• Tư bản: là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ tư bản mà người lao động được sử dụng những máy móc, thiết bị.nhiều hay ít (tỷ lệ tư bản trên mỗi lao động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp. Để có được tư bản, phải thực hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng cho tương lai. Điều này đặc biệt quan trọng trong sự phát triển dài hạn, những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao thường có được sự tăng trưởng cao và bền vững. Tuy nhiên, tư bản không chỉ là máy móc, thiết bị do tư nhân dầu tư cho sản xuất nó còn là tư bản cố định xã hội, những thứ tạo tiền đề cho sản xuất và thương mại phát triển. Tư bản cố định xã hội thường là những dự án quy mô lớn, gần như không thể chia nhỏ được và nhiều khi có lợi suất tăng dần theo quy mô nên phải do chính phủ thực hiện. Ví dụ: hạ tầng của sản xuất (đường giao thông, mạng lưới điện quốc gia.), sức khỏe cộng đồng, thủy lợi.
55 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1452 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam từ năm 2006 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
6 tỷ USD, tăng 118,1%, trong đó phôi thép 1,3 tỷ USD, tăng 181%; vải 2,3 tỷ USD, tăng 20,3%; điện tử, máy tính và linh kiện 1,8 tỷ USD, tăng 43%; chất dẻo 1,5 tỷ USD, tăng 38,8%; nguyên phụ liệu dệt, may, da 1,2 tỷ USD, tăng 16,2%; phân bón 1 tỷ USD, tăng 130,9%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu 1 tỷ USD, tăng 84,1%; hoá chất 930 triệu USD, tăng 41%; gỗ và nguyên phụ liệu gỗ 594 triệu USD, tăng 24%; giấy 403 triệu USD, tăng 44,9%. Riêng lượng ô tô nhập khẩu 6 tháng đầu năm nay tuy tăng 413,9% về lượng và tăng 354,5% về kim ngạch nhưng đã có xu hướng giảm do thuế nhập khẩu tăng.
Nhập siêu hàng hoá 6 tháng đầu năm 2008 ước tính đạt 14,8 tỷ USD, bằng 49,8% kim ngạch xuất khẩu, tăng 184,6% so với cùng kỳ năm trước và cao hơn 0,7 tỷ USD so với mức nhập siêu của cả năm 2007. Tuy nhiên, trong những tháng gần đây nhập siêu đã giảm nhanh, từ mức nhập siêu 3,28 tỷ USD tháng 3 và 3,2 tỷ USD tháng 4 đã giảm xuống còn 1,91 tỷ USD trong tháng 5 và 1,3 tỷ USD trong tháng 6. Mặt khác, nhập siêu chủ yếu là nhập nguyên, nhiên vật liệu từ thị trường các nước trong khu vực, còn đối với các thị trường khác như EU, Mỹ nước ta vẫn duy trì được mức xuất siêu. Trong 5 tháng đầu năm 2008, nước ta xuất siêu sang thị trường EU 1,9 tỷ USD, tăng 26,6% so với xuất siêu 6 tháng đầu năm 2007; xuất siêu sang thị trường Mỹ 3,3 tỷ USD, tăng 10%.
Xuất, nhập khẩu dịch vụ 6 tháng đầu năm 2008 ước tính đạt 7,8 tỷ USD, tăng 23,5% so với cùng kỳ năm 2007, gồm có xuất khẩu dịch vụ 3,4 tỷ USD, tăng 16,1%; nhập khẩu dịch vụ đạt 4,4 tỷ USD, tăng 30%.
Thâm hụt thương mại (tính theo giá f.o.b) đến cuối năm nay dự kiến sẽ lên đến 20% GDP.
Đây là mức thâm hụt lớn, dù tính theo bất kì thước đo nào. Có dấu hiệu
cho thấy năm 2008 là một năm bất thường nhiều hơn chứ đây không phải là sự khởi đầu của một xu hướng mới. Thâm hụt thương mại đạt đỉnh điểm vào tháng 12/2007, rồi giảm mạnh vào tháng 6/2008, điều này có thể phản ánh tác dụng của các biện pháp hành chính tình thế nhằm kiềm chế nhập khẩu, rồi sau đó đã giảm thấp hơn so với xu hướng chung kể từ tháng Tám. Đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng đã tạo ra nhu cầu nhập khẩu lớn trong ngắn hạn nhưng ngược lại cũng tạo khả năng xuất khẩu về trung hạn.
Nguồn kiều hối về Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trong các năm qua do người Việt Nam ở nước ngoài đã tăng cường đầu tư vào các cơ hội trong nước.
Vốn đầu tư thực hiện 6 tháng đầu năm 2008 theo giá thực tế ước tính đạt 265,4 nghìn tỷ đồng, tăng 21,1% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: vốn khu vực Nhà nước đạt 106,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 40% tổng số vốn thực hiện và tăng 15,2%; vốn khu vực ngoài Nhà nước 80 nghìn tỷ đồng, chiếm 30,1% và tăng 15,1%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 79,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 29,9% và tăng 37,7%.
Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước đạt 39,1 nghìn tỷ đồng, bằng 39,8% kế hoạch năm; vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước do trung ương quản lý đạt 11,9 nghìn tỷ đồng, bằng 35,9% kế hoạch năm, trong đó Bộ Giao thông Vận tải 1907,2 tỷ đồng, bằng 30,4%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 952,2 tỷ đồng, bằng 57,1%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 495,3 tỷ đồng, bằng 44,2%; Bộ Y tế 391,8 tỷ đồng, bằng 42%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 173,3 tỷ đồng, bằng 39,3%; Bộ Công Thương 104,1 tỷ đồng, bằng 43,9%; Bộ Xây dựng đạt 63,5 tỷ đồng, bằng 18,1%.
Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý ước tính thực hiện 27,2 nghìn tỷ đồng, đạt 41,8% kế hoạch năm, trong đó một số địa phương có số vốn lớn là: Thành phố Hồ Chí Minh 3,1 nghìn tỷ đồng, đạt 35,4% kế hoạch năm; Hà Nội 2,3 nghìn tỷ đồng, đạt 38,4%; Đà Nẵng 1,3 nghìn tỷ đồng, đạt 53,3%; Bà Rịa-Vũng Tàu 1,0 nghìn tỷ đồng, đạt 51,8%; Nghệ An 658 tỷ đồng, đạt 47,3%; Hải Phòng 554 tỷ đồng, đạt 39,3%; Lâm Đồng 538,9 tỷ đồng, đạt 68,3%; Quảng Trị 512,9 tỷ đồng, đạt 66,4%.
Thực hiện Quyết định số 390/QĐ-TTg ngày 17 tháng 4 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều hành kế hoạch đầu tư XDCB và chi tiêu ngân sách năm 2008 phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát, tính đến ngày 28 tháng 5 năm 2008 đã có 28 Bộ, Ngành, 43 địa phương, 8 tập đoàn kinh tế và tổng công ty Nhà nước tiến hành rà soát các dự án sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, đã đình hoãn và ngừng triển khai 618 dự án với tổng số vốn kế hoạch năm 2008 là 1450 tỷ đồng, giảm tiến độ thực hiện 377 dự án với tổng số vốn 2533 tỷ đồng.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài năm 2008 tiếp tục tăng cao. Tính từ đầu năm đến 20/6/2008 có 478 dự án đầu tư nước ngoài mới được cấp phép với số vốn đăng ký 30,9 tỷ USD, tuy giảm 29,5% về số dự án nhưng tăng 324,3% về số vốn so với cùng kỳ năm 2007. Nếu tính cả 661,2 triệu USD cấp bổ sung của 158 lượt dự án đã được cấp phép trước đây thì tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 6 tháng đầu năm đạt 31,6 tỷ USD, gấp hơn 3,7 lần so với cùng kỳ năm trước, vượt xa con số 21,3 tỷ USD đầu tư nước ngoài vào Việt Nam của cả năm 2007. Số vốn đăng ký cao chủ yếu do nhiều dự án lớn được cấp giấy phép như: Dự án Công ty gang thép Hưng nghiệp Formosa do tập đoàn Formosa của Đài Loan có số vốn đăng ký gần 7,9 tỷ USD; dự án Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn-Thanh Hoá của Nhật Bản và Cô-oét liên doanh có số vốn đăng ký 6,2 tỷ USD; dự án Hồ Tràm của Ca-na-đa trên 4,2 tỷ USD. Mức vốn đăng ký bình quân một dự án đạt 64,7 triệu USD, cao hơn cùng kỳ năm trước 53,9 triệu USD một dự án.
