Để bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền
thống của đồng bào dân tộc Khmer nói chung,
trong đó có nghệ thuật sân khấu Dù kê nói riêng, cơ
quan hữu quan cần tạo điều kiện để thực hiện việc
sưu tầm, đào tạo lớp diễn viên trẻ cho những môn
nghệ thuật đặc sắc này. Ngoài ra cần đẩy mạnh hơn
nữa công tác xã hội hóa hoạt động văn hóa văn
nghệ vùng đồng bào dân tộc Khmer. Đầu tư thỏa
đáng xây dựng thiết chế văn hóa, tăng cường công
tác sưu tầm phổ biến các thể loại nghệ thuật và sân
khấu trên các phương tiện thông tin đại chúng. Mặt
khác tạo điều kiện để văn hóa dân tộc Khmer nói
chung và sân khấu Dù kê Nam Bộ nói riêng được
giao lưu, hợp tác và phát triển với các vùng, miền,
khu vực và quốc tế.
Sự nghiệp bảo tồn và phát huy di sản nghệ
thuật sân khấu Dù kê ở ĐBSCL có thể được đẩy
mạnh và đạt hiệu quả khi người dân tự giác tham
gia. Việc giáo dục để nâng cao ý thức của người
dân, khơi dậy ở họ lòng tự hào đối với di sản văn
hóa của cộng đồng mình là công việc có ý nghĩa
quan trọng để hướng người dân chủ động tìm tòi,
sưu tầm và bảo tồn loại hình di sản sân khấu phi
vật thể này, mặt khác, cần có sự phối hợp đồng
bộ của chính quyền địa phương, các cơ quan, ban,
 ngành, đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa cơ sở để
việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản sân khấu
Dù kê ở ĐBSCL một cách hiệu quả và thiết thực
nhất. Cụ thể là cần đưa Đề án bảo tồn với những
nội dung về đầu tư xây dựng là công trình văn hóa
trọng điểm, mang tính hiện đại (sân khấu biểu
diễn), đạt tầm khu vực và thế giới. Trong đó, đầu
tư cho việc bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn
hóa, phát triển bảo tàng cũng là một nhu cầu bức
xúc, cần có quy hoạch phát triển lâu dài, sự quan
tâm đầu tư đúng mức và cơ chế đặc thù cho thiết
chế văn hóa phi vật thể quan trọng này.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
7 trang | 
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 1171 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng và giải pháp bảo tồn, phát triển nghệ thuật sân khấu dù kê Nam Bộ-Di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc và nhân loại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên rồi sang các tỉnh lân 
cận Cà Mau, Trà Vinh, Bạc Liêu Cứ mỗi khi 
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014108 Soá 13, thaùng 3/2014 109
đồng lúa chuyển vàng, cả bầu đoàn lại lên đường. 
Thời điểm này Sóc Trăng có trên 100 đội, câu lạc 
bộ (CLB) hát Dù kê. Các tỉnh khác như Bạc Liêu, 
An Giang, Kiên Giang cũng có hàng chục đội, nhất 
là những nơi có đông đồng bào Khmer sinh sống.
Đa phần các đội, CLB đều sinh hoạt tại chùa 
Khmer. Ngoài việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt, vui 
chơi giải trí của bà con trong cộng đồng (phum 
sróc), một số đội văn nghệ đã tổ chức các hoạt 
động biểu diễn, giao lưu trong và ngoài huyện vào 
những dịp lễ, tết.
2.2. Chật vật tồn tại
Tuy nhiên những năm sau này do điều kiện 
khách quan và chủ quan các đội, CLB tồn tại dưới 
hình thức văn nghệ quần chúng với quy mô nhỏ 
sau một thời gian hoạt động dần dần bị mai một 
hoặc tan rã. Nguyên nhân đa phần những người 
tham gia cho biết là không có kinh phí và thiếu 
phương tiện âm thanh, nhạc cụ hoạt động. 
Về phần mình, các đội, nhóm văn nghệ quần 
chúng của đồng bào Khmer các tỉnh đều thiếu kịch 
bản có đề tài gắn với cuộc sống đương đại của 
cộng đồng Khmer Nam Bộ... Nhiều đội văn nghệ 
không có tiết mục mới. Đội ngũ nghệ nhân và diễn 
viên ngày càng ít đi.
Hiện các tỉnh có đông đồng bào Khmer chỉ 
còn một đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp với suất 
diễn khiêm tốn chưa đáp ứng được nhu cầu sinh 
hoạt văn nghệ của đồng bào, nhất là ở vùng sâu, 
vùng xa.
Tuy nhiên, cũng như nhiều loại hình văn hóa 
dân gian khác, Dù kê cũng đang gặp khó khăn 
trong quá trình bảo tồn, phát triển. Dù kê tuy đã 
thấm đẫm tâm hồn bà con người Khmer Sóc Trăng, 
Bạc Liêu, Trà Vinh, Kiên Giang, nhưng lớp trẻ 
hiện đang đứng trước nhiều chọn lựa. Nhiều dòng 
nhạc khác, nhiều loại hình văn hóa, văn nghệ khác 
đến với vùng đất này. Đó là điều tất nhiên không 
tránh khỏi. Thêm nữa, do thời gian diễn kéo dài 
(4-5 giờ một vở) nên cũng làm cho lớp trẻ gặp khó 
khăn khi thưởng thức, theo dõi.
2.3. Truyền dạy khó đủ bề
Hằng năm, Đoàn Nghệ thuật Khmer tỉnh Sóc 
Trăng đều tổ chức lớp tập huấn một số loại hình 
nghệ thuật biểu diễn của đồng bào Khmer cho các 
diễn viên, nhạc công của Đoàn. Các học viên được 
tiếp cận với nhiều thể loại, gồm múa dân gian, 
múa cổ điển, nhiều động tác múa trong sân khấu 
Rô băm, vũ đạo, các bài hát, vai diễn trong sân 
khấu Dù kê, diễn tấu dàn nhạc ngũ âm, dàn nhạc 
Rô băm và phương pháp xây dựng tiểu phẩm, do 
các diễn viên, nhạc công của Đoàn có nhiều năm 
kinh nghiệm truyền đạt, tại đây không khí khá sinh 
động, các học viên rất say mê với hai loại hình 
nghệ thuật này. 
Ở loại hình nghệ thuật sân khấu Dù kê, Đoàn 
Nghệ thuật Khmer Sóc Trăng đã tuyển chọn một 
số bài hát để diễn viên, nhạc công luyện tập, gồm 
các bài: ma đa cha, kon rây, ma hô thay, mai on, 
nô rô đom, sô ra dông, kết hợp cùng nhiều vũ 
đạo và các vai diễn trong vở tuồng Dù kê. Dù kê là 
loại hình ca kịch mang tính tổng hợp, trong đó có 
ca, múa, nhạc, kịch chứa đầy màu sắc rực rỡ, phối 
hợp giữa hai yếu tố ước lệ và cách điệu, dân tộc và 
hiện đại, với đề tài đa dạng, phong phú được duy 
trì, phát triển cho đến hôm nay. Ông Thạch Chăm 
Rơn - Trưởng Đoàn Nghệ thuật Khmer tỉnh Sóc 
Trăng, cũng là một nghệ sĩ Dù kê cho biết: “Dù 
kê là loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian Tây 
Nam Bộ. Từ khi hình thành, loại hình sân khấu 
này đã đi sâu vào lòng bà con Khmer Sóc Trăng 
và các tỉnh lân cận khác. Đây là món ăn tinh thần, 
có giá trị rất lớn đối với người dân Khmer ở các 
địa phương. Ngoài giá trị về mặt tinh thần, các vở 
diễn của sân khấu Dù kê còn mang tính giáo dục, 
tính nhân văn và giá trị thẩm mỹ, hướng con người 
ngày càng hoàn thiện hơn”.
Tuy nhiên cả vùng Tây Nam Bộ hiện chỉ còn 
ba đoàn nghệ thuật Khmer chuyên nghiệp ở Trà 
Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang nhưng hoạt động khá 
vất vả (có đoàn mỗi khi diễn, nhất là vai Chằn - 
nhân vật quan trọng trong Dù kê - phải chạy hợp 
đồng với số diễn viên về hưu). ĐBSCL chỉ còn 3 
đội tại cơ sở (của xã Tham Đôn, Phú Tân và Phú 
Mỹ) nhưng cũng rất bấp bênh trong việc bảo tồn 
lưu diễn. Bởi nghệ thuật sân khấu Dù kê đang phải 
đối mặt với hai khó khăn rất lớn, đó là nguồn nhân 
lực trẻ và kịch bản. Ngày càng ít thanh niên đi học 
Dù kê nên tuyển được một người diễn Dù kê là rất 
khó. Học biểu diễn Dù kê cũng không dễ, vì người 
thể hiện phải có năng khiếu cả về ca, múa, cảm thụ 
văn học, cảm thụ nghệ thuật và diễn xuất. Người 
muốn theo nghề phải có niềm đam mê mãnh liệt 
với sân khấu truyền thống của dân tộc mình thì 
mới hy vọng thành công. Dù kê là một loại hình 
biểu diễn sân khấu tổng hợp, một người diễn phải 
làm được nhiều việc, do đó sự luyện rèn là khá 
công phu. Xuất phát của biểu diễn Dù kê là những 
cuộc vui được tổ chức tại chùa, không bán vé thu 
tiền, mà ai tự nguyện đóng góp thì đóng, nên yếu 
tố “thương mại” hầu như xa lạ với người dân trong 
vùng. Do đó, cuộc sống vật chất của những người 
theo Dù kê là khó khăn.
