Kết luận
Kết quả nghiên cứu cho thấy việc sử dụng
thuốc điều trị cho bệnh nhân BHYT viêm đờng
hô hấp cấp tại trạm y tế vẫn còn nhiều hạn chế.
Số thuốc trung bình đợc kê trong một đơn
thuốc viêm đờng hô hấp cấp là 3,64 thuốc, cao
hơn gấp 2 lần so với khuyến cáo của WHO.
Không có tình trạng phối hợp kháng sinh trong
điều trị viêm đờng hô hấp trên tại trạm y tế xã.
Nhóm kháng sinh beta-lactam đợc sử dụng
nhiều nhất, chiếm 87,6%, trong đó đứng hàng
đầu là amoxicilin, tiếp theo là cephalosporin thế
hệ 1, chiếm 28%. Sử dụng penicillin V điều trị
VQP tại các trạm y tếkhảo sát ở Hà Nam là cha
hợp lý về mặt vi khuẩn học, làm tăng thêm nguy
cơ kháng thuốc tại cộng đồng. Có 21,1% trẻ em
không đợc sử dụng đúng dạng bào chế phù hợp
với lứa tuổi, điều này có thể gây giảm hiệu quả
điều trị giảm hấp thu thuốc hoặc nguy cơ quá
liều. Tỷ lệ chi phí trung bình cho nhóm thuốc
kháng sinh/tổng chi phí trung bình cho 1 đơn
thuốc chiếm tỷ lệ trên 50%. Tuy nhiên chi phí
trung bình cho 1 đơn thuốc BHYT là thấp và có
sự dao động khá lớn trong chi phí giữa các đơn
thuốc tại cùng 1 tỉnh.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 32 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng sử dụng thuốc cho nhóm bệnh nhân bảo hiểm y tế tại trạm y tế xã, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
41
Chính sách - Số 10/2012 Y tế
Tạp chí
Thực trạng sử dụng thuốc cho
nhóm bệnh nhân bảo hiểm y tế tại trạm y tế xã
1 1
Hoàng Thu Thủy , Nguyễn Thị Thắng ,
1 1 2
Dương Huy Lương , Nguyễn Hoàng Giang và cộng sự
Mạng lưới y tế cơ sở (YTCS) được xem như
là nền tảng của hệ thống y tế quốc gia. Mọi chủ
trương, chính sách, các hoạt động CSSK nhân
dân không thể thực hiện tốt nếu không có một
mạng lưới YTCS vững mạnh. YTCS đóng vai trò
đặc biệt quan trọng trong hệ thống y tế, là tuyến
đầu tiên cung cấp các dịch vụ y tế cơ bản cho
người dân. Củng cố và phát triển mạng lưới y tế
cơ sở là chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà
nước và Chính phủ và là một trong những trọng
tâm ưu tiên của ngành y tế.
Theo Quyết định 58/1994/QĐ-TTg và
Thông tư liên bộ số 08/1995/TTLB, trạm y tế
được xác định là đơn vị kỹ thuật y tế đầu tiên tiếp
xúc với nhân dân, có nhiệm vụ thực hiện các
dịch vụ kỹ thuật chăm sóc sức khỏe ban đầu
(CSSKBĐ), phát hiện dịch sớm và phòng chống
dịch bệnh, chữa các bệnh và đỡ đẻ thông
thường, cung ứng thuốc thiết yếu, vận động
nhân dân thực hiện các biện pháp kế hoạch hoá
gia đình, tăng cường sức khỏe.
