Trong nghiên cứu này, các đặc điểm sơ cứu
sau khi bị chó cắn ở trẻ được tác giả đưa ra
bao gồm: tình trạng xử trí vết thương tại chỗ,
thời điểm bị cắn-tiêm, cấp độ dự phòng dại.
Có 87,9% trẻ gặp TNTT do chó cắn trong
giai đoạn năm 2016 – 2018 được xử trí vết
thương tại chỗ, cao hơn hẳn nghiên cứu của
tác giả Nguyễn Thị Thanh Hương ở các trẻ
lứa tuổi 6-16 tại Phú Thọ (2015) với tỷ lệ trẻ
em được rửa vết thương tại thời điểm cắn là
50% (9). Vẫn còn có 45 (trẻ đến tiêm sau 10
ngày là thời điểm an toàn để vắc xin có hiệu
quả. Phần lớn các trẻ đều tiêm vắc xin phòng
dại (77,9%), nhưng cũng có tới 17,1% trẻ
đồng thời tiêm vắc xin phòng dại và sử dụng
huyết thanh kháng dại trong giai đoạn 2016-
2018, đặc biệt năm 2018 tỷ lệ trẻ có sử dụng
cả huyết thanh kháng dại và đi tiêm phòng dại
đạt tới 20,4%. Tỷ lệ trẻ tiêm vắc xin phòng
dại trong nghiên cứu này cao hơn so với tỷ
lệ tiêm vắc xin phòng dại trên trẻ có độ tuổi
từ 6-15 tuổi tại trong nghiên cứu của Nguyễn
Thị Thanh Hương (2017) tại tỉnh Phú Thọ
(26,5%) (13).
Phương pháp nghiên cứu hiện tại sử dụng các
số liệu thứ cấp dựa trên hệ thống số liệu giám
sát trong giai đoạn từ 2016–2018 nên nghiên
cứu viên không thể kiểm soát được quá trình
thu thập số liệu ban đầu. Ngoài ra, do hạn chế
số liệu chỉ ghi nhận các trường hợp phải điều
trị (mức độ tổn thương II và III), nên nghiên
cứu chưa bao hàm được toàn bộ các trẻ bị chó
tấn công trong giai đoạn này, chưa phản ánh
được thực trạng trẻ bị cắn trong cộng đồng. Do
vậy, để mô tả toàn diện đặc điểm TNTT ở trẻ
dưới 16 tuổi đòi hỏi có thêm nghiên cứu trên
đối tượng là những trẻ bị chó cắn không đến
tiêm phòng hoặc tiêm phòng ở khu vực khác.
KẾT LUẬN
Các kết quả cho thấy trẻ có tuổi từ 1-5 tuổi và
6-10 tuổi chiếm tỷ lệ cao (40,9% và 39,3%),
tỷ lệ trẻ bị tổn thương mức độ II qua các năm
chiếm 78,9%, độ III chiếm 21,1%. Về vị trí vết
cắn, tỷ lệ bị cắn ở chân là cao nhất (42,3%),
tiếp đến vị trí vết thương ở tay (28,0%), vùng
đầu, mặt, cổ (22,4%), vùng thân (12,4%), và
vùng khác (1,5%). Về thực trạng xử lý sau khi
trẻ bị cắn, có 12,1% trẻ không được xử trí vết
thương tại chỗ, 4% số trẻ đến các cơ sở y tế để
tiến hành tiêm dự phòng sau ngày thứ 10 trở
đi, 77,9% trẻ được tiêm vắc xin.