Riêng về kịch bản, có thể nói ngay rằng đội 
ngũ sáng tác cho sân khấu Dù kê không nhiều. 
Do đó, các đội Dù kê thường chỉ diễn đi diễn lại 
những vở diễn đã định hình, đặc biệt là những vở 
mang tính lịch sử. Những vở diễn nội dung ngày 
hôm nay hầu như vắng bóng nên khó thu hút lớp 
trẻ. Dù kê là loại hình tổng hợp nên đòi hỏi trình 
độ của người viết phải am hiểu nghệ thuật biểu 
diễn, có vốn sống, thực tiễn cao. Thế nhưng, công 
tác đào tạo nhân lực cho nghệ thuật này chủ yếu 
dựa vào việc truyền nghề tại các đoàn nên chậm 
và không theo sát được tốc độ phát triển của nhịp 
sống đương đại.
2.4. Vẫn trăn trở việc bảo tồn, phát huy
Những loại hình văn hóa phi vật thể như nghệ 
thuật sân khấu Dù kê Nam Bộ đang trên đà mai 
một, rất cần đầu tư nghiên cứu, phục dựng lại, tiếp 
sức cho loại hình di sản này. Đây là công việc rất 
khó khăn, cần phải đầu tư nhiều công sức nghiên 
cứu để tìm được cách thức tốt nhất, phù hợp nhất 
với việc phục hồi loại hình vốn đã từng xuất hiện 
và tồn tại trong đời sống của cư dân ĐBSCL trước 
đây. Bên cạnh đầu tư kinh phí cho các hoạt động 
bảo tồn và phát huy di sản văn hóa nghệ thuật này 
đang trên đà thất truyền hoặc có nguy cơ bị mai 
một phải được ưu tiên hàng đầu; cần phải mở rộng 
các hình thức xã hội hóa để mọi người dân, mọi tổ 
chức xã hội có thể tham gia vào hoạt động bảo tồn 
di sản nghệ thuật sân khấu phi vật thể nói chung và 
Dù kê nói riêng.
Một trong những nguyên tắc cần phải quan 
tâm đó là chúng ta tiến hành điều tra, sưu tầm, thu 
thập, ghi chép lại các dạng thức văn hóa phi vật 
thể, những kỹ năng, kỹ thuật, nghệ thuật, những 
tri thức do nghệ nhân sử dụng trong trình diễn các 
loại hình nghệ thuật hay các công đoạn sáng tác 
các kịch bản, tác phẩm nghệ thuật ca, múa, kịch 
này bằng việc ghi chép, ghi âm, ghi hình. Từ đó, 
toàn bộ mọi hoạt động của một vở diễn sân khấu Dù 
kê có thể lưu giữ trong các kho lưu trữ, các dữ liệu, 
bảo tàng tỉnh và các viện nghiên cứu. Đó là cơ sở 
giúp chúng ta có căn cứ để nghiên cứu, phục dựng 
lại các vở diễn của sân khấu Dù kê bị mai một.
Cần thiết phải tiến hành cuộc kiểm kê, trên 
cơ sở đó phân loại, xếp hạng loại hình nghệ thuật 
sân khấu này để xem những vai diễn, điệu múa hát 
nào đã biến mất hoặc đang có nguy cơ bị mai một, 
dạng thức nào đang tồn tại và tồn tại như thế nào? 
Bên cạnh, việc đào tạo cũng là vấn đề quan trọng 
nhằm truyền đạt cho thế hệ trẻ nắm vững kiến thức 
cũng như kỹ năng thực hành trong quá trình bảo 
tồn và phát huy các giá trị của sân khấu Dù kê như 
ở Sóc Trăng, Trà Vinh Vấn đề đào tạo, truyền 
dạy phải đa dạng cùng với sự tham gia và kết hợp 
của nhiều cơ quan, đoàn thể, của gia đình và của 
cả xã hội.
Trong việc bảo tồn và phát huy giá trị các thể 
loại nghệ thuật và sân khấu dân gian Khmer, nhất 
là sân khấu Rô băm và sân khấu Dù kê, khó khăn 
lớn nhất là chất hiện đại lấn át chất dân gian, nhiều 
loại hình văn hóa, văn nghệ dân gian của đồng bào 
Khmer đang có dấu hiệu bị rơi vào quên lãng. Cụ 
thể, chúng ta thấy tại các chùa và địa phương, việc 
truyền dạy khó khăn vì thiếu nhạc cụ và cơ sở vật 
chất và khó tìm được nghệ nhân truyền dạy. Trong 
khi đó việc bố trí nguồn kinh phí để chăm lo việc 
này chưa được thực hiện.
2.5. Để giữ gìn và phát huy bản sắc
Làm gì để giữ gìn văn hóa dân tộc, bản sắc 
dân tộc trong bối cảnh hội nhập thế giới, nhất là 
văn hóa Khmer nói chung và sân khấu Dù kê nói 
riêng? Việc xây dựng dữ liệu văn hóa phi vật thể 
tại các tỉnh, thành trong vùng Tây Nam Bộ gần đây 
cũng nhằm mục tiêu chiến lược đó. Qua khảo sát 
và báo cáo của các tỉnh, thành trong vùng ĐBSCL 
chúng tôi được biết có nhiều dự án bảo tồn văn hóa 
Khmer như mở lớp truyền dạy nghệ thuật Rô băm, 
may y phục tăng sĩ, nghi thức Acha duki (lễ tang) 
truyền thống và sân khấu Dù kê Nam Bộ.
Muốn phát huy vốn cổ trước tiên phải bảo tồn 
được “vốn quý”. Những nghệ nhân nắm vững bài 
bản, nhiều kinh nghiệm đã lần lượt ra đi hoặc tuổi 
cao sức yếu. Do vậy cần kịp thời có chế độ đãi ngộ 
thỏa đáng đối với 13 Nghệ sỹ Ưu tú chuyên ngành 
nghệ thuật Khmer Nam Bộ trong vùng (tính đến 
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014108 Soá 13, thaùng 3/2014 109
đồng lúa chuyển vàng, cả bầu đoàn lại lên đường. 
Thời điểm này Sóc Trăng có trên 100 đội, câu lạc 
bộ (CLB) hát Dù kê. Các tỉnh khác như Bạc Liêu, 
An Giang, Kiên Giang cũng có hàng chục đội, nhất 
là những nơi có đông đồng bào Khmer sinh sống.
Đa phần các đội, CLB đều sinh hoạt tại chùa 
Khmer. Ngoài việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt, vui 
chơi giải trí của bà con trong cộng đồng (phum 
sróc), một số đội văn nghệ đã tổ chức các hoạt 
động biểu diễn, giao lưu trong và ngoài huyện vào 
những dịp lễ, tết.
2.2. Chật vật tồn tại
Tuy nhiên những năm sau này do điều kiện 
khách quan và chủ quan các đội, CLB tồn tại dưới 
hình thức văn nghệ quần chúng với quy mô nhỏ 
sau một thời gian hoạt động dần dần bị mai một 
hoặc tan rã. Nguyên nhân đa phần những người 
tham gia cho biết là không có kinh phí và thiếu 
phương tiện âm thanh, nhạc cụ hoạt động. 
Về phần mình, các đội, nhóm văn nghệ quần 
chúng của đồng bào Khmer các tỉnh đều thiếu kịch 
bản có đề tài gắn với cuộc sống đương đại của 
cộng đồng Khmer Nam Bộ... Nhiều đội văn nghệ 
không có tiết mục mới. Đội ngũ nghệ nhân và diễn 
viên ngày càng ít đi.
Hiện các tỉnh có đông đồng bào Khmer chỉ 
còn một đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp với suất 
diễn khiêm tốn chưa đáp ứng được nhu cầu sinh 
hoạt văn nghệ của đồng bào, nhất là ở vùng sâu, 
vùng xa.
Tuy nhiên, cũng như nhiều loại hình văn hóa 
dân gian khác, Dù kê cũng đang gặp khó khăn 
trong quá trình bảo tồn, phát triển. Dù kê tuy đã 
thấm đẫm tâm hồn bà con người Khmer Sóc Trăng, 
Bạc Liêu, Trà Vinh, Kiên Giang, nhưng lớp trẻ 
hiện đang đứng trước nhiều chọn lựa. Nhiều dòng 
nhạc khác, nhiều loại hình văn hóa, văn nghệ khác 
đến với vùng đất này. Đó là điều tất nhiên không 
tránh khỏi. Thêm nữa, do thời gian diễn kéo dài 
(4-5 giờ một vở) nên cũng làm cho lớp trẻ gặp khó 
khăn khi thưởng thức, theo dõi.