Trong số 478 dự án mới được cấp phép, khu vực công nghiệp và xây dựng có 298 dự án với số vốn đăng ký 17,2 tỷ USD, chiếm 62,3% tổng số dự án và chiếm 55,4% tổng vốn đăng ký; khu vực dịch vụ 155 dự án với 13,6 tỷ USD, chiếm 32,4% tổng số dự án và chiếm 44% tổng số vốn; khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 25 dự án với 167,3 triệu USD, chiếm 5,3% số dự án và chiếm 0,6% tổng số vốn.
Trong 6 tháng đầu năm 2008 đã có 38 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép mới, trong đó Hà Tĩnh có số vốn đăng ký lớn nhất với 7,9 tỷ USD, chiếm 25,5% tổng vốn đăng ký; tiếp đến là Thanh Hóa 6,2 tỷ USD, chiếm 20%; Bà Rịa-Vũng Tàu 5,6 tỷ USD, chiếm 18%; thành phố Hồ Chí Minh 3,4 tỷ USD, chiếm 11%; Đồng Nai 1,8 tỷ USD, chiếm 5,8%; Kiên Giang 1,6 tỷ USD, chiếm 5,3%; Bắc Ninh 1 tỷ USD, chiếm 3,3%; Hà Nội 661,5 triệu USD, chiếm 2,1%; Cần Thơ 539,2 triệu USD, chiếm 1,7%; Bình Dương 485 triệu USD, chiếm 1,6%.
Trong số các quốc gia và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, Đài Loan dẫn đầu về vốn đăng ký với 8,2 tỷ USD, chiếm 26,4% tổng vốn đăng ký; tiếp đến là Nhật Bản với 7,1 tỷ USD, chiếm 23%; Ca-na-đa 4,2 tỷ USD, chiếm 13,7%; Xin-ga-po 3,6 tỷ USD, chiếm 11,5%; Quần đảo Virgin thuộc Anh 2,7 tỷ USD, chiếm 8,8%; Ma-lai-xi-a 1,6 tỷ USD, chiếm 5,1%; Hoa Kỳ 1,4 tỷ USD, chiếm 4,4%.
Tổng số vốn ODA được ký kết tính đến ngày 19/6/2008 đạt 1313 triệu USD, bằng 71% cùng kỳ năm trước, bao gồm: vốn vay 1217 triệu USD, vốn viện trợ không hoàn lại 96 triệu USD. Giải ngân vốn ODA 6 tháng đầu năm ước tính đạt 1100 triệu USD, bằng 58% kế hoạch năm, bao gồm: vốn vay 970 triệu USD, vốn viện trợ không hoàn lại 130 triệu USD. Trong số các dự án sử dụng vốn vay, các dự án thuộc ngành điện, giao thông, nông nghiệp và phát triển nông thôn có tiến độ giải ngân nhanh hơn tiến độ của các dự án trong lĩnh vực phát triển đô thị, y tế, giáo dục, tài chính ngân hàng.
2.2.Mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam cũng phù hợp với lý thuyết và kết quả kiểm nghiệm trên thế giới. Ở mức lạm phát thấp (thường là 1 con số) thì lạm phát không có tác động tiêu cực lên tăng trưởng. Ở mức lạm phát thấp, gia tăng lạm phát thường gắn liền với tăng trưởng cao hơn (giai đoạn 1992-2007). Tuy nhiên, khi lạm phát đạt đến một ngưỡng cao nhất định, thì lạm phát bắt đầu tác động tiêu cực lên tăng trưởng (giai đoạn trước 1992).
Năm
Tốc độ tăng GDP (%)
Lạm phát (%)
1987
3.6
223.1
1988
6.0
349.4
1989
4.7
36.0
1990
5.1
67.1
1991
5.8
67.5
1992
8.7
17.5
1993
8.1
5.2
1994
8.8
14.4
1995
9.5
12.7
1996
9.3
4.5
1997
8.2
3.6
1998
5.8
9.2
1999
4.8
0.1
2000
6.8
-0.6
2001
6.9
0.8
2002
7.1
4.0
2003
7.3
3.0
2004
7.8
9.5
2005
8.4
8.4
2006
8.2
6.6
2007
8.5
12.6
Báo cáo nhận định, Việt Nam chỉ là một nền kinh tế nhỏ trong khu vực châu Á vì GDP 70 tỷ USD của Việt Nam chỉ tương đương với 1% GDP của toàn khu vực này, trừ Nhật Bản. Trong những năm gần đây, Việt Nam gây ấn tượng bởi tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục. Mặc dù vậy, Việt Nam đang chịu tác động từ chính thành công quá lớn và quá nhanh chóng của chính mình.
Theo các số liệu đưa ra trong báo cáo, các dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam trong năm 2007 có thể đạt 5,7 tỷ USD (8,1% GDP), còn các dòng vốn khác có thể đạt khoảng 8,9 tỷ USD (12,7% GDP). Cùng với đó, tăng trưởng tín dụng trong năm 2007 đạt mức 54%, thị trường chứng khoán cũng phát triển bùng nổ.
Việc có phải chính sách vĩ mô đã gây ra tình trạng lạm phát cao ở Việt Nam hiện nay là một câu hỏi gây tranh cãi. Ở các nước châu Á khác, giá lương thực - thực phẩm tăng cao là nguyên nhân chính gây lạm phát, nhưng ở Việt Nam, giá cả các mặt hàng phi lương thực cũng tăng tới trên 10% so với cùng kỳ năm ngoái do tăng trưởng kinh tế cao, nhu cầu cao và thanh khoản dồi dào.
Để chống lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng nhiều biện pháp mạnh trong đó có tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tăng lãi suất cho vay cơ bản lên mức 12%. Các chuyên gia của Merrill Lynch bình luận, mức độ phản ứng của Ngân hàng Nhà nước chứng tỏ, để chống lạm phát, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ phải trả một cái giá nhất định.
Đồng thời, những lo ngại ban đầu về lạm phát đã trở thành những lo ngại trên phạm vi lớn hơn về bất ổn kinh tế vĩ mô.
Năm 2007 lạm phát của Việt Nam tăng cao ở mức hai con số 12,63%. Nếu so sánh với mức lạm phát của một số nước trong khu vực và trên thế giới như Trung Quốc: 6,5%; Indonesia: 6,59%; Mỹ: 4,08%, Thái Lan: 3,21%, Khu vực đồng Euro: 3,07%, Nhật Bản: 0,7% thì lạm phát của Việt Nam có phần cao hơn. Bước sang Quý I/08 lạm phát của Việt Nam đạt 9,19%, vẫn cao hơn so với mức 3,02% của Quý I/07 và bằng khoảng trên 70% so với mức tăng của cả năm 2007. Đây là mức tăng cao trong vòng 12 năm trở lại đây. Vậy thì đâu là nguyên nhân dẫn đến lạm phát của Việt Nam tăng cao? Có thể đề cập đến hai nhóm nguyên nhân: các nhân tố tác động từ kinh tế toàn cầu, và các nhân tố từ nội tại nền kinh tế Việt Nam, cụ thể như sau:
* Các nguyên nhân chính từ bối cảnh kinh tế toàn cầu:
Thứ nhất: Giá dầu và giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào của sản xuất liên tục gia tăng: Trong 4 năm từ 2003-2006 kinh tế toàn cầu liên tục tăng trưởng cao, đặc biệt là nhóm các nước “mới nổi” ở khu vực Châu á, nhất là Trung Quốc đã đẩy nhu cầu năng lượng toàn cầu tăng cao đột biến, cùng với những bất ổn và xung đột chính trị quân sự tại khu vực Trung Đông là các nguyên nhân trực tiếp đẩy giá dầu lên cao chưa từng có trong lịch sử 110 USD/thùng trong tháng 3/2008, đồng thời giá các nguyên vật liệu đầu vào khác như sắt thép, phân bón, xi măng cũng liên tục gia tăng. Như vậy, giá dầu đã tăng 72%, sắt thép tăng 114%, phân bón tăng 59,6%, khí hoá lỏng tăng 95% kể từ đầu năm 2007 đến tháng 3/2008 và đây cũng là mức tăng cao nhất từ trước tới nay.
Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm liên tục gia tăng: xuất phát từ quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu, thiên tai dịch bệnh diễn ra liên tiếp, cùng với những năm tăng trưởng kinh tế mạnh trên thế giới - là những năm quá trình công nghiệp hoá được đẩy mạnh khiến diện tích đất sử dụng cho trồng trọt, chăn nuôi bị thu hẹp. Tất cả những điều trên làm sản lượng lương thực - thực phẩm ngày càng giảm mạnh. Ngoài ra, giá năng lượng tăng cao đã khiến nhiều nước sử dụng một sản lượng lớn ngũ cốc chuyển sang sản xuất nhiên liệu sinh học càng làm cho nguồn cung lương thực đã giảm càng giảm sút.
Thứ ba: Một khối lượng tiền lớn được đưa ra nền kinh tế toàn cầu: Trước việc giá dầu và giá lương thực - thực phẩm liên tục leo thang đã tạo nên cú sốc cung rất lớn đẩy lạm phát toàn cầu tăng cao, tình hình này đã buộc các NHTW phải tăng các mức lãi suất chủ chốt để kiềm chế lạm phát, cụ thể: Nhật Bản tăng 1 lần từ 0,25%- 0,5%/năm; khu vực đồng Euro tăng 2 lần từ 3,5%-3,75%-4,0%/năm; Anh tăng 3 lần từ 5%-5,5%/năm (trong đó có 1 lần giảm); Thuỵ Điển tăng 4 lần từ 3,0%-4,0%/năm; Trung Quốc tăng 6 lần từ 6,12-7,47%/năm.
Việc các nước thực hiện thắt chặt tiền tệ thông qua tăng lãi suất chủ đạo cùng với việc giá dầu, giá lương thực - thực phẩm tiếp tục tăng cao chính là nguyên nhân cơ bản đã đẩy nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái vào những tháng đầu năm 2008, mà biểu hiện là cuộc khủng hoảng cho vay dưới tiêu chuẩn của Mỹ bắt đầu từ tháng 7/2007. Trước bối cảnh lạm phát gia tăng và kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái, các NHTW không còn cách nào khác là phải bơm một lượng tiền khổng lồ để cứu vãn nền kinh tế, trong đó riêng Mỹ từ tháng 8/2007 đến nay đã phải đưa ra nền kinh tế trên 2.300 tỷ USD, trong đó có 800 tỷ USD tiền mặt để cứu vãn hệ thống ngân hàng, NHTW Châu Âu, Nhật Bản, Anh cũng phải đưa một lượng tiền lớn để cứu vãn nền kinh tế cũng như hệ thống ngân hàng; cùng với việc một số NHTW phải thực hiện cắt giảm lãi suất từ tháng 8/2007 trở lại đây như Mỹ, Anh, Canada. Việc cứu vãn nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái bằng biện pháp đưa hàng nghìn tỷ USD ra nền kinh tế lại càng đẩy lạm phát toàn cầu tiếp tục tăng cao.
Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là cùng một bối cảnh thế giới như nhau, tại sao các nước khác như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia lại có mức lạm phát thấp hơn so với lạm phát của Việt Nam? Vậy, mức lạm phát của Việt Nam tăng cao trong thời gian vừa qua ngoài những yếu tố thế giới thì còn những nguyên nhân nào khác?
* Các nguyên nhân chính từ nội tại nền kinh tế Việt Nam:
Thứ nhất: Chi phí sản xuất tăng cao: Trước bối cảnh lạm phát toàn cầu gia tăng đã tác động làm giá hầu hết các nhóm hàng nhập khẩu của Việt Nam gia tăng mạnh mẽ như xăng dầu, sắt thép, phân bón, thuốc trừ sâu - là những nguyên nhiên vật liệu đầu vào chính của sản xuất. Mặc dù Chính phủ đã cố gắng kiểm soát giá xăng dầu, nhưng từ đầu năm 2007 đến hết Quý I/08 giá xăng dầu đã phải điều chỉnh tăng 4 lần, tính chung giá xăng dầu đã tăng tới 38%, giá thép tăng 91%, giá điện tăng 7,6%; giá than tăng 30%; giá xi măng tăng 15%; giá phân bón tăng 58%. Điều này đã tác động làm chi phí sản xuất tăng cao.
Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm tăng cao: biến đổi khí hậu toàn cầu trên thế giới không những tác động đến nhiều quốc gia mà Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Chỉ trong tháng 10/2007, miền Trung phải hứng chịu 5 cơn bão liên tiếp, trong khi đó dịch bệnh trong chăn nuôi, trồng trọt như cúm gia cầm, lợn tai xanh, lở mồm long móng ở lợn, vàng lùn ở lúa cùng với rét đậm, rét hại khiến cho nguồn cung lương thực - thực phẩm bị sụt giảm.
Mặc dù Chính phủ đã ban hành Công văn 639/BTM-XNK ngày 16/8/2007 và Công văn số 266/TTg-KTTH ngày 21/2/2008 để khống chế lượng gạo xuất khẩu tối đa nhằm kiểm soát lạm phát và đảm bảo an ninh lương thực trong nước, nhưng việc giá lương thực, thực phẩm thế giới tăng cao đã khiến giá gạo xuất khẩu và giá một số mặt hàng thực phẩm xuất khẩu khác như thuỷ hải sản gia tăng cộng với chi phí sản xuất tăng cao đã đẩy giá lương thực, thực phẩm trong nước tăng cao ở mức 18,92% năm 2007 và 14,45% trong QI/2008, cao gấp 5 lần so với mức tăng 4,18% của quý I/2007, trong khi nhóm này có quyền số 42,85%, lớn nhất trong rổ hàng hoá CPI, có thể nói đây là nguyên nhân chủ yếu tác động làm CPI tăng mạnh.
Thứ ba: Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ liên tục mở rộng từ 2001-2006 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Trong vòng 3 năm trở lại đây kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng ở mức rất cao trên 8%, và mục tiêu của giai đoạn này đối với Chính phủ Việt Nam là ưu tiên tăng trưởng kinh tế. Với mục tiêu này đã khuyến khích cho “chính sách tài chính, tiền tệ nới lỏng đã thực hiện trong nhiều năm liền nhưng quản lý chưa chặt chẽ” nhằm mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, và đây cũng là nhân tố góp phần khiến lạm phát bình quân từ 2005 đến 2007 tăng trên 8,01%. Tín dụng ngân hàng cho nền kinh tế tăng mạnh trong một thời gian dài nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế là một nguyên nhân quan trong làm gia tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Các ngân hàng cũ mở rộng tín dụng bằng việc nới lỏng điều kiện cho vay, cạnh tranh nhau bằng giảm lãi suất cho vay, tăng lãi suất huy động để tìm kiếm nguồn vốn cho vay,chuyển đổi mô hình, liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, tập đoàn để tăng vốn điều lệ, mở rộng mạng lưới nhanh chóng vượt quá khả năng quản trị, cho thành lập thêm các ngân hàng mới và tất cả các ngân hàng chủ yếu đua nhau tìm kiếm lợi nhuận từ nghiệp vụ cho vay nên càng làm cho tín dụng của hệ thống ngân hàng tăng cao trong suốt năm 2007 và 3 tháng đầu năm 2008, đó là nguyên nhân rất quan trong gây sức ép rất lớn làm gia tăng lạm phát trong thời gian qua.
Thứ tư: Luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh: bắt đầu từ cuối năm 2006 khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), cùng với những cải cách về cơ chế chính sách và môi trường đầu tư đã tạo điều kiện cho các luồng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng mạnh. Năm 2007 luồng vốn FDI tăng 20,3 tỷ USD vốn đăng ký, cao hơn nhiều so với mức 10,2 tỷ USD của năm 2006, đặc biệt là luồng vốn đầu tư gián tiếp gia tăng mạnh mẽ khoảng trên 6 tỷ, gấp 5 lần con số của năm 2006 mà chủ yếu đổ vào thị trường chứng khoán, trái phiếu đặc biệt là đổ vào IPO các doanh nghiệp nhà nước lớn. Đứng trước bối cảnh này, Ngân hàng nhà nước đã phải cung ứng một lượng lớn tiền VND để mua ngoại tệ vào nhằm mục tiêu ổn định và phá giá nhẹ tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và điều này làm cho tổng phương tiện thanh toán tăng cao, tác động làm lạm phát gia tăng.
