Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng về pháp
luật, xử lý vi phạm pháp luật trong cơ chế pháp
lý xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát
triển rừng chúng ta có thể nhận thấy tình hình
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này diễn ra
ngày càng nghiêm trọng với quy mô ngày càng
lớn, công cụ phương tiện vi phạm ngày càng
tình vi hơn. Vì vậy để cơ chế pháp lý về xử lý
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và
phát triển rừng thực sự đạt hiệu quả thì một
mặt cần phải có các quy phạm pháp luật chặt
chẽ, đồng bộ, bên cạnh đó cần phải đổi mới
hơn nữa các cơ quan có thẩm quyền chuyên
môn trong lĩnh vực này, đặc biệt là cơ quan
Kiểm lâm và Ủy ban nhân dân cấp xã. Bởi vì
đây sẽ là hai cơ quan có chức năng, có nhiệm
vụ chuyên trách trong công tác xử lý vi phạm
pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng. Ngoài
ra việc thực hiện tốt cơ chế phối hợp để xử lý
vi phạm, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng
dân cư, của các tổ chức xã hội đóng trên địa
bàn cũng là một trong những hoạt động hết sức
có ý nghĩa để thực hiện có hiệu quả cơ chế
pháp lý về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực bảo vệ và phát triển rừng
7 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 722 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng và giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kinh tế & Chính sách
184 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4 - 2018
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ
XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ
VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Nguyễn Thị Tiến
Trường Đại học Lâm nghiệp
TÓM TẮT
Nghiên cứu thực trạng và giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ
và phát triển rừng là hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Vì trong giai
đoạn hiện nay tình trạng mất rừng diễn ra ở hầu khắp các tỉnh thành trên phạm vi cả nước. Nguyên nhân mất
rừng có cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Các nguyên nhân chủ quan bao gồm: cơ chế,
chính sách, thực trạng đội ngũ cán bộ làm công tác xử lý vi phạm Trong đó, cơ chế pháp lý bao gồm từ bộ
máy, quy định của pháp luật, thực trạng về sự phối hợp trong xử lý có ý nghĩa hết sức quan trọng. Vì vậy, việc
đánh giá thực trạng để đề xuất các giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực bảo vệ và phát triển rừng ở nước ta hiện nay là hết sức cần thiết.
Từ khóa: Bảo vệ và phát triển rừng, cơ chế pháp lý, xử lý vi phạm pháp luật.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thực tế cho thấy, vấn đề xử lí vi phạm pháp
luật về bảo vệ và phát triển rừng ở nước ta hiện
nay không hiệu quả, không đảm bảo được tính
nghiêm minh của pháp luật. Nhiều hành vi vi
phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng
không được xử lí trên thực tế, bị “bỏ lọt”.
Cùng với đó, mục đích phòng ngừa và đấu
tranh nhằm hạn chế vi phạm pháp luật về bảo
vệ và phát triển rừng không đạt được như
mong muốn. Thực tế đó đã và đang ảnh hưởng
tiêu cực đối với hiệu quả và chất lượng của
pháp luật cũng như ngành lâm nghiệp trong đời
sống xã hội hiện nay. Trong đó, tổng số vụ vi
phạm pháp luật giai đoạn 2011 - 2015 là
136,325 vụ, bình quân 27,265 vụ/năm; giai
đoạn 2016 - 2018 là 37,995 vụ với bình quân là
18,998 vụ/năm.1
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng
nêu trên như: Pháp luật về xử lí vi phạm pháp
luật về bảo vệ và phát triển rừng còn thiếu chế
tài hoặc chế tài chưa đủ mạnh; Cơ chế xử lí vi
phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng
chưa chặt chẽ và chưa đáp ứng được yêu cầu
trong thực tiễn; Hệ thống văn bản qui phạm
pháp luật về xử lí vi phạm pháp luật về bảo vệ
và phát triển rừng chưa hoàn thiện, đồng bộ. Vì
vậy việc đánh giá thực trạng và đề xuất
phương hướng giải pháp nhằm hoàn thiện cơ
1 Số liệu thống kê, Tổng cục Lâm nghiệp 2018.
chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp luật ở nước
ta hiện nay là vấn đề cần nghiên cứu.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng cơ chế pháp lý về xử lý
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát
triển rừng; những hạn chế, khó khăn trong việc
áp dụng cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng.