Thông tư số 10/2009/TT-BYT [5] quy định
trạm y tế xã là cơ sở đăng ký khám chữa bệnh
bảo hiểm y tế (KCB BHYT) ban đầu theo hướng
dẫn của Luật Bảo hiểm y tế. Số TYT xã tham gia
KCB BHYT tăng nhanh. Năm 2010 có tới
10.047 trạm y tế (TYT) tham gia KCB BHYT,
chiếm 92% tổng số TYT trong cả nước [2]. Do
đó, công tác khám, chữa bệnh BHYT của các
TYT xã cần được hướng dẫn cụ thể và theo dõi
chặt chẽ nhằm đảm bảo quyền lợi cho người
tham gia BHYT, nhất là cung ứng đủ thuốc có
chất lượng, đủ chủng loại và sử dụng thuốc an
Đặt vấn đề toàn hợp lý cho bệnh nhân. Mặt khác, việc sử
dụng thuốc kháng sinh (KS), kháng vi rút không
hợp lý sẽ dẫn đến tình trạng kháng thuốc ngày
càng gia tăng cả trong bệnh viện cũng như trong
cộng đồng. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu tìm
hiểu sâu hơn thực trạng sử dụng thuốc cho bệnh
nhân BHYT tại trạm y tế thông qua bệnh á n của
bệnh nhân bảo hiểm y tế bị viêm đường hô hấp
trên cấp/viêm phế quản (VPQ) cấp điều trị tại
trạm.
Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là cán bộ y tế tuyến xã
và tờ phơi điều trị của bệnh nhân viêm đường hô
cấp trên cấp/VPQ cấp có BHYT.
Nghiên cứu được tiến hành tại 4 tỉnh đại diện
cho miền Bắc, miền Trung, miền Nam và Tây
nguyên bao gồm Hà Nam, Khánh Hòa, Kiên
Giang và Gia Lai.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng thiết kế cắt ngang mô tả
có phân tích. Mẫu nghiên cứu được chọn theo
phương pháp chọn mẫu có chủ đích. ở mỗi tỉnh
lựa chọn 02 huyện, trong đó 1 huyện triển khai
công tác khám chữa bệnh BHYT tương đối
mạnh và 1 huyện còn hạn chế trong triển khai
khám chữa bệnh BHYT. Tại mỗi huyện chọn 2
Đối tượng, địa điểm và phương pháp
nghiên cứu
1
Khoa Nghiên cứu Y tế Công cộng, Viện Chiến lược và
Chính sách Y tế
2
Viện Chiến lược và Chính sách Y tế
42
Nghiên cứu chính sách
xã để khảo sát trực tiếp với tiêu chí chọn một xã
có bác sĩ và một xã chưa có bác sĩ. Cả hai xã
được chọn đều đã triển khai khám chữa bệnh
BHYT. Phương pháp thu thập số liệu tại thực địa
bao gồm: phỏng vấn sâu cán bộ trạm y tế xã kết
hợp với thu thập số liệu định lượng từ tờ phơi
điều trị hiện có tại trạm của bệnh nhân được thu
thập thông qua biểu mẫu có sẵn với cỡ mẫu được
tính qua công thức ước tính một tỷ lệ:
n =
2
d
2
Z
(1 - a/2)
.p(1-p)
p = 30% (là tỷ lệ bệnh nhiễm khuẩn đường hô
hấp cấp tại TYT xã, theo một số nghiên cứu về
mô hình bệnh tật tại TYT xã).
Z : Hệ số tin cậy ở mức xác suất 95%
(1,96)
d: Độ chính xác mong muốn (= 0,05)
Theo công thức, số tờ phơi cần được phân
tích là 504, để đảm bảo đủ cỡ mẫu cho phân tích,
cỡ mẫu thực sự của nghiên cứu được cộng 10%
tờ phơi không hợp lệ, do đó cỡ mẫu cần thiết cho
nghiên cứu là 554 tờ phơi, trung bình mỗi tỉnh
thu thập 138 tờ phơi. Trên thực tế thu được, phân
tích tổng số 550 tờ phơi điều trị.