Báo cáo nhận định Ngân hàng đầu tư Merrill Lynch của Mỹ cho biết, Việt Nam chỉ là một nền kinh tế nhỏ trong khu vực châu Á vì GDP 70 tỷ USD của Việt Nam chỉ tương đương với 1% GDP của toàn khu vực này, trừ Nhật Bản. Trong những năm gần đây, Việt Nam gây ấn tượng bởi tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục. Mặc dù vậy, Việt Nam đang chịu tác động từ chính thành công quá lớn và quá nhanh chóng của chính mình.
Theo các số liệu đưa ra trong báo cáo, các dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam trong năm 2007 có thể đạt 5,7 tỷ USD (8,1% GDP), còn các dòng vốn khác có thể đạt khoảng 8,9 tỷ USD (12,7% GDP). Cùng với đó, tăng trưởng tín dụng trong năm 2007 đạt mức 54%, thị trường chứng khoán cũng phát triển bùng nổ.
Việc có phải chính sách vĩ mô đã “gây ra” tình trạng lạm phát cao ở Việt Nam hiện nay là một câu hỏi gây tranh cãi. Ở các nước châu Á khác, giá lương thực - thực phẩm tăng cao là nguyên nhân chính gây lạm phát, nhưng ở Việt Nam, giá cả các mặt hàng phi lương thực cũng tăng tới trên 10% so với cùng kỳ năm ngoái do tăng trưởng kinh tế cao, nhu cầu cao và thanh khoản dồi dào.
Để chống lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng nhiều biện pháp mạnh trong đó có tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tăng lãi suất cho vay cơ bản lên mức 12%. Các chuyên gia của Merrill Lynch bình luận, mức độ phản ứng của Ngân hàng Nhà nước chứng tỏ, để chống lạm phát, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ phải trả một cái giá nhất định.
Đồng thời, những lo ngại ban đầu về lạm phát đã trở thành những lo ngại trên phạm vi lớn hơn về bất ổn kinh tế vĩ mô.
Theo báo cáo này, những biểu hiện của một “cú sốc” lạm phát bao gồm:
Thứ nhất, lạm phát tăng mạnh, khiến ngân hàng trung ương phải phản ứng mạnh bằng chính sách tiền tệ.
Thứ hai, thanh khoản thắt chặt, lãi suất cao, triển vọng tăng trưởng xấu đi.
Thứ ba, giá cả của những mặt hàng chịu ảnh hưởng lớn của yếu tố tâm lý, như chứng khoán và bất động sản giảm nhanh; đồng nội tệ có thể lên giá hoặc xuống giá.
Và thứ tư, đồng nội tệ có thể lên giá hoặc xuống giá. Nếu chính sách tiền tệ được thắt chặt từ từ và thị trường vẫn tin tưởng vào chính sách vĩ mô, đồng nội tệ có thể lên giá. Nhưng nếu bất ổn xảy ra, triển vọng tăng trưởng xấu đi và dòng vốn ngoại chảy ra, đồng nội tệ sẽ mất giá mạnh.
Tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay được coi là một ví dụ về “cú sốc” lạm phát. Một số ví dụ khác bao gồm Trung Quốc hồi mùa xuân năm 2004 và mùa thu năm 2007, Ấn Độ đầu 2008, Indonesia mùa hè 2005
Báo cáo cho rằng, kinh tế Việt Nam có nhiều điểm giống như kinh tế Trung Quốc, chẳng hạn cả hai nước đều mới gia nhập WTO, tốc độ tăng trưởng cao nhờ xuất khẩu và đầu tư Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn nhất là cuộc chiến chống lạm phát ở Việt Nam căng thẳng hơn nhiều. Vấn đề cốt lõi - theo báo cáo nhận định - là Việt Nam đã tiếp nhận một lượng vốn lớn hơn rất nhiều so với khả năng hấp thụ của nền kinh tế.
Merrill Lynch cho rằng, trong cuộc chiến chống lạm phát, nhìn chung Việt Nam có những điểm khác biệt cơ bản sau so với các nước châu Á khác.
Thứ nhất, Việt Nam đang ở tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai, trong khi phần lớn các nền kinh tế đang nổi lên ở châu Á có cán cân vãng lai thặng dư. Thặng dư này có thể tạo ra một tấm nệm cho sự rút lui của các dòng vốn ngoại, đồng thời giúp cho việc tăng giá đồng nội tệ để chống lạm phát trở nên dễ dàng hơn, giảm bớt sự cần thiết phải tăng lãi suất.
Thứ hai, các dòng vốn đổ vào Việt Nam năm ngoái chiếm tỷ trọng khá lớn so với GDP. Trong khi đó, các dòng vốn đổ vào các nước châu Á khác chỉ ở mức khiêm tốn. Do đó, ở các nước này, việc điều hành chính sách tiền tệ ít gặp khó khăn hơn, đồng thời, cũng không có những rủi ro lớn trong trường hợp có sự rút lui đột ngột của các dòng vốn.
Và thứ ba, các nước trong khu vực còn có những yếu tố khác giúp ổn định tốt tình hình kinh tế vĩ mô mà Việt Nam không có, như dự trữ ngoại hối cao, nợ nước ngoài thấp và tình hình ngân sách lành mạnh hơn
2.3. Những nguyên nhân dẫn tới sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam từ 2006 đến nay
Động lực chủ yếu đóng góp vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2006 bắt nguồn chủ yếu từ yếu tố tiêu dùng cuối cùng, xuất khẩu và tích lũy tài sản. Phân tích hệ số tương quan riêng của tốc độ tăng trưởng và tỉ lệ đóng góp của yếu tố tiêu dùng cuối cùng trong giai đoạn 1994-2005 cho thấy biến động tỉ lệ đóng góp của yếu tố tiêu dùng cuối cùng có mối tương quan chặt hơn cả sự biến động của tốc độ tăng trưởng GDP. Ngoài ra còn do các yếu tố: thu nhập và nhu cầu tiêu dùng của người dân tăng cao, Nhà nước nới lỏng các chính sách tiền tệ và kiểm soát và sự tham gia cạnh tranh của các tập đoàn bán lẻ nước ngoài,
Năm 2007, Việt Nam gia nhập WTO trong bối cảnh nền kinh tế ổn định và tăng trưởng bền vững mở ra cho Việt Nam cơ hội mới về hoạt động thương mại và thu hút các nguồn vốn đầu tư, nguồn kiều hối. Công tác điều hành của Chính phủ đã có nhiều đổi mới, quyết liệt hơn, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc về kinh tế-xã hội; đã phân cấp mạnh hơn cho các bộ, ngành, địa phương. Công tác thực hiện Luật phòng chống tham nhũng và Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đã được tập trung triển khai, bước đầu đã có kết quả.
Giữa năm 2008, cơ bão khủng hoảng kinh tế thế giới đã ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
Lạm phát tăng lên 2 con số, ảnh hưởng nặng nề đến người dân và toàn bộ nền kinh tế. Lãi suất tăng cao, tín dụng thắt chặt gây khó khăn cho doanh nghiệp và cá nhân đi vay.
Chương III
Giải pháp nhằm tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát
ở Việt Nam
3.1 Định hướng phát triển kinh tế Việt Nam và một số dự báo về tình hình lạm phát
GDP thực được dự đoán là sẽ suy giảm trong giai đoạn đầu của thời kỳ dự báo, do lạm phát tăng nhanh và sự thắt chặt chính sách tiền tệ làm ngăn cản tiêu dùng và phát triển đầu tư. Tuy nhiên, những triển vọng dài hạn của Việt Nam vẫn vững chắc, và đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vẫn gia tăng.
Sự gia nhập WTO sẽ tiếp tục hỗ trợ mạnh cho các hoạt động xuất khẩu hàng hóa. Tuy nhiên, Việt Nam sẽ vẫn được xác định là một “nền kinh tế phi thị trường” được 12 năm kể từ ngày gia nhập, làm cho các thành viên khác của WTO dễ dàng đưa ra những trường hợp chống bán phá giá nhằm giới hạn khẳ năng xuất khẩu của Việt Nam.
Tài khoản vãng lai sẽ ghi nhận sự thâm hụt sâu trong giai đoạn đầu của thời kỳ dự báo, do bởi sự nhập siêu. Tuy nhiên, do sự tăng trưởng nhập khẩu suy yếu cùng với sự tăng trưởng nhu cầu nội địa, thâm hụt tài khoản vãng lai sẽ thu hẹp một cách đều đặn.