- Đề xuất được một số phương hướng và
giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn thiện và áp
dụng pháp luật trong cơ chế pháp lý về xử lý vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát
triển rừng.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp thống kê, phương
pháp phân tích và tổng hợp để đưa ra đánh giá
về thực trạng cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm
pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp luật học so sánh, phương pháp
hệ thống để phân tích kinh nghiệm của các
nước và gợi mở cho Việt Nam trong việc hoàn
thiện cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng ở
Việt Nam.
- Phương pháp phân tích luật học, phương
pháp thống kê trên cơ sở khảo sát thực tiễn để
phân tích và đánh giá những thực trạng cơ chế
pháp lý về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh
Kinh tế & Chính sách
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4 - 2018 185
vực bảo vệ và phát triển rừng ở Việt Nam.
Đồng thời, sử dụng phương pháp hệ thống để
chỉ ra những mặt hạn chế, bất cập của cơ chế
pháp lý này.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng là sự
ràng buộc có tính hệ thống được tổ chức thực
hiện trên cơ sở các nguyên tắc, các quy định
của pháp luật và được tổ chức, đảm bảo cũng
như thực hiện bởi các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền trong quá trình truy cứu trách
nhiệm pháp lý đối với các vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng.
Cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng có đối
tượng tác động là các quan hệ xã hội phát sinh
khi các cá nhân tổ chức có hành vi vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển
rừng. Cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng có
sự tham gia, phối hợp của nhiều loại chủ thể
với vai trò khác nhau. Cơ chế pháp lý về xử lý
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và
phát triển rừng có nội dung là đảm bảo tính
hiện thực, hữu hiệu của chế độ trách nhiệm
pháp lý.
3.1. Thực trạng cơ chế pháp lý về xử lý vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và
phát triển rừng
3.1.1. Thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm
pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng
Thực trạng pháp luật trong công tác xử lý vi
phạm pháp luật bảo vệ rừng là cơ sở pháp lý
cho công tác xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực bảo vệ rừng thì tuỳ theo hành vi vi phạm,
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội quy
định trong pháp luật bảo vệ rừng, chúng ta có
thể phân thành 2 loại chủ yếu là: vi phạm pháp
luật hình sự (tội phạm) và vi phạm pháp luật
hành chính, dẫn tới hai loại trách nhiệm pháp
lý cơ bản là trách nhiệm hành chính và trách
nhiệm hình sự. Việc xử lý vi phạm hành chính
chủ yếu là cơ quan kiểm lâm và UBND các cấp,
cùng các cơ quan có thẩm quyền liên ngành.
Theo quy định tại Bộ luật hình sự 2015,
Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 và Nghị
định của Chính phủ về xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng, bảo
vệ rừng và quản lý lâm sản khi tổ chức cá nhân
phát hiện hành vi vi phạm hành chính phải
chuyển giao cho cơ quan cấp có thẩm quyền
quyết định xử lý. Việc áp dụng pháp luật xử lý
vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý bảo
vệ rừng và quản lý lâm sản cơ bản do kiểm lâm
các cấp thực hiện, còn Uỷ ban nhân dân các
cấp chỉ giải quyết chủ yếu ở giai đoạn cuối
cùng của quá trình áp dụng luật, ký quyết định
xử phạt trên cơ sở tham mưu đề nghị của cơ
quan kiểm lâm.
Thẩm quyền xử lý hình sự là quyền hạn và
nhiệm vụ của kiểm lâm và cơ quan điều tra
theo quy định của pháp luật hiện hành. Theo
quy định của pháp luật tố tụng hình sự trong
giai đoạn điều tra của quá trình tố tụng hình sự
đối với các tội xâm phạm trật tự bảo vệ rừng,
có hai hệ thống cơ quan thực hiện là kiểm lâm
và cơ quan điều tra. Tuy nhiên kiểm lâm chỉ có
thẩm quyền thực hiện một số hoạt động điều
tra hình sự đối với các tội nghiêm trọng, đặc
biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm
trọng nhưng có tình tiết phức tạp cơ quan kiểm
lâm quyết định khởi tố vụ án, điều tra ban đầu
và chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra có thẩm
quyền. Pháp luật trong cơ chế pháp lý về xử lý
vi phạm pháp luật đối với lĩnh vực bảo vệ rừng
hiện hành đã quy định tương đối cụ thể để xử
lý vi phạm hành chính và vi phạm hình sự.
