Môi trường pháp lý là một yếu tố hết sức quan trọng trong việc thu hút đầu tư cuả các nhà đầu tư trong và ngoài nước đặc biệt là trong vấn đề thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA. Môi trường pháp lý không chỉ bao gồm các quy định pháp luật về ODA mà còn bao gồm các văn bản pháp luật ở các lĩnh vực khác như xuất nhập khẩu, thuế liên quan đến hoạt động ODA. Do vậy, môi trường pháp lý tác động rất lớn đến lòng tin của các nhà tài trợ và Chính phủ Việt Nam. Thông qua các quy định về quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA, các nhà tài trợ có thể biết nước nhận viện trợ quản lý và sử dụng nguồn viện trợ như thế nào, có hiệu quả hay không.
Trong thời gian qua, mặc dù Chính phủ và các cơ quan chức năng đã có nhiều cố gắng trong việc cải thiện môi trường pháp lý về ODA ban hành nhiều văn bản điều chỉnh một số lĩnh vực liên quan đến ODA nhưng hệ thống văn bản pháp lý về ODA vẫn còn nhiều yếu điểm. Vì vậy, Chính phủ phải phối
109 trang |
Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1267 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993 - 2002, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khăn trong việc thực hiện các quy chế nhập khẩu cũng như trong việc bảo hành, chi phí lại rất cao.
3.2.4. Công tác vốn đối ứng được thực hiện chưa tốt.
Vốn đối ứng để thực hiện các dự án ODA không đủ. Các cơ sở chưa có một nguồn vốn riêng để hoạt động mà thường được trích một phần rất nhỏ từ kinh phí sự nghiệp đào tạo vốn đã rất hạn hẹp. Mặc dù theo nghị định 17/2002 NĐ _ CP, Nhà nước đã đồng ý cấp vốn đối ứng nhưng cho đến nay trong số hơn 100 dự án của ngành chỉ mới có vài chục dự án được thực hiện theo nghị định này. Nhiều lúc, việc triển khai vốn đối ứng cấp cho các dự án còn bị chậm, nhất là kho bạc chưa đáp ứng được yêu cầu thanh quyết toán của các dự án do thiếu cán bộ giải ngân hay do còn có nhiều thủ tục phức tạp.
3.2.5. Năng lực cán bộ quản lí dự án còn hạn chế.
Việt Nam chưa chuẩn bị và đào tạo kịp thời những cán bộ có trình độ chuyên môn và ngoại ngữ để thực hiện các công việc liên quan đến dự án ODA đáp ứng yêu cầu, tình hình quốc tế có nhiều thay đổi nhanh chóng và các đối tác ngày càng nhiều hơn. Cách thức quan hệ và hơp tác với các nước trong khu vực ASEAN, Australia, New Zealand, Tây Âu và Bắc Mỹ khác trước rất nhiều. Xu hướng quốc tế đang chuyển từ viện trợ nhân đạo sang viện trợ phát triển đòi hỏi các nước đang và chậm phát triển, trong đó có Việt Nam, phải tăng cường nội lực tối đa mới có thể đủ sức đón nhận những cơ hội mới. Một số công tác dự án, đặc biệt là cấp địa phương chưa được đào tạo cơ bản và đồng bộ, có người am hiểu ngành thì có thể lại không giỏi ngoại ngữ và ngược lại … Vì thế dẫn đến những bất đồng giữa cán bộ quản lý Việt Nam và tư vấn, chuyên gia nước ngoài do trở ngại về ngôn ngữ, phong tục tập quán nên khó thông cảm, không tạo ra sự hiểu biết lẫn nhau trong hợp tác.
3.2.6. Hiệu quả công tác theo dõi và đánh giá dự án chưa cao.
Hiệu quả công tác theo dõi dự án ODA trong ngành giáo dục chưa cao do chưa được tổ chức thành hệ thống. Chế độ báo cáo tình hình thực hiện dự án và tổng hợp thực hiện dự án ở các bộ và địa phương chưa được quan tâm đúng mức, chưa có các quy định cụ thể về chức năng theo dõi dự án ODA, về trách nhiệm của cơ quan báo cáo cũng như nhận báo cáo. Tại các tỉnh, công việc này thường do các Sở Kế hoạch và Đầu tư làm đầu mối, song cơ chế phối hợp các sở liên quan cũng như đối với các ban quản lý dự án nhiều khi không rõ ràng. Theo dõi và đánh giá do Chính phủ tiến hành thường mang tính chất tình thế để đối phó với những mối lo ngại của mình khi có một dự án đang gặp khó khăn. Thông thường thì phương pháp tiếp cận của Chính phủ đối với công tác theo dõi và đánh giá dự án thường dựa vào yêu cầu của các nhà tài trợ và không được hiểu một cách cặn cẽ như một công cụ mang tính sáng tạo nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và tính bền vững của dự án.
3.2.7. Hệ thống chia sẻ thông tin còn nhiều điểm chưa hợp lí.
Do công tác theo dõi và đánh giá hiệu quả không tốt nên việc đưa thông tin đến cấp có thẩm quyền giải quyết đã không kịp thời, nên không tháo gỡ được nhiều vấn đề mang tính hệ thống, dẫn đến tiến độ thực hiện chậm ở nhiều dự án. Chưa có một cơ quan điều phối nào tổng hợp đủ số liệu về nguồn vốn ODA cho ngành giáo dục (thậm chí chính BGD & ĐT cũng không có số liệu cụ thể về lượng vốn ODA cam kết và giải ngân cho từng năm mà họ chỉ biết tiếp nhận qua từng dự án) nên việc thu thập số liệu thường gặp nhiều khó khăn, phải thu thập qua các nhà tài trợ hoặc chỉ là số ước lượng. Hơn nữa, do năm tài chính của Việt Nam và các nhà tài trợ thường khác nhau nên việc phân tích số liệu thường gặp nhiều khó khăn. Toàn bộ hệ thống quản lý thông tin cũng chưa được hiện đại hoá bằng máy vi tính, nên dẫn đến sự chậm chạp trong việc xử lý thông tin.
3.2.8. Phía Việt Nam chưa thực hiện tốt vai trò chủ động trong cả quá trình thực hiện dự án ODA
Nhiều đối tác Việt Nam chưa nhận thức được đầy đủ vai trò làm chủ của nước tiếp nhận viện trợ và có tâm lý sợ mất dự án nên thiếu chủ động khi tham gia dự án. Vì thế đôi khi phía Việt Nam để cho nhà tài trợ tự thực hiện trách nhiệm của mình mà xét một cách khách quan thì có nhiều thiệt thòi cho phía Việt Nam. Đặc biệt, xét trong trường hợp các dự án vay vốn thì như thế là một sự lãng phí vốn, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế – xã hội. Điều đó cũng góp phần làm giảm uy tín của Việt Nam cũng như sức mạnh của phía Việt Nam trong quan hệ với các đối tác.
Nhiều dự án hỗ trợ kỹ thuật trong ngành giáo dục chủ yếu do các nhà tài trợ chứ không phải do các cơ quan tiếp nhận xây dựng. Một số nhà tài trợ giữ quyền kiểm soát ngân sách dự án, thậm chí đến mức không cung cấp thông tin cho phía Việt Nam. Việc tuyển dụng chuyên gia tư vấn cho dự án lẽ ra phải là công việc chung thì trong một số trường hợp lại được đặt dưới quyền kiểm soát ngặt nghèo của các nhà tài trợ. Có một vài dự án bị hạn chế hiệu quả thực hiện do bị nhà tài trợ chi phối trong việc đưa ra ý tưởng, xác định vấn đề thiết kế và thực hiện dự án.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA CHO NGÀNH GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI.
I. MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM THỜI KỲ 2001- 2010.
1. Mục tiêu chung phát triển giáo dục Việt Nam thời kỳ 2001- 2010.
Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2001- 2010 đã nêu rõ: “để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực- nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá, cần tạo sự chuyển biến cơ bản và toàn diện về giáo dục”. Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010 là:
- Tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục theo hướng tiếp cận với trình độ tiên tiến của thế giới, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam, phục vụ thiết thực cho sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, của từng vùng, từng địa phương. Phấn đấu đưa nền giáo dục nước ta thoát khỏi tình trạng tụt hậu trên một số lĩnh vực so với các nước phát triển trong khu vực.
- Đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp, chương trình giáo dục các cấp bậc học và trình độ đào tạo; phát triển đội ngũ giáo viên đáp ứng vừa tăng quy mô, vừa nâng cao chất lượng, hiệu quả và đổi mới phương pháp dạy- học, đổi mới quản lý giáo dục tạo cơ sở pháp lý và phát huy nội lực phát triển giáo dục.
- Ưu tiên nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, đặc biệt chú trọng nhân lực khoa học- công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lý, kinh doanh giỏi, công nhân kỹ thuật lành nghề trực tiếp góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; đẩy nhanh tiến độ thực hiện phổ cập THCS.
2. Mục tiêu phát triển các cấp học:
Đồng thời với việc tăng cường chất lượng và hiệu quả, tiếp tục mở rộng quy mô các cấp bậc học và trình độ đào tạo, phù hợp với cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền của nhân lực, nâng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở các trình độ vào năm 2001 đạt 40% trong đó Cao đẳng trở lên 6%, trung học chuyên nghiệp 8%, công nhân kỹ thuật 26%; thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và tạo cơ hội học tập ngày càng tốt hơn cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là ở các vùng còn nhiều khó khăn.
2.1. Giáo dục mầm non:
Nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ dưới 6 tuổi, tạo cơ sở để trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ thẩm mỹ; mở rộng hệ thống nhà trẻ và lớp mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư; đặc biệt ở nông thôn và những vùng khó khăn.
Đến năm 2010 hầu hết trẻ em được chăm sóc, giáo dục bằng những hình thức thích hợp. Giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng của trẻ trong các cơ sở mầm non xuống dưới 20% vào năm 2005, dưới 15% vào năm 2010.
2.2. Giáo dục phổ thông:
Cung cấp học vấn phổ thông cơ bản, hệ thống và có tính hướng nghiệp; tiếp cận trình độ các nước phát triển trong khu vực. Cụ thể:
TH: Tăng tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đến trường 95% năm 2000 lên 97% năm 2005 và 99% năm 2010.
THCS: Cung cấp cho học sinh học vấn phổ thông cơ sở và những hiểu hiết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để thực hiện phân luồng sau THCS, tạo điều kiện để học sinh tiếp tục học tập ở các thành phố, đô thị vùng kinh tế phát triển vào năm 2010. Tăng tỷ lệ học sinh THCS trong độ tuổi từ 74% năm 2000 lên 80% vào năm 2005và 90% vào năm 2010.
THPT: Tăng tỷ lệ học sinh trong độ tuổi vào THPT từ 38% năm 2000 lên 45% năm 2005 và 50% năm 2010.
2.3. Giáo dục nghề nghiệp:
Đặc biệt quan tâm nâng cao chất lượng dạy nghề gắn với nâng cao ý thức kỷ luật lao động và tác phong lao động hiện đại. Mở rộng đào tạo kỹ thuật viên, nhân viên nghiệp vụ có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp ở trình độ trung cấp dựa trên nền học vấn THCS.
Trung học chuyên nghiệp: Thu hút học sinh trong độ tuổi vào trung học chuyên nghiệp đạt 10% năm 2005, 15% năm 2010.
Dạy nghề: Thu hút học sinh sau THCS vào các trường dạy nghề từ 6% năm 2000 lên 10% năm 2005, 15% năm 2010.
- Dạy nghề bậc cao: thu hút học sinh sau THPT, trung học chuyên nghiệp vào học chương trình này đạt 5% năm 2005, 10% năm 2010.
2.4. Giáo dục cao đẳng , đại học và sau đại học :
Tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng giáo dục sau trung học thông qua việc đa dạng hóa chương trình đào tạo trên cơ sở xây dựng một hệ thống liên thông phù hợp với các cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền của nhân lưc và năng lực của các cơ sở đào tạo.
- Nâng tỷ lệ sinh viên trên 10.000 dân từ 118 năm học 2000- 2001 lên 200 năm 2010. Tăng quy mô đào tạo thạc sĩ từ 11.727 học viên năm 2000 lên 38.000, nghiên cứu sinh từ 3870 năm 2000 lên 15.000 năm 2010.
2.5. Giáo dục trẻ khuyết tật:
Tạo cơ hội cho trẻ khuyết tật được học tập ở một trong các loại hình lớp hoà nhập, bán hoà nhập hoặc chuyên biệt, đạt tỷ lệ 50% vào năm 2005 và 70 % vào năm 2010.
2.6. Giáo dục phi chính quy:
Đây là hình thức huy động tiềm năng của cộng đồng để xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội cho mọi người, mọi trình độ, mọi lứa tuổi, mọi nơi có thể học tập suốt đời, phù hợp hoàn cảnh và điều kiện mỗi cá nhân, góp phần nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực.
Củng cố và nâng cao kết quả xoá mù chữ cho người lớn, đặc biệt là ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Thực hiện có hiệu quả các chương trình sau xoá mù chữ, bổ túc trên TH để góp phần thực hiện chủ trương phổ cập giáo dục THCS vào năm 2010; tạo điều kiện để thực hiện phổ cập bậc trung học trong những năm tiếp theo.
Tạo cơ hội cho đông đảo người lao động được tiếp tục học tập, được đào tạo lại, được bồi dưỡng ngắn hạn, định kỳ và thường xuyên theo các chương trình giáo dục, các chương trình kỹ năng nghề nghiệp. Chú trọng phát triển các chương trình chuẩn bị đội ngũ giáo viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức nhà nước từ trung ương đến địa phương.
II. ĐỊNH HƯỚNG VÀ QUAN ĐIỂM HUY ĐỘNG, SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA PHÁT TRIỂN NGÀNH GIÁO DỤC VIỆT NAM:
1. Định hướng vận động và sử dụng nguồn vốn ODA thời kỳ 2001-2005:
1.1. Định hướng chung vận động và sử dụng nguồn vốn ODA :
Định hướng và sử dụng nguồn vốn ODA trong thời kỳ 2001-2005 của Việt Nam là tiếp tục tranh thủ sự hỗ trợ về nguồn ODA nhằm hỗ trợ cho phát triển kinh tế-xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói, giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực và tạo ra những tiền đề cần thiết cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững. Trong 5 năm tới , Chính phủ Việt Nam mong muốn giành khoảng 15% vốn ODA cho đầu tư phát triển thuỷ sản, nông-lâm nghiệp, thuỷ lợi kết hợp với mục tiêu xoá đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp, nông thôn ; 25% cho ngành giao thông, bưu điện; 25% cho ngành năng lượng và công nghiệp. Coi trọng sử dụng vốn ODA trong các lĩnh vực khoa học công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, giáo dục đào tạo, xã hội, bảo vệ môi trường.
Chính phủ Việt Nam dự kiến sử dụng các loại hình ODA theo các định hướng sau:
Vốn ODA không hoàn lại được ưu tiên sử dụng cho những chương trình, dự án thuộc các lĩnh vực: Xoá đói giảm nghèo (trước hết tại các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số); giáo dục, phát triển nguồn nhân lực; y tế, dân số và phát triển; bảo vệ môi trường, bảo vệ và phát triển các nguồn tài nguyên thiên nhiên; nghiên cứu cơ bản để chuẩn bị cho chương trình, dự án đầu tư phát triển (quy hoạch, điều tra cơ bản, tổng quan nghiên cứu khả thi); cải cách hành chính, tư pháp, tăng cường năng lực của cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương, địa phương và phát triển thể chế...