2.3. Truyền dạy khó đủ bề
Hằng năm, Đoàn Nghệ thuật Khmer tỉnh Sóc 
Trăng đều tổ chức lớp tập huấn một số loại hình 
nghệ thuật biểu diễn của đồng bào Khmer cho các 
diễn viên, nhạc công của Đoàn. Các học viên được 
tiếp cận với nhiều thể loại, gồm múa dân gian, 
múa cổ điển, nhiều động tác múa trong sân khấu 
Rô băm, vũ đạo, các bài hát, vai diễn trong sân 
khấu Dù kê, diễn tấu dàn nhạc ngũ âm, dàn nhạc 
Rô băm và phương pháp xây dựng tiểu phẩm, do 
các diễn viên, nhạc công của Đoàn có nhiều năm 
kinh nghiệm truyền đạt, tại đây không khí khá sinh 
động, các học viên rất say mê với hai loại hình 
nghệ thuật này. 
Ở loại hình nghệ thuật sân khấu Dù kê, Đoàn 
Nghệ thuật Khmer Sóc Trăng đã tuyển chọn một 
số bài hát để diễn viên, nhạc công luyện tập, gồm 
các bài: ma đa cha, kon rây, ma hô thay, mai on, 
nô rô đom, sô ra dông, kết hợp cùng nhiều vũ 
đạo và các vai diễn trong vở tuồng Dù kê. Dù kê là 
loại hình ca kịch mang tính tổng hợp, trong đó có 
ca, múa, nhạc, kịch chứa đầy màu sắc rực rỡ, phối 
hợp giữa hai yếu tố ước lệ và cách điệu, dân tộc và 
hiện đại, với đề tài đa dạng, phong phú được duy 
trì, phát triển cho đến hôm nay. Ông Thạch Chăm 
Rơn - Trưởng Đoàn Nghệ thuật Khmer tỉnh Sóc 
Trăng, cũng là một nghệ sĩ Dù kê cho biết: “Dù 
kê là loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian Tây 
Nam Bộ. Từ khi hình thành, loại hình sân khấu 
này đã đi sâu vào lòng bà con Khmer Sóc Trăng 
và các tỉnh lân cận khác. Đây là món ăn tinh thần, 
có giá trị rất lớn đối với người dân Khmer ở các 
địa phương. Ngoài giá trị về mặt tinh thần, các vở 
diễn của sân khấu Dù kê còn mang tính giáo dục, 
tính nhân văn và giá trị thẩm mỹ, hướng con người 
ngày càng hoàn thiện hơn”.
Tuy nhiên cả vùng Tây Nam Bộ hiện chỉ còn 
ba đoàn nghệ thuật Khmer chuyên nghiệp ở Trà 
Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang nhưng hoạt động khá 
vất vả (có đoàn mỗi khi diễn, nhất là vai Chằn - 
nhân vật quan trọng trong Dù kê - phải chạy hợp 
đồng với số diễn viên về hưu). ĐBSCL chỉ còn 3 
đội tại cơ sở (của xã Tham Đôn, Phú Tân và Phú 
Mỹ) nhưng cũng rất bấp bênh trong việc bảo tồn 
lưu diễn. Bởi nghệ thuật sân khấu Dù kê đang phải 
đối mặt với hai khó khăn rất lớn, đó là nguồn nhân 
lực trẻ và kịch bản. Ngày càng ít thanh niên đi học 
Dù kê nên tuyển được một người diễn Dù kê là rất 
khó. Học biểu diễn Dù kê cũng không dễ, vì người 
thể hiện phải có năng khiếu cả về ca, múa, cảm thụ 
văn học, cảm thụ nghệ thuật và diễn xuất. Người 
muốn theo nghề phải có niềm đam mê mãnh liệt 
với sân khấu truyền thống của dân tộc mình thì 
mới hy vọng thành công. Dù kê là một loại hình 
biểu diễn sân khấu tổng hợp, một người diễn phải 
làm được nhiều việc, do đó sự luyện rèn là khá 
công phu. Xuất phát của biểu diễn Dù kê là những 
cuộc vui được tổ chức tại chùa, không bán vé thu 
tiền, mà ai tự nguyện đóng góp thì đóng, nên yếu 
tố “thương mại” hầu như xa lạ với người dân trong 
vùng. Do đó, cuộc sống vật chất của những người 
theo Dù kê là khó khăn.
Riêng về kịch bản, có thể nói ngay rằng đội 
ngũ sáng tác cho sân khấu Dù kê không nhiều. 
Do đó, các đội Dù kê thường chỉ diễn đi diễn lại 
những vở diễn đã định hình, đặc biệt là những vở 
mang tính lịch sử. Những vở diễn nội dung ngày 
hôm nay hầu như vắng bóng nên khó thu hút lớp 
trẻ. Dù kê là loại hình tổng hợp nên đòi hỏi trình 
độ của người viết phải am hiểu nghệ thuật biểu 
diễn, có vốn sống, thực tiễn cao. Thế nhưng, công 
tác đào tạo nhân lực cho nghệ thuật này chủ yếu 
dựa vào việc truyền nghề tại các đoàn nên chậm 
và không theo sát được tốc độ phát triển của nhịp 
sống đương đại.
2.4. Vẫn trăn trở việc bảo tồn, phát huy
Những loại hình văn hóa phi vật thể như nghệ 
thuật sân khấu Dù kê Nam Bộ đang trên đà mai 
một, rất cần đầu tư nghiên cứu, phục dựng lại, tiếp 
sức cho loại hình di sản này. Đây là công việc rất 
khó khăn, cần phải đầu tư nhiều công sức nghiên 
cứu để tìm được cách thức tốt nhất, phù hợp nhất 
với việc phục hồi loại hình vốn đã từng xuất hiện 
và tồn tại trong đời sống của cư dân ĐBSCL trước 
đây. Bên cạnh đầu tư kinh phí cho các hoạt động 
bảo tồn và phát huy di sản văn hóa nghệ thuật này 
đang trên đà thất truyền hoặc có nguy cơ bị mai 
một phải được ưu tiên hàng đầu; cần phải mở rộng 
các hình thức xã hội hóa để mọi người dân, mọi tổ 
chức xã hội có thể tham gia vào hoạt động bảo tồn 
di sản nghệ thuật sân khấu phi vật thể nói chung và 
Dù kê nói riêng.
Một trong những nguyên tắc cần phải quan 
tâm đó là chúng ta tiến hành điều tra, sưu tầm, thu 
thập, ghi chép lại các dạng thức văn hóa phi vật 
thể, những kỹ năng, kỹ thuật, nghệ thuật, những 
tri thức do nghệ nhân sử dụng trong trình diễn các 
loại hình nghệ thuật hay các công đoạn sáng tác 
các kịch bản, tác phẩm nghệ thuật ca, múa, kịch 
này bằng việc ghi chép, ghi âm, ghi hình. Từ đó, 
toàn bộ mọi hoạt động của một vở diễn sân khấu Dù 
kê có thể lưu giữ trong các kho lưu trữ, các dữ liệu, 
bảo tàng tỉnh và các viện nghiên cứu. Đó là cơ sở 
giúp chúng ta có căn cứ để nghiên cứu, phục dựng 
lại các vở diễn của sân khấu Dù kê bị mai một.
Cần thiết phải tiến hành cuộc kiểm kê, trên 
cơ sở đó phân loại, xếp hạng loại hình nghệ thuật 
sân khấu này để xem những vai diễn, điệu múa hát 
nào đã biến mất hoặc đang có nguy cơ bị mai một, 
dạng thức nào đang tồn tại và tồn tại như thế nào? 
Bên cạnh, việc đào tạo cũng là vấn đề quan trọng 
nhằm truyền đạt cho thế hệ trẻ nắm vững kiến thức 
cũng như kỹ năng thực hành trong quá trình bảo 
tồn và phát huy các giá trị của sân khấu Dù kê như 
ở Sóc Trăng, Trà Vinh Vấn đề đào tạo, truyền 
dạy phải đa dạng cùng với sự tham gia và kết hợp 
của nhiều cơ quan, đoàn thể, của gia đình và của 
cả xã hội.
Trong việc bảo tồn và phát huy giá trị các thể 
loại nghệ thuật và sân khấu dân gian Khmer, nhất 
là sân khấu Rô băm và sân khấu Dù kê, khó khăn 
lớn nhất là chất hiện đại lấn át chất dân gian, nhiều 
loại hình văn hóa, văn nghệ dân gian của đồng bào 
Khmer đang có dấu hiệu bị rơi vào quên lãng. Cụ 
thể, chúng ta thấy tại các chùa và địa phương, việc 
truyền dạy khó khăn vì thiếu nhạc cụ và cơ sở vật 
chất và khó tìm được nghệ nhân truyền dạy. Trong 
khi đó việc bố trí nguồn kinh phí để chăm lo việc 
này chưa được thực hiện.