Pháp luật trong cơ chế pháp lý về xử lý vi
phạm pháp luật có vai trò quan trọng trong
việc quy định thẩm quyền của các cơ quan nhà
nước trong việc xử lý vi phạm pháp luật, trong
đó thẩm quyền chủ yếu thuộc về hệ thống cơ
quan Kiểm lâm. Trong nhiều năm qua, quá
trình thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ của các
cơ quan nhà nước đã góp phần kìm chế và
ngăn chặn sự gia tăng các hành vi vi phạm,
việc áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà
nước ngày càng nghiêm minh, đúng pháp luật
và khách quan hơn.
3.1.2. Thực trạng vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng
Kinh tế & Chính sách
186 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4 - 2018
Theo báo cáo của Cục Kiểm lâm, từ đầu
năm đến nay trong cả nước đã xảy ra hơn
26.000 vụ vi phạm lâm luật, giảm 5.300 vụ so
với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, tại một số
tỉnh có số vụ vi phạm tăng, như tỉnh Thái
Nguyên (1.296 vụ), Tuyên Quang (1.200 vụ),
Thanh Hoá (1.070 vụ), Quảng Nam (1.223
vụ)... Các hành vi vi phạm chủ yếu là: Phá
rừng trái phép; khai thác, mua bán và vận
chuyển lâm sản trái pháp luật; vi phạm các quy
định về phòng cháy, chữa cháy rừng; vi phạm
quy định về quản lý động vật hoang dã... Đặc
biệt là có gần 3.000 vụ phá rừng gây thiệt hại
hơn 1.500 ha rừng, bao gồm có 60 ha rừng đặc
dụng, 380 ha rừng phòng hộ và hơn 1.000 ha
rừng sản xuất. Đã có 21.500 vụ vi phạm về
quản lý bảo vệ rừng (QLBVR) trong 9 tháng
đầu năm 2010 bị xử phạt vi phạm hành chính,
trong đó khởi tố hình sự có 300 vụ với 117 bị
can; Tuy nhiên số vụ án đưa ra xét xử vẫn còn ở
mức thấp, chiếm khoảng 10%.
3.1.3. Thực trạng tổ chức bộ máy
Các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền chung: Hệ thống này có trách nhiệm liên
quan trong xử phạt vi phạm hành chính về bảo
vệ và phát triển rừng (BV&PTR). Tuy nhiên
chính quyền một số địa phương chưa chỉ đạo
thực hiện đầy đủ trách nhiệm quản lý Nhà
nước về rừng và đất lâm nghiệp theo quy định
của pháp luật; ban hành nhiều văn bản, nhưng
chưa kiên quyết chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc
thực hiện, thiếu quyết liệt trong tổ chức thực
hiện các biện pháp bảo vệ rừng theo quy định
của pháp luật (chủ yếu các địa phương giao
cho kiểm lâm và chủ rừng). Một số địa phương
do lợi ích cục bộ, chính quyền cơ sở đã làm
ngơ, thậm chí có biểu hiện tiếp tay cho các
hành vi phá rừng, khai thác, tiêu thụ lâm sản,
sang nhượng đất lâm nghiệp trái pháp luật.
Việc xử lý vi phạm chưa nghiêm minh, đặc
biệt là đối với những cán bộ thiếu trách nhiệm,
tiếp tay cho lâm tặc. Cơ quan quản lý đất đai
chưa thực sự "vào cuộc" để ngăn chặn, xử lý vi
phạm pháp luật về đất lâm nghiệp. Xử lý đối
với người có hành vi vi phạm pháp luật, chủ
rừng, người có trách nhiệm quản lý không kịp
thời, thiếu nghiêm túc.
