Y tế công cộng TP.HCM) đã góp  ý để bài báo được hoàn thiện.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Lê Minh Công (2011) Một số vấn đề lý luận và thực hành lâm  sàng  về  nghiện  internet..  truy cập 20‐2‐2012  2. Trung  tâm  thống  kê  Internet  Việt  Nam  (VNNIC)  (2012).,    Truy  cập  2‐ 2‐2012  3. Yen JY., Yen CF., Chen CC., Chen, SH, Ko CH. (2007) Family  factors of internet addiction and substance use experience in  Taiwanese adolescents. Cyberpsychol Behav., 10(3), 323‐329  4. Young KS. (1996) Internet addiction: The emergence of a new  clinical disorder. CyberPsychology and Behavior, 1(3), 237‐244.  Ngày nhận bài báo: 23/5/2014  Ngày phản biện nhận xét bài báo: 11/6/2014  Ngày bài báo được đăng : 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthuc_trang_su_dung_internet_cua_hoc_sinh_cap_3_truong_chuyen.pdf