Các chỉ số chính
2007
2008
2009
2010
2011
GDP thực (%)
8.5
6.2
5.9
7.9
8.0
Lạm phát giá tiêu dùng (av; %)
8.3
25.0
15.2
7.7
7.3
Can cân ngân sách (% của GDP)
-1.5
-1.7
-1.6
-1.4
-1.3
Cán cân tài khoản vãng lai (% của GDP)
-9.9
-13.6
-9.5
-6.0
-3.0
lãi suất chính của các ngân hàng thương mại (av,%)
11.2
21.3
19.0
12.1
11.7
Tỷ giá hối đoái D:US$ (av)
16,179
16,839
18,055
18,384
18,622
Tỷ giá hối đoái D:JPY (av)
13,737
16,005
17,745
19,300
20,287
av: bình quân
( Nguồn : www.eiu.com)
Chính phủ đang đối mặt với các vấn đề về chính sách, đáng chú ý nhất là nhu cầu kiểm soát lạm phát và làm giảm thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai xuống mức có thể chịu đựng được. Chính phủ cũng nhận thức sâu sắc rằng mối hiểm họa mà lạm phát không kiểm soát được gây ra cho sự ổn định kinh tế và xã hội, và chính phủ đã và đang thắt chặt chính sách tiền tệ và tiếp tục cắt giảm đầu tư công để làm giảm nhập khẩu và nhu cầu của nền kinh tế. Chính phủ bây giờ phải chấp nhận hoàn toàn chính sách thắt chặt tiền tệ này là cần thiết, bất chấp sự thật là điều đó chắc chắn sẽ làm chậm tốc độ phát triển của nền kinh tế. Mặc dù, một bước đi nhanh hơn trong việc làm giảm giá trị tiền đồng so với Đô la Mỹ sẽ góp phần tạo nên áp lực lạm phát ở khâu nhập khẩu, Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam (SBV, ngân hàng trung ương) vẫn cho phép đồng tiền nội tệ bị suy yếu và đối diện với áp lực giảm giá mạnh trên thị trường. Trong một bước đi bất ngờ Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam là đã thực hiện một sự mất giá xảy ra một lần 2% của tiền đồng trước đô la Mỹ vào giữa tháng 06, mà nó được theo đuổi cho đến cuối tháng 06 bằng một quyết định mở rộng biên độ dao động giữa tiền đồng và đô la Mỹ được phép thay đổi mỗi ngày từ 1% đến 2%. Các biện pháp này đã đi đúng hướng, nhưng nhà chức trách vẫn còn chịu những áp lực phải cho phép một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn.
Thâm hụt ngân sách (loại trừ các khoản đang cho vay) sẽ chỉ mở rộng chút ít trong năm 2008-09, vì chính phủ hạn chế chi tiêu để đối mặt với vấn đề lạm phát đang gia tăng. Chính phủ cũng cắt giảm trợ cấp nhiên liệu, mà điều này sẽ làm giảm tổng chi tiêu chính phủ. Mặc dù chính phủ có thể cắt giảm một số chương trình chi tiêu trong việc nổ lực làm nguội nền kinh tế, chi tiêu chính phủ vẫn duy trì ở mức cao, vì chính phủ vẫn cam kết xây dựng chương trình cải thiện việc cung cấp các phúc lợi xã hội. Mặc dù tăng trưởng GDP sẽ chậm lại, thu nhập từ thuế sẽ vẫn có xu hướng tăng trong năm 2008-09, và từ tháng 01 năm 2009 một hệ thống thuế thu nhập cá nhân đã được cải cách sẽ giúp hỗ trợ mức tăng trưởng thu nhập. Cấu trúc thuế thu nhập mới sẽ mở rộng cơ sở thuế bằng cách tạo ra những lợi ích cũng như là những mức lương có thể đánh thuế được, và sẽ áp dụng cùng mức thuế suất cho người lao động Việt Nam và nước ngoài (Ngưỡng đánh thuế cho người lao động nước ngoài sẽ giảm xuống ngang bằng với người lao động địa phương - hiện tại đang cao gấp đôi so với lao động địa phương). Sự gia tăng thu nhập mà chính phủ nhận được trong năm 2007 từ sự tăng vọt giá dầu sẽ được lặp lại trong năm nay – xu hướng tiếp tục gia tăng của giá dầu thô thế giới trong năm 2008 là một nhân tố tích cực cho Việt Nam về mặt tăng thu nhập từ thuế trong lĩnh vực dầu hỏa. IMF một lần nữa kêu gọi chính phủ tiết kiệm một “phần đáng kể của nguồn thu nhập vượt trội này”
Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam rõ ràng đã và đang siết chặt chính sách tiền tệ, nhằm xoa dịu nền kinh tế và kiềm chế lạm phát, nhưng sự thắt chặt này không chắc chắn là sẽ được tiếp tục thực hiện. Quyết định gần đây của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam gia tăng lãi suất và làm giảm tính khoản từ thị trường sẽ có một sự tác động đối với việc làm sụt giảm mức tăng trưởng tín dụng (Mặc dù tác động này sẽ bị vô dụng một phần nào đó bởi sự thật là lãi suất thực đang âm dữ dội). Vào ngày 10 tháng 06 Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam tăng lãi suất cơ bản lên 14% từ mức 12% trước đó, một thay đổi chính sách to lớn lần thứ 2 kể từ giữa tháng 05, khi lãi suất được nâng lên 12%, từ 8.75% (Các Ngân hàng Thương Mại không được phép cho vay với mức lãi suất cao hơn lãi suất cơ bản 50%, vì vậy mức lãi suất sau cùng làm tăng mức lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại vào khoảng 21%). Bất chấp những áp lực lạm phát mạnh mẽ, một vài ngân hàng thương mại nhà nước lớn bắt đầu cắt giảm lãi suất tiền gửi, và lãi suất cho vay trong một vài trường hợp. Đây là một dấu hiệu là đã có đủ thanh khoản trong hệ thống hiện tại và thị trường trong nước kỳ vọng lạm phát sẽ giảm đáng kể trong vòng 12 tháng tới. Vì những lý do này, dường như là không chắc chắn là Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam sẽ thắt chặt chính sách tiền tệ thêm nữa. Vì áp lực lạm phát bắt đầu bớt căng thẳng vào năm sau, Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam sẽ ở vào một vị trí là cắt giảm lãi suất cơ bản.
Lĩnh vực ngân hàng sẽ bị tác động mạnh từ những chính sách thắt chặt gần đây và sau đó là sự chậm lại của nền kinh tế. Đã có những mối quan tâm cho rằng các khoản nợ xấu đã hình thành một cách nhanh chóng, bởi vì sự sụt giảm nhanh chóng của thị trường chứng khoán và chiều hướng đi xuống của thị trường bất động sản (có các bằng chứng lặt vặt cho là những người đi vay không trả được các khoản nợ của họ mà những khoản vay này đã được dùng để mua cổ phiếu và bất động sản). Các tai họa của lĩnh vực ngân hàng sẽ càng tồi tệ thêm bởi thực tế là các công ty mà đã dựa vào các nguồn vốn rẽ và dễ dàng có được sẽ trải qua một thời kỳ điều chỉnh khó khăn, thu hẹp hoạt động kinh doanh và có khẳ năng không thanh toán được các khoản nợ của chúng. Một vài ngân hàng có thể nổ lực làm lành mạnh bảng cân đối tài sản của mình, và nhà chức trách sẽ có một nhiệm vụ khó khăn là đảm bảo thời kỳ điều chỉnh gian nan này vẫn trong tầm kiểm soát. Trong những ngày đầu của tháng 06, IMF yêu cầu nhà chức trách tăng cường sự kiểm soát lên hệ thống ngân hàng để hạn chế các thói quen cho vay thiếu thận trọng và nhắm đến “những yếu kém đang nổi lên”.