Bên cạnh đó, tại các xã có rừng đều có bố
trí một cán bộ lâm nghiệp xã. Vị trí, vai trò và
nhiệm vụ của cán bộ lâm nghiệp xã đã được
xác định một cách cụ thể, nhưng trên thực tế, ở
một số địa phương, hiệu quả công việc của cán
bộ lâm nghiệp xã chưa được phát huy, thậm
chí trong bộ máy chính quyền có người không
biết cán bộ lâm nghiệp xã là ai? Nhiệm vụ của
họ là gì? Thực tế hiện nay cán bộ lâm nghiệp
xã còn bất cập thể hiện ở một số điểm sau: Hầu
hết cán bộ lâm nghiệp xã chưa được trang bị
kiến thức về lĩnh vực luật và hành chính lâm
nghiệp, kỹ năng tuyên truyền vận động quần
chúng nhân dân thực hiện Luật Bảo vệ và Phát
triển rừng. Hoạt động lâm nghiệp ở địa phương
hầu như trông chờ vào kế hoạch do kiểm lâm
địa bàn đề ra, cán bộ lâm nghiệp xã ít khi chủ
động xây dựng kế hoạch hoặc tham mưu cho
lãnh đạo địa phương điều hành công tác bảo vệ
rừng. Tất cả các vụ việc như đi tuần tra, kiểm
tra lập biên bản các vụ vi phạm, tổ chức các
buổi tuyên truyền... thì sự có mặt của cán bộ
lâm nghiệp xã được xem như là sự có mặt và
đại diện chính quyền địa phương chứ ít người
suy nghĩ sự có mặt của cán bộ lâm nghiệp xã
sẽ đóng vai trò gì, tham mưu như thế nào cho
lãnh đạo địa phương để có kế hoạch hạn chế
các vụ vi phạm hoặc định hướng phát triển lâm
nghiệp trên địa bàn một cách ổn định, lâu dài.
Hiện nay, ở cấp xã, chức danh lâm nghiệp
được cơ cấu trong hệ thống các ban, ngành ở
chính quyền địa phương thông qua Ban Lâm
nghiệp (ban này thường do chủ tịch hoặc phó
chủ tịch xã làm trưởng ban, cán bộ lâm nghiệp
xã làm phó ban trực). Tuy nhiên, do điều kiện
ở một số địa phương, định suất chi trả cho hoạt
động cán bộ lâm nghiệp xã chưa được quan
tâm đúng mức (chưa bằng lương tối thiểu) nên
thường bố trí cho cán bộ lâm nghiệp xã kiêm
nhiệm nhiều việc để tăng thu nhập, với tính
chất công việc như vậy chất lượng hoạt động
của cán bộ lâm nghiệp thường không đảm bảo.
Việc chọn, bố trí cán bộ lâm nghiệp xã ở các
địa phương cũng gặp nhiều bất cập. Thường
gặp nhất đó là chọn, bố trí cán bộ lâm nghiệp
Kinh tế & Chính sách
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4 - 2018 187
xã theo cảm tính, người quen trong gia đình.
Đây là khó khăn, làm giảm hiệu quả hoạt động
của cán bộ lâm nghiệp xã; bởi một cán bộ lâm
nghiệp xã khi được tuyển chọn hầu như không
am hiểu về luật và hành chính lâm nghiệp, kỹ
năng tuyên truyền vận động quần chúng nhân
dân thực hiện Luật bảo vệ và phát triển rừng...
nhưng qua làm việc và sự hướng dẫn nghiệp vụ
của kiểm lâm địa bàn, thì kiến thức về lâm
nghiệp của cán bộ lâm nghiệp xã được nâng
lên, thời gian cùng công tác chưa lâu thì được
chuyển sang làm công tác khác. Ở một số địa
phương chưa có sự quan tâm đến cơ sở vật
chất và các dụng cụ khác để cán bộ lâm nghiệp
xã thực hiện nhiệm vụ.
Như vậy việc xác định rõ trách nhiệm của
các cấp chính quyền trong lĩnh vực lâm nghiệp
đặc biệt là trong hoạt động xử lý vi phạm pháp
luật về BVR là một việc làm hết sức quan trọng.
Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền chuyên môn trong lĩnh vực bảo vệ
và phát triển rừng là Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn (NN&PTNT). Bộ NN&PTNT
là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về nông nghiệp, lâm nghiệp,
diêm nghiệp, thủy lợi và phát triển nông thôn
trong phạm vi cả nước; Trong công tác quản lý
về rừng, Bộ NN&PTNT tổ chức và phân công
trách nhiệm cho Tổng cục Lâm nghiệp và Cục
Kiểm lâm, trong đó Cục Kiểm lâm là cơ quan
chuyên ngành trực thuộc Bộ NN&PTNT thực
hiện chức năng quản lý nhà nước chuyên
ngành về bảo vệ tài nguyên rừng, thừa hành
pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng và quản lý
lâm sản trên phạm vi toàn quốc. Do đó, hệ
thống các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền chuyên môn về xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng bao gồm:
Ủy ban nhân dân các cấp, Kiểm lâm các cấp.
3.1.4. Thực trạng về sự phân công phối hợp để
thực hiện cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng
Để thực hiện cơ chế pháp lý về xử lý vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát
triển rừng thì việc phân công, phối hợp trong
thực hiện các nhiệm vụ có liên quan là hết sức
cần thiết. Hiện nay, việc phân công, phối hợp
để thực hiện công tác xử lý vi phạm pháp luật
về bảo vệ và phát triển rừng còn một số bất
cập sau:
Sự phân công về các hoạt động giữa các cơ
quan thanh tra với cơ quan công an thiếu đồng
bộ, chặt chẽ, nhiều trường hợp chuyển giao hồ
sơ các vụ vi phạm có dấu hiệu phạm tội giữa
các cơ quan thanh tra và cơ quan điều tra thiếu
thống nhất, thường quá chậm so với thời hạn
so pháp luật quy định, việc xử lý tiếp theo không
có sự trao đổi thông tin để quản lý đối tượng.
Pháp luật chưa quy định rõ ràng về thẩm
quyền kiểm tra lâm sản trong khâu lưu thông
và cất giữ gây khó khăn trong việc kiểm tra
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Pháp luật chưa phân biệt rõ ràng giữa các hệ
thống thanh tra, kiểm tra; giữa thanh tra nhà
nước và thanh tra chuyên ngành nên dẫn tới
việc thanh tra, kiểm tra chồng chéo, trùng lặp
gây tâm lý không tốt và ảnh hưởng tới hoạt
động của các đối tượng bị kiểm tra.
Việc quy định về phạm vi, quyền hạn và
trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước
về lâm nghiệp chưa rõ ràng, cơ chế phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước có liên quan thiếu
chặt chẽ. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất lâm nghiệp còn chậm trễ tạo nên tâm
lý chưa yên tâm sản xuất của chủ rừng.
Phối hợp giữa các lực lượng Công an, Quân
đội, Kiểm lâm ở nhiều địa phương chưa thật sự
có hiệu quả, còn mang tính hình thức, nhiều tụ
điểm phá rừng trái phép chưa có phương án
giải quyết của liên ngành.
3.2. Nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả của
cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng
Có rất nhiều nguyên nhân làm hạn chế hiệu
quả của cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng.
Trong đó phải kể đến những nguyên nhân
mang tính khách quan và chủ quan, đặc biệt là
những nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách
và ý thức.
Bảo vệ rừng không phải là vấn đề hoàn toàn
mới, nhưng chúng ta chưa có nhiều kinh
Kinh tế & Chính sách
188 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4 - 2018
nghiệm, tổ chức bộ máy chưa hoàn thiện mà
lĩnh vực này mang tính đặc thù riêng. Đa số
các địa phương nơi mà đời sống của đồng bào
dân tộc ít người gắn liền với rừng lại là những
nơi khó khăn về cơ sở vật chất, kỹ thuật, thiếu
cán bộ trong quản lý nhà nước, nhất là các địa
phương miền núi, vùng sâu, vùng xa Hệ
thống pháp luật của nước ta đang trong quá
trình hoàn thiện có nhiều sửa đổi, bổ sung, số
lượng văn bản rất nhỏ, điều chỉnh ở nhiều lĩnh
vực khác nhau; một số quy định không phù
hợp vói thực tiễn; việc tổng kết rút kinh
nghiệm chưa được quan tâm đúng mức, ý thức
tôn trọng pháp luật và phối hợp giữa các cơ
quan và nhân dân chưa cao trong lĩnh vực bảo
vệ rừng.