2.5. Để giữ gìn và phát huy bản sắc
Làm gì để giữ gìn văn hóa dân tộc, bản sắc 
dân tộc trong bối cảnh hội nhập thế giới, nhất là 
văn hóa Khmer nói chung và sân khấu Dù kê nói 
riêng? Việc xây dựng dữ liệu văn hóa phi vật thể 
tại các tỉnh, thành trong vùng Tây Nam Bộ gần đây 
cũng nhằm mục tiêu chiến lược đó. Qua khảo sát 
và báo cáo của các tỉnh, thành trong vùng ĐBSCL 
chúng tôi được biết có nhiều dự án bảo tồn văn hóa 
Khmer như mở lớp truyền dạy nghệ thuật Rô băm, 
may y phục tăng sĩ, nghi thức Acha duki (lễ tang) 
truyền thống và sân khấu Dù kê Nam Bộ.
Muốn phát huy vốn cổ trước tiên phải bảo tồn 
được “vốn quý”. Những nghệ nhân nắm vững bài 
bản, nhiều kinh nghiệm đã lần lượt ra đi hoặc tuổi 
cao sức yếu. Do vậy cần kịp thời có chế độ đãi ngộ 
thỏa đáng đối với 13 Nghệ sỹ Ưu tú chuyên ngành 
nghệ thuật Khmer Nam Bộ trong vùng (tính đến 
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014110 Soá 13, thaùng 3/2014 111
đầu năm 2010, nay đã mất thêm 2) cùng các nghệ 
nhân dân gian “gạo cội”, để động viên họ tham 
gia đào tạo lớp trẻ bằng nhiều hình thức. Áp dụng 
chính sách đặc biệt với các đoàn nghệ thuật Khmer 
chuyên nghiệp, xây dựng đề án, đề xuất các giải 
pháp bảo tồn mang tính khoa học cao.
Trước đây, ĐBSCL đã quyết tâm “gồng 
mình” giữ cho được đoàn Rô băm dân gian Bưng 
Chông gần như cuối cùng của khu vực, nhưng 
thiếu kinh phí đành ngậm ngùi chia tay là một bài 
học khó quên. 
Bây giờ đến số phận của sân khấu Dù kê. Để 
hát, múa được loại hình nghệ thuật sân khấu này 
đòi hỏi người diễn phải tập liên tục ba tháng trở 
lên. Nhưng đến nay vẫn chưa có trường đào tạo 
loại hình nghệ thuật này, phần lớn tự đào tạo tại lò 
nhà, hoặc giao cho Đoàn Nghệ thuật Khmer các 
tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang tự truyền 
dạy mà thôi. Chỉ có ai thật sự yêu nghề, dám hy 
sinh cho nghề mới theo nổi. Trang phục, đạo cụ 
cũng khá tốn kém, vì vậy không thể vực dậy sân 
khấu Dù kê như “một thời vang bóng” nếu chỉ 
trông chờ vào nhiệt huyết cá nhân mà rất cần sự 
quan tâm, đầu tư bài bản của Bộ Văn hóa -Thể 
thao và Du lịch; của các tỉnh, thành trong vùng.
2.6. Một số giải pháp bảo tồn và phát huy
2.6.1. Giải pháp trước mắt
Hiện nay loại hình sân khấu Dù kê Nam Bộ 
đang tồn tại dưới hai hình thức:
Một là, tồn tại dưới dạng riêng lẻ từng cá nhân 
(các nhóm, các CLB) trong cộng đồng cư dân ấp, 
xã, sinh hoạt theo tùy hứng lúc nhàn rỗi, khi được 
mời gọi. Hình thức này mang tính không bền vững 
và khó có thể phát triển nghề nghiệp trong tình 
hình hiện nay như vấn đề kinh phí, nhu cầu thưởng 
thức loại hình sân khấu này, vấn đề kịch bản, đào 
tạo diễn viên trẻ.
Hai là, tồn tại có tổ chức tại các Đoàn nghệ 
thuật cấp tỉnh. Đây là những tổ chức nề nếp, có kế 
hoạch hoạt động, sinh hoạt định kỳ, giao lưu, đào 
tạo và chịu sự quản lý Nhà nước của ngành Văn 
hóa - Thể thao và Du lịch. Thiết nghĩ những đoàn 
nghệ thuật này cần phải được lưu ý cải tiến về nội 
dung, hình thức trong các đợt sinh hoạt định kỳ và 
hoạt động phục vụ quần chúng nhân dân, khách 
tham quan du lịch. Về chuyên môn tận dụng khai 
thác hết các làn điệu ca hát, múa theo bài bản của 
nghệ thuật sân khấu Dù kê đặc trưng Nam Bộ, cấu 
trúc chương trình sao cho hài hòa hấp dẫn. Đặc 
biệt phải chú ý đến đối tượng phục vụ để sắp xếp 
chương trình, phù hợp với hoàn cảnh, sở thích của 
đối tượng; hướng vào phục vụ những ngày lễ hội, 
hội nghị, tuyên truyền nhiệm vụ chính trị, khách 
tham quan du lịch.
 Riêng các nhóm, CLB, gia đình thành lập 
Đoàn nghệ thuật Dù kê nên mở rộng thành viên 
là người yêu thích, hâm mộ loại hình này. Nhà 
nước và cơ quan chủ quản tạo điều kiện ban đầu 
về kinh phí, kịch bản và từng bước xã hội hóa để 
các Đoàn nhóm, CLB này phát triển. Có kế hoạch 
khôi phục đội Dù kê cấp xã, ấp, đây là việc cần 
làm nhằm mục đích sử dụng “cây nhà lá vườn” 
để tạo phong trào tại khu dân cư, vừa phát hiện tài 
năng trong nhân dân để cung cấp cho tỉnh. Qua đó, 
sẽ giúp bà con đồng bào dân tộc Khmer có thêm 
một sân chơi bổ ích và thiết thực. Sau là tổ chức 
chăm bồi, đào tạo để tạo ra đội ngũ kế thừa, kết 
hợp với Đoàn nghệ thuật Khmer các tỉnh mở các 
lớp tập huấn ngắn hạn, hay các lớp sơ cấp để tạo 
nguồn diễn viên mới, đáp ứng yêu cầu phục vụ của 
địa phương. Khôi phục đội Dù kê cấp ấp, xã tuy 
còn lắm khó khăn, nhưng thiết nghĩ đây cũng là 
việc cần làm để bảo tồn loại hình nghệ thuật truyền 
thống của dân tộc Khmer. Làm được điều này sẽ là 
bước đệm vững chắc để tiến tới việc sau này chúng 
ta đề nghị UNESCO công nhận Dù kê Nam Bộ là 
di sản văn hóa phi vật thể của thế giới.
Bên cạnh việc cải tiến mô hình cần cải tiến 
kịch bản. Trước khi cải tiến cần biên soạn tất cả 
các bài bản múa, hát, kịch bản gốc để lưu giữ lại 
làm tư liệu nghiên cứu sau này. Về nguyên tắc cải 
tiến là phải đạt được yếu tố ngắn, gọn hơn so với 
bản gốc, nhưng không phá vỡ điệu thức, không lai 
căng, không pha tạp, không mất gốc. Cũng không 
cải tiến một cách tràn lan, chỉ cải tiến những phần 
nào không còn mang tính phù hợp. Với quan điểm 
đó có thể cải tiến thể nghiệm trước. Sau khi phổ 
biến có kết quả sẽ thực hiện bước tiếp theo.
Giải pháp thứ hai, tùy theo điều kiện cụ thể, các 
địa phương nên thường xuyên tổ chức liên hoan, 
hội thi, hội diễn, giao lưu nghệ thuật sân khấu Dù 
kê Nam Bộ trong địa bàn và liên tỉnh, khu vực. 
Tuy nhiên phải có hình thức khen thưởng, khích lệ 
phù hợp để khơi dậy và kích thích phong trào. Các 
năng khiếu được chọn từ liên hoan, hội thi, giao 
lưu nên động viên họ tham gia hoạt động tại địa 
phương, đặc biệt phải được đào tạo để phát triển 
nghề nghiệp. Ngành Văn hóa – Thề thao và Du 
lịch tập hợp và tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên 
môn định kỳ cho những đối tượng yêu thích, các 
lớp chuyên sâu cho các thành viên nhóm, CLB đã 
có tay nghề. Đây mới chỉ là giải pháp “ngọn” và 
nhìn chung vẫn chỉ là bề nổi.
2.6.2. Giải pháp lâu dài 
Song song với những giải pháp trước mắt 
cần phải chuẩn bị cho giải pháp lâu dài mang tính 
chiến lược. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện 
các giải pháp lâu dài vẫn duy trì một số giải pháp 
trước mắt để tạo sự đan xen, thúc đẩy, tác động lẫn 
nhau, đào điều kiện cho sự phát triển.
