- Bị cáo, các đương sự và người bào chữa
cho bị cáo, bảo vệ quyền lợi cho đương sự phải
chủ động và tích cực đưa ra những chứng cứ,
lý lẽ, cơ sở pháp luật để tranh luận với kiểm sát
viên cũng như giữa các đương sự trong vụ án.
Để tạo điều kiện cho bị cáo tranh luận với kiểm
sát viên tại phiên tòa, các cơ quan tiến hành tố
tụng phải tạo điều kiện cho bị cáo biết được
cụ thể, đầy đủ những chứng cứ, cơ sở pháp lý
buộc tội bị cáo có thời gian chuẩn bị hoặc nhờ
luật sư tìm ra chứng cứ, lý lẽ, cơ sở pháp lý để
thực hiện việc tranh luận tại phiên tòa.
Diễn biến phiên tòa phải bám sát vào quy
định của Bộ luật TTHS để không bỏ sót quy
trình và đảm bảo quyền lợi cho các bên tham
gia tranh tụng, nhưng để thực hiện như vậy cần
có cơ chế giám sát và biên bản phiên tòa là nơi
thể hiện rõ nhất diễn biến của phiên tòa.
Ngoài ra, cùng với việc tăng về số lượng thì
cũng cần nâng cao về chất lượng chuyên môn
nghiệp vụ, phẩm chất chính trị, đạo đức của
đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư.
Đây là vấn đề liên quan đến quá trình đào
tạo bậc đại học, sau đó là đào tạo về nghiệp
vụ xét xử, kiểm sát, hành nghề luật sư, sự tự
rèn luyện, nâng cao trình độ của cá nhân thẩm
phán, kiểm sát viên, luật sư. Bởi vì công tác đào
tạo thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư có chất
lượng mới tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây
dựng đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư
giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, vững vàng về
bản lĩnh chính trị, đạo đức trong sáng
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 275 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng trong phiên tòa hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
26 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 6(191) 32011
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
1. Thực trạng tranh tụng tại phiên tòa hình
sự
Từ khi Nghị quyết số 08/NQ-TW được
quán triệt, hầu hết các vụ án đã được đưa ra xét
xử với sự đổi mới thủ tục xét hỏi và tranh luận
tại phiên tòa trên cơ sở những quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự mới và theo tinh thần cải
cách tư pháp của Bộ Chính trị. Tại phiên tòa,
Hội đồng xét xử đã thể hiện được tính khách
quan, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của cả kiểm
sát viên, luật sư, bị cáo và những người tham
gia tố tụng khác. Phiên tòa đã thể hiện được
tính dân chủ, bình đẳng giữa những người tiến
hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong việc
đưa ra chứng cứ, bày tỏ quan điểm khác nhau,
cùng tranh luận xác định sự thật khách quan.
Cùng với việc xét hỏi, Hội đồng xét xử còn
chấp nhận luật sư, bị cáo và những người tham
gia tố tụng xuất trình chứng cứ mới. Hội đồng
xét xử xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng
cứ mới, chứng cứ có trong hồ sơ, chứng cứ
đã được kiểm sát viên phân tích, đánh giá khi
luận tội bảo vệ cáo trạng, phát biểu tại phiên
tòa, quan điểm của kiểm sát viên, của người
bào chữa và những người tham gia tố tụng để
ra phán quyết cuối cùng.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, nhưng bên cạnh
những phiên tòa xét xử đúng với tinh thần
tranh tụng còn có những phiên tòa không đạt
yêu cầu.
Có những phiên toà, thẩm phán thiếu trách
nhiệm, không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, cẩu
thả trong công tác chuẩn bị phiên tòa, trong
phiên tòa cũng như trong viết bản án; đánh
giá chứng cứ không đầy đủ, không chính xác
nên xét xử oan người không có tội, vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự, không áp
dụng đầy đủ các quy định của pháp luật hoặc
các hướng dẫn phải áp dụng trong công tác
xét xử... Ngược lại, có những trường hợp do
Tranh tụng tại phiên tòa có vai trò hết sức quan trọng, nó không chỉ là sự đánh giá kết quả hoạt động của
các giai đoạn điều tra, truy tố mà còn có tác dụng to lớn đối với chính giai đoạn xét xử. Đây chính là cơ chế tối
ưu nhất để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị cáo, đảm bảo việc truy tố, xét xử là đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật. Chính vì tầm quan trọng như vậy nên Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị “Về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã đề cập đến việc nâng cao chất lượng xét
xử của Tòa án là khâu trung tâm đột phá, quyết định của hoạt động tư pháp, phán quyết của Tòa án phải căn
cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
NGUYễN KIM CHI *
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG
TRONG PHIÊN TÒA HìNH SỰ
THỰC TRạNG VÀ GIẢI PHÁP
(*) ThS, Giảng viên Học viện Tư pháp.