Áp lực về dân số ở các vùng có rừng tăng
nhanh do tăng cơ học, di cư tự do từ nơi khác,
đòi hỏi cao về đất ở và đất canh tác, những đối
tượng này chủ yếu là những hộ nghèo, đời
sống gặp nhiều khó khăn, sinh kế chủ yếu dựa
vào khai thác tài nguyên rừng. Nhận thức về
bảo vệ rừng còn hạn chế, do đó vẫn tiếp tục
phá rừng kiếm kế sinh nhai, lấy đất canh tác
hoặc làm thuê cho bọn đầu nậu, kẻ có tiền để
phá rừng hoặc khai thác gỗ, lâm sản trái phép.
Do cơ chế thị trường, giá cả một số mặt
hàng nông, lâm sản tăng cao, nhu cầu về đất
canh tác các mặt hàng này cũng tăng theo, nên
đã kích thích người dân phá rừng để lấy đất
trồng các loại cây có giá trị cao hoặc buôn bán
đất, sang nhượng trái phép.
Việc tiếp nhận các vườn quốc gia, khu bảo
tồn thiên nhiên từ các cơ quan khác nhau về
lực lượng kiểm lâm thống nhất quản lý đã tăng
thêm một khối lượng công việc làm cho việc
bảo vệ càng khó khăn hơn. Giá trị lâm sản các
loại, nhất là các loại quý hiếm tăng cao. Đây là
nguyên nhân làm cho tình hình phá rừng ở một
số địa phương, nhất là các khu rừng giáp ranh
các tỉnh vẫn còn xảy ra, có lúc, có nơi khá
nghiêm trọng. Tình hình chống người thi hành
công vụ vẫn tiếp diễn, gây thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe cho công chức kiểm lâm trong
khi thi hành công vụ. Các văn bản liên quan
đến chế độ thâm niên, chế độ thương binh, liệt
sỹ... chậm được ban hành nên ảnh hưởng đến đời
sống, tinh thần của cán bộ công chức kiểm lâm...
Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội
trong tình hình mới, nhiều công trình xây
dựng, đường xá và cơ sở hạ tầng khác được
xây dựng gây áp lực lớn đối với rừng và đất
lâm nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho các
hoạt động phá rừng, khai thác và vận chuyển
lâm sản trái phép.
Nguyên nhân của việc phá rừng giảm chưa
đáng kể là do một số địa phương chưa tích cực
thực hiện các chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ
nên một số vùng trọng điểm phá rừng, buôn
bán, vận chuyển lâm sản trái phép có chiều
hướng gia tăng.
Các ngành, các cấp chính quyền, đặc biệt là
cấp xã nhận thức chưa đầy đủ, tổ chức thực
hiện thiếu nghiêm túc trách nhiệm quản lý nhà
nước về rừng và đất lâm nghiệp. Ở những điểm
nóng phá rừng, do lợi ích cục bộ, đã làm ngơ,
thậm chí có biểu hiện tiếp tay cho các hành vi
phá rừng, khai thác, tiêu thụ lâm sản, sang
nhượng đất đai trái phép, nhưng không bị xử lý
nghiêm túc. Sau một thời gian thực hiện các
biện pháp kiên quyết ngăn chặn tình trạng phá
rừng theo chỉ đạo của Thủ tướng, một số nơi
có biểu hiện thỏa mãn với thành tích, không
duy trì hoạt động thường xuyên, do vậy tình
trạng phá rừng và các hành vi vi phạm pháp
luật tiếp tục tái xuất hiện.
Chủ rừng là các lâm trường quốc doanh,
Ban quản lý rừng phòng hộ và rừng đặc dụng
không đủ năng lực để quản lý, bảo vệ diện tích
rừng được giao. Công tác tuyên truyền, phổ
biến pháp luật nói chung, pháp luật trong
quản lý bảo vệ rừng nói riêng chưa được chú
trọng đúng mức và chưa được thực hiện tốt
trong cả nước.
