This article forcuses on the evaluation of the current status of protection forest and land use
management at the Khu Dong Protection Forest Management Commettee (PFMC) in Ba To district,
Quang Ngai province. Two main methods were used, including: the data collection methods and data
analysis, processing, synthetical methods. Following land use plan of Quang Ngai Committee, the total
area of protection forest in five wards (Ba Cung, Ba Kham, Ba Liên, Ba Vinh, Ba Trang) belong to the
Khu Dong protection forest management is 13,499.26 ha. From the investigation process, we know that
the forest land use rights of Khu Dong PFMC have been given local people to use and manage, so,
which has promoted forest protection and economic development of the locality. In the study area,
Daemonorops poilanei and Amomum longiligulare are planted widely and popularly
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 14 trang
14 trang | 
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 798 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất tại ban quản lý rừng phòng hộ khu đông huyện ba tơ, tỉnh Quảng Ngãi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 2(2) - 2018 
625 
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ, 
SỬ DỤNG ĐẤT TẠI BAN QUẢN LÝ RỪNG PHÒNG HỘ KHU ĐÔNG 
HUYỆN BA TƠ, TỈNH QUẢNG NGÃI 
Huỳnh Văn Chương, Lê Hoàng Vũ, Nguyễn Ngọc Thanh 
Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế 
Liên hệ email: nguyenngocthanh@huaf.edu.vn 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu đã tập trung vào việc đánh giá thực trạng về hiện trạng rừng phòng hộ, công tác 
quản lý sử dụng đất, công tác quản lý nhà nước về rừng, về đất lâm nghiệp tại Ban Quản lý Rừng phòng 
hộ (BQLRPH) Khu Đông tỉnh Quảng Ngãi. Để thực hiện nghiên cứu này, nhóm tác giả sử dụng hai 
phương pháp chính, bao gồm: phương pháp thu thập số liệu và phương pháp phân tích, xử lý và tổng 
hợp số liệu. Hiện nay, diện tích đất quy hoạch rừng phòng hộ đầu nguồn trên địa bàn 05 xã (Ba Cung, 
Ba Khâm, Ba Liên, Ba Trang, Ba Vinh) thuộc lâm phần do BQLRPH Khu Đông tỉnh Quảng Ngãi quản 
lý là 13.499,26 ha. Qua quá trình điều tra, công tác sử dụng đất đã được BQLRPH giao khoán lại diện 
tích đất có rừng phòng hộ cho các hộ gia đình trên địa bàn để quản lý và sử dụng. Điều này đã thúc đẩy 
sự bảo vệ rừng và phát triển kinh tế của địa phương. Trên địa bàn nghiên cứu, mô hình trồng cây Mây 
nước và cây Sa nhân tím được triển khai rộng rãi và được nhiều người biết đến. 
Từ khóa: Thực trạng, giải pháp, rừng phòng hộ, Ba Tơ, Quảng Ngãi 
Nhận bài: 15/03/2018 Hoàn thành phản biện: 30/04/2018 Chấp nhận bài: 15/05/2018 
1. MỞ ĐẦU 
Đất lâm nghiệp nói chung và đất rừng phòng hộ nói riêng giữ vai trò hết sức quan 
trọng, với mục đích phòng hộ đầu nguồn, bảo vệ đất, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ môi trường 
sinh thái, chắn gió, chắn cát, chắn sóng ven biển theo quy định của pháp luật về bảo vệ và phát 
triển rừng. Ngoài ra, còn phục vụ cho việc bảo tồn đa dạng sinh học, du lịch cảnh quan và di 
tích lịch sử. 
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) (2015): Trong những năm qua 
Nhà nước đặc biệt quan tâm đến công tác rà soát, quy hoạch lại đất rừng phòng hộ theo 03 loại 
rừng, nhằm phục vụ cho công tác giao đất, giao rừng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 
đất, xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai, góp phần đưa đất đai vào quản lý, sử dụng đúng mục đích, 
có hiệu quả. Qua đó, đất rừng phòng hộ được giao cho các Ban Quản lý Rừng phòng hộ 
(BQLRPH) để quản lý, sử dụng và phát triển rừng theo quy định của pháp luật, góp phần nâng 
cao hiệu quả sử dụng đất và độ che phủ rừng, chống xói mòn, tăng cường khả năng phòng hộ 
cho các công trình thủy lợi, thủy điện, sông, suối 
Viện khoa học khí tượng thủy văn (2011): Trong giai đoạn hiện nay, trước những diễn 
biến bất thường của thời tiết, thường xuyên xảy ra mưa, lũ, hạn hán, do ảnh hưởng của sự biến 
đổi khí hậu, đây là một thách thức không nhỏ trong việc tìm ra những giải pháp để làm giảm 
thiểu những tác động của biến đổi khí hậu. Vì vậy, việc quan tâm đến công tác quản lý, sử 
dụng đất rừng phòng hộ là vấn đề hết sức cần thiết. 