Số 6(191) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 273
2011
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
đánh giá chứng cứ không chính xác, nhận thức
không đầy đủ về quy định của pháp luật nên
lẽ ra phải kết án đối với bị cáo lại tuyên bị cáo
không có tội.
Việc bị cáo và đại diện hợp pháp cho bị
cáo có mặt tại phiên tòa là những quy định bắt
buộc của pháp luật tố tụng hình sự, đó không
chỉ là tuân thủ quy định tố tụng mà còn đảm
bảo cho bị cáo được bào chữa, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình qua quá trình tranh
tụng. Nhưng trên thực tế vẫn còn có những vụ
án khi xét xử vắng mặt bị cáo nhưng không có
lệnh truy nã và kết quả truy nã; xét xử bị cáo
chưa thành niên mà không có người đại diện
hợp pháp của bị cáo hoặc nhà trường tham gia;
xét xử vắng mặt những người tham gia tố tụng
khác - những người mà pháp luật cho phép
tham gia vào quá trình tranh tụng để bảo vệ
quyền lợi chính đáng của mình.
Hồ sơ, chứng cứ được xác lập trong giai
đoạn điều tra là rất quan trọng cho việc xét
xử tại phiên toà. Tuy nhiên, các chứng cứ có
trong hồ sơ là do các cơ quan tiến hành tố tụng
thu thập, nhiều trường hợp chưa thể đầy đủ
và không loại trừ việc thiếu khách quan. Đặc
biệt đối với những vụ án hình sự, trách nhiệm
chứng minh thuộc về các cơ quan tố tụng, cho
nên đa số các trường hợp Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát chỉ thu thập chứng cứ buộc tội,
không chú trọng thu thập chứng cứ gỡ tội,
trong khi đó bên bào chữa không được quyền
chủ động thu thập chứng cứ làm hạn chế khả
năng tranh tụng của họ tại phiên toà.
Luật đã quy định người bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp
pháp của họ được quyền trình bày ý kiến để
bảo vệ quyền và lợi ích của mình, nếu những
người này có luật sư bảo vệ quyền lợi thì luật
sư trình bày trước, những người đó bổ sung
sau. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều vụ án do hạn
chế về thời gian mà thủ tục này bị vi phạm,
đương sự không được trình bày hoặc trình
bày không hết ý kiến của mình. Thậm chí có
trường hợp họ cũng không được xét hỏi ở giai
đoạn trước đó. Đây là những vi phạm thủ tục
tố tụng nghiêm trọng và vi phạm tinh thần của
tranh tụng tại phiên tòa.
Thực tiễn xét xử hiện nay còn tồn tại thiếu
sót của thẩm phán - chủ tọa phiên tòa là khi xét
hỏi bị cáo thường thẩm vấn theo hướng buộc
tội như cáo trạng của Viện kiểm sát, giúp Viện
kiểm sát bảo vệ cáo trạng. Không ít trường hợp
kiểm sát viên tham gia phiên tòa trong suốt thời
gian xét hỏi không hỏi một câu nào mà chỉ đọc
bản cáo trạng rồi ngồi xem Hội đồng xét hỏi
khi nào kết thúc phần xét hỏi thì đọc bản luận
tội. Vai trò của kiểm sát viên tại phiên tòa chỉ
như người chứng kiến, rõ ràng là kiểm sát viên
đã không ý thức được mình là một bên không
thể thiếu của quá trình tranh luận tại phiên tòa,
dường như việc xét hỏi và tranh luận là của
Hội đồng xét xử.
Trong phiên tòa, luật sư là một bên của quá
trình tranh tụng nhưng nhiều trường hợp, bài
bào chữa chỉ mang nặng việc khai thác các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hoặc bắt bẻ về
câu chữ, hay những lỗi tố tụng nhỏ mà không
đi vào những tình tiết của vụ án một cách toàn
diện, để khai thác bảo vệ quyền lợi chính đáng
của bị cáo.