(1 - a/2)
Trong đó:
n: là số tờ phơi điều trị
Kết quả nghiên cứu
Bảng 1: Tỷ lệ bệnh nhân của 2 nhóm bệnh
Thông tin chung về nhóm bệnh nhân BHYT được nghiên cứu
Trung bình tỷ lệ bệnh nhân mắc viêm đường
hô hấp trên chiếm 71%, gấp 2.5 lần so với tỷ lệ
bệnh nhân VPQ được khám và điều trị tại 16
Bảng 2: Cơ cấu tuổi của nhóm bệnh nhân được nghiên cứu
trạm y tế xã của 4 tỉnh. Tỷ lệ này cao nhất ở
Khánh Hòa tỷ lệ viêm đường hô hấp trên gấp 6
lần VPQ.
Theo bảng 2, tỷ lệ trung bình bệnh nhân ở lứa
tuổi Ê 15 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất 46,2%, chiếm
gần 1/2 tổng số các bệnh nhân viêm đường hô
hấp được nghiên cứu, nhóm bệnh nhân ³ 60 tuổi
chiếm 25%.
Tình hình sử dụng thuốc của 2 nhóm bệnh Viêm đường hô hấp cấp và chi phí cho thuốc
Tình hình sử dụng thuốc
ChungChỉ số Hà Nam Kiên Giang Khánh Hòa Gia Lai
71,1%
28,9%
Viêm đường hô cấp trên cấp
VPQ cấp
66,2%
33,8%
83,9%
16,1%
86,0%
14,0%
74,7%
25,3%
ChungNhóm tuổi Hà Nam Kiên Giang Khánh Hòa Gia Lai
46,2%
28,7%
25,1%
16 - 59 tuổi
³ 60 tuổi
33,5%
30,3%
34,4%
56,5%
35,5%
8,1%
48,0%
34,0%
18%
77,9%
25,8%
6,3%
Ê 15 tuổi
43
Chính sách - Số 10/2012 Y tế
Tạp chí
Bảng 3: Cơ cấu thuốc bảo hiểm được kê đơn cho bệnh nhân
viêm đường hô hấp trên/ VQP tại trạm y tế xã
Chỉ số Hà Nam Kiên Giang Khánh Hòa Gia Lai Chung
Tổng số thuốc trung bình
được kê/1 đơn thuốc
Tỷ lệ đơn thuốc có kê
kháng sinh
Tỷ lệ đơn thuốc có kê
nhóm thuốc giảm ho,
long đờm, giãn phế quản
3,58
(2,78 - 4,38)
98,8%
67,6%
4,21
(3,34 - 5,08)
100%
72,6%
3,78
(3,16 - 4,34)
100%
66%
3,39
(2,50 - 4,28)
95,8%
53,7%
3,64
(2,80 - 4,47)
98,7%
65%
Tỷ lệ đơn thuốc có kê
vitamin và khoáng chất
64,1% 58% 36% 55,8% 53,5%
Kết quả cho thấy số thuốc được kê trung bình
cho một đơn thuốc viêm đường hô hấp cấp KCB
BHYT tại TYT xã là khoảng 3,64 thuốc. Số
thuốc kê trung bình trong 1 đơn cao nhất tại
(4,62 thuốc) và thấp nhất tại Gia Lai (3,39
thuốc). Trong đó số thuốc kê trung bình trong
một đơn không có sự khác biệt giữa 2 bệnh viêm
đường hô hấp trên và VPQ (p < 0,05). Tỷ lệ đơn
thuốc được kê kháng sinh chiếm 98,7%. Trong
nghiên cứu này không thấy có sự phối hợp
kháng sinh trong cùng một đơn thuốc điều trị tại
tuyến xã.