ODA vốn vay được ưu tiên sử dụng cho những chương trình, dự án thuộc các lĩnh vực: Phát triển nông nghiệp và nông thôn; giao thông vận tải, thông tin liên lạc; xoá đói giảm nghèo; cơ sở hạ tầng xã hội ( y tế, giáo dục và đào tạo, cấp thoát nước, bảo vệ môi trường, các công trình phúc lợi công cộng,...); hỗ trợ một số lĩnh vực sản xuất nhằm giải quyết công ăn việc làm, tăng thu cho người nghèo khổ, khắc phục các tệ nạn xã hội; hỗ trợ cán cân thanh toán,...
Trong 5 năm này, cùng với các nguồn lực trong nước, Chính phủ Việt Nam muốn tập trung hơn nữa nguồn ODA cho các vùng nghèo, có nhiều khó khăn như đồng bằng sông Cửu Long, vùng duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, vùng núi phía Bắc để hỗ trợ thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp và nông thôn .
Phát triển quan hệ đối tác và tiếp cận theo ngành là một phương pháp tốt để nâng cao hiệu quả ODA. Chính phủ hoan nghênh và hợp tác chặt chẽ với các nhà tài trợ trong các nhóm đối tác về phát triển các ngành và lĩnh vực cụ thể. Trong một số lĩnh vực, Chính phủ mong muốn sử dụng ODA để hỗ trợ thực hiện các nội dung sau:
- Về nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, thuỷ lợi: Nguồn ODA sẽ hỗ trợ đa dạng cho phát triển nông thôn và nông nghiệp, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa. Gắn với chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo; khôi phục và phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn như điện, đường, trường học, cấp nước sinh hoạt, trồng và bảo vệ rừng; công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản; hỗ trợ cải cách chính sách và thể chế nhằm giúp cho hoạt động nông nghiệp gắn với thị trường thúc đẩy sản xuất, tăng trưởng, tạo công ăn việc làm; mở rộng phạm vi các dịch vụ tài chính nông thôn nhằm tạo vốn cho người nông dân phát triển sản xuất, tăng thêm thu nhập.
-Về y tế-xã hội: Cải tạo, nâng cấp và tăng cường trang thiết bị y tế cho các bệnh viện tỉnh, nâng cấp các bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh, thành phố chưa được sử dụng vốn ODA trong giai đoạn 1996-2000; tăng cường năng lượng cho hệ thống y tế xã, huyện; xây dựng một số xí nghiệp được sản xuất thuốc tiêu chuẩn; tăng cường năng lực kiểm soát sử dụng thuốc; thực hiện chương trình dân số và phát triển, chương trình thanh toán một số bệnh xã hội, chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, chương trình phòng chống HIV/AIDS...hỗ trợ cải cách chính sách của ngành y tế.
-Về giáo dục đào tạo: Nguồn ODA sẽ hỗ trợ cơ sở vật chất kỹ thuật cho hệ thống đào tạo ở các cấp; hỗ trợ phát triển mạng lưới các trưòng dạy nghề; tăng cường năng lực quản lý ngành giáo dục và đào tạo; nâng cao trình độ giáo viên và cung cấp học bổng cho công tác đào tạo và nghiên cứu.
-Về công nghiệp: Có thể sử dụng ODA để đổi mới công nghệ , trang thiết bị để nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm, nhằm giữ ổn định về công ăn việc làm, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội ...
-Về năng lượng: Tiếp tục phát triển các nguồn điện, hệ thống đường dây tải điện và các trạm biến thế, quan tâm tới mở rộng điện lưới về khu vực nông thôn và các vùng gặp khó khăn. Chú trọng phát triển các trạm thủy điện quy mô nhỏ do các vùng núi, điện gió và năng lượng mặt trời cho các vùng sâu vùng xa, miền núi hải đảo,...
-Về giao thông vận tải: Tiếp tục phát triển đi đôi với nâng cấp và duy tu bảo dưỡng hệ thống đường quốc lộ và các cầu có tính chất huyết mạch, khôi phục, nâng cấp các tuyến tỉnh lộ. Dành tỷ lệ nguồn ODA thích hợp phát triển các đường quốc lộ; bảo đảm giao thông thông suốt đến các vùng dân cư, nhất là các vùng sâu, vùng xa miền núi...
-Về cấp thoát nước đô thị và bảo vệ môi trường: Tập trung hỗ trợ để nâng cấp hệ thống cấp nước cho các thị xã chưa được nhận nguồn vốn ODA trong giai đoạn 1996-2002; ưu tiên nâng cấp hệ thống cấp nước tại các huyện lị và vùng nông thôn. Quan tâm đến hệ thống thoát nước, vệ sinh môi trường, xử lý rác thải tại một số thành phố, thị xã đông dân, môi trường đang bị ô nhiễm nặng.
-Về bưu điện: Tập trung ưu tiên sử dụng nguồn vốn ODA để phát triển viễn thông nông thôn.
Chúng ta tin tưởng rằng với định hướng đúng đắn của Chính phủ Việt Nam trong việc sử dụng nguồn vốn ODA và sự hợp tác, hỗ trợ tích cực nhiều hơn nữa của các nhà tài trợ, kinh tế xã hội Việt Nam có thêm điều kiện tăng trưởng bền vững và xoá đói giảm nghèo.
1.2. Định hướng sử dụng nguồn vốn ODA cho phát triển giáo dục Việt Nam:
Thứ nhất, ngành giáo dục đã được nhà nước xếp ưu tiên trong việc tiếp nhận nguồn vốn ODA (viện trợ không hoàn lại) sau y tế, dân số và kế hoạch hoá gia đình với tiêu chí trước mắt là tập trung cải tạo và xây dựng một số trừơng ĐH ở một số lĩnh vực quan trọng; cải cách giáo dục TH, trung học và dạy nghề; tăng cường khả năng sư phạm và thể chế cũng như tăng cường mối liên kết giữa đào tạo và thị trường lao động...
Tăng cường đầu tư cho giáo dục và đào tạo dăc biệt là giáo dục đào tạo kỹ năng công nghiệp, coi giáo dục là hạt nhân của phát triển: Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy để có thể phát triển và tăng trưởng, các quốc gia cần phải tạo ra và phát huy được nguồn lực vô cùng quí giá, nguồn vốn nhân lực. Các nước Đông Nam á đã có những bước phát triển ngoạn mục trong những năm 1990 cũng một phần lớn nhờ vào nỗ lực của họ trong việc phát triển nguồn nhân lực. Ví dụ, vào đầu những năm 1980 Singapore có chính sách thu hút đầu tư nước ngoài để đẩy mạnh công nghiệp hoá, bất chấp những hạn chế của nước này về diện tích, chi phí lao động khá cao so với các nước láng giềng, thị trường nhỏ hẹp, Singapore đã đầu tư vào giáo dục đào tạo kỹ năng công nghiệp và dạy nghề để tạo để tạo điều kiện cho việc chuyển đổi lực lượng lao động từ các ngành sản xuất truyền thống, công nghệ thấp sang các ngành công nghiệp chế tạo và định hướng xuất khẩu, nâng cao trình độ công nghệ của các quốc gia này. Việt Nam là nước đi sau có thể tiếp thu bài học này .
Thứ hai, Nhà nước có những biện pháp tiếp tục thu hút nguồn vốn ODA từ các nhà tài trợ song phương và đa phương đồng thời có kế hoạch giải ngân và tổ chức tốt vốn đối ứng nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu phát triển giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và tạo ra những tiền để cần thiết cho sự phát triển nhanh và bền vững của nền giáo dục Việt Nam nói chung.