2. Nguyên nhân của những hạn chế trong
tranh tụng tại phiên tòa hình sự
2.1. Quy định pháp luật chưa đầy đủ, chưa
phù hợp
Mặc dù pháp luật TTHS hiện hành của
chúng ta đã có những quy định khá tiến bộ
về tranh tụng tại phiên toà, như: quy định về
bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên
toà; quy định về nguyên tắc bình đẳng giữa
kiểm sát viên với người bào chữa, bị cáo trong
việc đưa ra chứng cứ, đưa ra yêu cầu và tranh
luận trước Toà án, nhằm bảo đảm tính khách
quan của hoạt động xét xử Bộ luật Tố tụng
hình sự (TTHS) cũng quy định khi xét hỏi và
tranh luận, chủ toạ phiên toà không hạn chế
thời gian để xét hỏi cũng như để tranh luận...
Những quy định này tạo điều kiện cho những
người tham gia tố tụng có điều kiện về thời
gian để tranh luận bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.
28 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 6(191) 32011
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
Tuy nhiên, Bộ luật TTHS hiện hành chưa
quy định tranh tụng là một nguyên tắc của hoạt
động xét xử, vì vậy, trong từng điều luật tại
các chương về xét xử cũng chưa thể hiện hết
toàn bộ tinh thần của tranh tụng và như thế
việc đảm bảo cho tranh tụng tại phiên tòa chưa
đạt hiệu quả cao nhất.
Bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể
tham gia tranh tụng là một điều kiện cơ bản
của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Nó là
cơ sở để xác định tư cách tố tụng của người
bào chữa, bị cáo không chỉ là một chủ thể mà
còn là một bên tham gia tranh tụng bình đẳng
với bên buộc tội. Tuy nhiên, việc thể hiện nội
dung này tại các điều luật cụ thể vẫn chưa được
quy định tại Bộ luật TTHS năm 2003. Ví dụ:
tại các điều 187, 189, 190, 245, 280 Bộ luật
TTHS quy định, trong mọi trường hợp kiểm
sát viên vắng mặt phải hoãn phiên tòa, trong
khi đó người bào chữa hoặc bị cáo và các chủ
thể khác vắng mặt thì vẫn có thể tiến hành xét
xử vụ án. Chúng tôi cho rằng, quy định như
vậy là chưa đảm bảo sự bình đẳng giữa các
bên trong tranh tụng, sự vắng mặt của luật sư
và của bị cáo ở phiên tòa sẽ làm cho quá trình
tranh tụng mất đi ý nghĩa của nó, bởi thiếu một
bên tham gia và một chức năng quan trọng là
bào chữa không được thực hiện.
Tại phiên tòa, phán quyết của Tòa án phải
dựa trên việc xem xét đánh giá những chứng
cứ được đưa ra và tranh luận giữa các bên. Thế
nhưng khi qua thẩm tra và đánh giá chứng cứ,
nếu xét thấy bị cáo phạm tội khác nặng hơn
thì Hội đồng xét xử cũng không có quyền ra
phán quyết về tội nặng hơn đó theo quy định
tại Điều 196 Bộ luật TTHS. Vì vậy, khi xét
thấy bị cáo phạm tội nặng hơn thì Hội đồng
xét xử chỉ có thể căn cứ vào Điều 179 Bộ luật
TTHS trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra
bổ sung. Từ đó cho thấy, tranh tụng tại phiên
tòa chưa phải là căn cứ có tính quyết định với
phán quyết của Tòa án.
Viện kiểm sát là cơ quan đại diện cho Nhà
nước thực hành quyền công tố, nói một cách
khác, Viện kiểm sát là bên buộc tội, thế nhưng
Viện kiểm sát lại kiêm luôn cả chức năng kiểm
sát việc xét xử, như vậy rõ ràng là không thể
khách quan. Cần phải xác định Viện kiểm sát
chỉ thực hành quyền công tố, vì như vậy mới
tránh tình trạng vừa đá bóng vừa thổi còi, đồng
thời, Viện kiểm sát sẽ chuyên sâu hơn về nhiệm
vụ của mình.
2.2. Đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, luật
sư chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ
Đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư
hiện nay còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến
chất lượng tranh tụng nói chung, chất lượng
xét xử vụ án hình sự nói riêng.