Nhóm KS sử dụng Hà Nam Kiên Giang Khánh Hòa Gia Lai Chung
1.Nhóm aminopenicilin
(amoxicilin)
2.Nhóm cephalosprorin
thế hệ 1
3.Nhóm nhạy pecicillinase
(penicilin V)
4.Nhóm cephalosprorin
thế hệ 2
36,9%
23,0%
36,3%
-
2,9%
21,0%
45,2%
-
29,0%
4,8%
18,0%
76,0%
-
-
6,0%
31,9%
8,8%
-
6,6%
14,3%
32,5 %
28,0%
22,7%
4,4%
5,3%5.Nhóm macrolid
-
100%
- - 1% 0,3%7. Nhóm fluoroquinolon
Tổng
6. Nhóm sulfamid &
trimethoprim
0,9% - - 37,4% 6,8%
100% 100% 100% 100%
Trong 550 bệnh nhân được nghiên cứu có
542 bệnh nhân được kê đơn kháng sinh. Trong
số 7 nhóm KS được sử dụng từ nhóm 1 đến nhóm
4 đều thuộc nhóm KS Beta-lactam, tổng cộng có
tới 87,6% bệnh nhân được sử dụng Beta-lactam,
trong đó: nhóm KS được sử dụng nhiều nhất cho
điều trị viêm đường hô hấp cấp tại TYT xã là
nhóm aminopenicilin chiếm 32,5%, đứng thứ 2
là nhóm cephalosprorin thế hệ 1 (28%) và
22,7% là của nhóm nhạy pecicillinase (Penicilin
V), sử dụng nhóm cephalosprorin thế hệ 2 điều
trị chiếm tỷ lệ thấp 4,4%.
Bảng 4: Phân bố nhóm KS được kê đơn cho bệnh nhân BHYT bị viêm đường hô hấp cấp
44
Nghiên cứu chính sách
Tuy nhiên, với từng tỉnh thì tỷ lệ sử dụng từng
nhóm KS rất khác nhau: chỉ có duy nhất tỉnh Hà
Nam sử dụng Penicillin V trong điều trị nhóm
viêm đường hô hấp cấp. Cephalosprorin thế hệ 1
được sử dụng nhiều nhất với 76% tại Khánh Hòa,
45,2% tại Kiên Giang. Cephalosprorin thế hệ 2
chỉ sử dụng ở 2 tỉnh Kiên Giang và Gia Lai với
29% và 6,6%. Nhóm sulfamid và trimethoprim
được dụng nhiều nhất tại Gia Lai với tỷ lệ 35,8%
(Bảng 4)
Kết quả phân tích chi tiết về nhóm kháng
sinh sử dụng cho điều trị VPQ và viêm đường hô
hấp trên cho thấy: trong các bệnh nhân được kê
penicillin V ở tỉnh Hà Nam (22,7%) thì có tới
58,6% sử dụng điều trị cho VPQ cấp.
Số ngày điều trị KS nhóm beta-lactam trung
bình từ 4,1- 4,7 ngày (trừ penicillin V 5,9 ngày)
là ít hơn so với quy định (dưới 5 ngày) trong điều
trị viêm đường hô hấp cấp của bệnh nhân BHYT
tại xã. Theo quy định, penicillin V phải được
điều trị từ 10-14 ngày nhưng trên thực tế bệnh
nhân chỉ được cấp thuốc điều trị trong vòng 5,9
ngày (tỉnh Hà Nam).
Bảng 5: Tỷ lệ đơn KS được kê không đúng dạng bào chế cho trẻ em
Hà Nam Kiên Giang Khánh Hòa Gia Lai Chung
Tỷ lệ kê đơn không đúng
dạng bào chế của KS
Tỷ lệ kê đơn đúng dạng
bào chế của KS
18,3%
81,7%
5,7%
94,3%
4,2%
95,8%
37,7%
64,3%
21,1%
79,9%
Bảng 5 cho thấy đối với nhóm trẻ nhỏ còn
một tỷ lệ 21,1% thuốc KS được kê đơn không
đúng dạng bào chế của KS. Tỷ lệ này xảy ra tại
tất cả 4 tỉnh nghiên cứu, tuy nhiên tại tỉnh Gia
Lai tỷ lệ này là lớn nhất lên tới gần 40%. Cụ thể
là đối với trẻ em, thuốc KS phải được dùng ở
dạng bào chế là thuốc bột, siro hoặc có thể là
thuốc viên với hàm lượng nhỏ, nhưng trên thực
tế với những trường hợp này, thuốc được kê lại là
hàm lượng của người lớn. Một số nguyên nhân
được tìm hiểu trong nghiên cứu định tính là: (1)
cán bộ y tế không có kiến thức về việc sử dụng
thuốc đúng dạng bào chế cho trẻ em; (2) cán bộ
y tế có kiến thức, có dự trù thuốc nhưng thuốc
được cấp không đáp ứng được theo đúng nhu
cầu thuốc được dự trù (tỉnh Gia Lai).