2. Quan điểm huy động và sử dụng hỗ trợ phát triển chính thức đối với phát triển ngành giáo dục Việt Nam:
Quan điểm 1: ODA là nguồn vốn nước ngoài cần thiết và đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam:
Trong những năm đầu thế kỷ XXI, Việt Nam còn là nước đang phát triển, nhu cầu về vốn thực hiện CNH-HĐH rất lớn. Trong khi nguồn vốn trong nước chưa đủ đáp ứng thì nguồn vốn nước ngoài, trong đó vốn ODA đóng vai trò quan trọng. Việc huy động và sử dụng vốn ODA được thực hiện theo phương châm: “Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”. Chính phủ cần soạn thảo một chiến lược vay ODA rõ ràng cụ thể và chi tiết để vừa mở rộng quan hệ với các đối tác cung cấp ODA, vừa có chương trình sử dụng hiệu quả đối với ODA ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Quan điểm 2: ODA là nguồn vốn ưu đãi song cần được sử dụng đúng mục đích và có hiệu qủa:
Nguồn vốn ODA là nguồn vốn ưu đãi của Chính phủ cho nên Chính phủ cần thiết phải hiểu rằng nguồn vốn này không phải vô tận mà ngày càng giảm. Do đó, cần tập trung sử dụng vốn ODA cho những mục tiêu quan trọng của Nhà nước mà không cần sử dụng để thay thế đầu tư của khu vực tư nhân. Điều này có nghĩa là trong những ngành nghề hoặc khu vực mà đầu tư tư nhân có thể đảm đương được thì không nên dùng vốn ODA để cạnh tranh với tư nhân và đẩy đầu tư tư nhân ra ngoài.
Quan điểm 3: Cần thiết phải tăng tỷ trọng vốn ODA cho giáo dục.
Cùng với vốn trong nước, ODA được đầu tư vào các chương trình mục tiêu phát triển giáo dục vì theo kinh ngiệm của một số nước Châu á có nền kinh tế phát triển nhanh như Hàn Quốc, Singapore, Malaysia thì đầu tư giáo dục là khoản đầu tư có hiệu quả nhất bởi lẽ đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển con người, tạo những yếu tố tiềm năng phát triển đất nước.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG THU HÚT VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA TRONG NGÀNH GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI.
1. Nhóm giải pháp nhằm tăng cường khả năng thu hút nguồn vốn ODA cho ngành giáo dục ở Việt Nam thời gian tới.
Việc thu hút vốn ODA phụ thuộc rất lớn vào quan hệ của nhà tài trợ với các nước nhận nguồn vốn ODA. Xuất phát từ đặc điểm của ODA là nguồn hỗ trợ phát triển nên các nhà tài trợ luôn đánh giá cao những nước sử dụng ODA có hiệu quả. Trong những năm qua, Việt Nam đã được các nhà tài trợ đánh giá cao về việc sử dụng nguồn vốn ODA đối với phát triển kinh tế- xã hội, trong đó có ODA dành cho phát triển giáo dục. Tuy nhiên, để thu hút được nhiều dự án ODA với mục đích phát triển giáo dục có hiệu quả hơn, có thể xem xét một số giải pháp sau:
1.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý.
Môi trường pháp lý là một yếu tố hết sức quan trọng trong việc thu hút đầu tư cuả các nhà đầu tư trong và ngoài nước đặc biệt là trong vấn đề thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA. Môi trường pháp lý không chỉ bao gồm các quy định pháp luật về ODA mà còn bao gồm các văn bản pháp luật ở các lĩnh vực khác như xuất nhập khẩu, thuế … liên quan đến hoạt động ODA. Do vậy, môi trường pháp lý tác động rất lớn đến lòng tin của các nhà tài trợ và Chính phủ Việt Nam. Thông qua các quy định về quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA, các nhà tài trợ có thể biết nước nhận viện trợ quản lý và sử dụng nguồn viện trợ như thế nào, có hiệu quả hay không.
Trong thời gian qua, mặc dù Chính phủ và các cơ quan chức năng đã có nhiều cố gắng trong việc cải thiện môi trường pháp lý về ODA ban hành nhiều văn bản điều chỉnh một số lĩnh vực liên quan đến ODA nhưng hệ thống văn bản pháp lý về ODA vẫn còn nhiều yếu điểm. Vì vậy, Chính phủ phải phối hợp với các bộ ngành nghiên cứu để soạn thảo ra các quy chế, thông tư liên quan đến vấn đề ODA sao cho tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam.
- Ngoài việc cần phải có một chiến lược sử dụng vốn rõ ràng theo mục tiêu phát triển giáo dục từng thời kỳ, từng cấp và loại hình giáo dục thì cũng cần phải có hệ thống pháp luật và chính sách hoàn chỉnh nhằm tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi.
- Nghiên cứu xây dựng Luật hay Pháp lệnh về quản lý vay nợ và viện trợ nước ngoài đối với phát triển giáo dục: Văn bản pháp lý này phải điều chỉnh tất cả các quan hệ liên quan đến vốn ODA cho phát triển giáo dục như quá trình quyết định và phê duyệt dự án, quản lý dự án... theo hướng giảm bớt thủ tục hành chính, quy định rõ tránh nhiệm của từng cấp tham gia. Phân loại các dự án ODA nhằm thống nhất các quy trình lập kế hoạch, phân bổ vốn, kiểm soát chi, thống nhất định mức chi tiêu cho các hoạt động phát triển giáo dục có nội dung giống nhau, thống nhất các thủ tục quyết toán làm cho việc quản lý đơn giản hơn cũng như làm giảm đầu mối quản lý dự án, từ đó giảm chi phí phát sinh trong quá trình đầu tư.
- Định hướng phân cấp quản lý các dự án ODA cho phát triển giáo dục: Phân cấp nhiều hơn và phù hợp với năng lực thực tế của từng cấp, đặc biệt là trao quyền rộng rãi cho các tổ chức và cá nhân có liên quan trực tiếp tới dự án, kèm theo chề độ trách nhiệm. Phân cấp mạnh hơn cho cấp dưới, đồng thời với việc hoàn thiện cơ chế quản lý và giám sát của các cơ quan quản lý cấp trên.
- Đơn giản hóa thủ tục hành chính và hoàn thiện, thống nhất cơ chế tài chính cho giáo dục: Cần rà soát lại và loại bỏ ngay những quy định về thủ tục xét duyệt không cần thiết, các thủ tục rườm rà và tốn phí thời gian. Cơ chế tài chính phải được xem xét và quy định cụ thể trong khi duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi và nêu trong quy định đầu tư dự án. Cải tiến quy trình lập kế hoạch ngân sách và giải ngân của dự án ODA cho phát triển giáo dục phù hợp với các nhà tài trợ.
1.2. Xác định hướng huy động và sử dụng nguồn vốn ODA
Trên cơ sở các Nghị quyết các Đại hội Đảng đã đề ra và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, cần đưa ra một chiến lược thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA. Chiến lược này cần tập trung vào việc sử dụng ODA với những mục tiêu phát triển rõ ràng, xác định các ưu tiên, các chiến lược cho ngành giáo dục cũng như đối với từng cấp học. Chiến lược này còn đề ra những định hướng vận động và những hành động cụ thể để thu hút các nhà tài trợ quan tâm, đồng thời cũng cần sắp xếp các lĩnh vực có những đặc điểm mà nhà tài trợ có thể phát huy được những thế mạnh vốn có của mình.
Dựa vào bài học kinh nghiệm thành công hay thất bại của các dự án giáo dục, chiến lược cần xây dựng một quan điểm rõ ràng về những gì có thể và không thể làm được, để từ đó đưa ra những hướng dẫn trong việc thiết kế dự án trong tương lai. Cùng với nhà tài trợ, chiến lược cần xác lập một số nguyên lý cho việc thiết kế dự án giáo dục: Khi nào cần sử dụng cố vấn dài hạn, cần lồng ghép chuyên gia tư vấn trong nước vào các dự án như thế nào, cần xử lý các khó khăn ra sao để có thể bảo đảm hiệu quả hoạt động các dự án. Cần có sự chỉ đạo rõ ràng hơn cho các nhà tài trợ về những thay đổi ưu tiên của ngành đối với việc sử dụng hỗ trợ kỹ thuật nhằm hướng họ đến những lĩnh vực đang bị lãng quên, xác định các lĩnh vực mới cần có dự án hỗ trợ kỹ thuật và ngăn chặn tình trạng tập trung quá nhiều nguồn lực vào một số lĩnh vực. Chiến lược cần xác định càng cụ thể càng tốt các mục tiêu dài hạn của việc đầu tư bằng nguồn vốn ODA và vạch ra điểm xuất phát đúng đắn để thực hiện những mục tiêu đó.