Năng lực, trình độ chuyên môn: năng lực
của thẩm phán, kiểm sát viên có ảnh hưởng
rất lớn đến chất lượng của quá trình tranh tụng
tại phiên tòa, được thể hiện ở hai khía cạnh là
trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm
khi tham gia phiên tòa, đối với thẩm phán là kỹ
năng điều khiển phiên tòa và kiểm sát viên là
kỹ năng tranh tụng. Trong đó trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ có ảnh hưởng rất lớn vì chủ
yếu các trường hợp án bị sửa, hủy là do việc
nắm và vận dụng pháp luật của thẩm phán và
kiểm sát viên còn hạn chế.
Trong những năm gần đây, luật sư đã tham
gia nhiều vào tranh tụng trong vụ án hình sự.
Tuy nhiên ở nhiều vụ án mà có sự tham gia
của luật sư thì việc tranh cãi chỉ xoay quanh
quan điểm định tội danh hoặc tìm ra những
chỗ chưa hoàn chỉnh của công tác điều tra để
“bắt bẻ” chứ rất hiếm khi đưa ra được những
bằng chứng phản bác đắt giá... chưa kể sự mâu
thuẫn, căng thẳng trong khi tranh cãi thay vì
phải xuất phát từ sự cọ xát về chứng cứ, luận
điểm thì đôi lúc chỉ vì thái độ, ngôn ngữ mang
tính hình thức. Nhiều lúc công đoạn tranh luận
chỉ là sự công kích giữa hai phía buộc tội và gỡ
tội, tuy là có kịch tính nhưng nhiều khi lại làm
mất đi vẻ uy nghiêm của một phiên tòa. Điều
này có một phần nguyên nhân từ năng lực của
luật sư. Thực tế hiện nay, do điều kiện kinh tế,
bị cáo và người nhà bị cáo không thuê luật sư,
cho nên nhiều khi luật sư phải làm thêm các
dịch vụ pháp lý khác, chưa kể có người còn có
những công việc khác bên cạnh nghề luật sư,
nhiều luật sư là cán bộ hưu trí... Những điều
Số 6(191) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 293
2011
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
này làm cho kinh nghiệm và kỹ năng của luật
sư bị dàn trải, hạn chế năng lực chuyên sâu của
luật sư.
Đạo đức, ý thức nghề nghiệp: hiện nay còn
có một số bộ phận cán bộ tư pháp thoái hóa,
biến chất, vi phạm pháp luật, làm trái với lương
tâm và đạo đức nghề nghiệp để kiếm tiền.
Một số luật sư khi tham gia bào chữa vụ án
hình sự không quan tâm đến công việc chuyên
môn, tới việc làm rõ các tình tiết của vụ án một
cách đầy đủ, toàn diện mà quá coi trọng vật
chất, việc làm không trong sáng, làm lộ bí mật
điều tra hòng chạy tội cho bị can, bị cáo. Thậm
chí có những luật sư tìm cách “chạy án” nhằm
gỡ tội cho thân chủ. Chính những biểu hiện,
việc làm của luật sư đã tự cản trở việc thực
hiện quy định người bào chữa tham gia tố tụng
kể từ khi khởi tố vụ án và tiếng nói của luật sư
bào chữa trong một vài vụ án chưa được người
dân đồng tình, coi trọng .
2.3. Nguyên nhân khác
Cơ chế đảm bảo cho việc tranh tụng tại
phiên tòa chưa hợp lý: hiện nay cơ chế để đảm
bảo cho việc thực hiện tranh tụng tại phiên tòa
còn nhiều vấn đề. Từ việc tạo hành lang pháp
lý để tạo ra cơ chế, ý thức của người tham gia
tranh tụng đến những quy chế kiểm tra giám
sát để đảm bảo thực hiện, với những chế tài
nghiêm khắc khi phát hiện vi phạm và kịp thời
khen thưởng những trường hợp hoàn thành tốt
nhiệm vụ vẫn chưa hoàn thiện. Chẳng hạn, tại
phiên tòa, nếu Viện kiểm sát không chủ động
xét hỏi làm rõ những tình tiết buộc tội, không
đối đáp trực tiếp đúng vấn đề mà luật sư đưa
ra; việc ghi lại diễn biến của toàn bộ vụ án tại
phiên tòa không chính xác, khách quan thì sẽ
xử lý như thế nào? Thu thập tài liệu chứng cứ
là việc rất quan trọng để luật sư có thể tham
gia tranh luận một cách bình đẳng tại phiên
tòa, nhưng nếu Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát gây khó khăn trong việc cấp giấy phép bào
chữa cho luật sư thì chế tài nào xử lý? Và rất
nhiều vấn đề cần phải có sự quy định cụ thể để
tạo ra một cơ chế đồng bộ chuẩn xác cho việc
thực hiện tranh tụng.
Cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu:
Một nguyên nhân cũng không kém phần quan
trọng ảnh hưởng đến quá trình tranh tụng tại
phiên tòa, đảm bảo tính trang nghiêm của Tòa
án là cơ sở vật chất, trang thiết bị của ngành
Tòa án phần lớn đã xuống cấp, lạc hậu, không
phù hợp với yêu cầu của công tác xét xử trong
tình hình mới. Một số Tòa án quá chật hẹp,
nhiều khi phải xử án tại phòng làm việc, xử án
xong lại kê bàn ghế như cũ. Phòng xử như vậy
không đảm bảo tính trang nghiêm của Tòa án;
chỗ ngồi cho luật sư chật hẹp, không có phòng
cách ly người làm chứng và các bên tham gia
tố tụng, ảnh hưởng nhiều đến quá trình tranh
tụng tại phiên tòa.
Ý thức pháp luật trong một bộ phận nhân
dân vẫn còn hạn chế: tham gia vào quá trình
tranh tụng còn có bị cáo, người bị hại, người
liên quan v.v.. nhưng nhận thức, ý thức pháp
luật trong một bộ phận nhân dân vẫn còn hạn
chế. Họ tham gia vào các giai đoạn tố tụng còn
chưa nắm vững được luật để bảo vệ quyền lợi
hợp pháp cho mình, nên chưa thể ý thức được
rằng họ tham gia vào quá trình tố tụng ấy cũng
là để bảo vệ pháp luật, giám sát việc thực thi
pháp luật của các cơ quan tư pháp, nhất là hiện
nay công tác hướng dẫn, tuyên truyền phổ biến
giáo dục pháp luật về lĩnh vực tư pháp chưa
sâu rộng.
3. Giải pháp nâng cao chất lượng tranh
tụng tại phiên tòa hình sự
3.1. Hoàn thiện pháp luật
Để nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng
tại phiên tòa thì điều tiên quyết và quan trọng
nhất trong Bộ luật TTHS phải thể hiện rõ tranh
tụng là một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động
xét xử, từ đó cụ thể hóa hơn nữa những quy
định về tranh tụng tại phiên tòa, tạo ra cơ chế
thích hợp và hiệu quả cho quá trình tranh tụng.
Từ việc thừa nhận là một nguyên tắc thì tất cả
các cơ quan bảo vệ pháp luật và các chủ thể
khác tham gia vào quá trình tố tụng đều phải
ý thức và hướng mọi hoạt động của họ theo
nguyên tắc ấy.
Khi đã coi tranh tụng là vấn đề có tính
xuyên suốt trong việc xét xử tại phiên tòa, tức
30 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 6(191) 32011
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
là tại phiên tòa, quyết định của Tòa án chỉ có
thể căn cứ vào quá trình tranh tụng, trên cơ
sở xem xét, thẩm tra, đánh giá chứng cứ được
đưa ra từ các bên một cách khách quan, toàn
diện thì vấn đề giới hạn xét xử đối với Tòa
án không nên đặt ra nữa. Bởi vì nếu như vậy,
dù Tòa án có ra phán quyết vẫn phải dựa trên
cơ sở khung, tội mà Viện kiểm sát đưa ra chứ
không phải là căn cứ vào kết quả tranh luận
công khai tại phiên tòa.
Trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Tòa
án nên có vai trò là trọng tài phán quyết vụ án,
để việc xét hỏi theo hướng buộc tội là của đại
diện Viện kiểm sát và việc xét hỏi theo hướng
gỡ tội là của luật sư bào chữa. Tuy nhiên, Bộ
luật TTHS hiện nay vẫn có những quy định
chưa phù hợp, điều đó làm cho các chủ thể
tham gia tranh tụng không nhận thức đúng và
đầy đủ về vai trò của mình trong tranh tụng
nên không tích cực, chủ động trong việc thực
hiện chức năng của mình mà ỷ lại và phụ thuộc
vào Tòa án. Mặc dù đã có sự sửa đổi, nhưng
quy định tại các điều từ Điều 207 đến Điều
215 như hiện nay vẫn còn đặt quá nặng trách
nhiệm chứng minh lên vai Hội đồng xét xử.