Từ các kết quả nghiên cứu cho thấy sự cần
thiết phải triển khai các chương trình truyền
thông về phòng chống bệnh dại ở nhà trường
và cộng đồng về nhớm tuổi có nguy cơ cao
là từ 1-10 tuổi; nâng cao kiến thức cho người
dân về cách xử lý vết thương ngay và sự cần
thiết phải tiêm phòng vắc xin trong vòng 10
ngày sau khi bị cắn.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 9 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng tai nạn thương tích do chó cắn ở trẻ dưới 16 tuổi sống tại thành phố Cao Bằng giai đoạn 2016-2018, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
7Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 03, Số 04-2019)
Journal of Health and Development Studies (Vol.03, No.04-2019)
Hà Thị Như Quỳnh và cộng sự
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tai nạn thương tích (TNTT) do động vật tấn
công là một vấn đề y tế công cộng khá phổ biến
ở các lứa tuổi khác nhau, từ người già cho đến
trẻ nhỏ. Theo báo cáo của Trung tâm Kiểm soát
bệnh tật Hoa Kỳ năm 2008, TNTT do chó cắn
ảnh hưởng tới 1,5% dân số hàng năm, mỗi năm
ở Mỹ có 4,7 triệu người bị chó cắn, trong đó
800.000 vết cần được chăm sóc y tế và 370.000
vết cắn đủ nghiêm trọng để được điều trị tại các
khoa Cấp Cứu (1). Trên thế giới các nghiên cứu
đều chỉ ra các mối nguy cơ cao về TNTT do chó
cắn cho trẻ dưới 16 tuổi. Nghiên cứu của Smith
AM (2018) thực hiện tại Arkansas báo cáo nguy
cơ cần can thiệp phẫu thuật để điều trị TTNT do
chó cắn ở trẻ tăng gấp 8,1 lần (95%CI = 2,8–
23,6), với mức độ tổn thương nặng hơn (OR =
3,43; 95%CI = 2,1-5,6), và thường vào các vị trí
như đầu hoặc cổ (2). Nghiên cứu của Chen HH
(2013) còn chỉ ra phần lớn các trường hợp trẻ
bị chó cắn lại được gây ra do chó nhà (89,8%).
Tại Việt Nam, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương
cho biết mỗi năm có khoảng 100 trường hợp lên
cơn dại do chó cắn dẫn tới tử vong (2011 có 110
trường hợp, 2012 có 98 trường hợp, 2013 có 102
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả một số đặc điểm tai nạn thương tích do chó cắn ở trẻ em dưới 16 tuổi đến tiêm phòng
dại tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Cao Bằng 2016-2018.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện từ tháng 11/2018 đến tháng
9/2019 dựa trên số liệu thứ cấp của 1.214 trẻ dưới 16 tuổi đến tiêm phòng tại Trung tâm Kiểm soát bệnh
tật tỉnh Cao Bằng giai đoạn từ tháng 1 năm 2016 đến tháng 12 năm 2018.
Kết quả: Nhóm tuổi nguy cơ cao là 1-5 tuổi và 6-10 tuổi (40,9% và 39,3%), tỷ lệ bị tổn thương mức độ
II chiếm 78,9%, độ III chiếm 21,1%; tỷ lệ bị cắn ở chân là cao nhất (42,3%), tiếp đến vị trí vết thương ở
tay (28,0%), vùng đầu, mặt, cổ (22,4%), vùng thân (12,4%), và vùng khác (1,5%); có 12,1% trẻ không
được xử trí vết thương tại chỗ, 4% số trẻ đến các cơ sở y tế để tiến hành tiêm dự phòng sau ngày thứ 10
trở đi, 77,9% trẻ được tiêm vắc xin.
Kết luận: nghiên cứu cho thấy sự cần thiết phải triển khai các chương trình truyền thông về phòng chống
bệnh dại ở nhà trường và cộng đồng về nhóm tuổi có nguy cơ cao là từ 1-10 tuổi; nâng cao kiến thức
cho người dân về cách xử lý vết thương ngay và tầm quan trọng của tiêm phòng vắc xin trong vòng 10
ngày sau khi bị cắn.
Từ khóa: tai nạn thương tích, chó cắn, trẻ em dưới 16 tuổi, Cao Bằng.