1.3. Chủ động đưa ra những danh mục, chương trình, dự án ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục.
Các bộ, các ngành có liên quan như BKH & ĐT, BGD & ĐT và Bộ Tài chính phải cùng phối hợp để lựa chọn ra những mục tiêu đáng ưu tiên được đầu tư nhất. Danh sách các dự án này phải được sự nhất trí cao của các cơ quan chính phủ trung ương cũng như các địa phương và đồng thời phải được đưa ra công khai trong các văn bản để thông báo cho mọi người biết. Sự lựa chọn các dự án này phải xuất phát từ lợi ích kinh tế – xã hội chung của đất nước, cũng như phải gắn với quy hoạch tổng thể phát triển ngành, vùng lãnh thổ. Một số tỉnh cần được trợ giúp nhiều hơn các tỉnh khác (tỷ lệ nhập học TH ở độ tuổi trung bình tại 12 tỉnh kém nhất thấp hơn trên 20% so với 12 tỉnh tốt nhất, vì vậy cần phải có sự trợ giúp đặc biệt nhằm vào các tỉnh này, đặc biệt là Bình Phước, Lai Châu, Hà Giang, Kontum, Sơn La). Đồng thời cũng phải chú ý tới hiệu quả đầu tư phát triển giáo dục do các chương trình, các dự án này mang lại cho các cấp, các loại hình giáo dục cụ thể.
1.4. Cải thiện chất lượng dự án ODA
Chất lượng dự án ODA luôn là một yếu tố rất quan trọng để các nhà tài trợ quyết dịnh có nên đầu tư vào Việt Nam hay không. Vì vậy ,nếu chất lượng dự án càng cao, phù hợp với điều kiện của các nhà tài trợ cũng như các mục tiêu phát triển và tình hình thực tế của Việt Nam thì khả năng thu hút được nguồn vốn ODA từ dự án đó càng lớn. Đặc biệt, đối với các dự án đầu tư cho ngành giáo dục thì chất lượng dự án càng đáng quan tâm hơn vì mục tiêu của các dự án này là phục vụ cuộc sống của con người. Nếu như công tác lập dự án thiếu cẩn thận, thiếu nghiêm túc, chỉ nhằm mục đích xin được nguồn vốn ODA đầu tư rồi sau đó thực hiện không đúng mục tiêu, thì sẽ gây những phản ứng không tốt từ phía nhân dân, làm mất lòng tin của nhân dân với Chính phủ. Qua thực tế lập các dự án đầu tư cho ngành giáo dục trong thời gian qua, để nâng cao chất lượng dự án thì Chính phủ cũng như BKH&ĐT, BGD&ĐT cần phải chú ý một số vấn đề sau:
Mục tiêu đầu tư của các dự án giáo dục phải rõ ràng xác định trên nhu cầu thực tế của nơi được tiếp nhận dự án.
Đảm bảo tính khoa học của dự án, có nghĩa là dự án phải được lập trên cơ sở nghiên cứu công phu tỉ mỉ, nghiêm túc từ các khía cạnh.
Đảm bảo tính hệ thống của dự án: các nội dung của dự án phải được xây dựng trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, và trong mối quan hệ với các dự án khác trong khu vực được đầu tư, đồng thời tổng dự án phải đặt trong tổng thể quá trình phát triển kinh tế- xã hội chung của tỉnh, thành phố, hay của ngành, lĩnh vực cụ thể.
Đảm bảo tính cụ thể của dự án: các tính toán, phân tích phải dựa trên các dữ liệu cụ thể, đảm bảo tính khả thi cao, phù hợp tình hình thực tế, đặc biệt phải chú ý vấn đề này hơn với những dự án do nước ngoài lập.
Đảm bảo tính chuẩn mực của dự án, tức là các dự án phải được lập trên cơ sở các chuẩn mực chung, để sao cho dự án có thể đáp ứng được những quy định chặt chẽ không chỉ của phía Việt Nam, mà còn của các nhà tài trợ nước ngoài.
Đối với những dự án mà phía Việt Nam cùng chuẩn bị với phía tư vấn nước ngoài, thì ngay từ khâu lập dự án cần xác định rõ các quy trình, quy phạm kỹ thuật được áp dụng, tránh tình trạng áp dụng quy trình nước ngoài nhưng lại không phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của khu vực được đầu tư, ảnh hưởng đến công tác trình, duyệt dự án sau này.
2. Nhóm giải pháp nhằm tăng tốc độ giải ngân cho ngành giáo dục ở Việt Nam trong thời gian tới.
Việc nâng cao tốc độ giải ngân là rất quan trọng vì nó giúp đảm bảo thực hiện đúng tiến độ dự án, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay và duy trì lòng tin của các nhà tài trợ. Để nâng cao tốc độ giải ngân của các dự án sử dụng nguồn vốn ODA, có thể xem xét một số các biện pháp sau:
2.1. Hài hoà thủ tục giữa phía Việt Nam và các nhà tài trợ.
Hài hoà thủ tục trong quá trình thẩm định, phê duyệt dự án cũng như hài hoà trong quy chế đấu thầu dự án từ cả hai phía Chính phủ và nhà tài trợ là biện pháp quan trọng nhất để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA. Hàng trăm nhà tài trợ song phương, đa phương, cũng như các tổ chức, thì mỗi nhà tài trợ đều có những quy chế, thủ tục riêng. Vì thế, Chính phủ Việt Nam cũng như các bộ ngành phải nghiên cứu kỹ các quy chế, thủ tục riêng của từng nhà tài trợ để hiểu rõ và từ đó có thể áp dụng một cách có hiệu quả. Hơn nữa, cả phía Việt Nam cũng như các nhà tài trợ một khi đã bắt tay cùng hợp tác thì phải cùng đứng ra chia sẻ, giải quyết những khó khăn.
Vừa qua tại Hội nghị cấp cao Rome về thủ tục tổ chức vào ngày 24-25/2/2003, Việt Nam đã được xem là một trong những lá cờ đầu về hài hòa thủ tục dự án. Đồng thời, Hội nghị cũng đưa ra một số hướng để Việt Nam có thể phối hợp với các nhà tài trợ tốt hơn:
- Với nhóm các nhà tài trợ đồng tư tưởng (LMDG).
+ Hoàn thành cuốn từ điển thuật ngữ về hợp tác phát triển để đào tạo thí điểm cho các dự án nhóm LMDG tài trợ.
+ Thực hiện chương trình nâng cao năng lực để đưa ra các thủ tục về hài hòa và nâng cao năng lực quản lý dự án thông qua các hoạt động đào tạo với việc thành lập quỹ ủy thác.
+ Hài hòa thủ tục về theo dõi và báo cáo (cùng với WB, ADB, JBIC).
- Với WB, ADB và JBIC: Triển khai ma trận hài hòa thủ tục với các lĩnh vực ưu tiên ngắn hạn.
+ Đấu thầu: Ban hành Pháp lệnh đấu thầu phù hợp tiêu chuẩn quốc tế và ban hành các quy định chung về đấu thầu cạnh tranh trong nước.
+ Quản lý dự án: Tổ chức Hội nghị chung, kiểm điểm tình hình thực hiện dự án.
- Với các nhà tài trợ song phương khác: Tiếp tục chuẩn bị sổ tay hướng dẫn chung.