Cán bộ, công chức ngành kiểm lâm vẫn
chưa đủ số lượng, một số bộ phận còn bất cập,
không đồng đều về trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, trong khi đó công tác đào tạo, bồi
dưỡng, tập huấn nghiệp vụ mặc dù đã được
quan tâm, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu. Quy định của pháp luật về xử lý vi phạm
pháp luật ranh giới giữa hành chính và hình sự
Kinh tế & Chính sách
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4 - 2018 189
chưa rõ ràng cho nên nhiều hành vi nguy hiểm
cho xã hội đáng lẽ xử lí hình sự nhưng vẫn
được vận dụng “lách luật” để xử lý hành chính
dẫn đến các chế tài được áp dụng không đủ sức
trừng trị, răn đe, giáo dục và phòng ngừa
chung. Ngược lại có rất nhiều vụ việc lại bị hình
sự hoá các vi phạm hành chính làm mất thời
gian trong việc xem xét và xử lý vi phạm.
Việc tổ chức điều tra, truy tố, xét xử các
loại tội phạm trong lĩnh vực bảo vệ rừng
thường chậm, áp dụng các chế tài xử phạt chưa
nghiêm minh, có dấu hiệu thiếu minh bạch.
Pháp luật chưa quy định cơ chế giám sát
việc xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
bảo vệ rừng một cách rõ ràng, cụ thể.
Chưa huy động được các lực lượng của xã
hội cho bảo vệ rừng. Phối hợp giữa các lực
lượng Công an, Quân đội, Kiểm lâm ở nhiều
địa phương chưa thật sự có hiệu quả, còn mang
tính hình thức, nhiều tụ điểm phá rừng trái
phép chưa có phương án giải quyết của liên
ngành. Việc xử lý các vi phạm chưa kịp thời,
thiếu kiên quyết, còn có những quan điểm
khác nhau của các cơ quan chức năng ở một
số địa phương.
3.3. Giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý xử
lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ
và phát triển rừng
Giải pháp đối với việc hoàn thiện quy định
của pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng: Tiếp tục
hoàn thiện về hình thức và tính hệ thống của
văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ rừng. Tiếp tục
sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nội dung pháp luật
về cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực bảo vệ rừng; Đặc biệt là có quy
định rõ ràng hơn về chế độ trách nhiệm pháp lý
về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này
vì trên thực tế quy định về chế độ trách nhiệm
pháp lý là cơ sở cho hoạt động xử lý vi phạm
pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Phải rà soát, bổ sung sửa đổi các quy
định trong luật BV&PTR và các văn bản
hướng dẫn thi hành cụ thể hoá luật cho đầy đủ,
cụ thể, trong đó chú trọng tới công tác tổ chức
và hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước
các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp; công
tác kiểm lâm; quyền và nghĩa vụ của các tổ
chức cá nhân được nhà nước giao đất để trồng
rừng và bảo vệ rừng; kinh doanh lâm nghiệp,
vấn đề cho thuê rừng, đất lâm nghiệp. Mặt
khác cần phải tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ
sung một số quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật hiện hành của các ngành luật
có liên quan đến pháp luật bảo vệ rừng như:
Pháp luật đất đai, Pháp luật về môi trường, Tài
nguyên nước, Pháp luật hình sự, các quy định
về xử phạt vi phạm hành chính Loại bỏ
những quy định không còn phù hợp để đảm
bảo sự thống nhất, đồng bộ giữa các văn bản
này với Luật BV&PTR.
Hoàn thiện các quy định về tổ chức của các
cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo
vệ rừng. Các văn bản quy phạm pháp luật ban
hành kèm theo hướng xây dựng và hoàn thiện
bộ máy quản lý nhà nước hiện nay, trước hết
và chủ yếu là cải cách hành chính nhà nước,
xây dựng một hệ thống cơ quan quản lý thống
nhất, thông suốt có hiệu lực và hiệu quả, đủ
năng lực thực thi nhiệm vụ. Cần phân định rõ
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ
quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực lâm
nghiệp. Trên thực tế hiện nay đặc biệt trong
lĩnh vực lâm nghiệp còn có rất nhiều điểm
chồng chéo về mặt chức năng nhiệm vụ.