Huyện Ba Tơ nằm cách trung tâm thành phố Quảng Ngãi 60 km về phía Tây Nam; có 
diện tích tự nhiên 113.756,13 ha; (chiếm 22,06% diện tích tự nhiên toàn tỉnh); dân số 57.444 
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 2(2) - 2018 
626 
người, chủ yếu là người đồng bào dân tộc Hrê (48.005 người, chiếm 83,57%); hiện đang tồn 
tại BQLRPH Khu Đông và BQLRPH Khu Tây, được Nhà nước giao quản lý và sử dụng 
30.867,10 ha đất lâm nghiệp quy hoạch cho mục đích rừng phòng hộ đầu nguồn thuộc lưu vực 
các sông, suối và các công trình thủy lợi như: Đập Thạch Nham, Hồ chứa nước Liệt Sơn, Núi 
Ngang, Chóp Vung, Sông Vệ và các điểm di tích lịch sử Núi Cao Muôn, Hang Vọt Rẹp, Di 
Tích Đặng Thùy Trâm (chiếm 27,13% diện tích tự nhiên của toàn huyện) (Chi cục Thống 
kê huyện Ba Tơ (2016)).Tuy nhiên, việc quản lý và sử dụng diện tích đất này còn nhiều vấn 
đề bất cập, chưa hiệu quả, trong khi nhu cầu về đất để phục vụ cho sản xuất nông lâm nghiệp 
của người dân tại địa phương rất lớn, nên tình trạng tranh chấp, lấn chiếm đất đai thường xuyên 
xảy ra, làm cho diện tích đất rừng phòng hộ trên địa bàn huyện ngày càng suy giảm cả về diện 
tích lẫn chất lượng; gây mất ổn định chính trị và khó khăn trong công tác quản lý, sử dụng của 
người được giao đất (các Ban quản lý) và các cơ quan quản lý nhà nước. Do đó, cần phải đánh 
giá đúng thực trạng việc quản lý, sử dụng đất rừng phòng hộ để có những giải pháp phù hợp. 
Trong đề tài này, chúng tôi tập trung nghiên cứu thực trạng quản lý và sử dụng đất của 
BQLRPH Khu Đông, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi, tổ chức được nhà nước giao đất để quản 
lý, sử dụng và phát triển rừng phòng hộ tại Quyết định số 298/QĐ-UBND ngày 28/11/2013 
của UBND tỉnh Quảng Ngãi về việc thu hồi đất của UBND các xã: Ba Cung, Ba Khâm, Ba 
Liên, Ba Trang, Ba Vinh huyện Ba Tơ đang quản lý, giao đất cho BQLRPH Khu Đông huyện 
Ba Tơ. 
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Phương pháp thu thập số liệu 
2.1.1. Số liệu thứ cấp 
Số liệu thứ cấp được thu thập bao gồm: Báo cáo tình hình phát triển kinh tế, xã hội 
của huyện Ba Tơ; số liệu cập nhật diễn biến rừng và báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ công 
tác được thu thập tại Ban quản lý và Hạt Kiểm lâm huyện; Số liệu về giao đất, giao rừng, cấp 
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, được thu thập tại Phòng Tài nguyên và Môi trường, Phòng 
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Nông nghiệp và Phát 
triển nông thôn; số liệu về dự án trồng cây Mây nước và cây Sa nhân tím dưới tán rừng phòng 
hộ được thu thập tại Trạm Khuyến nông huyện; Số liệu về quy hoạch các điểm di tích lịch sử 
như Núi Cao Muôn, Hang Vọt Rẹp, Di tích Đặng Thùy Trâm, được thu thập tại Phòng Văn 
hóa - Thông tin huyện, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch; Kết luận thanh tra việc thực hiện chức 
năng, nhiệm vụ tại Ban quản lý của Thanh tra tỉnh trong 02 năm (2014 - 2015) và các số liệu 
khác có liên quan được thu thập tại Chi cục Thống kê huyện và một số cơ quan khác. 