Việc giáo dục giới trẻ hiểu và trân trọng nghệ 
thuật dân tộc, trong đó có Sân khấu Dù kê Nam Bộ, 
để hạn chế dấu hiệu xâm lấn của các loại hình nghệ 
thuật đang ăn mòn tâm hồn của giới trẻ là rất cần 
thiết. Ở Nam Bộ cần đưa loại hình Sân khấu Dù 
kê vào chương trình giảng dạy ở các trường Phổ 
thông Cơ sở và Phổ thông Trung học và các trường 
Đại học như tỉnh Trà Vinh đã thành lập Khoa Ngôn 
ngữ - Văn hóa - Nghệ thuật Khmer Nam Bộ thổi 
hồn di sản, góp phần truyền tình yêu nghệ thuật 
dân tộc cho thế hệ trẻ. Đúng như lời của Tiến sĩ 
Nguyễn Khắc Cảnh - Phó Hiệu trưởng Trường Đại 
học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh 
khẳng định: “Nghệ thuật truyền thống của dân tộc 
sẽ giáo dục sinh viên một cách gián tiếp, nhưng rất 
hiệu quả, bởi thông qua việc học tập, họ biết mình 
đã góp sức cho việc bảo tồn và phát huy vốn văn 
hóa quý của ông cha”.
Kinh nghiệm cho thấy, để bảo tồn di sản cần 
thiết phải đào tạo được lực lượng kế thừa và tổ 
chức các sân chơi xứng tầm để nghệ nhân có dịp 
sống trọn với nghiệp diễn. Thực tế từ Liên hoan 
Sân khấu Chuyên nghiệp toàn quốc, Liên hoan 
Dân ca toàn quốc cho thấy các nghệ nhân muốn 
diễn, muốn đứng trên sân khấu nhưng cơ hội thật 
hiếm hoi. Rất cần những “Liên hoan sân khấu Dù 
kê Khmer sẽ diễn ra tại ĐBSCL” và “Festival Sân 
khấu Dù kê Nam Bộ” sẽ được tổ chức, nhiều năm 
qua việc bảo tồn văn hóa dân tộc được thực hiện 
bằng những dự án cụ thể như quay phim tư liệu, mở 
lớp truyền nghề. Đặc biệt là sự ra đời của Bảo tàng 
Văn hóa Khmer các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh 
Mong rằng, các liên hoan sẽ góp thêm lửa trong 
bảo tồn và phát huy giá trị di sản sân khấu này.
Ngành Văn hóa - Thể thao và Du lịch phối hợp 
với ngành Giáo dục - Đào tạo sớm có kế hoạch 
biên soạn hoàn chỉnh bộ giáo án về Sân khấu Dù 
kê Nam Bộ để đủ điều kiện giảng dạy ở các cấp 
trong nhà trường, những người giúp cho việc này 
không ai khác hơn là các nghệ sỹ và các nghệ nhân.
Đã đến lúc chúng ta phải đánh giá và nhìn 
nhận nghiêm túc những nguyên nhân sâu xa tác 
động trực tiếp đến việc bảo tồn và phát huy nghệ 
thuật truyền thống tại mỗi địa phương. Mỗi nơi 
đều có những điều kiện khác nhau và bước thực 
hiện cũng không giống nhau, nhưng tựu trung lại 
vẫn có chung một nguyên nhân gốc rễ, đó là nhân 
tố con người.
Con người ở đây là khách thể của đối tượng 
quản lý nhà nước nhưng lại là chủ thể của sự bảo 
tồn và phát triển dòng nghệ thuật như Sân khấu 
Dù kê Nam Bộ. Với sự tác động của nền kinh tế 
thị trường, việc “thổi hồn” cho những người “giữ 
lửa” nghệ thuật Sân khấu Dù kê Nam Bộ là một 
yêu cầu hết sức quan trọng và cấp thiết. Hiện tại, 
những người “giữ lửa” đang có chiều hướng mai 
một, trong khi đó, nhân tố kế thừa còn rất khiêm 
tốn. Việc đào tạo lực lượng kế thừa là một giải 
pháp mang tính chiến lược. Nếu như ở các trường 
phổ thông đào tạo theo dạng hướng nghiệp, phát 
hiện năng khiếu thì ở trường Trung học, Cao đẳng 
và Đại học Văn hóa - nghệ thuật, các thiết chế của 
ngành Văn hóa - Thể dục và Du lịch sẽ là nơi đào 
tạo chuyên sâu, đúng căn cơ, bài bản. Muốn đào 
tạo tốt cần có đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên 
môn cao, có phương pháp sư phạm tốt, có lòng say 
mê nghề nghiệp; bên cạnh việc đầu tư phòng ốc, 
nhạc cụ, âm thanh ánh sáng, các thiết chế cho 
hoạt động sân khấu này.
Chúng ta cần xác định loại hình Sân khấu Dù 
kê Nam Bộ là sản phẩm văn hóa phi vật thể, trong 
thực tế các tư liệu đối với loại hình này đang mai 
một, khan hiếm, vì vậy công tác sưu tầm và nghiên 
cứu rất cần thiết, nhằm hệ thống, biên soạn thành 
những tài liệu chính thống, nhằm bảo tồn, lưu 
truyền và làm cho loại hình này tiếp tục phát triển.
Để công tác nghiên cứu, sưu tầm đạt kết quả 
tốt, nên tiến hành các bước nghiệp vụ như điều tra 
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014110 Soá 13, thaùng 3/2014 111
đầu năm 2010, nay đã mất thêm 2) cùng các nghệ 
nhân dân gian “gạo cội”, để động viên họ tham 
gia đào tạo lớp trẻ bằng nhiều hình thức. Áp dụng 
chính sách đặc biệt với các đoàn nghệ thuật Khmer 
chuyên nghiệp, xây dựng đề án, đề xuất các giải 
pháp bảo tồn mang tính khoa học cao.
Trước đây, ĐBSCL đã quyết tâm “gồng 
mình” giữ cho được đoàn Rô băm dân gian Bưng 
Chông gần như cuối cùng của khu vực, nhưng 
thiếu kinh phí đành ngậm ngùi chia tay là một bài 
học khó quên. 
Bây giờ đến số phận của sân khấu Dù kê. Để 
hát, múa được loại hình nghệ thuật sân khấu này 
đòi hỏi người diễn phải tập liên tục ba tháng trở 
lên. Nhưng đến nay vẫn chưa có trường đào tạo 
loại hình nghệ thuật này, phần lớn tự đào tạo tại lò 
nhà, hoặc giao cho Đoàn Nghệ thuật Khmer các 
tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang tự truyền 
dạy mà thôi. Chỉ có ai thật sự yêu nghề, dám hy 
sinh cho nghề mới theo nổi. Trang phục, đạo cụ 
cũng khá tốn kém, vì vậy không thể vực dậy sân 
khấu Dù kê như “một thời vang bóng” nếu chỉ 
trông chờ vào nhiệt huyết cá nhân mà rất cần sự 
quan tâm, đầu tư bài bản của Bộ Văn hóa -Thể 
thao và Du lịch; của các tỉnh, thành trong vùng.
2.6. Một số giải pháp bảo tồn và phát huy
2.6.1. Giải pháp trước mắt
Hiện nay loại hình sân khấu Dù kê Nam Bộ 
đang tồn tại dưới hai hình thức:
Một là, tồn tại dưới dạng riêng lẻ từng cá nhân 
(các nhóm, các CLB) trong cộng đồng cư dân ấp, 
xã, sinh hoạt theo tùy hứng lúc nhàn rỗi, khi được 
mời gọi. Hình thức này mang tính không bền vững 
và khó có thể phát triển nghề nghiệp trong tình 
hình hiện nay như vấn đề kinh phí, nhu cầu thưởng 
thức loại hình sân khấu này, vấn đề kịch bản, đào 
tạo diễn viên trẻ.
Hai là, tồn tại có tổ chức tại các Đoàn nghệ 
thuật cấp tỉnh. Đây là những tổ chức nề nếp, có kế 
hoạch hoạt động, sinh hoạt định kỳ, giao lưu, đào 
tạo và chịu sự quản lý Nhà nước của ngành Văn 
hóa - Thể thao và Du lịch. Thiết nghĩ những đoàn 
nghệ thuật này cần phải được lưu ý cải tiến về nội 
dung, hình thức trong các đợt sinh hoạt định kỳ và 
hoạt động phục vụ quần chúng nhân dân, khách 
tham quan du lịch. Về chuyên môn tận dụng khai 
thác hết các làn điệu ca hát, múa theo bài bản của 
nghệ thuật sân khấu Dù kê đặc trưng Nam Bộ, cấu 
trúc chương trình sao cho hài hòa hấp dẫn. Đặc 
biệt phải chú ý đến đối tượng phục vụ để sắp xếp 
chương trình, phù hợp với hoàn cảnh, sở thích của 
đối tượng; hướng vào phục vụ những ngày lễ hội, 
hội nghị, tuyên truyền nhiệm vụ chính trị, khách 
tham quan du lịch.