Thực trạng tai nạn thương tích do chó cắn ở trẻ dưới 16 tuổi sống tại
thành phố Cao Bằng giai đoạn 2016-2018
Hà Thị Như Quỳnh1*, Phạm Thị Nhã Trúc2
BÀI BÁO NGHIÊN CỨU GỐC
*Địa chỉ liên hệ: Hà Thị Như Quỳnh
Email: nhuquynh85cb@gmail.com
1Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Cao Bằng
2Trường Cao đẳng Y tế Bạc Liêu
Ngày nhận bài: 15/07/2019
Ngày phản biện: 22/08/2019
Ngày đăng bài: 31/12/2019
8Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 03, Số 04-2019)
Journal of Health and Development Studies (Vol.03, No.04-2019)
Hà Thị Như Quỳnh và cộng sự
trường hợp). Khoảng 30% số ca tử vong do bệnh
dại ở người là trẻ em (3). Riêng trong 7 tháng
đầu năm 2019, nước ta đã có 46 ca tử vong do
bệnh dại (4). Tại Cao Bằng, từ năm 2010 đến
2017, trên địa bàn toàn tỉnh có 15 trường hợp
tử vong do dại. Số người phải điều trị dự phòng
sau phơi nhiễm tại Cao Bằng có xu hướng tăng
dần theo năm từ 2014 đến 2017 (5), tuy nhiên,
nghiên cứu này mới chỉ mô tả thực trạng bệnh
dại chứ chưa đề cập được tới tình hình TNTT do
chó cắn của trẻ dưới 16 tuổi tại Cao Bằng. Chính
vì vậy, nhằm cung cấp thêm thông tin, nâng cao
hiệu quả phòng chống TNTT do chó cắn, giảm
những cái chết thương tâm do bệnh dại chúng
tôi tiến hành nghiên cứu mục tiêu nhằm mô tả
một số đặc điểm TNTT do chó cắn ở trẻ em dưới
16 tuổi đến tiêm phòng dại tại Trung tâm Kiểm
soát bệnh tật tỉnh Cao Bằng 2016-2018.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng
thiết kết nghiên cứu mô tả cắt ngang
Thời gian và đối tượng nghiên cứu: Nghiên
cứu được thực hiện từ tháng 11/2018 đến tháng
9/2019 dựa trên số liệu thứ cấp của các trẻ dưới
16 tuổi đến tiêm phòng dại tại Trung tâm Kiểm
soát bệnh tật tỉnh Cao Bằng giai đoạn từ tháng
1 năm 2016 đến tháng 12 năm 2018.
Cỡ mẫu nghiên cứu
Cỡ mẫu của nghiên cứu bao gồm toàn bộ
dữ liệu của 1.214 trẻ dưới 16 tuổi đến tiêm
phòng dại tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật
tỉnh Cao Bằng giai đoạn từ tháng 1 năm 2016
đến tháng 12 năm 2018.
Phương pháp thu thập số liệu
Các thông tin của từng trẻ được ghi chép từ sổ
lưu trữ tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh
Cao Bằng theo bảng kiểm đã được thiết kế sẵn
bao gồm các nội dung về thông tin chung, tình
trạng thương tích và đặc điểm thời điểm bị cắn
của trẻ. Số liệu sau khi nhập được nghiên cứu
viên kiểm tra, đối chiếu ngẫu nhiên 10% để
đảm bảo độ chính xác của các thông tin này.
Phương pháp phân tích số liệu
Số liệu được phân tích trên phần mềm STATA
sử dụng các kỹ thuật thống kê mô tả phù hợp.
Đạo đức nghiên cứu: Nghiên cứu được thực
hiện với sự cho phép của Trung tâm Kiểm
soát bệnh tật tỉnh Cao Bằng và Hội đồng đạo
đức trường Đại học Y tế công cộng theo quyết
định số 019-065/DD-YTCC.
KẾT QUẢ
Bảng trên mô tả các thông tin chung về các trẻ
<16 tuổi bị chó cắn và được điều trị tại Trung
tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Cao Bằng trong 3
năm từ 2016 đến hết 2018.