2.2. Tăng cường hiệu quả công tác xây dựng kế hoạch giải ngân
Đây là một khâu rất quan trọng trong tiến trình thực hiện các dự án ODA vì nó quyết định đến hiệu quả của việc thực hiện dự án đầu tư. Vì vậy, khi lập kế hoạch cho dự án, Chính phủ và BKH&ĐT, BGD&ĐT phải xác định rõ mức vốn đối ứng, hình thức đóng góp và nguồn đóng góp (từ ngân sách trung ương, ngân sách địa phương hay ngân sách bộ, ngành thực hiện dự án). Khi xây dựng các kế hoạch năm về giải ngân, thì phải căn cứ vào các điều ước quốc tế về ODA đối với chương trình dự án, và phải chấp hành sự chỉ đạo của các cơ quan có thẩm quyền về xây dựng kế hoạch. Đồng thời cũng phải chú ý đến khả năng thực thi của dự án và dự báo các tác động khách quan có thể ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án: điều kiện nhân lực, thời gian, vật chất tối thiểu cho các hoạt động như thủ tục xét thầu, trình duyệt, rút vốn...
Việc bố trí danh mục, chương trình dự án ODA trong năm cần phải tuân thủ các nguyên tắc bố trí như: chỉ đưa vào danh mục chương trình, dự án đã được ký kết hiệp định hay chắc chắn có khả năng rút vốn trong năm kế hoạch, giá trị rút vốn được tính trên cơ sở khả năng thanh toán cho các hoạt động của dự án trong năm kế hoạch.
Đồng thời, trong khi tiến hành phải bồi dưỡng đào tạo cán bộ trong công tác lập kế hoạch, để cán bộ có thể tích luỹ thêm kinh nghiệm, lập kế hoạch tốt hơn, phù hợp với yêu cầu của phía Việt Nam và phía nhà tài trợ cũng như phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
2.3. Giải quyết tốt vấn đề vốn đối ứng
Vốn đối ứng cho các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn ODA là phần vốn trong nước tham gia trong từng chương trình dự án ODA được cam kết giữa phía Việt Nam và phía nước ngoài trong các hiệp định, văn kiện dự án, quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền. Các dự án vay vốn của Chính phủ Nhật Bản hoặc của WB, ADB thường yêu cầu vốn trong nước chiếm từ 15% - 30% tổng giá trị dự án, các dự án viện trợ của các tổ chức thuộc Liên hợp quốc thường cũng đòi hỏi trong nước khoảng 20% giá trị dự án.
Vì vậy, đối với các dự án vốn vay, cơ quan tiếp nhận dự án phải chú trọng đến việc lập kế hoạch vốn đối ứng sớm, có như vậy mới có thể giải ngân được nguồn vốn vay và không làm ảnh hưởng đến tiến độ của dự án. Phải chăng Nhà nước cũng như các lãnh đạo các ngành, các địa phương mới hầu như chỉ dựa vào nguồn vốn đối ứng rút từ ngân sách nhà nước mà còn thiếu những biện pháp hữu hiệu nhằm phát huy nội lực tiềm tàng trong dân. Bởi chính nguồn vốn trong dân là biện pháp bổ sung vốn đối ứng mà Nhà nước cũng như các ngành, các địa phương cần xem xét và cân nhắc, nhất là trong điều kiện ngân sách nhà nước còn hạn hẹp.
Mặt khác, Bộ tài chính cũng cần có những quy định cụ thể hơn về cơ chế vốn đối ứng để đảm bảo vốn đối ứng được cấp đầy đủ và kịp thời theo tiến độ thực hiện dự án, thống nhất cơ chế vốn đối ứng đối với những dự án cùng loại. Đồng thời cũng cần tăng cường quản lý và sử dụng vốn đối ứng cho các dự án ODA phù hợp với quy định của Chính phủ và không được sử dụng vốn đối ứng ngoài các mục đích, nội dung của dự án.
3. Nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam thời gian tới.
3.1. Xác định rõ trách nhiệm từng đối tượng tham gia dự án ODA
Trong việc tham gia dự án ODA dành cho phát triển giáo dục, các bộ, ngành cùng các cơ quan liên quan thực hiện các chức năng khác nhau trong việc khuyến khích các nhà tài trợ đưa ra các dự án khả thi về phát triển giáo dục, cũng như vận động các nhà tài trợ thực hiện các dự án đó và sử dụng nguồn vốn ODA trong giáo dục sao cho có hiệu quả. Chẳng hạn như BGD & ĐT cần nghiên cứu, quy hoạch các dự án ODA dành cho giáo dục khả thi; Bộ Tài chính mở rộng quan hệ với các đối tác, thúc đẩy tiến độ giải ngân của các dự án; các đơn vị, địa phương có trách nhiệm theo dõi tình hình thực hiện dự án, hiệu quả sử dụng vốn; Ban quản lý dự án cần có các biện pháp thực thi để vốn ODA dành cho giáo dục không bị thất thoát mà được sử dụng sao cho có hiệu quả, đặc biệt là đối tượng được trực tiếp thụ hưởng những kết quả do dự án mang lại. Vì vậy, tất cả các đối tượng tham gia dự án phải nỗ lực trong khả năng của mình để hoàn thành trách nhiệm của mình giúp cho từng khâu, từng công việc của dự án, được hoàn thành đúng thời hạn, sao cho dự án đạt hiệu quả cao nhất.
3.2. Cải thiện và chia sẻ thông tin:
Trong thời đại cách mạng về khoa học công nghệ thông tin bùng nổ như hiện nay, thì việc cải thiện và chia sẻ thông tin là một trong những giải pháp quan trọng giúp giải quyết được nhanh, và hiệu quả hơn công việc cần làm. Vì vậy, cần tăng cường trao đổi thông tin giữa phía Việt Nam và các nhà tài trợ cũng như giữa các nhà tài trợ đã thực hiện viện trợ cho Việt Nam để giúp các bên hiểu biết lẫn nhau hơn, sự phối hợp nhờ đó có hiệu quả hơn, thiết thực hơn. Có nghĩa là hai bên cùng phân tích, đánh giá tình hình phát triển của Việt Nam nói chung cũng như đặc điểm, thực trạng và tình hình nền giáo dục ở Việt Nam nói riêng, dựa trên một số nội dung cụ thể như: cơ sở vật chất, thiết bị dạy học ở các trường phổ thông, đại học, trường dạy nghề; nội dung chương trình đào tạo, quy mô, chất lượng hiệu quả giáo dục ở từng cấp, từng loại hình, địa phương…. Nhà tài trợ cũng cần cải thiện quá trình chia sẻ thông tin và số liệu về kế hoạch và hoạt động hiện tại của họ ở Việt Nam. Đồng thời, nên tổ chức nhiều hơn nữa các hội nghị, các cuộc thảo luận để tăng thêm nhiều cơ hội đối thoại giữa Chính phủ và các tổ chức tài trợ. Vì chính thông qua đối thoại mà hai bên sẽ hiểu nhau hơn và thúc đẩy quá trình phát triển mối quan hệ đối tác, góp phần nâng cao hiệu quả công việc.
Ngoài ra, cũng cần có hệ thống dữ liệu quản lý cập nhật và nối mạng giữa các cơ quan quản lý vĩ mô như: Bộ Tài chính, BKH & ĐT, BGD & ĐT để cùng khai thác và chia sẻ thông tin quản lý. Trong bộ ngành quản lý ODA chi cho phát triển giáo dục cũng cần thiết lưu ý hệ thống thông tin nội ngành. Đặc biệt, nên thành lập một thư viện hay một ngân hàng dữ liệu điện tử để lưu trữ được số lượng lớn các kết quả nghiên cứu đã thu được để các nhà nghiên cứu, chuyên gia tư vấn, các cơ quan và các cán bộ quan tâm đến vấn đề này có thể tiếp cận được dễ dàng. Có như vậy thì hiệu quả công tác thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA mới được nâng cao.