 Riêng các nhóm, CLB, gia đình thành lập 
Đoàn nghệ thuật Dù kê nên mở rộng thành viên 
là người yêu thích, hâm mộ loại hình này. Nhà 
nước và cơ quan chủ quản tạo điều kiện ban đầu 
về kinh phí, kịch bản và từng bước xã hội hóa để 
các Đoàn nhóm, CLB này phát triển. Có kế hoạch 
khôi phục đội Dù kê cấp xã, ấp, đây là việc cần 
làm nhằm mục đích sử dụng “cây nhà lá vườn” 
để tạo phong trào tại khu dân cư, vừa phát hiện tài 
năng trong nhân dân để cung cấp cho tỉnh. Qua đó, 
sẽ giúp bà con đồng bào dân tộc Khmer có thêm 
một sân chơi bổ ích và thiết thực. Sau là tổ chức 
chăm bồi, đào tạo để tạo ra đội ngũ kế thừa, kết 
hợp với Đoàn nghệ thuật Khmer các tỉnh mở các 
lớp tập huấn ngắn hạn, hay các lớp sơ cấp để tạo 
nguồn diễn viên mới, đáp ứng yêu cầu phục vụ của 
địa phương. Khôi phục đội Dù kê cấp ấp, xã tuy 
còn lắm khó khăn, nhưng thiết nghĩ đây cũng là 
việc cần làm để bảo tồn loại hình nghệ thuật truyền 
thống của dân tộc Khmer. Làm được điều này sẽ là 
bước đệm vững chắc để tiến tới việc sau này chúng 
ta đề nghị UNESCO công nhận Dù kê Nam Bộ là 
di sản văn hóa phi vật thể của thế giới.
Bên cạnh việc cải tiến mô hình cần cải tiến 
kịch bản. Trước khi cải tiến cần biên soạn tất cả 
các bài bản múa, hát, kịch bản gốc để lưu giữ lại 
làm tư liệu nghiên cứu sau này. Về nguyên tắc cải 
tiến là phải đạt được yếu tố ngắn, gọn hơn so với 
bản gốc, nhưng không phá vỡ điệu thức, không lai 
căng, không pha tạp, không mất gốc. Cũng không 
cải tiến một cách tràn lan, chỉ cải tiến những phần 
nào không còn mang tính phù hợp. Với quan điểm 
đó có thể cải tiến thể nghiệm trước. Sau khi phổ 
biến có kết quả sẽ thực hiện bước tiếp theo.
Giải pháp thứ hai, tùy theo điều kiện cụ thể, các 
địa phương nên thường xuyên tổ chức liên hoan, 
hội thi, hội diễn, giao lưu nghệ thuật sân khấu Dù 
kê Nam Bộ trong địa bàn và liên tỉnh, khu vực. 
Tuy nhiên phải có hình thức khen thưởng, khích lệ 
phù hợp để khơi dậy và kích thích phong trào. Các 
năng khiếu được chọn từ liên hoan, hội thi, giao 
lưu nên động viên họ tham gia hoạt động tại địa 
phương, đặc biệt phải được đào tạo để phát triển 
nghề nghiệp. Ngành Văn hóa – Thề thao và Du 
lịch tập hợp và tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên 
môn định kỳ cho những đối tượng yêu thích, các 
lớp chuyên sâu cho các thành viên nhóm, CLB đã 
có tay nghề. Đây mới chỉ là giải pháp “ngọn” và 
nhìn chung vẫn chỉ là bề nổi.
2.6.2. Giải pháp lâu dài 
Song song với những giải pháp trước mắt 
cần phải chuẩn bị cho giải pháp lâu dài mang tính 
chiến lược. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện 
các giải pháp lâu dài vẫn duy trì một số giải pháp 
trước mắt để tạo sự đan xen, thúc đẩy, tác động lẫn 
nhau, đào điều kiện cho sự phát triển.
Việc giáo dục giới trẻ hiểu và trân trọng nghệ 
thuật dân tộc, trong đó có Sân khấu Dù kê Nam Bộ, 
để hạn chế dấu hiệu xâm lấn của các loại hình nghệ 
thuật đang ăn mòn tâm hồn của giới trẻ là rất cần 
thiết. Ở Nam Bộ cần đưa loại hình Sân khấu Dù 
kê vào chương trình giảng dạy ở các trường Phổ 
thông Cơ sở và Phổ thông Trung học và các trường 
Đại học như tỉnh Trà Vinh đã thành lập Khoa Ngôn 
ngữ - Văn hóa - Nghệ thuật Khmer Nam Bộ thổi 
hồn di sản, góp phần truyền tình yêu nghệ thuật 
dân tộc cho thế hệ trẻ. Đúng như lời của Tiến sĩ 
Nguyễn Khắc Cảnh - Phó Hiệu trưởng Trường Đại 
học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh 
khẳng định: “Nghệ thuật truyền thống của dân tộc 
sẽ giáo dục sinh viên một cách gián tiếp, nhưng rất 
hiệu quả, bởi thông qua việc học tập, họ biết mình 
đã góp sức cho việc bảo tồn và phát huy vốn văn 
hóa quý của ông cha”.
Kinh nghiệm cho thấy, để bảo tồn di sản cần 
thiết phải đào tạo được lực lượng kế thừa và tổ 
chức các sân chơi xứng tầm để nghệ nhân có dịp 
sống trọn với nghiệp diễn. Thực tế từ Liên hoan 
Sân khấu Chuyên nghiệp toàn quốc, Liên hoan 
Dân ca toàn quốc cho thấy các nghệ nhân muốn 
diễn, muốn đứng trên sân khấu nhưng cơ hội thật 
hiếm hoi. Rất cần những “Liên hoan sân khấu Dù 
kê Khmer sẽ diễn ra tại ĐBSCL” và “Festival Sân 
khấu Dù kê Nam Bộ” sẽ được tổ chức, nhiều năm 
qua việc bảo tồn văn hóa dân tộc được thực hiện 
bằng những dự án cụ thể như quay phim tư liệu, mở 
lớp truyền nghề. Đặc biệt là sự ra đời của Bảo tàng 
Văn hóa Khmer các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh 
Mong rằng, các liên hoan sẽ góp thêm lửa trong 
bảo tồn và phát huy giá trị di sản sân khấu này.
Ngành Văn hóa - Thể thao và Du lịch phối hợp 
với ngành Giáo dục - Đào tạo sớm có kế hoạch 
biên soạn hoàn chỉnh bộ giáo án về Sân khấu Dù 
kê Nam Bộ để đủ điều kiện giảng dạy ở các cấp 
trong nhà trường, những người giúp cho việc này 
không ai khác hơn là các nghệ sỹ và các nghệ nhân.
Đã đến lúc chúng ta phải đánh giá và nhìn 
nhận nghiêm túc những nguyên nhân sâu xa tác 
động trực tiếp đến việc bảo tồn và phát huy nghệ 
thuật truyền thống tại mỗi địa phương. Mỗi nơi 
đều có những điều kiện khác nhau và bước thực 
hiện cũng không giống nhau, nhưng tựu trung lại 
vẫn có chung một nguyên nhân gốc rễ, đó là nhân 
tố con người.
Con người ở đây là khách thể của đối tượng 
quản lý nhà nước nhưng lại là chủ thể của sự bảo 
tồn và phát triển dòng nghệ thuật như Sân khấu 
Dù kê Nam Bộ. Với sự tác động của nền kinh tế 
thị trường, việc “thổi hồn” cho những người “giữ 
lửa” nghệ thuật Sân khấu Dù kê Nam Bộ là một 
yêu cầu hết sức quan trọng và cấp thiết. Hiện tại, 
những người “giữ lửa” đang có chiều hướng mai 
một, trong khi đó, nhân tố kế thừa còn rất khiêm 
tốn. Việc đào tạo lực lượng kế thừa là một giải 
pháp mang tính chiến lược. Nếu như ở các trường 
phổ thông đào tạo theo dạng hướng nghiệp, phát 
hiện năng khiếu thì ở trường Trung học, Cao đẳng 
và Đại học Văn hóa - nghệ thuật, các thiết chế của 
ngành Văn hóa - Thể dục và Du lịch sẽ là nơi đào 
tạo chuyên sâu, đúng căn cơ, bài bản. Muốn đào 
tạo tốt cần có đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên 
môn cao, có phương pháp sư phạm tốt, có lòng say 
mê nghề nghiệp; bên cạnh việc đầu tư phòng ốc, 
nhạc cụ, âm thanh ánh sáng, các thiết chế cho 
hoạt động sân khấu này.