Có tổng số 1.214 trẻ được chúng tôi đưa vào
nghiên cứu trong 3 năm từ 2016-2018. Trong
3 năm từ 2016-2018, tỷ lệ trẻ bị chó cắn và
đến điều trị dự phòng trong năm 2016 và 2018
là bằng nhau (36,7%), riêng năm 2017 thì tỷ
lệ này giảm chỉ còn 26,6%. Nhìn chung, phân
bổ về tuổi và giới tính của các trẻ bị chó cắn
không có nhiều thay đổi qua các năm. Các
trẻ nam thường hay bị chó cắn hơn các trẻ nữ
(63,1% và 38,9%).
Xét về trình độ học vấn, số trẻ có trình độ học
vấn cấp tiểu học bị TNTT do chó cắn chiếm
tỷ lệ cao nhất (44,1%). Còn lại số trẻ chưa đi
học và có trình độ THCS bị TNTT có tỷ lệ lần
lượt là 40,9% và 15,0%. Chỉ riêng năm 2016
thì kết quả cho thấy nhóm trẻ chưa đi học có
tỷ lệ cao nhất.
9Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 03, Số 04-2019)
Journal of Health and Development Studies (Vol.03, No.04-2019)
Hà Thị Như Quỳnh và cộng sự
Bảng 1. Thông tin chung về trẻ bị TNTT do chó cắn theo từng năm
Biểu đồ 1. Phân bố mức độ thương tổn trong 3 năm từ 2016-2018
Đặc điểm
2016 2017 2018 Chung
n (%) n (%) n (%) n (%)
Trẻ <16 tuổi bị TNTT do chó cắn 446 (36,7) 322 (26,6) 446 (36,7) 1214 (100)
Nhóm tuổi
1-5 tuổi 212 (47,5) 124 (38,5) 160 (35,9) 496 (40,9)
6-10 tuổi 159 (35,7) 123 (38,2) 195 (43,7) 477 (39,3)
> 10-16 tuổi 75 (16,8) 75 (23,3) 101 (20,4) 241 (19,8)
Giới tính
Nam 275 (61,7) 198 (61,5) 293 (65,7) 766 (63,1)
Nữ 171 (38,3) 124 (38,5) 153 (34,3) 448 (38,9)
Trình độ học vấn
Chưa đi học 212 (47,5) 124 (38,5) 160 (35,9) 496 (40,9)
Tiểu học (Cấp 1) 175 (39,2) 144 (44,7) 217 (48,6) 536 (44,1)
THCS (Cấp 2) 59 (13,2) 54 (16,8) 69 (15,5) 182 (15,0)
Tổng 446 (100) 322 (100) 446 (100) 1214 (100)
Biểu đồ 1 mô tả các mức độ tổn thương ở
các trẻ <16 tuổi bị chó cắn và được điều trị
tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Cao
Bằng trong 3 năm từ 2016 đến hết 2018 tại
thời điểm đến khám. Mức độ thương tổn được
chia thành 2 mức: Độ II là vết xước, vết cào,
liếm trên da bị tổn thương, niêm mạc; Độ III
là vết cắn/cào chảy máu ở vùng xa thần kinh
trung ương hoặc vết cắn/cào sâu, nhiều vết.
Số trẻ bị tổn thương độ III lên tới 21,1%.
66,1%
81,4%
89,9%
78,9%
33,9%
18,6%
10,1%
21,1%
0%
20%
40%
60%
80%
100%
2016 2017 2018 Chung
Độ III
Độ II
10
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 03, Số 04-2019)
Journal of Health and Development Studies (Vol.03, No.04-2019)
Hà Thị Như Quỳnh và cộng sự
Biểu đồ 2. Phân bố tỷ lệ vị trí vết thương khi bị cắn
Bảng 2. Thực trạng sơ cứu người bệnh sau khi bị cắn
Biểu đồ trên mô tả phân bố tỷ lệ vị trí vết thương
trên cơ thể trẻ do chó cắn gây ra. Kết quả nghiên
cứu chỉ ra rằng, vị trí vết thương phổ biến ở trẻ
là ở vùng chân, chiếm tới 42,3%. Trẻ bị cắn tại
vùng tay và vùng đầu, mặt, cổ chiếm tỷ lệ tương
đương nhau (22,4% và 28,0%). Tỷ lệ trẻ bị cắn
ở vùng thân và các vùng khác chiếm các tỷ lệ
khá thấp (12,4% và 1,5%). Phân bổ tỷ lệ vị trí
vết thương ở riêng từng năm khá tương đương
nhau và tương đương với phân bố chung.