3.3. Phát huy vai trò chủ động và tham gia tích cực của phía Việt Nam.
Trong quá trình chuẩn bị cũng như thực hiện các chương trình, dự án ODA, tính chủ động của bên nhận hỗ trợ có vai trò quyết định đảm bảo thực hiện thành công dự án và sự phát triển bền vững sau dự án. Các nhà tài trợ thường nhấn mạnh vai trò làm chủ của nước tiếp nhận viện trợ, coi đó như là “người cầm lái con thuyền phát triển”. Vai trò chủ động của bên nhận viện trợ cần phải được đề cao ngay cả từ khâu đề xuất nhu cầu viện trợ, hình thành và thiết kế dự án, tổ chức thực hiện và theo dõi đánh giá kết quả. Nhìn chung, các nhà tài trợ phải căn cứ vào các nghiên cứu đánh giá ngành của chuyên gia tư vấn để xác định các lĩnh vực tài trợ. Vì vậy, các nghiên cứu ngành của các chuyên gia tư vấn trong lĩnh vực giáo dục hay các cơ quan nghiên cứu độc lập thực hiện vai trò quan trọng trong việc định hướng các khoản đầu tư tương lai của các nhà tài trợ. Xuất phát từ nhận định này, các cơ quan chủ quan phải có quan điểm chủ động trong điều hành và định hướng chuyên gia để họ tập trung vào những dự án cần được ưu tiên đầu tư thực sự.
3.4. Nâng cao năng lực quản lý dự án ODA.
Năng lực của các ban quản lý dự án phụ thuộc phần lớn vào năng lực cá nhân của những cán bộ phụ trách dự án, từ cán bộ quản lý cấp địa phương đến các cán bộ quản lý cấp trung ương. Chất lượng của đội ngũ cán bộ quản lý này là yếu tố sống còn quyết định sự thành công của dự án. Nhưng theo đánh giá của các cơ quan quản lý và một số nhà tài trợ nước ngoài thì năng lực chuyên môn và trình độ ngoại ngữ của những cán bộ tham gia quản lý, thực hiện các dự án ODA còn hạn chế, nên ảnh hưởng đến tiến độ cũng như hiệu quả thực hiện dự án. Vì vậy, để tăng cường hiệu quả sử dụng của các dự án ODA trong ngành giáo dục thì việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý bằng các nguồn vốn này là rất quan trọng. Trong thời gian tới, Chính phủ cũng như các bộ ngành cần tập trung nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ bằng các biện pháp sau:
- Xây dựng chiến lược cán bộ chuyên trách quản lý, kết hợp đào tạo tại chỗ cán bộ hiện có với đào tạo lâu dài đội ngũ cán bộ kế cận.
- Khuyến khích các cán bộ quản lý tự nghiên cứu nâng cao năng lực về chuyên môn và ngoại ngữ trong việc mình phụ trách.
Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý dự án ODA, các chương trình đào tạo cần được thiết kế cho từng chức danh khác nhau của ban quản lý dự án, và cần có đánh giá sau đào tạo và cấp chứng chỉ.
áp dụng những biện pháp nhằm thu hút các cán bộ có năng lực và trình độ từ các nơi khác tham gia vào việc thực hiện các dự án vay vốn và tài trợ.
Tổ chức các khoá đào tạo mời các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm, kể cả chuyên gia nước ngoài đến giảng dạy; cử cán bộ tham gia các khoá đào tạo do các cơ quan trung ương, viện nghiên cứu trường đại học tổ chức và các khoá đào tạo về quản lý ở nước ngoài.
Vận động các nhà tài trợ nước ngoài tài trợ cho các khoá học nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý.
3.5. Đẩy mạnh công tác theo dõi và đánh giá dự án.
Công tác theo dõi và đánh giá dự án ODA là một công việc rất quan trọng và cũng rất khó khăn, nhất là việc đánh giá các dự án về giáo dục và đào tạo. Thông thường công tác theo dõi và đánh giá tình hình thực hiện các dự án ODA bao gồm những bước sau :
- Xác định và cập nhật các thông tin về tiến độ thực hiện như là việc giải ngân thực tế vốn ODA, khối lượng công việc đã đạt được.
- Xem xét mức độ thực hiện các mục tiêu của dự án.
- Phát hiện những vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án và kiến nghị với các cơ quan liên quan biện pháp để giải quyết.
- Lập báo cáo tổng hợp đánh giá tình hình thực hiện các dự án sử dụng nguồn vốn ODA.
- Kiểm tra đôn đốc việc thực hiện và việc giải quyết các vướng mắc trong quá trình thực hiện các dự án ODA.
Công tác theo dõi và đánh giá các dự án ODA thực hiện trong ngành giáo dục càng quan trọng và đòi hỏi nhiều phức tạp hơn vì mục tiêu của các dự án ODA thực hiện trong ngành giáo dục là hướng về con người, nhằm nâng cao trình độ nhận thức, cải thiện chất lượng cuộc sống. Vì vậy cần chú trọng đến việc theo dõi hiệu quả lâu dài cũng như tính bền vững, các tác động của việc thực hiện dự án tới toàn xã hội, chứ không thể chỉ đánh giá trên bề mặt những con số thu được. Có thể áp dụng các biện pháp sau để đẩy mạnh công tác theo dõi và đánh giá dự án ODA trong ngành giáo dục :
- Thiết lập một bộ phận chuyên trách theo dõi và quản lý các dự án ODA với nhiệm vụ chính :
+ Xây dựng kế hoạch đầu tư hàng năm cho các dự án ODA
+ Cung cấp các thông tin liên quan cho các bên liên quan để kịp thời bố trí vốn đối ứng.
+ Thu thập các báo cáo theo dõi định kỳ từ các cơ quan thực hiện, phân tích tìm ra những vướng mắc để thành phố và cấp cao hơn giải quyết.
- Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu thống kê đánh giá tình hình thực hiện dự án ODA.
Các ban quản lý dự án cần coi trọng trong công tác báo cáo tình hình thực hiện dự án, tránh tình trạng sơ sài, nặng về số liệu, ít phần kiến nghị và giải pháp. Các ban quản lý cũng cần phải chủ động trong việc gửi báo cáo thường xuyên theo đúng thời gian đã được quy định.
-Tổ chức các cuộc giao ban định kỳ, hội nghị kiểm điểm để kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án.
Ngoài ra cũng cần phải có thêm những dẫn chứng thuyết phục về thành công hay thất bại của các dự án đã thực hiện. Chính phủ cần đánh giá sâu sắc hơn một số dự án có chọn lọc, để có thể đóng vai trò mạnh mẽ hơn trong việc lựa chọn dự án mới, kể cả việc khước từ một số đề nghị dự án có ít khả năng đem lại lợi ích. Công cuộc đánh giá đó cũng cung cấp cơ sở cho việc thiết kế tốt hơn các dự án trong tương lai.
KẾT LUẬN
Với nhận thức ODA là một trong những nguồn lực có ý nghĩa quan trọng, Chính phủ Việt Nam luôn quan tâm tới công tác thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn này. Ngay từ Hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam lần đầu tiên (tháng 11/ 1993), Chính phủ đã tuyên bố quan điểm của mình về vấn đề quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA “ điều quan trọng là nguồn vốn bên ngoài phải được sử dụng có hiệu quả. Chính phủ chịu trách nhiệm điều phối và sử dụng viện trợ nước ngoài, với nhận thức sâu sắc rằng nhân dân Việt Nam sẽ là người gánh chịu cái giá phải trả cho sự thất bại nếu nguồn vốn này sử dụng không có hiệu quả.”