Chúng ta cần xác định loại hình Sân khấu Dù 
kê Nam Bộ là sản phẩm văn hóa phi vật thể, trong 
thực tế các tư liệu đối với loại hình này đang mai 
một, khan hiếm, vì vậy công tác sưu tầm và nghiên 
cứu rất cần thiết, nhằm hệ thống, biên soạn thành 
những tài liệu chính thống, nhằm bảo tồn, lưu 
truyền và làm cho loại hình này tiếp tục phát triển.
Để công tác nghiên cứu, sưu tầm đạt kết quả 
tốt, nên tiến hành các bước nghiệp vụ như điều tra 
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014112 Soá 13, thaùng 3/2014 113
xã hội học về nhu cầu của quần chúng nhân dân 
đối với loại hình nghệ thuật này, hệ thống hóa từng 
cụm chuyên đề, tổ chức các cuộc tọa đàm, hội thảo 
khoa học chuyên đề về Sân khấu Dù kê Nam Bộ 
như Hội thảo khoa học “Nghệ thuật sân khấu Dù kê 
Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc” tổ chức 
tại Trường Đại học Trà Vinh tháng 11/2013. Sau 
khi sưu tầm sẽ phổ biến rộng rãi trong cộng đồng 
dân cư Nam Bộ nói riêng và cả nước nói chung.
Ưu thế của loại hình sân khấu Dù kê Nam Bộ 
từ xưa tới nay là thể hiện tính xã hội hóa rất cao so 
với các loại hình nghệ thuật khác, nhưng điểm yếu 
của nó là chưa có những định hướng chiến lược 
phát triển từng giai đoạn và lâu dài. Nhà nước và 
ngành Văn hóa - Thể thao và Du lịch cần nghiên 
cứu những yếu tố tích cực trong xã hội hóa Sân 
khấu Dù kê ở Nam Bộ thời gian qua để tiếp tục 
chỉ đạo thực hiện. Để có thể hoàn thành nhiệm 
vụ chiến lược về bảo tồn và phát huy bản sắc văn 
hóa dân tộc nói chung, của nghệ thuật sân khấu 
Dù kê Nam Bộ, dòng nghệ thuật đặc thù của Nam 
Bộ nói riêng, ngoài sự nỗ lực chủ quan của từng 
địa phương với những thế mạnh và điều kiện thực 
tế của mình, cần thiết phải có đề án cụ thể từ phía 
các cấp Trung ương. Bên cạnh việc vận động xã 
hội hóa cần có sự chủ lực tài trợ của nhà nước; tuy 
nhiên đầu tư cho chiến lược này cần tập trung, có 
trọng điểm, tránh dàn trải, chạy theo hình thức.
Bên cạnh đó, cần có chế độ, chính sách thỏa 
đáng đối với nghệ sĩ, vì việc xét tặng danh hiệu 
nghệ sĩ, nghệ nhân dân gian, chế độ ưu đãi cho các 
nghệ nhân vẫn còn nhiều bất cập. Ngay các soạn 
giả cũng đã ít, thể loại nghệ thuật sân khấu lại khó, 
người biết ngôn ngữ cổ để chuyển ngữ kịch bản 
càng hiếm. Nghệ nhân Khmer ngày tuổi càng cao, 
sức yếu; dàn diễn viên của các đoàn nghệ thuật 
trung bình đã ngoài 35 - 40 tuổi, diễn viên không 
có sắc vóc, thanh tốt, da sạm nắng, hằn nếp nhăn...
Trong khi nhu cầu thẩm mỹ về ngoại hình, lời ca, 
điệu múa của các tầng lớp thưởng thức nghệ thuật 
ngày càng cao. Chính vì thế mà chúng ta thấy ngày 
càng ít đi, lớp thanh niên trẻ không mặn mà với 
các loại hình nghệ thuật dân tộc truyền thống, do 
vậy họ không có cơ hội được truyền dạy các thể 
loại ca - nhạc và sân khấu dân gian Khmer dẫn 
đến nhiều thể loại có nguy cơ bị thất truyền, trong 
đó có nghệ thuật sân khấu Dù kê Còn nếu “giải 
nghệ” lứa diễn viên đã hết tuổi nghề nhưng chưa 
đến tuổi hưu; mọi chính sách nên lồng ghép trong 
các chương trình mục tiêu để tạo điều kiện chuyển 
đổi ngành, nghề phù hợp với trình độ, năng lực của 
từng người, tạo công ăn việc làm cho đội ngũ diễn 
viên này. Đồng thời, sắp xếp bố trí cử cán bộ dự 
các lớp chính trị Cao cấp, Trung cấp chính trị theo 
quy hoạch đã được ngành thông qua.
Là dòng nghệ thuật có thể nói là “kén khán 
giả” và nhất là trong giai đoạn hiện nay khi các 
dòng nghệ thuật khác đang chiếm lĩnh thị hiếu của 
đông đảo công chúng, để mọi người hiểu biết thêm 
và trân trọng, say mê loại hình sân khấu Dù kê 
Nam Bộ Nam Bộ, cần phải tổ chức tuyên truyền, 
giới thiệu bằng những hình ảnh, sự kiện cụ thể của 
hoạt động này trên báo chí, truyền hình.
Thiết nghĩ, nếu có những giải pháp đồng bộ từ 
các cấp cùng với sự tâm huyết và quyết tâm của 
những thành viên đam mê nghệ thuật sân khấu Dù 
kê Nam Bộ, hy vọng việc bảo tồn và phát triển nghệ 
thuật truyền thống sẽ có những bước chuyển mới. 
3. Kết luận
Để bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền 
thống của đồng bào dân tộc Khmer nói chung, 
trong đó có nghệ thuật sân khấu Dù kê nói riêng, cơ 
quan hữu quan cần tạo điều kiện để thực hiện việc 
sưu tầm, đào tạo lớp diễn viên trẻ cho những môn 
nghệ thuật đặc sắc này. Ngoài ra cần đẩy mạnh hơn 
nữa công tác xã hội hóa hoạt động văn hóa văn 
nghệ vùng đồng bào dân tộc Khmer. Đầu tư thỏa 
đáng xây dựng thiết chế văn hóa, tăng cường công 
tác sưu tầm phổ biến các thể loại nghệ thuật và sân 
khấu trên các phương tiện thông tin đại chúng. Mặt 
khác tạo điều kiện để văn hóa dân tộc Khmer nói 
chung và sân khấu Dù kê Nam Bộ nói riêng được 
giao lưu, hợp tác và phát triển với các vùng, miền, 
khu vực và quốc tế.
Sự nghiệp bảo tồn và phát huy di sản nghệ 
thuật sân khấu Dù kê ở ĐBSCL có thể được đẩy 
mạnh và đạt hiệu quả khi người dân tự giác tham 
gia. Việc giáo dục để nâng cao ý thức của người 
dân, khơi dậy ở họ lòng tự hào đối với di sản văn 
hóa của cộng đồng mình là công việc có ý nghĩa 
quan trọng để hướng người dân chủ động tìm tòi, 
sưu tầm và bảo tồn loại hình di sản sân khấu phi 
vật thể này, mặt khác, cần có sự phối hợp đồng 
bộ của chính quyền địa phương, các cơ quan, ban, 
ngành, đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa cơ sở để 
việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản sân khấu 
Dù kê ở ĐBSCL một cách hiệu quả và thiết thực 
nhất. Cụ thể là cần đưa Đề án bảo tồn với những 
nội dung về đầu tư xây dựng là công trình văn hóa 
trọng điểm, mang tính hiện đại (sân khấu biểu 
diễn), đạt tầm khu vực và thế giới. Trong đó, đầu 
tư cho việc bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn 
hóa, phát triển bảo tàng cũng là một nhu cầu bức 
xúc, cần có quy hoạch phát triển lâu dài, sự quan 
tâm đầu tư đúng mức và cơ chế đặc thù cho thiết 
chế văn hóa phi vật thể quan trọng này.
Tài liệu tham khảo
Ngô Đức Thịnh. 2004. Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam. Nhà xuất bản Trẻ. Tp. Hồ 
Chí Minh.
Thạch Voi. 1988. Khái quát về người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long. NXB Tổng hợp Hậu Giang.
Tiền Văn Triệu 2011. Hai loại hình sân khấu của người Khmer Sóc Trăng. Tạp chí Văn hóa Nghệ 
thuật. số 330.
Trần Ngọc Thêm. 26/3/2008. Tính cách văn hóa người Việt Nam Bộ như một hệ thống. Xem < http://
www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-nam-bo/408-tran-ngoc-them-tinh-cach-van-
hoa-nguoi-viet-nam-bo.html.>
Trần Ngọc Thêm. 2001. Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. Nxb.Tp.Hồ Chí Minh.
Trần Văn Bính. 2004. Văn hóa dân tộc Tây Nam Bộ - Thực trạng và những vấn đề đặt ra. NXB Chính 
trị Quốc gia.
Trương Công Khả. 2005. Tưng bừng “Ngày hội văn hoá thể thao Khmer Nam Bộ” lần thứ 3. Báo 
Thanh Niên. 