Bảng 2 mô tả các ghi nhận về sơ cấp cứu và dự
phòng dại các trẻ <16 tuổi nhận được sau khi
bị chó tấn công. Kết quả cho thấy, vẫn có tới
12,1% trẻ không được xử trí vết thương tại chỗ,
4% số trẻ >10 ngày mới tiến hành đến các cơ
sở y tế để tiến hành tiêm dự phòng. Riêng năm
22,3%
17,7%
24,8%
22,0%
14,1%
11,4%
11,3%
12,3%
27,1%
29,3%
28,7%
28,3%
43,6%
44,6%
39,9%
42,5%
1,7%
1,5%
1,3%
1,5%
0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100%
2016
2017
2018
Chung
Đầu, mặt, cổ Thân Tay Chân Khác
Đặc điểm
2016 2017 2018 Chung
n (%) n (%) n (%) n (%)
Xử lý vết
thương tại chỗ
Có 381 (85,4) 290 (90,1) 396 (88,8) 1067 (87,9)
Không 65 (14,6) 32 (9,9) 50 (11,2) 147 (12,1)
Thời điểm bị
cắn - tiêm
> 10 ngày 11 (2,5) 26 (8,1) 12 (2,7) 49 (4,0)
≤ 10 ngày 435 (97,5) 296 (91,9) 434 (97,3) 1165 (96,0)
Dự phòng dại
Tiêm vắc xin 341 (76,5) 263 (81,7) 342 (76,7) 946 (77,9)
Sử dụng huyết thanh kháng
dại
39 (8,7) 8 (2,5) 13 (2,9) 60 (4,9)
Đồng thời tiêm vắc xin và
sử dụng huyết thanh
66 (14,8) 51 (15,8) 91 (20,4) 208 (17,1)
Tổng 446 (100) 322 (100) 446 (100) 1214 (100)
11
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 03, Số 04-2019)
Journal of Health and Development Studies (Vol.03, No.04-2019)
Hà Thị Như Quỳnh và cộng sự
2016, tỷ lệ tiêm phòng sau 10 ngày kể từ khi bị
cắn chỉ là 2,5%, thấp nhất trong cả 3 năm. Đa số
trẻ dự phòng dại bằng cách tiêm vắc xin chiếm
77,9%. Qua các năm từ 2016-2018, phân bố tỷ
lệ sử dụng các phương pháp dự phòng kháng
dại không có sự chênh lệch quá nhiều.