Theo chúng tôi, các quy định về trình tự thủ
tục xét hỏi tại phiên tòa trong Bộ luật TTHS
cần phải sửa đổi theo hướng để cho các bên
tranh tụng thực hiện trách nhiệm chứng minh
và tiến hành xét hỏi là chủ yếu, còn Tòa án
thực hiện việc giám sát, duy trì trình tự xét hỏi
và có quyền tham gia vào quá trình đó ở bất kỳ
thời điểm nào khi thấy cần thiết phải làm sáng
tỏ các tình tiết nào đó về vụ án chưa được các
bên làm rõ trong quá trình xét hỏi.
Hiện nay, Viện kiểm sát vẫn đồng thời có
chức năng thực hành quyền công tố và chức
năng kiểm sát hoạt động tư pháp, trong đó có
kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án. Một cơ
quan vừa có thẩm quyền buộc tội, vừa có thẩm
quyền giám sát hoạt động của cơ quan khác ra
phán quyết về hoạt động buộc tội của mình thì
sao có thể bình đẳng và độc lập được. Vì vậy,
chức năng giám sát việc tuân theo pháp luật
của Viện kiểm sát đối với Tòa án cần phải loại
bỏ. Sửa đổi như vậy vừa đảm bảo nhất quán
về mặt pháp luật, tạo ra sự độc lập trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ của Tòa án vừa tạo
điều kiện để Viện kiểm sát tập trung hơn, hoàn
thành tốt hơn nhiệm vụ công tố của mình.
Theo các quy định tại các điều 187, 189,
190, 245, 280 Bộ luật TTHS , trong mọi trường
hợp kiểm sát viên vắng mặt phải hoãn phiên
tòa trong khi đó người bào chữa hoặc bị cáo và
các chủ thể khác vắng mặt thì vẫn có thể tiến
hành xét xử vụ án. Chúng tôi cho rằng, quy
định như vậy là chưa đảm bảo sự bình đẳng
giữa các bên trong tranh tụng, nhất là đảm bảo
quyền lợi của bị cáo. Sự vắng mặt của luật sư
và của bị cáo ở phiên tòa sẽ làm cho quá trình
tranh tụng mất đi ý nghĩa của nó bởi thiếu một
bên tham gia và một chức năng quan trọng là
bào chữa không được thực hiện. Vì vậy cần bổ
sung: trong những trường hợp luật sư vắng mặt
vì trường hợp bất khả kháng không gửi được
bản bào chữa thì Tòa án phải hoãn phiên tòa.
Trong trường hợp đó bị cáo có thể mời luật sư
khác. Nếu Tòa án đã hoãn phiên tòa theo thời
hạn luật định mà luật sư vẫn không thể có mặt
và bị cáo không mời luật sư khác thì Tòa án sẽ
vẫn tiến hành xét xử.
3.2. Xây dựng cơ chế đảm bảo cho việc thực
hiện tranh tụng tại phiên tòa
Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên
tòa xét xử vụ án hình sự không thể không đề
cập đến cơ chế để đảm bảo thực hiện nó, trong
đó có vấn đề tổ chức phiên tòa. Việc tổ chức
phiên tòa làm sao phải thể hiện rõ địa vị pháp
lý (quyền và nghĩa vụ tố tụng) của các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng. Phiên tòa phải đảm
bảo để không những nghĩa vụ tố tụng mà các
quyền tố tụng của những người tham gia tố
tụng, nhất là của bị cáo được thực hiện đầy đủ.
Các cơ quan tiến hành tố tụng như Viện kiểm
sát, Tòa án (Hội đồng xét xử) thực hiện đúng
chức năng của mình được pháp luật quy định.
Để đảm bảo cho việc tranh luận tại phiên
tòa phát huy được tác dụng đích thực của nó,
theo chúng tôi:
- Thẩm phán, kiểm sát viên phải nhận
thức hồ sơ vụ án chỉ là tài liệu do Cơ quan
Số 6(191) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 313
2011
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
điều tra thu thập, chưa chắc đã là chính xác,
lúc này nguyên tắc giả định bị cáo vô tội phải
được quán triệt. Cần thực hiện đúng nguyên
tắc “bản án chỉ căn cứ vào những chứng cứ
đã được xem xét tại phiên tòa”. Và thực hiện
đúng tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết số 08/
NQ-TW việc giải quyết của Tòa án phải căn cứ
chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa,
trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng
cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào
chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn
và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để
đưa ra những bản án, quyết định đúng pháp
luật có sức thuyết phục.