Chi phí trung bình cho 1 đơn thuốc BHYT
Bảng 6: Chi phí trung bình cho 1 đơn thuốc BHYT với bệnh nhân viêm đường hô hấp
(đơn vị là nghìn đồng)
Hà Nam Kiên Giang Khánh Hòa Gia Lai Chung
Chi phí trung bình cho 1
đơn thuốc
Chi phí trung bình cho
nhóm KS
Chi phí trung bình cho
nhóm giảm ho, long đờm,
giãn phế quản
Chi phí trung bình cho nhóm
vitamin và khoáng chất
Chi phí trung bình cho nhóm
thuốc khác
Chi phí
25.543
(10.043-68.024)
23.010
(6.693-39.327)
32.786
(13.029-52.543)
46.571
(15.730-77.412)
29.548
(8.503-50.593)
13.681
3.887
3.323
4.076
16.053
2.504
1.080
4.699
20.244
3.527
2.910,1
6.430
16.675
3.025
18.800
8.103
15.062
3.549
5.706
5.056
45
Chính sách - Số 10/2012 Y tế
Tạp chí
Chi phí trung bình cho một đơn thuốc BHYT
tại trạm y tế xã với bệnh nhân bị viêm đường hô
hấp là tương đối thấp, khoảng 29.500 đồng/1
đơn, đơn thuốc được kê có chi phí trunh bình cao
nhất là 46.000đ tại Gia Lai. Tuy nhiên, chi phí
giữa các đơn thuốc có sự dao động khá lớn, đơn
chi phí thấp nhất tại tỉnh Kiên Giang chỉ có
6.693đ, đơn chi phí cao nhất 77.412đ. Tuy nhiên
khi xét tỷ lệ chi phí trung bình cho nhóm thuốc
KS/tổng chi phí trung bình cho 1 đơn thuốc
khoảng 51%.
Bàn luận
Tổng số thuốc trung bình/1 đơn thuốc của
bệnh nhân BHYT cho nhóm bệnh viêm đường
hô hấp cấp tại TYT xã là 3,64. Chỉ số này cao
hơn so với kết quả khảo sát về tình hình sử dụng
thuốc nói chung (không phân theo nhóm bệnh
và không tách riêng cho nhóm BHYT) tại các cơ
sở y tế các tuyến [6] (số thuốc trung bình/1 đơn
thuốc tại TYT xã là 3,3). Như vậy việc sử dụng
số thuốc trung bình/1 đơn cao hơn trong nghiên
cứu này là không có sự khác biệt so với một số
nghiên cứu khác. Tuy nhiên, theo khuyến cáo
của WHO chỉ nên kê trung bình 1,5 thuốc/đơn
tại tuyến xã. Không có sự phối hợp kháng sinh
trong các đơn thuốc điều trị tại tuyến xã. Tuy
nhiên, trong một nghiên cứu của Viện Chiến
lược và Chính sách Y tế lại cho thấy số đơn
thuốc có sử dụng kháng sinh tại TYT xã chiếm
tỷ lệ rất cao (63,5%). Điều này có thể do kết quả
nghiên cứu của Viện Chiến lược và Chính sách
Y tế không tách riêng cho nhóm bệnh nhân có
BHYT và không có BHYT. Như vậy, một giả
thuyết có thể được đặt ra ở đây là tỷ lệ đơn thuốc
kê kháng sinh ở nhóm bệnh nhân phải trả phí
liệu có cao hơn nhiều nhóm bệnh nhân BHYT
hay không. Một lý do nữa có thể do nghiên cứu
này của chúng tôi chỉ tập trung vào nhóm bệnh
viêm đường hô hấp cấp, trong khi nghiên cứu về
tình hình sử dụng thuốc ngoại trú tại các tuyến
thì lại ở tất cả các loại bệnh.