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu này, Theo phân bổ tỷ lệ dựa
trên nhóm tuổi, tổng số trẻ đến tiêm phòng giai
đoạn 2016-2018 tại thành phố Cao Bằng, tuổi
từ 1-5 tuổi và 6-10 tuổi chiếm tỷ lệ cao trong
số trẻ em bị TNTT do chó cắn gây ra. Điều này
có kết quả tương tự với nghiên cứu của Smith
AM tại Arkansas, Mỹ (2018) (2), hay Henry
H. Chen (2013) (6). So với trong nước, báo
cáo của Liên Hợp Quốc năm 2010 chỉ ra rằng,
tại Việt Nam, trẻ ở nhóm 5-10 tuổi có tỷ lệ bị
động vật cắn cao (7). Có thể thấy, hiện tại trẻ
có độ tuổi từ 1-10 tuổi tiềm ẩn nguy cơ TNTT
do chó cắn, đặc biệt là nhóm trẻ 6-10 tuổi với
tỷ lệ tăng dần qua các năm. Đây là độ tuổi trẻ
vô cùng hiếu động, ham chơi, tò mò khám phá
thế giới nhưng lại chưa có nhận thức đầy đủ
về những nguy cơ cho bản thân từ môi trường
xung quanh. Kết quả này cho thấy sự cần thiết
của những buổi chia sẻ, hướng dẫn liên quan
tới phòng chống chó cắn/phòng chống bệnh
dại cho các cơ sở mầm non, tiểu học đặc biệt
trong bối cảnh các chương trình tuyên truyền
về nội dung phòng chống dại vẫn chưa được
quan tâm và thực hiện thường xuyên ở trên địa
bàn tỉnh Cao Bằng. Tuy nhiên, các nội dung
này cần phải được xây dựng phù hợp, đơn
giản, tuần tự từng lớp/cấp học để phù hợp với
các đặc điểm tâm sinh lý của trẻ trong từng độ
tuổi khác nhau
Theo phân bổ tỷ lệ trẻ bị TNTT do chó cắn
theo giới, tỷ lệ trẻ bị TNTT ở bé trai cao hơn
bé gái. Điều này có thể lý giải do bé trai ở
lứa tuổi nhỏ hiếu động, có xu hướng thích
tiếp xúc, chơi đùa với chó, tuy nhiên lại thiếu
kỹ năng tự vệ khi bị chó tấn công nên dễ bị
cắn và các vết thương thường bị nặng và
nhiều hơn so với bé gái (8). Kết quả này có
kết quả tương tự với nghiên cứu của Smith
AM và cộng sự được thực hiện năm 2018 tại
Arkansas, Mỹ (2), hay nghiên cứu của tác giả
Nguyễn Thị Thanh Hương (2017) tại vùng
Trung du và miền núi phía Bắc (9), tác giả
Nguyễn Thị Hiển (2018) tại Nghệ An (10).
Theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới
(11) và hướng dẫn giám sát, phòng chống
bệnh dại trên người do Bộ Y tế ban hành (12),
các mức độ thương tổn từ mức độ II trở lên
cần được tiêm vắc xin dại ngay lập tức. Kết
quả nghiên cứu cho thấy phần lớn trẻ (78,9%)
đến tiêm phòng là trẻ có vết cắn mức độ II,
cho thấy người dân đã có ý thức tốt hơn về
việc cho trẻ đi tiêm phòng.
Nhận định về vị trí vết thương khi bị cắn,
biểu đồ 1 chỉ ra rằng phần lớn vết thương của
trẻ tại chân là 42,3%, đáng chú ý là tỷ lệ vết
thương có vị trí ở đầu, mặt, cổ - nơi tập trung
nhiều dây thần kinh chiếm tới 22,4%. Tỷ lệ
trẻ bị chó cắn ở chân trong nghiên cứu của
chúng tôi tuy thấp hơn tỷ lệ trẻ bị cắn ở chân
trong độ tuổi 6-15 tuổi của tác giả Nguyễn
Thị Thanh Hương thực hiện tại tỉnh Phú Thọ
năm 2015. Tuy nhiên, tỷ lệ trẻ có vết thương
ở vùng đầu, mặt cổ tại nghiên cứu này lại rất
cao. Tỷ lệ có vết thương ở vùng đầu, mặt cổ
cao hơn hẳn so với tỷ lệ vết thương có vị trí
ở đầu, mặt, cổ ở nhóm trẻ 6–15 tuổi trong
nghiên cứu tại Phú Thọ năm 2015 (6%) (13).
Trong nghiên cứu này, các đặc điểm sơ cứu
sau khi bị chó cắn ở trẻ được tác giả đưa ra
bao gồm: tình trạng xử trí vết thương tại chỗ,
12
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 03, Số 04-2019)
Journal of Health and Development Studies (Vol.03, No.04-2019)
thời điểm bị cắn-tiêm, cấp độ dự phòng dại.