Dự báo của The Economist Intelligence Unit về mức tăng trưởng GDP thực của Việt Nam giảm từ 6.2% trong năm 2008 còn 5.9% trong năm 2009, là mức tăng trưởng thấp nhất trong một thập kỷ vừa qua. Toàn bộ sự tập trung của các chính sách của chính phủ hiện tại là nhằm ổn định nền kinh tế, hơn là cố gắng cho một mục tiêu tăng trưởng GDP thực cao ngất ngưỡng. Tăng trưởng tiêu dùng sẽ chậm lại trong năm 2008, vì tăng trưởng tín dụng bị hạn chế và thu nhập và tiền lương thực tế của các hộ gia đình đang bị xói mòn bởi lạm phát tăng nhanh. Tình hình thắt chặt tín dụng và sự giảm nhanh chóng của thị trường chứng khoán cũng có những tác động tiêu cực lên tăng trưởng đầu tư. Tuy nhiên, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn tin tưởng vào triển vọng dài hạn của nền kinh tế Việt Nam, và FDI vẫn mạnh mẽ (mặc dù, tỷ lệ giải ngân thực tế của FDI có thể chậm). Mức tăng trưởng trong xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ vẫn được duy trì ấn tượng, bất kể dự báo mức tăng trưởng chậm lại của thương mại thế giới. Mặc dù tăng trưởng nhập khẩu sẽ tăng nhanh trong năm nay (do bởi sự tăng nhanh đã được ghi nhận vào nửa đầu của năm), sẽ có một sự sụt giảm mức tăng trưởng trong năm 2009, phản ánh bằng việc nền kinh tế trong nước yếu hơn, sự sụt giảm tỷ giá tiền đồng : đô la Mỹ và các nổ lực chính thức nhằm khắc phục sự thâm hụt rộng lớn về cán cân thương mại hàng hóa. Sự cải thiện này đối với cán cân ngoại thương sẽ giúp bù đắp tình trạng tiếp tục suy yếu về nhu cầu nội địa trong năm 2009.
Vế phía cung, tăng trưởng kinh tế sẽ tiếp tục dựa vào khu vực công nghiệp, mà khu vực này sẽ mở rộng vào khoảng 7.5% một năm (trên cơ sở giá trị gia tăng) trong suốt thời kỳ dự báo. Mức tăng trưởng mạnh này sẽ là kết quả của việc tiếp tục đào sâu vào cơ sở công nghiệp, cùng với sự hồi phục được biểu hiện ở lĩnh vực dệt may nhờ vào việc gia tăng tự do hóa môi trường thương mại toàn cầu cho các loại sản phẩm này. Sự mở rộng GDP sẽ cũng được tăng mạnh trong năm 2008-09 nhờ sự tăng trưởng mạnh trong lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là những dịch vụ tài chính và liên quan đến du lịch.
Lạm phát giá tiêu dùng đã tăng lên đến 27% so với cùng kỳ năm trước trong tháng 07, tăng từ 26.8% trong tháng 06. Xu hướng đi lên của mặt bằng giá chung được gây ra bởi từ các nhân tố cung – giá thực phẩm tăng lên 44.7% trong tháng 06 so với cung kỳ năm trước. Tuy nhiên, các áp lực lạm phát cũng được khuếch đại bằng những dòng vốn lớn đổ vào làm gia tăng cung tiền. Quan điểm chính sách mở rộng tài chính của chính phủ cho đến nay, kết hợp với sự thất bại của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam trong việc kiềm chế tăng trưởng tín dụng, đã làm tăng mạnh áp lực theo hướng đi lên của cầu trên mặt bằng giá chung. Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam đã có những bước đi vững chắc nhằm thắt chặt chính sách tiền tệ, nhưng việc dở bỏ trợ giá nhiên liệu, được thông báo vào cuối tháng 07, chắc chắn sẽ đẩy lạm phát tăng lên vào những tháng kế tiếp. Thực ra thì lạm phát đang giảm xuống trên cơ sở từng tháng, với các dữ liệu cho thấy rằng giá cả tăng chỉ 1.1% trong tháng 07, giảm từ 2.1% trong tháng 06 và 3.9% trong tháng 05. Chúng tôi dự báo rằng lạm phát sẽ trung bình vào khoảng 25% trong năm nay, nhưng vì hiệu quả của chính sách thắt chặt tiền tệ đang phát huy tác dụng và vì giá lương thực và nhiên liệu thế giới đã dịu trở lại, lạm phát sẽ chậm lại trong năm 2009, rớt xuống còn khoảng trung bình là 15.2%.
Những bước đi của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam nhằm kiểm soát áp lực đi xuống mãnh liệt của tiền đồng, bị tác động bởi sự tăng nhanh của lạm phát và thâm hụt tài khoản vãng lai đáng kể, dường như đã thành công. Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam đã sử dụng các biện pháp chính sách khác nhau, bao gồm gia tăng lãi suất, mở rộng kênh thương mại, các hoạt động thị trường mở và bão lãnh cho các ngân hàng thương mại sẽ nhận được một lượng đô la mỹ trong tương lai (ngăn chặn việc tích trữ một lượng lớn đô la Mỹ), mà các chính sách này đã làm dịu bớt áp lực giảm giá của tiền đồng. Tỷ giá chính thức tiền đồng:đô la Mỹ được làm cho sụt giảm vào khoảng 4% trong năm 2008 trên cơ sở trung bình hằng năm, rớt xuống vào khoảng 17,485 đồng:1 USD vào cuối năm. Tiền đồng sẽ tiếp tục yếu trong năm 2009, và sự thay đổi sẽ lớn hơn, vì Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam cho mở rộng hơn các kênh thương mại mà trong đó tiền đồng được cho phép dao động hàng ngày so với đô la Mỹ.
Dấu hiệu kinh tế VN năm 2008 đình trệ đã rõ nét: kim ngạch xuất khẩu giảm do nhu cầu giảm và giá cả những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của VN như dầu thô, cà phê, cao su đều giảm; thất nghiệp gia tăng; thâm hụt ngân sách tăng do nguồn thu bị thu hẹp trong khi nhu cầu chi lại tăng mạnh (theo ước đoán của IMF và ADB thì năm 2008 VN thâm hụt ngân sách 7% GDP và sẽ cao hơn nữa trong năm 2009); nguồn thu ngoại tệ từ du lịch cũng giảm
Từ thực tế đó, cho thấy mục tiêu kim ngạch xuất khẩu tăng 13% của năm 2009 so với năm 2008 sẽ rất khó đạt. Không những vậy, hàng hóa sản xuất trong nước sẽ bị cạnh tranh gay gắt, nhất là cạnh tranh về giá; đồng thời sẽ gặp thách thức lớn từ làn sóng hàng Trung Quốc giá rẻ.
Còn theo một số chuyên gia tài chính, lãi suất (LS) cơ bản giảm xuống còn 8,5%/năm đã đưa LS cho vay tối đa còn 12,75%/năm và xu hướng giảm LS sẽ tiếp diễn. Đây là tin mừng cho các doanh nghiệp (DN) nhưng lại là vấn đề làm đau đầu các ngân hàng thương mại.
Bởi các ngân hàng đang nắm giữ một lượng lớn vốn với chi phí cao có được từ thời kỳ thắt chặt tiền tệ nên sẽ đối mặt với nguy cơ lỗ khi cho vay với LS khá thấp. Xuất khẩu đương nhiên bị co lại, lượng vốn đầu tư gián tiếp cũng khó thể tăng vì đa số các tổ chức đầu tư và các quỹ đầu tư đều có xu hướng thu hồi vốn về để giải quyết những nhu cầu tài chính cấp bách ở chính quốc.
Năm 2009, lượng kiều hối nhiều khả năng giảm mạnh do nhiều nền kinh tế đang suy thoái, nhu cầu nhập khẩu lao động và tích lũy tiết kiệm của bà con Việt kiều giảm sút.
3.2.Các giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trước việc lạm phát tăng quá cao ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của dân chúng, NHNN thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ với mong muốn nhanh chóng đưa chỉ số giá tiêu dùng giảm xuống, bao gồm: tăng Dự trữ bắt buộc (DTBB) 2 lần từ 5%-10%-11% đối với VND và từ 8%-10%-11% đối với ngoại tệ, đồng thời mở rộng kỳ hạn tiền gửi phải thực hiện DTBB từ <24 tháng thành tất cả các kỳ hạn; Tăng tất cả các mức lãi suất cơ bản từ 8,25%-8,75%, lãi suất tái cấp vốn từ 6,5%-7,5%, lãi suất tái chiết khấu từ 4,5%-6%; liên tục hút tiền về trên Thị trường mở; NHNN phát hành tín phiếu bắt buộc khoảng trên 20 nghìn tỷ đồng bắt đầu từ 19/3/2008 với kỳ hạn 12 tháng, lãi suất 7,58%; Tiếp tục thực hiện chuyển khoảng 50 nghìn tỷ đồng từ tiền gửi kho bạc về Ngân hàng Nhà nước; Trong quý IV/2007, NHNN thực hiện hạn chế tối đa mua ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng để hạn chế tổng phương tiện thanh toán tăng cao; Thắt chặt cho vay chứng khoán ở mức 3%/tổng dư nợ, sau đó tiếp tục kiểm soát mức cho vay đầu tư chứng khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ, đồng thời tăng hệ số rủi ro đối với cho vay đầu tư chứng khoán từ 150% lên 250% theo Quyết định 03 ngày 1/2/2008 của NHNN.