2.1.2. Số liệu sơ cấp 
Số liệu sơ cấp được thu thập dựa trên bảng hỏi thiết kế sẵn, bằng cách phỏng vấn 50 
người được lựa chọn theo đại diện một số xã và các cơ quan; trong đó số lượng mẫu được phân 
theo các đối tượng cần thu thập gồm: Mẫu số 1, áp dụng cho việc phỏng vấn trực tiếp hộ gia 
đình, cá nhân vùng nghiên cứu gồm 40 mẫu/40 hộ (Trong đó: xã Ba Cung 2 mẫu, xã Ba Khâm 
7 mẫu, xã Ba Liên 10 mẫu, xã Ba Trang 13 mẫu, xã Ba Vinh 8 mẫu; Mẫu số 2, áp dụng cho 
việc phỏng vấn cán bộ, viên chức của Ban quản lý 3 mẫu (gồm: Lãnh đạo 1 mẫu, cán bộ phụ 
trách kỹ thuật 1 mẫu, cán bộ phụ trách quản lý bảo vệ rừng 1 mẫu); lãnh đạo và cán bộ địa 
chính xã 7 mẫu (trong đó: 5 cán bộ địa chính của 5 xã là 5 mẫu và Chủ tịch UBND xã Ba Liên 
1 mẫu, UBND xã Ba Khâm 1 mẫu). Nội dung điều tra gồm: Việc công bố quy hoạch sử dụng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 2(2) - 2018 
627 
đất, tình hình quản lý, sử dụng đất, tình trạng pháp lý, diện tích đất nằm trong quy hoạch phòng 
hộ, thời điểm sử dụng đất, nguồn gốc hình thành, tình hình bồi thường, hỗ trợ tái định cư, việc 
thông báo thu hồi đất, công bố công khai quyết định thu hồi, giao đất cho BQLRPH Khu Đông, 
tình trạng tranh chấp, khiếu nại về đất đai Qua thu thập, tổ chức thảo luận, phân tích, đánh 
giá, kết luận. 
2.2. Phương pháp phân tích, xử lý và tổng hợp số liệu 
Số liệu điều tra về tình hình quản lý, sử dụng đất tại BQLRPH Khu Đông, được sử 
dụng phần mềm Excel để tổng hợp, xử lý số liệu; qua đó thiết lập các bảng biểu, để phân tích 
số liệu, trên cơ sở đó đánh giá và đề xuất các hướng giải quyết. 
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
3.1. Hiện trạng và quy hoạch sử dụng đất và rừng của BQLRPH Khu Đông 
3.1.1. Tính pháp lý trong việc quản lý, sử dụng đất 
Việc nhà nước giao đất cho BQLRPH Khu Đông để quản lý, sử dụng là đúng theo chủ 
trương của Đảng và Nhà nước; đảm bảo cho tất cả các thửa đất đều có chủ quản lý; nhằm hoàn 
thiện hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu đất đai; đáp ứng cho yêu cầu của công tác quản lý nhà 
nước về đất đai trong thời gian đến. 
Qua công tác giao đất, giao rừng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đã xác 
định quyền quản lý và sử dụng đất hợp pháp cho Ban quản lý; nhằm thực hiện đúng quy định 
tại Điều 136 Luật Đất đai năm 2013 đối với đất rừng phòng hộ và đảm bảo cho Ban quản lý 
có được một số quyền chung của người sử dụng đất được quy định tại Điều 166, Luật Đất đai 
năm 2013. Ngoài ra, phải thực hiện một số nghĩa vụ chung của người sử dụng đất được quy 
định tại Điều 170, Luật Đất đai năm 2013. 
BQLRPH Khu Đông là tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, 
nên không có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê quyền sử dụng đất; thế 
chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất; không được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi 
đất theo quy định tại Khoản 2, Điều 173, Luật Đất đai năm 2013. Qua công tác giao đất, giao 
rừng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã làm cơ sở xác định rõ thẩm quyền trong 
việc giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định tại Điều 203, Luật Đất đai năm 2013. 