Nguyên nhân gây viêm đường hô hấp cấp
tính tại cộng đồng thường do virus, vi khuẩn
hoặc cả virus-vi khuẩn do bội nhiễm vi khuẩn
giai đoạn sau. Các nguyên nhân từ vi khuẩn
thường gặp nhất có thể gồm: nhóm vi khuẩn
Gram dương (như phế cầu Streptococcus
pneumoniae, liên cầu nhóm A Streptococcus
pyogenes, tụ cầu Staphylococcus) và nhóm vi
khuẩn Gram âm (như Haemophilus influenzae,
Moraxella catarrhalis).
Trên thực tế về các nhóm thuốc kháng sinh
được sử dụng, nhóm kháng sinh được sử dụng
nhiều nhất trong điều trị viêm đường hô hấp cấp
tại TYT xã trong nghiên cứu này là nhóm
Aminopenicilin, tiếp theo là nhóm cephalosprorin
thế hệ 1 và nhóm nhạy Pecicillinase (Penicilin V).
Theo hướng dẫn của eTG (electronic Therapeutic
Guiderline) [3]: trong điều trị viêm đường hô hấp
cấp (trên và dưới), nhóm KS đầu tiên nên lựa chọn
là nhóm beta-lactam trừ khi người bệnh dị ứng với
thuốc nhóm KS này. Trong nghiên cứu của chúng
tôi, 87,6% bệnh nhân được sử dụng KS nhóm
Beta-lactam điều trị viêm đường hô hấp cấp (viêm
đường hô hấp trên và VPQ) tại trạm y tế xã, điều
này có thể giải thích như sau: có rất nhiều thuốc
KS thuộc nhóm này, là nhóm kháng sinh đầu tay
cho các y bác sĩ chỉ định trong điều trị viêm đường
hô hấp (trừ các trường hợp dị ứng), ưu điểm về
phổ tác dụng cũng như ít độc tính hơn so với các
nhóm KS khác. Theo một nghiên cứu từ cơ sở y tế
tư nhân, nhóm beta-lactam chiếm tỷ lệ cao nhất
60,29% trong các nhóm KS sử dụng tại cơ sở y tế
này [1]. Đối với việc sử dụng kháng sinh nhóm
cephalosporin thế hệ 1 thì Tổ chức Y tế Thế giới
khuyến cáo nên chọn cephalosporin thế hệ 1 để
điều trị các nhiễm khuẩn do Staphylococci
(nhiễm khuẩn do cầu khuẩn Gram dương) vì
cephalosporin thế hệ 1 có tỷ lệ đề kháng thấp hơn
các cephalosporin thế hệ 3 (dùng cephalosporin
thế hệ 3 cho điều trị các vi khuẩn Gram âm).