Có 87,9% trẻ gặp TNTT do chó cắn trong
giai đoạn năm 2016 – 2018 được xử trí vết
thương tại chỗ, cao hơn hẳn nghiên cứu của
tác giả Nguyễn Thị Thanh Hương ở các trẻ
lứa tuổi 6-16 tại Phú Thọ (2015) với tỷ lệ trẻ
em được rửa vết thương tại thời điểm cắn là
50% (9). Vẫn còn có 45 (trẻ đến tiêm sau 10
ngày là thời điểm an toàn để vắc xin có hiệu
quả. Phần lớn các trẻ đều tiêm vắc xin phòng
dại (77,9%), nhưng cũng có tới 17,1% trẻ
đồng thời tiêm vắc xin phòng dại và sử dụng
huyết thanh kháng dại trong giai đoạn 2016-
2018, đặc biệt năm 2018 tỷ lệ trẻ có sử dụng
cả huyết thanh kháng dại và đi tiêm phòng dại
đạt tới 20,4%. Tỷ lệ trẻ tiêm vắc xin phòng
dại trong nghiên cứu này cao hơn so với tỷ
lệ tiêm vắc xin phòng dại trên trẻ có độ tuổi
từ 6-15 tuổi tại trong nghiên cứu của Nguyễn
Thị Thanh Hương (2017) tại tỉnh Phú Thọ
(26,5%) (13).
Phương pháp nghiên cứu hiện tại sử dụng các
số liệu thứ cấp dựa trên hệ thống số liệu giám
sát trong giai đoạn từ 2016–2018 nên nghiên
cứu viên không thể kiểm soát được quá trình
thu thập số liệu ban đầu. Ngoài ra, do hạn chế
số liệu chỉ ghi nhận các trường hợp phải điều
trị (mức độ tổn thương II và III), nên nghiên
cứu chưa bao hàm được toàn bộ các trẻ bị chó
tấn công trong giai đoạn này, chưa phản ánh
được thực trạng trẻ bị cắn trong cộng đồng. Do
vậy, để mô tả toàn diện đặc điểm TNTT ở trẻ
dưới 16 tuổi đòi hỏi có thêm nghiên cứu trên
đối tượng là những trẻ bị chó cắn không đến
tiêm phòng hoặc tiêm phòng ở khu vực khác.
KẾT LUẬN
Các kết quả cho thấy trẻ có tuổi từ 1-5 tuổi và
6-10 tuổi chiếm tỷ lệ cao (40,9% và 39,3%),
tỷ lệ trẻ bị tổn thương mức độ II qua các năm
chiếm 78,9%, độ III chiếm 21,1%. Về vị trí vết
cắn, tỷ lệ bị cắn ở chân là cao nhất (42,3%),
tiếp đến vị trí vết thương ở tay (28,0%), vùng
đầu, mặt, cổ (22,4%), vùng thân (12,4%), và
vùng khác (1,5%). Về thực trạng xử lý sau khi
trẻ bị cắn, có 12,1% trẻ không được xử trí vết
thương tại chỗ, 4% số trẻ đến các cơ sở y tế để
tiến hành tiêm dự phòng sau ngày thứ 10 trở
đi, 77,9% trẻ được tiêm vắc xin.
Từ các kết quả nghiên cứu cho thấy sự cần
thiết phải triển khai các chương trình truyền
thông về phòng chống bệnh dại ở nhà trường
và cộng đồng về nhớm tuổi có nguy cơ cao
là từ 1-10 tuổi; nâng cao kiến thức cho người
dân về cách xử lý vết thương ngay và sự cần
thiết phải tiêm phòng vắc xin trong vòng 10
ngày sau khi bị cắn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. CDC-Centers for Diease Control and
Prevention. Injury Prevention & Control. 2008
[cited 02/02/2019]; Available from: https://
www.cdc.gov/injury/index.html.
2. Smith, A.M., et al., Characteristics of Dog Bites
in Arkansas. South Med J, 2018. 111(8): p. 494-
500.
3. Cổng thông tin Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung
ương. Viện trưởng Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung
ương hướng dẫn cách phòng chống bệnh dại
2014. 2014 [cited 02/02/2019]; Available
from:
tinduongdaynong.aspx? ItemID=5.