Việc NHNN liên tục thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ trong thời gian qua, không ít ý kiến cho rằng NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ chưa thật sự linh hoạt, gây nên những “nổi sóng” nhất định trên thị trường tiền tệ. Có thể đánh giá vấn đề này như sau:
Trước bối cảnh Việt Nam bắt đầu trở thành thành viên của WTO nên lần đầu tiên phải đối mặt với tình hình đầu tư gián tiếp nước ngoài gia tăng mạnh mẽ, trong khi kinh nghiệm thực tế chưa có nhiều nên việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN có phần chưa linh hoạt, thể hiện việc NHNN “đã thực hiện đồng thời nhiều giải pháp mạnh vào cùng một thời điểm, nhưng lại thiếu đồng bộ với các biện pháp khác, tuy có góp phần ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực trên thị trường tiền tệ, nhưng cũng gây khó khăn cho NHTM, tạo nên việc chạy đua nâng lãi suất huy động vốn, gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh và xuất khẩu, ảnh hưởng đến tâm lý xã hội” .
Do đó, các giải pháp của NHNN tiếp theo sẽ linh hoạt hơn trong điều hành chính sách tiền tệ theo chỉ đạo của Chính phủ, nhưng vẫn là ưu tiên kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội.
Nhà nước tăng cường thực hiện quyết liệt 8 nhóm hành động nhằm kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô., đặc biệt chú trọng việc hỗ trợ nhóm ngành sản xuất các sản phẩm thiết yếu như lương thực, thực phẩm, phân bón, điện thủy lợi... và trợ giá đối với các tầng lớp thu nhập thấp trong xã hội; tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài và hỗ trợ xuất khẩu., đặc biệt chú trọng phát triển các ngành sản xuất kinh doanh tạo nhiều việc làm và tăng cường kiểm soát rủi ro đối với hệ thống ngân hàng, hạn chế cho vay đầu cơ bất động sản, tích cực phát triển thị trường chứng khoán, tăng cường cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động, và năng lực cạnh tranh các doanh nghiệp nhà nước.
3.3. Một số kiến nghị
Tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện có những vấn đề đáng quan tâm:
Một là, trong khi chúng ta đang cố gắng tăng trưởng nhanh để rút ngắn khoảng cách, thì các nước trong khu vực và trên thế giới cũng đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, thậm chí có nước, có năm còn cao hơn cả của Việt Nam, như: Ma-lai-xi-a năm 2000 tăng 8%; Xin-ga-po năm 2000 tăng 9,41%, năm 2004 tăng 8,4%; Ấn Độ năm 2003 tăng 8,05%; Cộng hoà nhân dân Trung Hoa liên tục tăng cao hơn Việt Nam; Hàn Quốc năm 2000 tăng 8,49%; A-déc-bai-gian năm 2002 tăng 9,1%, năm 2004 tăng 10,6%; Tuốc-mê-nix-tan năm 2002 tăng 14,9%, năm 2004 tăng 21%...
Hai là, chất lượng tăng trưởng của Việt Nam còn chưa tốt, bởi vì suất đầu tư tăng trưởng của các nước trong khu vực chỉ trên dưới 3 lần (theo cách đánh giá bằng chỉ số ICOR), còn của Việt Nam trong những năm gần đây lên đến trên dưới 5 lần - có nghĩa là tăng trưởng của Việt Nam tốn nhiều vốn hơn. Và, trong tăng trưởng của Việt Nam yếu tố vốn quyết định tới 57,5%, do yếu tố lao động chiếm 20%, còn do yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp chỉ chiếm 22,5%, trong khi ở các nước trong khu vực, yếu tố này chiếm trên dưới 40%. Cụ thể như sau:
Hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào cho tăng trưởng kinh tế còn thấp. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu nghiêng về chiều rộng hơn là chiều sâu, nghĩa là tỷ trọng tác động của 2 nhân tố vốn và lao động gấp nhiều lần tác động của khoa học - công nghệ tới tăng trưởng. Ngay cả khi phát triển theo chiều rộng, yếu tố chủ yếu đóng góp vào tăng trưởng GDP lại là vốn, mà Việt Nam bị thiếu vốn, đang phải đi vay rất nhiều (vừa vay, vừa hoàn trả vốn, với số lãi mà ngân sách phải trả hằng năm chiếm gần 15% tổng chi ngân sách). Trong khi đó, việc sử dụng vốn đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế thấp thể hiện rõ qua sự tăng nhanh của hệ số ICOR (đo hiệu quả sử dụng vốn đầu tư).
Lao động là yếu tố dồi dào nhất của Việt Nam, hiện lại đang có xu hướng dư thừa bởi số người đến độ tuổi bổ sung vào đội quân lao động hằng năm vẫn khá lớn (hơn 1 triệu người). Tuy nhiên, yếu tố này đã không được sử dụng hiệu quả để tạo ra tăng trưởng GDP lớn hơn. Nguồn nhân lực của nước ta đã không được sử dụng hết, thậm chí lãng phí. Cụ thể là:
+ Tỷ lệ thất nghiệp tuy có giảm nhưng vẫn ở mức cao.
+ Tỷ lệ lao động được đào tạo (tốt nghiệp đại học, cao đẳng và dạy nghề) không có việc làm hoặc việc làm không đúng chuyên môn còn rất lớn, gây lãng phí rất nhiều về chi phí đào tạo của gia đình và xã hội, dẫn đến cơ cấu lao động mất cân đối, thừa thầy thiếu thợ. Nhiều lao động trẻ được đào tạo, có trình độ kỹ thuật, có sức khỏe vẫn bị thất nghiệp. Ngoài ra, chương trình đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Học sinh học lý thuyết nhiều, nhưng khả năng vận dụng thực tiễn rất yếu. Học sinh chuyên các ngành khoa học cơ bản không được khuyến khích nên thiếu hụt nghiêm trọng. Như vậy, nguồn lực năng động nhất, cũng là lợi thế phát triển quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững của Việt Nam đang bị lãng phí rất lớn, khó phục vụ hiệu quả cho tăng trưởng kinh tế. Vì thế, năng suất lao động của Việt Nam hiện rất thấp so với các nước trong khu vực.
- Chất lượng tăng trưởng kinh tế còn thấp thể hiện cả ở yếu tố đầu ra. Trong cơ chế thị trường, đầu ra - tiêu thụ sản phẩm - có ý nghĩa quyết định quá trình tái sản xuất xã hội. Đầu ra quan trọng nhất trong nền kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới là xuất khẩu hàng hóa. Mặc dù xuất khẩu của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm tới 50% GDP của cả nước (cao thứ 6 trong khu vực ASEAN, thứ 9 ở châu Á và thứ 17 trên thế giới), nhưng cơ cấu xuất khẩu của chúng ta đang đối mặt với nhiều vấn đề. Hàng nguyên liệu, hàng thô, hàng sơ chế, hàng gia công hiện vẫn chiếm tỷ trọng khá cao, do đó khả năng thu ngoại tệ chưa khai thác hết. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu, kim ngạch của các mặt hàng này chiếm tới 3/4, chủ yếu là do sự tăng nhanh về lượng của các mặt hàng than đá, dầu thô, cà phê, hạt tiêu, điều, chè và sự tăng nhanh về giá của các mặt hàng dầu thô, than đá, gạo, cao su, hạt điều, lạc,...