Theo báo cáo của Chương trình theo dõi sự
kháng thuốc của vi khuẩn gây bệnh năm 2002,
2003, 2004 [4], Streptococcus pneumoniae,
Haemophilus influenzae là tác nhân gây bệnh
thường gặp trong trong các nhiễm khuẩn đường
hô hấp có tỉ lệ đề kháng khá cao với các KS
46
Nghiên cứu chính sách
thông thường thuộc nhóm Pecicillin như
amoxicilin, pecicillin V... Amoxicilin được sử
dụng với tỷ lệ cao nhất, trung bình 32,5% cho
điều trị 2 bệnh viêm đường hô hấp trên và VQP
cấp. Bên cạnh đó 58,6% bệnh nhân được sử
dụng pecicillin V trong điều trị VQP. Điều này
phân tích trên phương diện vi khuẩn học là chưa
hợp lý vì pecicillin V là KS thuộc nhóm
pecicillin phổ chọn lọc, chủ yếu tác dụng trên vi
khuẩn Gram dương, trong khi đó nguyên nhân
vi khuẩn gây VPQ cấp chủ yếu là nhóm Gram
âm. Việc sử dụng chưa hợp lý này có thể làm
tăng nguy cơ vi khuẩn tạo ra gen đề kháng,
chủng đề kháng mới.
Nhóm macrolid là nhóm KS có hoạt phổ
chọn lọc chủ yếu có tác dụng trên VK Gram
dương có tác dụng trên VK kị khí và VK kí sinh
trong tế bào. KS sử dụng gồm 2 loại
azithromycin và spirammycin. Azithromycin
có ưu điểm là thời gian bán thải của thuốc dài
nên chỉ cần đưa thuốc 1 lần/ngày nhưng nhược
điểm là giảm hấp thu do thức ăn nên cần tư vấn
cho bệnh nhân uống thuốc khi đói để đảm bảo
nồng độ điều trị cần thiết. Đây là một vấn đề
quan trọng trong sử dụng thuốc, đặc biệt tại
cộng đồng vì thói quen của người dân chỉ uống
thuốc sau khi ă n no.
Một vấn đề nữa cần được bàn luận trong
nghiên cứu này là sử dụng dạng bào chế của
kháng sinh không phù hợp với lứa tuổi. Ngành
công nghiệp dược sản xuất ra các dạng bào chế
khác nhau là để thầy thuốc lựa chọn cho phù hợp
với từng mức độ bệnh, tình trạng bệnh nhân, có
thể phát huy tối đa tác dụng điều trị của thuốc
nhất và thuận lợi trong sử dụng cho từng đối
tượng (như người già và trẻ nhỏ). Tuy nhiên ở
đây có đến 21,1% trẻ em không được sử dụng
đúng dạng bào chế phù hợp với lứa tuổi. Cụ thể
như kháng sinh dạng viên nang, nhộng được kê
cho trẻ nhỏ < 1 tuổi, thậm chí vài trường hợp là
trẻ sơ sinh. Với những trường hợp này, vì trẻ
không thể uống cả viên thuốc, nên khi tháo bỏ
nang nhộng để lấy thuốc bột bên trong thì hấp
thụ của thuốc đã giảm đáng kể do dịch dạ dày
trước khi có thể xuống đến ruột non để hấp thu.
Với những trường hợp trẻ nhỏ được kê những
dạng dùng của người lớn thì rất khó kiểm soát
liều lượng thuốc, dễ dẫn đến sử dụng thuốc quá
liều, chưa kể đến trường hợp viên thuốc quá to
có thể mắc và gây tổn thương tại thực quản.
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ chi phí trung bình
cho nhóm thuốc KS/tổng chi phí trung bình cho
1 đơn thuốc chiếm trên 50%. Tỷ lệ này lại là cao
so với số liệu thu thập từ nghiên cứu các cơ sở y
tế trong toàn quốc của Vụ Điều trị (2005) [7],
tiền chi cho thuốc KS chiếm 32% trong tổng
tiền thuốc. Phân tích chi phí trung bình cho 1
đơn thuốc BHYT là tương đối thấp, xấp xỉ
30.000đ/đơn cho điều trị trung bình 5 ngày, vậy
chi phí trung bình là 6000đ/ngày sử dụng thuốc.