4. Sở Y tế Hà Nội. Nhiều trường hợp tử vong do
bệnh dại. 2019 [cited 01/09/2019; Available
from:
truyen-nhiem/nhieu-truong-hop-tu-vong-do-
benh-dai-9364.html.
5. Đoàn Thị Thắm, Đặc điểm dịch tễ học bệnh dại
trên địa bàn tỉnh Cao Bằng năm 2014 – 2017 và
đề xuất áp dụng một số năng lực cốt lõi của Một
sức khỏe vào công tác phòng chống bệnh. 2017.
6. Chen, H.H., et al., Analysis of pediatric facial
dog bites. Craniomaxillofacial trauma &
reconstruction, 2013. 6(4): p. 225-232.
7. United Nations Vietnam, Báo cáo tổng hợp -
Hà Thị Như Quỳnh và cộng sự
13
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 03, Số 04-2019)
Journal of Health and Development Studies (Vol.03, No.04-2019)
Hà Thị Như Quỳnh và cộng sự
phòng chống tai nạn thương tích trẻ em ở Việt
Nam. 2010.
8. WHO. Animal bites. 2018 [cited 15/07/2019];
Available from: https://www.who.int/news-
room/fact-sheets/detail/animal-bites.
9. Nguyễn Thị Thanh Hương, và cộng sự, Đặc
điểm dịch tễ học của bệnh nhân tử vong do bệnh
dại ở các tỉnh trung du và miền núi phía bắc
Việt Nam, 2010-2015. Tạp chí Y học dự phòng,
2017. 27(6-2017): p. 84-91.
10. Nguyễn Thị Hiền, Một số đăc điểm dịch tễ học
bệnh dại ở người tại Nghệ An giai đoạn 2008–
2017. Tạp chí Y học Dự phòng, 2018. Số 4 phụ
bản 2018.
11. WHO. Rabies. 2019 [cited 15/07/2019];
Available from: https://www.who.int/en/news-
room/fact-sheets/detail/rabies.
12. Bộ Y tế, Quyết định 1622/QĐ-BYT phê duyệt
“hướng dẫn giám sát, phòng chống bệnh dại
trên người”. 2014.
13. Nguyễn Thị Thanh Hương, và cộng sự, Thực
trạng phơi nhiễm với bệnh dại ở trẻ em nhóm
tuổi 6-15 tuổi tại tỉnh Phú Thọ, 2015. Tạp chí Y
học Dự phòng, 2017. Tập 27.
Current situation of dog bite injuries in children under 16 years old in
Cao Bang city, 2016-2018
Ha Thi Nhu Quynh1, Pham Thi Nha Truc2
1Cao Bang Center for Disease Control
2Medical College of Bac Lieu Province
Aims: To describe some characteristics of dog bite injuries among children under 16 years old,
who came to CDC Cao Bang for vaccination against rabies, from 2016 to 2018. Methodology:
A cross-sectional study was conducted from 11/2018 to 9/2019 based on secondary data of
1,214 children under 16 years old, who had been vaccinated against rabies at CDC Cao Bang,
from 1/2016 to 12/2018. Results: The high risk age groups are 1-5 years old and 6-10 years
old (40.9% and 39.3%), the prevalence of children with level II injuries accounted for 78.9%,
level III accounted for 21.1%. Among the biting positions, the prevalence of children who was
bited in the legs was highest (42.3%), followed by bites in the hands (28.0%), head-face-neck
(22.4%), torso (12.4%) and others (1.5%). 12.1% of the children was not received necessary
rst aid, 4% went to health facilities for vaccination after 10 days of being bitten and 77.9% got
vaccinated. Conclusion: It’s necessary to focus on education in prevention strategies at school
and community for high-risk age groups from 1 to 10 years old; improve knowledge about rst
aid and the important of vaccination within 10 days from being bitten.
Key words: injuries, dog bite, children under 16 years old, Cao Bang.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
thuc_trang_tai_nan_thuong_tich_do_cho_can_o_tre_duoi_16_tuoi.pdf