Diện tích đất quy hoạch 03 loại rừng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nói chung và huyện 
Ba Tơ nói riêng được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 871/QĐ-UBND ngày 23/4/2007; 
theo đó diện tích đất quy hoạch rừng phòng hộ đầu nguồn trên địa bàn 05 xã thuộc lâm phần 
Ban quản lý rừng phòng hộ Khu Đông quản lý là: 13.757,20 ha. Đến năm 2015, UBND tỉnh 
phê duyệt kết quả rà soát, điều chỉnh bổ sung quy hoạch 03 loại rừng trên địa bàn tỉnh theo 
quyết định số 2480/QĐ-UBND ngày 31/12/2015 (thay thế Quyết định số 871/QĐ-UBND ngày 
23/4/2007) với tổng diện tích 13.499,26. Kết quả chi tiết được thể hiện qua Biểu đồ 1. 
3.1.2. Hiện trạng sử dụng đất rừng phòng hộ thuộc lâm phần BQLRPH Khu Đông 
Diện tích đất quy hoạch 03 loại rừng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nói chung và huyện 
Ba Tơ nói riêng được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 871/QĐ-UBND ngày 23/4/2007; 
theo đó diện tích đất quy hoạch rừng phòng hộ đầu nguồn trên địa bàn 05 xã thuộc lâm phần 
do BQLRPH Khu Đông quản lý là: 13.757,20 ha. Đến năm 2015, UBND tỉnh phê duyệt kết 
quả rà soát, điều chỉnh bổ sung quy hoạch 03 loại rừng trên địa bàn tỉnh theo quyết định số 
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 2(2) - 2018 
628 
2480/QĐ-UBND ngày 31/12/2015 (thay thế Quyết định số 871/QĐ-UBND ngày 23/4/2007) 
với tổng diện tích 13.499,26 ha. Kết quả chi tiết được thể hiện qua Bảng 1. 
Bảng 1. Diện tích đất quy hoạch rừng phòng hộ thuộc Ban quản lý Khu Đông 
(Đơn vị: ha) 
Đơn vị hành chính 
Diện tích quy hoạch theo Quyết 
định số 871/QĐ-UBND ngày 
23/4/2007 
Diện tích quy hoạch theo Quyết 
định số 2480/QĐ-UBND ngày 
31/12/2015 
Ba Cung 232,00 199,65 
Ba Khâm 1.807,90 1.801,09 
Ba Liên 3.129,30 2.891,07 
Ba Trang 6.327,00 6.408,10 
Ba Vinh 2.261,00 2.199,35 
Tổng cộng 13.757,20 13.499,26 
3.2. Đánh giá chung về công tác quản lý sử dụng đất tại BQLRPH Khu Đông, huyện Ba Tơ 
3.2.3. Nguồn gốc đất thu hồi, giao cho Ban quản lý rừng phòng hộ Khu Đông 
Qua nghiên cứu nội dung tại Quyết định số 298/QĐ-UBND ngày 28/11/2013 của 
UBND tỉnh Quảng Ngãi về việc thu hồi và giao đất thì tại Điều 1 có nêu “Thu hồi một phần 
diện tích đất của UBND các xã Ba Vinh, Ba Liên, Ba Cung, Ba Khâm, Ba Trang, huyện Ba 
Tơ đang quản lý với tổng diện tích: 135.793.500,0 m2 (13.579,35 ha)”; Điều 2 “Giao phần 
diện tích đất đã thu hồi tại Điều 1 của Quyết định này cho Ban quản lý rừng phòng hộ Khu 
Đông huyện Ba Tơ để quản lý, bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ”. Như vậy, theo nội dung 
của Quyết định thì toàn bộ diện tích 13.579,35 ha là đất do UBND các xã quản lý. Tuy nhiên, 
qua nghiên cứu nội dung tại Tờ trình của UBND các xã và của Ban quản lý, cũng như qua việc 
điều tra, khảo sát ý kiến của một số hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trong khu vực quy 
hoạch rừng phòng hộ cho thấy: Trong tổng diện tích đất mà UBND tỉnh thu hồi của UBND 
các xã giao cho Ban quản lý có cả diện tích đất của người dân đang sử dụng. 