Về sự phối hợp thực hiện xử lý vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển
rừng: Lực lượng công an cần hỗ trợ và phối
hợp thường xuyên với lực lượng kiểm lâm
trong công tác phòng cháy, chữa cháy rừng
theo một cơ chế thống nhất; tổ chức điều tra
nắm chắc các đối tượng phá rừng, kinh doanh
buôn bán lâm sản trái phép, đặc biệt phải triển
khai các biện pháp kiên quyết trừng trị thích
đáng; ngăn chặn triệt để tình trạng chống người
thi hành công vụ; phối hợp với các lực lượng
có liên quan truy quét bọn phá rừng và kiểm
tra, kiểm soát lưu thông lâm sản. Rà soát và xử
lý dứt điểm các vụ án hình sự tồn đọng trong
lĩnh vực bảo vệ rừng.
Kinh tế & Chính sách
190 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4 - 2018
IV. KẾT LUẬN
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng về pháp
luật, xử lý vi phạm pháp luật trong cơ chế pháp
lý xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát
triển rừng chúng ta có thể nhận thấy tình hình
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này diễn ra
ngày càng nghiêm trọng với quy mô ngày càng
lớn, công cụ phương tiện vi phạm ngày càng
tình vi hơn. Vì vậy để cơ chế pháp lý về xử lý
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và
phát triển rừng thực sự đạt hiệu quả thì một
mặt cần phải có các quy phạm pháp luật chặt
chẽ, đồng bộ, bên cạnh đó cần phải đổi mới
hơn nữa các cơ quan có thẩm quyền chuyên
môn trong lĩnh vực này, đặc biệt là cơ quan
Kiểm lâm và Ủy ban nhân dân cấp xã. Bởi vì
đây sẽ là hai cơ quan có chức năng, có nhiệm
vụ chuyên trách trong công tác xử lý vi phạm
pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng. Ngoài
ra việc thực hiện tốt cơ chế phối hợp để xử lý
vi phạm, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng
dân cư, của các tổ chức xã hội đóng trên địa
bàn cũng là một trong những hoạt động hết sức
có ý nghĩa để thực hiện có hiệu quả cơ chế
pháp lý về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực bảo vệ và phát triển rừng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Luật hình sự (2017). Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ NN&PTNT (2017). Quyết định số 1819 về
công bố hiện trạng rừng toàn quốc.
3. Bạch Xuân Hòa (2014). Bảo vệ tài nguyên rừng
bằng pháp luật hình sự ở Việt Nam. Luận văn thạc sỹ
Luật học.
4. Một số quy định pháp luật về xử phạt hành chính
và hình sự trong quản lý và bảo vệ rừng, quản lý lâm sản
(2017). Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
5. Tổng cục Lâm nghiệp (2017). Báo cáo tổng kết
năm 2017 và phương hướng nhiệm vụ năm 2018.
SITUATION AND SOLUTIONS FOR THE SURVEY
OF THE LEGAL MECHANISM OF HANDLING VIOLATIONS
IN THE FIELD OF FOREST PROTECTION AND DEVELOPMENT
IN THE LAST YEAR
Nguyen Thi Tien
Vietnam National University of Forestry
SUMMARY
The research on the current status and solutions to improve the legal mechanism for dealing with violations of
the law in the field of forest protection and development is very necessary and extremely important both in
theory and practice. As in the current period, forest degradation occurs in most provinces and cities nationwide.
The causes of deforestation and forest loss are many, including both subjective and objective causes. The
subjective causes include: mechanisms, policies and current status of staff involved in the handling of
violations... Accordingly, the legal mechanism including from the mechanism, the law, the reality of the
coordination in the treatment is very important. Therefore, the assessment of the current situation to propose
solutions to perfect the legal mechanism on the handling of violations in the field of forest protection and
development in our country today is very necessary.
Keywords: Forest protection and development, handling of violations of law, legal mechanism.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_va_giai_phap_hoan_thien_co_che_phap_ly_xu_ly_vi_p.pdf