Vì vậy, có thể nói, trong thời gian qua nguồn vốn ODA đã góp phần quan trọng cho sự phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam cũng như cho ngành giáo dục nói riêng. Được sự quan tâm của Đảng, Chính phủ cũng như các bộ ngành, rất nhiều dự án ODA đã được thu hút để phục vụ cho sự phát triển đất nước.Các dự án không chỉ phục vụ riêng mục đích của lĩnh vực đầu tư, mà còn có tác động sâu rộng về mặt xã hội, hướng tới các đích cuối cùng là sự phục vụ cuộc sống con người, vì chất lượng cuộc sống con người. Nhờ thế mà hệ thống giáo dục đã bước đầu đa dạng hoá cả về loại hình, phương thức và nguồn lực … từng bước hoà nhập với xu thế chung của giáo dục thế giới. Sự công bằng trong giáo dục nhờ đó cũng được tăng cường, tạo điều kiện để con em gia đình thuộc diện chính sách, con em dân tộc thiểu số, con em các gia đình nghèo có điều kiện học tập lên cao, phát huy năng lực của mình.
Công tác thu hút, quản lý và sử dụng ODA đã có nhiều cải tiến nhưng nhìn chung vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần được xem xét, nghiên cứu hoàn thiện để tăng cường hiệu quả của nguồn vốn này.
Trong tương lai, để đạt được những mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội cũng như của riêng ngành giáo dục thì phải đầu tư nhiều hơn nữa vào ngành giáo dục vì giáo dục trong thế kỷ XXI là chìa khoá để tiến tới một thế giới tốt đẹp hơn.
Bối cảnh quốc tế và trong nước vừa tạo thời cơ lớn, vừa đặt ra những thách thức không nhỏ cho giáo dục nước ta và việc thu hút các nguồn lực bên ngoài. Nguồn cung cấp ODA trên thế giới đang ngày một suy giảm trong khi số lượng các nước xin tài trợ thì lại tăng lên. Vì vậy đòi hỏi Việt Nam nói chung cũng như ngành giáo dục phải nỗ lực hơn nữa nhằm tăng khả năng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA có hiệu quả hơn, để từ đó có thể xây dựng một nền giáo dục tiên tiến, hiện đại, nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực,nâng cao phẩm chất toàn diện của con người Việt Nam trong thời đại mới, thúc đẩy tiến bộ xã hội, giúp Việt Nam hội nhập và khẳng định tốt hơn vị trí của mình trên trường quốc tế.
Thay cho lời kết, em xin được trích lời phát biểu của thủ tướng Phan Văn Khải tại Hội nghị triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới ngày 17/ 04/ 2002:
“Than có thể khai thác mãi rồi sẽ hết, dầu khí khai thác mãi rồi sẽ hết, nhưng con người Việt Nam thì hết thế hệ này qua thế hệ khác mãi mãi là nguồn lực vô tận, là sức mạnh của chúng ta. Thời cơ chỉ trong vòng 10 – 15 năm tới. Từ đây cho đến năm 2010 nhất thiết chúng ta phải tập trung cho giáo dục, khắc phục nhược điểm, đầu tư cho giáo dục một cách đồng bộ, toàn diện. Trong thời kỳ này, nếu giáo dục của chúng ta không phát triển toàn diện, đạt tới chất lượng và trình độ cao để đảm bảo cho sự nghiệp có ý nghĩa lịch sử là hoàn thành việc xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, thì chúng ta sẽ bỏ lỡ thời cơ đưa đất nước ta phát triển sánh vai với các nước trong khu vực và thế giới.”
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hỗ trợ phát triển chính thức ODA- Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 1999.
Hỗ trợ phát triển chính thức ODA- Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2000.
Hỗ trợ phát triển chính thức ODA- Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2001.
Hỗ trợ phát triển chính thức ODA- Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm2002.
Tình hình tổng quan về ODA tại Việt Nam (chương trình phát triển Liên Hợp Quốc, UNDP- tháng 12/1998).
Tình hình tổng quan về ODA tại Việt Nam (chương trình phát triển Liên Hợp Quốc, UNDP- tháng 12/1999).
Tình hình tổng quan về ODA tại Việt Nam (chương trình phát triển Liên Hợp Quốc, UNDP- tháng 12/2000).
Tình hình tổng quan về ODA tại Việt Nam (chương trình phát triển Liên Hợp Quốc, UNDP- tháng 12/2001).
Tình hình tổng quan về ODA tại Việt Nam (chương trình phát triển Liên Hợp Quốc, UNDP- tháng 12/2002).
Nhìn lại 5 năm thu hút và sử dụng ODA ở Việt Nam – Bộ Kế hoạch và Đầu tư - tháng 12/1997.
Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài – Nghiêm Đình Vỳ, Nguyễn Đắc Hưng – NXB Chính trị Quốc gia 2002.
Các đối tác phát triển của Việt Nam 1999- UNDP.
Các đối tác phát triển của Việt Nam 2000- UNDP.
Các đối tác phát triển của Việt Nam 2001- UNDP.
Các đối tác phát triển của Việt Nam 2002- UNDP.
Liên minh Châu Âu, các hoạt động hợp tác phát triển tại Việt Nam – tháng 9/2003.
Đánh giá tác động của các dự án phát triển tới đói nghèo (sổ tay dành cho cán bộ thực hành) – Judy L.Baker – NXB Văn hoá Thông tin 2002.
Hướng dẫn về quan hệ quốc tế trong giáo dục – Bộ Giáo dục và Đào tạo – NXB Giáo dục 2002.
Viet Nam – secondary education sector master plan. (Main report volume II) – Illawarra/technology cooporation 2/2002 – ADB).
On the road to education for all lessons learnt from inclusive education in Viet Nam ( project activities during 1991-2002 supported by save the children, Sweden) – National Political Publisher Ha Noi 2002.
Giáo dục cho ai (Báo cáo đầu tư tài chính cho giáo dục cơ bản tại Việt Nam tập trung tại 3 tỉnh Lào Cai, Trà Vinh, Hà Tĩnh) – nhóm nghiên cứu: Bridget Crumpton, Nguyễn Công Giáp – báo cáo oxfam Anh tháng 4/2002.
Báo cáo bổ sung về công tác quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA 21/08/2003 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Basic design study report on the project for improvement of the facilities of primary schools (phase IV) in the Socialist Republic of Viet Nam – Bộ Giáo dục và Đào tạo tháng 9/1997.
Danh tập các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam 2001- 2002.
Báo Nhân dân số 44 ngày 2/11/2003.
Các văn bản hướng dẫn giải ngân ODA – Bộ Tài chính 2000.
Tạp chí Đầu tư & Phát triển số 9/1998.
Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới số 1(45)/ 1997, số 7(87)/2003.
Economic Review N° 1, 15 (1998); 5, 8 (1999); 10 (2002).
Thời báo Kinh tế Sài Gòn 20/04/2000.
Tạp chí Kinh tế và Dự báo tháng 2/2000, tháng 9/2002.
Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế tháng 11/1998, tháng 9/2000, tháng 5/2001, tháng 8/2002.
Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ tháng 8/2002.
Tạp chí Con số và Sự kiện tháng 3/1997.
Tạp chí Tài chính tháng 5/1997.
Tạp chí Kinh tế – Kế hoạch tháng 6/1996, tháng 2/1998.
Tạp chí Thông tin Tài chính tháng 8/1997.
Viet Nam Economic Times , 9/2003.
Ngành Giáo dục-Đào tạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 2( khoá VIII) và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX – Bộ Giáo dục và Đào tạo – NXB Giáo dục.
Giáo dục thế giới đi vào thế kỷ XXI – Phạm Minh Hạc,NXB Chính trị Quốc gia 2002.
Tạp chí thông tin kinh tế-xã hội số 1, 3, 12/2003.
Tạp chí Giáo dục số 22, 23, 25 tháng 2/2002.
Tạp chí Thông tin khoa học Giáo dục số 83, 84 tháng 1/2002.
Tạp chí Thương mại số 28/2002.
Đánh giá viện trợ : khi nào có tác dụng, khi nào không và tại sao – Báo cáo nghiên cứu chính sách của WB – NXB Chính trị Quốc gia 1999.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0040.doc