Nếu lấy trung bình 3 thuốc/đơn thì giá trị trung
bình của mỗi loại thuốc sử dụng trong 1 ngày là
2.000đ. Khi được hỏi về mức trần được khoán
cho khám chữa bệnh thì hầu hết các cán bộ y tế ở
các trạm đều trả lời là không có qui định. Tuy
nhiên, 14/16 trạm y tế chúng tôi khảo sát đã áp
dụng khoán định suất trong KCB BHYT (chỉ có
TP Nha Trang - Khánh Hòa còn áp dụng phí
dịch vụ trong thanh toán KCB). Việc khoán định
suất trong KCB BHYT có thể là 1 trong các lý do
mà trạm y tế khống chế định mức chi trong việc
kê đơn cho bệnh nhân BHYT.
Kết luận
Kết quả nghiên cứu cho thấy việc sử dụng
thuốc điều trị cho bệnh nhân BHYT viêm đường
hô hấp cấp tại trạm y tế vẫn còn nhiều hạn chế.
Số thuốc trung bình được kê trong một đơn
thuốc viêm đường hô hấp cấp là 3,64 thuốc, cao
hơn gấp 2 lần so với khuyến cáo của WHO.
Không có tình trạng phối hợp kháng sinh trong
điều trị viêm đường hô hấp trên tại trạm y tế xã.
Nhóm kháng sinh beta-lactam được sử dụng
nhiều nhất, chiếm 87,6%, trong đó đứng hàng
đầu là amoxicilin, tiếp theo là cephalosporin thế
hệ 1, chiếm 28%. Sử dụng penicillin V điều trị
VQP tại các trạm y tế khảo sát ở Hà Nam là chưa
hợp lý về mặt vi khuẩn học, làm tăng thêm nguy
47
Chính sách - Số 10/2012 Y tế
Tạp chí
cơ kháng thuốc tại cộng đồng. Có 21,1% trẻ em
không được sử dụng đúng dạng bào chế phù hợp
với lứa tuổi, điều này có thể gây giảm hiệu quả
điều trị giảm hấp thu thuốc hoặc nguy cơ quá
liều. Tỷ lệ chi phí trung bình cho nhóm thuốc
kháng sinh/tổng chi phí trung bình cho 1 đơn
thuốc chiếm tỷ lệ trên 50%. Tuy nhiên chi phí
trung bình cho 1 đơn thuốc BHYT là thấp và có
sự dao động khá lớn trong chi phí giữa các đơn
thuốc tại cùng 1 tỉnh.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Thị Thu Ba và cộng sự, Tình hình sử dụng KS tại bệnh viện Hoàn Mỹ, Đà Nẵng từ tháng
01/2007 đến tháng 10/2007. Nội san Y khoa Bệnh viện Hoàn Mỹ.
2. Dự á n tăng cường năng lực hệ thống y tế cơ sở một số tỉnh trọng điểm. Đánh giá tình hình thực hiện
khám chữa bệnh bảo hiểm y tế tại trạm y tế xã, Hà Nội, tháng 6/2011.
3. eTG complete 2008, Therapeutic Guidelines Limited, Australia.
4. Tạp chí Dược lâm sàng, số 10 năm 2005. Báo cáo hoạt động theo dõi sự đề kháng KS của vi khuẩn
gây bệnh thường gặp ở Việt Nam năm 2002, 2003, 2004 (Antibiotic Susceptibility Test Serveilance
ASTS).
5. Thông tư 10/2009/TT-BYT ngày 14/8/2009 của Bộ trưởng Bộ Y tế hướng dẫn đăng ký khám bệnh,
chữa bệnh ban đầu và chuyển tuyến khám bệnh, chữa bệnh.
6. Viện Chiến lược và Chính sách Y tế. Nghiên cứu đánh giá tình hình sử dụng thuốc tại cơ sở y tế các
tuyến. 2011.
7. Vụ Điều trị, 2005, Hội nghị tổng kết công tác Hội đồng thuốc và điều trị bệnh viện trong toàn quốc.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
thuc_trang_su_dung_thuoc_cho_nhom_benh_nhan_bao_hiem_y_te_ta.pdf