Võ Thành Hùng. 2011. Nghi lễ Vòng đời người Khmer tỉnh Sóc Trăng. NXB Văn hóa Dân tộc. 
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014112 Soá 13, thaùng 3/2014 113
xã hội học về nhu cầu của quần chúng nhân dân 
đối với loại hình nghệ thuật này, hệ thống hóa từng 
cụm chuyên đề, tổ chức các cuộc tọa đàm, hội thảo 
khoa học chuyên đề về Sân khấu Dù kê Nam Bộ 
như Hội thảo khoa học “Nghệ thuật sân khấu Dù kê 
Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc” tổ chức 
tại Trường Đại học Trà Vinh tháng 11/2013. Sau 
khi sưu tầm sẽ phổ biến rộng rãi trong cộng đồng 
dân cư Nam Bộ nói riêng và cả nước nói chung.
Ưu thế của loại hình sân khấu Dù kê Nam Bộ 
từ xưa tới nay là thể hiện tính xã hội hóa rất cao so 
với các loại hình nghệ thuật khác, nhưng điểm yếu 
của nó là chưa có những định hướng chiến lược 
phát triển từng giai đoạn và lâu dài. Nhà nước và 
ngành Văn hóa - Thể thao và Du lịch cần nghiên 
cứu những yếu tố tích cực trong xã hội hóa Sân 
khấu Dù kê ở Nam Bộ thời gian qua để tiếp tục 
chỉ đạo thực hiện. Để có thể hoàn thành nhiệm 
vụ chiến lược về bảo tồn và phát huy bản sắc văn 
hóa dân tộc nói chung, của nghệ thuật sân khấu 
Dù kê Nam Bộ, dòng nghệ thuật đặc thù của Nam 
Bộ nói riêng, ngoài sự nỗ lực chủ quan của từng 
địa phương với những thế mạnh và điều kiện thực 
tế của mình, cần thiết phải có đề án cụ thể từ phía 
các cấp Trung ương. Bên cạnh việc vận động xã 
hội hóa cần có sự chủ lực tài trợ của nhà nước; tuy 
nhiên đầu tư cho chiến lược này cần tập trung, có 
trọng điểm, tránh dàn trải, chạy theo hình thức.
Bên cạnh đó, cần có chế độ, chính sách thỏa 
đáng đối với nghệ sĩ, vì việc xét tặng danh hiệu 
nghệ sĩ, nghệ nhân dân gian, chế độ ưu đãi cho các 
nghệ nhân vẫn còn nhiều bất cập. Ngay các soạn 
giả cũng đã ít, thể loại nghệ thuật sân khấu lại khó, 
người biết ngôn ngữ cổ để chuyển ngữ kịch bản 
càng hiếm. Nghệ nhân Khmer ngày tuổi càng cao, 
sức yếu; dàn diễn viên của các đoàn nghệ thuật 
trung bình đã ngoài 35 - 40 tuổi, diễn viên không 
có sắc vóc, thanh tốt, da sạm nắng, hằn nếp nhăn...
Trong khi nhu cầu thẩm mỹ về ngoại hình, lời ca, 
điệu múa của các tầng lớp thưởng thức nghệ thuật 
ngày càng cao. Chính vì thế mà chúng ta thấy ngày 
càng ít đi, lớp thanh niên trẻ không mặn mà với 
các loại hình nghệ thuật dân tộc truyền thống, do 
vậy họ không có cơ hội được truyền dạy các thể 
loại ca - nhạc và sân khấu dân gian Khmer dẫn 
đến nhiều thể loại có nguy cơ bị thất truyền, trong 
đó có nghệ thuật sân khấu Dù kê Còn nếu “giải 
nghệ” lứa diễn viên đã hết tuổi nghề nhưng chưa 
đến tuổi hưu; mọi chính sách nên lồng ghép trong 
các chương trình mục tiêu để tạo điều kiện chuyển 
đổi ngành, nghề phù hợp với trình độ, năng lực của 
từng người, tạo công ăn việc làm cho đội ngũ diễn 
viên này. Đồng thời, sắp xếp bố trí cử cán bộ dự 
các lớp chính trị Cao cấp, Trung cấp chính trị theo 
quy hoạch đã được ngành thông qua.
Là dòng nghệ thuật có thể nói là “kén khán 
giả” và nhất là trong giai đoạn hiện nay khi các 
dòng nghệ thuật khác đang chiếm lĩnh thị hiếu của 
đông đảo công chúng, để mọi người hiểu biết thêm 
và trân trọng, say mê loại hình sân khấu Dù kê 
Nam Bộ Nam Bộ, cần phải tổ chức tuyên truyền, 
giới thiệu bằng những hình ảnh, sự kiện cụ thể của 
hoạt động này trên báo chí, truyền hình.
Thiết nghĩ, nếu có những giải pháp đồng bộ từ 
các cấp cùng với sự tâm huyết và quyết tâm của 
những thành viên đam mê nghệ thuật sân khấu Dù 
kê Nam Bộ, hy vọng việc bảo tồn và phát triển nghệ 
thuật truyền thống sẽ có những bước chuyển mới. 
3. Kết luận
Để bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền 
thống của đồng bào dân tộc Khmer nói chung, 
trong đó có nghệ thuật sân khấu Dù kê nói riêng, cơ 
quan hữu quan cần tạo điều kiện để thực hiện việc 
sưu tầm, đào tạo lớp diễn viên trẻ cho những môn 
nghệ thuật đặc sắc này. Ngoài ra cần đẩy mạnh hơn 
nữa công tác xã hội hóa hoạt động văn hóa văn 
nghệ vùng đồng bào dân tộc Khmer. Đầu tư thỏa 
đáng xây dựng thiết chế văn hóa, tăng cường công 
tác sưu tầm phổ biến các thể loại nghệ thuật và sân 
khấu trên các phương tiện thông tin đại chúng. Mặt 
khác tạo điều kiện để văn hóa dân tộc Khmer nói 
chung và sân khấu Dù kê Nam Bộ nói riêng được 
giao lưu, hợp tác và phát triển với các vùng, miền, 
khu vực và quốc tế.
Sự nghiệp bảo tồn và phát huy di sản nghệ 
thuật sân khấu Dù kê ở ĐBSCL có thể được đẩy 
mạnh và đạt hiệu quả khi người dân tự giác tham 
gia. Việc giáo dục để nâng cao ý thức của người 
dân, khơi dậy ở họ lòng tự hào đối với di sản văn 
hóa của cộng đồng mình là công việc có ý nghĩa 
quan trọng để hướng người dân chủ động tìm tòi, 
sưu tầm và bảo tồn loại hình di sản sân khấu phi 
vật thể này, mặt khác, cần có sự phối hợp đồng 
bộ của chính quyền địa phương, các cơ quan, ban, 
ngành, đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa cơ sở để 
việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản sân khấu 
Dù kê ở ĐBSCL một cách hiệu quả và thiết thực 
nhất. Cụ thể là cần đưa Đề án bảo tồn với những 
nội dung về đầu tư xây dựng là công trình văn hóa 
trọng điểm, mang tính hiện đại (sân khấu biểu 
diễn), đạt tầm khu vực và thế giới. Trong đó, đầu 
tư cho việc bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn 
hóa, phát triển bảo tàng cũng là một nhu cầu bức 
xúc, cần có quy hoạch phát triển lâu dài, sự quan 
tâm đầu tư đúng mức và cơ chế đặc thù cho thiết 
chế văn hóa phi vật thể quan trọng này.
Tài liệu tham khảo
Ngô Đức Thịnh. 2004. Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam. Nhà xuất bản Trẻ. Tp. Hồ 
Chí Minh.
Thạch Voi. 1988. Khái quát về người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long. NXB Tổng hợp Hậu Giang.
Tiền Văn Triệu 2011. Hai loại hình sân khấu của người Khmer Sóc Trăng. Tạp chí Văn hóa Nghệ 
thuật. số 330.
Trần Ngọc Thêm. 26/3/2008. Tính cách văn hóa người Việt Nam Bộ như một hệ thống. Xem < http://
www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-nam-bo/408-tran-ngoc-them-tinh-cach-van-
hoa-nguoi-viet-nam-bo.html.>
Trần Ngọc Thêm. 2001. Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. Nxb.Tp.Hồ Chí Minh.
Trần Văn Bính. 2004. Văn hóa dân tộc Tây Nam Bộ - Thực trạng và những vấn đề đặt ra. NXB Chính 
trị Quốc gia.
Trương Công Khả. 2005. Tưng bừng “Ngày hội văn hoá thể thao Khmer Nam Bộ” lần thứ 3. Báo 
Thanh Niên. 
Võ Thành Hùng. 2011. Nghi lễ Vòng đời người Khmer tỉnh Sóc Trăng. NXB Văn hóa Dân tộc. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
thuc_trang_va_giai_phap_bao_ton_phat_trien_nghe_thuat_san_kh.pdf