- Bị cáo, các đương sự và người bào chữa
cho bị cáo, bảo vệ quyền lợi cho đương sự phải
chủ động và tích cực đưa ra những chứng cứ,
lý lẽ, cơ sở pháp luật để tranh luận với kiểm sát
viên cũng như giữa các đương sự trong vụ án.
Để tạo điều kiện cho bị cáo tranh luận với kiểm
sát viên tại phiên tòa, các cơ quan tiến hành tố
tụng phải tạo điều kiện cho bị cáo biết được
cụ thể, đầy đủ những chứng cứ, cơ sở pháp lý
buộc tội bị cáo có thời gian chuẩn bị hoặc nhờ
luật sư tìm ra chứng cứ, lý lẽ, cơ sở pháp lý để
thực hiện việc tranh luận tại phiên tòa.
Diễn biến phiên tòa phải bám sát vào quy
định của Bộ luật TTHS để không bỏ sót quy
trình và đảm bảo quyền lợi cho các bên tham
gia tranh tụng, nhưng để thực hiện như vậy cần
có cơ chế giám sát và biên bản phiên tòa là nơi
thể hiện rõ nhất diễn biến của phiên tòa.
Ngoài ra, cùng với việc tăng về số lượng thì
cũng cần nâng cao về chất lượng chuyên môn
nghiệp vụ, phẩm chất chính trị, đạo đức của
đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư.
Đây là vấn đề liên quan đến quá trình đào
tạo bậc đại học, sau đó là đào tạo về nghiệp
vụ xét xử, kiểm sát, hành nghề luật sư, sự tự
rèn luyện, nâng cao trình độ của cá nhân thẩm
phán, kiểm sát viên, luật sư. Bởi vì công tác đào
tạo thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư có chất
lượng mới tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây
dựng đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư
giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, vững vàng về
bản lĩnh chính trị, đạo đức trong sáng.
dài, bảo đảm được quyền lợi của các đương
sự. Điều 197 Bộ luật TTDS quy định: “Trong
trường hợp đặc biệt do Bộ luật này quy định
thì việc xét xử có thể tạm ngừng không quá
năm ngày làm việc. Hết thời hạn tạm ngừng,
việc xét xử vụ án được tiếp tục”. Song, nghiên
cứu các quy định của Bộ luật TTDS, chúng tôi
không thấy có quy định trường hợp nào thì việc
xét xử có thể tạm ngừng. Do đó, chúng tôi đề
nghị cần quy định cụ thể các căn cứ để ngừng
việc xét xử, trong đó có căn cứ để Hội đồng
xét xử chấp nhận yêu cầu áp dụng BPKCTT
tại phiên tòa.
5. Về trách nhiệm bồi thường của Tòa án
Bộ luật TTDS quy định các trường hợp
Tòa án có trách nhiệm bồi thường khi áp dụng
không đúng BPKCTT gây thiệt hại cho người
bị áp dụng BPKCTT hoặc cho người thứ ba
(Khoản 2 Điều 101) nhưng lại chưa có quy
định trách nhiệm bồi thường của Tòa án trong
trường hợp không ra quyết định hoặc chậm ra
quyết định áp dụng BPKCTT. Vì vậy, trong
thực tiễn, nếu đương sự yêu cầu và có căn
cứ áp dụng BPKCTT nhưng Tòa án không ra
hoặc chậm ra quyết định áp dụng BPKCTT
gây thiệt hại cho đương sự thì trách nhiệm
bồi thường thiệt hại này như thế nào? Quyền,
lợi ích của đương sự yêu cầu có được bảo vệ
không? Những nội dung này cần được bổ sung
trong Bộ luật TTDS về trách nhiệm bồi thường
của Tòa án trong việc không ra quyết định
hoặc chậm ra quyết định áp dụng BPKCTT,
gây thiệt hại cho người bị áp dụng BPKCTT
hoặc cho người thứ ba.
(Tiếp theo trang 25)
KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI
CÁC QUY ĐỊNH...
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_va_giai_phap_nang_cao_chat_luong_tranh_tung_trong.pdf