Trong khi đó, vài năm gần đây, kim ngạch nhập khẩu lẫn tỷ lệ nhập siêu tăng nhanh. Năm 2007 thâm hụt cán cân thương mại đã lên đến trên 10 tỉ USD, tăng hơn 140% so với cùng kỳ năm trước. Điều đáng lưu ý là, nhập siêu tập trung chủ yếu vào khu vực kinh tế trong nước, chứng tỏ Việt Nam chưa tận dụng được thời cơ, chậm khắc phục thách thức do cắt giảm thuế nhập khẩu theo lộ trình hội nhập đã cam kết. Bên cạnh đó, nhiều mặt hàng của chúng ta chưa có thương hiệu riêng hoặc phải dùng thương hiệu của nước khác khi xuất khẩu, nên không tạo ra được giá cả cạnh tranh với hàng hóa cùng loại của các nước trong khu vực và trên thế giới.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm và lạc hậu. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn chủ yếu tập trung ở một số ngành và sản phẩm truyền thống, có công nghệ không cao như dệt may, thủy sản, nông sản chưa qua chế biến,... Trong những năm gần đây, tuy tăng trưởng kinh tế nhanh hơn những năm 90, nhưng tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến trong GDP còn thấp. Công nghiệp khai thác vẫn chiếm một tỷ trọng khá ổn định trong GDP. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp chậm là một yếu điểm của Việt Nam so với một số nước trong khu vực, nhất là so với Trung Quốc - nước có xuất phát điểm và thời gian bắt đầu mở cửa tương đối gần với Việt Nam. Nếu nước ta tiếp tục mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào những lợi thế so sánh tĩnh (nguồn tài nguyên thô, lao động rẻ chưa có kỹ năng) như hiện nay, thì khó có thể duy trì được tăng trưởng cao trong dài hạn, nhất là trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng.
Chênh lệch giàu nghèo có xu hướng gia tăng. Mặc dù Việt Nam đạt nhiều thành công trong công tác chống đói nghèo, nhưng tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam ở các vùng Tây Nguyên, vùng núi phía Bắc và vùng duyên hải Bắc Trung Bộ vẫn còn cao. Ngoài ra, khoảng cách giàu nghèo ngày càng doãng rộng đồng thời với quá trình giảm nghèo.
Tài nguyên môi trường chưa được khai thác hiệu quả, ô nhiễm môi trường gia tăng. Đến nay, đầu tư vào các nguồn tài nguyên, nhất là tài nguyên rừng đang được Chính phủ quan tâm thực hiện trong các chương trình mục tiêu quốc gia, đặc biệt là Chương trình trồng 5 triệu ha rừng. Tuy nhiên, trong thời kỳ 10 năm (1990 - 2000), diện tích rừng trồng mới tăng trung bình 0,5%/năm, nhưng tỷ lệ diện tích rừng bị cháy và phá rừng cũng rất cao, tập trung ở một số tỉnh nghèo, sản xuất nông nghiệp dựa chủ yếu vào tài nguyên rừng như Lai Châu, Quảng Trị,...Hiệu quả sử dụng năng lượng đã tăng lên đáng kể, nhưng vẫn còn thấp. Lượng đi-ô-xít cac-bon thải ra tính trên đầu người tăng gấp đôi trong thời kỳ đổi mới. Tại một số thành phố và trung tâm công nghiệp, ô nhiễm môi trường nước, không khí và chất thải công nghiệp đã vượt quá mức cho phép. Vấn đề khai thác tài nguyên, đầu tư vào tài sản môi trường và vấn đề ô nhiễm môi trường đang đe dọa sự phát triển bền vững của Việt Nam.
Năng lực cạnh tranh quốc gia thấp và khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực có xu hướng tăng. Việt Nam hiện đang ở trong tình trạng năng lực cạnh tranh thấp và có xu hướng tụt hạng so với thời kỳ trước năm 1996. Vào năm 2003, Việt Nam đứng thứ 60 trên thế giới về năng lực cạnh tranh, tăng 5 bậc so với năm 2002, nhưng giảm 7 bậc so với thứ hạng 53 của năm 2000 và giảm 21 bậc so với thứ hạng năm 1998. Năm 2006, Việt Nam xếp thứ 77/125 quốc gia, tụt 3 hạng so với năm 2005. Xét theo từng tiêu chí, tình hình cụ thể như sau: thể chế kinh tế xếp thứ 74; kết cấu hạ tầng xếp thứ 83; kinh tế vĩ mô xếp thứ 53; giáo dục phổ thông và y tế xếp thứ 56; giáo dục đại học xếp thứ 90; hiệu quả của cơ chế thị trường xếp thứ 73; công nghệ xếp thứ 85... Nếu so sánh năng lực cạnh tranh của Việt Nam với một số nước ASEAN, thì Xin-ga-po xếp thứ 26, Thái Lan xếp thứ 35, In-đô-nê-xi-a xếp thứ 50, Phi-lip-pin xếp thứ 71, Cam-pu-chia xếp thứ 103. Như vậy, Việt Nam chỉ xếp trên Cam-pu-chia. Các nước Lào, Bru-nây, Mi-an-ma chưa được xếp hạng về năng lực cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh thấp và có xu hướng tụt bậc này cho thấy, Việt Nam đang đứng trước rất nhiều nguy cơ có thể bị tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới./.
Điều đó chứng tỏ tăng trưởng kinh tế của nước ta đang diễn ra theo chiều rộng, chưa chuyển sang phát triển theo chiều sâu.
Ba là, khi điểm xuất phát còn thấp, quy mô GDP bình quân đầu người còn nhỏ, thì giá trị của 1% GDP tăng lên thấp, nên dù tốc độ tăng của Việt Nam có cao hơn, nhưng chênh lệch tuyệt đối về mức bình quân đầu người vẫn còn rất lớn, thậm chí khoảng cách so với các nước vẫn còn tiếp tục gia tăng. Chẳng hạn, GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái thực tế năm 2003 của Việt Nam là 492 USD, của Nhật Bản là 21.762 USD, chênh lệch là 21.270 USD. Theo chỉ tiêu này thì giá trị của 1% tăng lên của Việt Nam chỉ có 4,9 USD, còn của Nhật Bản là 217,6 USD. Năm 2004, GDP bình quân đầu người của Việt Nam tăng 12,7% nhưng về tuyệt đối chỉ tăng 62,5 USD, nên GDP bình quân đầu người đạt 554 USD; còn Nhật bản tuy GDP bình quân đầu người chỉ tăng 3% nhưng số tuyệt đối đã tăng tới 653 USD, nên GDP bình quân đầu người năm 2004 đạt 22.415 USD, cao hơn của Việt Nam là 21.860,5 USD. Chính vì vậy, mặc dù tốc độ tăng cao hơn nhưng chúng ta chưa thể chủ quan thoả mãn, bởi sự tụt hậu xa hơn vẫn còn là thách thức lớn trên thực tế.
Việc Việt Nam thực thi chính sách tiền tệ và tài khóa nới lõng trong những năm qua để thúc đẩy tăng trưởng có thể là phù hợp, nhưng hiện nay, khi mà lạm phát đã đạt ngưỡng tiêu cực, việc thắt chặt tiền tệ và tài khóa là cần thiết để kiềm chế lạm phát.
Việt Nam cần chấp nhận đánh đổi giữa mục tiêu kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Đây là một quyết định khó khăn. Nhưng lạm phát hiện tại đã đạt mức độ tiêu cực và ưu tiên hàng đầu là kiềm chế lạm phát là cần thiết.
Kết luận
Tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay đang chững lại do nguy cơ lạm phát tăng cao tới 2 con số, sự sụt giảm của các kênh đầu tư như chứng khoán, bất động sản, sự mất lòng tin của các nhà đầu tư .. và hơn hết là cuộc khủng hoảng kinh tế đang lan rộng trên toàn thế giới. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến phát triển vĩ mô của quốc gia và đời sống, thu nhập của người dân.
Đề tài đã phân tích rõ và chỉ ra các phương hướng nhằm tăng trưởng, phát triển nền kinh tế đồng thời kiểm soát lạm phát – những vấn đề quan trọng và cấp thiết cho nền kinh tế nước ta giai đoạn hiện nay.
MỤC LỤC
Đề tài
Tăng trưởng kinh tế và các biện pháp kiểm soát lạm phát ở Việt Nam từ năm 2006 đến nay
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Phan Hồng Mai
Họ tên sinh viên: Lê Thị Minh Ngọc
Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47C
Trường: Đại học Kinh tế Quốc dân
Hà Nội, tháng 01/2009
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6106.doc