Biểu đồ 1. Tổng hợp số liệu nguồn gốc đất thu hồi, giao cho Ban quản lý 
Diện tích đất thực tế tại thời điểm thu hồi, giao đất cho Ban quản lý mà thuộc đất do 
UBND các xã quản lý chỉ là: 11.910,38 ha (trong đó: Diện tích đất có rừng phòng hộ 9.908,92 
ha; đất trống chưa sử dụng quy hoạch phòng hộ 2.001,46 ha); phần diện tích còn lại 1.668,97 
ha là thuộc diện tích đất nương rẫy và đất của hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng nằm trong 
quy hoạch rừng phòng hộ. Nội dung này tại các Tờ trình của UBND các xã, trình cho các cơ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 2(2) - 2018 
629 
0
2000
4000
6000
8000
10000
12000
14000
năm 2012 năm 2013 năm 2014 năm 2015 năm 2016
Đất có rừng phòng hộ
Đất chưa có rừng QHPH
Đất khác (NN, thổ cư,...)
quan có thẩm quyền để thu hồi và giao đất cho Ban quản lý cũng đều có thể hiện rõ phần diện 
tích đất này. 
3.2.2. Công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng của BQLRPH Khu Đông 
Hàng năm, Ban quản lý đều thực hiện nhiệm vụ của chủ rừng theo đúng quy định tại 
Điều 32 và Điều 37, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004. Trong quá trình thực hiện 
nhiệm vụ, nếu phát hiện những hành vi xâm hại đến diện tích rừng được Nhà nước giao cho 
Ban quản lý bảo vệ thì tổ chức lập hồ sơ chuyển cho cơ quan có thẩm quyền để xử lý theo quy 
định tại Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi 
phạm hành chính về quản lý rừng, phát triển rừng bảo vệ rừng và quản lý lâm sản và Nghị 
định số 40/2015/NĐ-CP ngày 27/4/2015 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của 
Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013. Ngoài ra, nếu phát hiện diện tích đất của 
mình đang quản lý bị lấn, chiếm trái pháp luật thì tổ chức lập hồ sơ vi phạm ban đầu chuyển 
cho UBND xã để xử lý theo quy định tại Nghị định số 105/2009/NĐ-CP ngày 11/11/2009 (nay 
là Nghị định số 102/2014/NĐ-CP ngày 10/11/2014 của Chính phủ) về xử phạt vi phạm hành 
chính trong lĩnh vực đất đai. 
Năm 2012, Ban quản lý được UBND tỉnh Quảng Ngãi giao rừng để quản lý, bảo vệ 
với tổng diện tích 10.826,82 ha, thuộc 591 lô, 147 khoảnh, 24 tiểu khu, trên địa bàn 05 xã theo 
Quyết định số 89/QĐ-UBND ngày 13/01/2012. Sau 05 năm thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà 
nước về rừng và đất lâm nghiệp thì tổng diện tích đất thuộc lâm phần của Ban quản lý hiện 
còn là: 13.416,91ha/1.669 lô (thửa); giảm 162,44 ha so với diện tích được UBND tỉnh giao tại 
Quyết định số 298/QĐ-UBND ngày 28/11/2013. 
Biểu đồ 2. Tổng hợp diễn biến rừng và đất lâm nghiệp từ năm 2012 – 2016 
Như vậy, tổng diện tích đất theo hồ sơ pháp lý là của BQLRPH Khu Đông; nhưng trên 
thực tế người dân đã sử dụng (trồng keo) là 3.448,32 ha chiếm 25,7% tổng diện tích thuộc lâm 
phần đơn vị quản lý tính đến ngày 31/12/2016 (13.416,91 ha); trong đó diện tích đã được người 
dân sử dụng trước thời điểm giao đất, giao rừng (trước năm 2013) là 2.794,37 ha; diện tích do 
lấn, chiếm sử dụng từ sau khi giao đất, giao rừng là 653,95 ha; những bất cập này đã gây khó 
khăn cho công tác quản lý, sử dụng đất của đơn vị. 
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 2(2) - 2018 
630 
Biểu đồ 3. Tổng hợp diện tích người dân đang sử dụng 
Diện tích đất có rừng trồng phòng hộ thực tế của Ban quản lý có đến ngày 31/12/2016 
chỉ là: 534,85 ha; giảm 412,50 ha. Diện tích rừng trồng của nhân dân trên đất đã được Nhà nước 
giao và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Ban quản lý là 2.921,51 ha; trong đó: Diện 
tích đất người dân đã sử dụng từ trước thời điểm giao đất cho Ban quản lý (trước năm 2013) là: 
2.471,72 ha và diện tích đất do lấn, chiếm sử dụng từ năm 2013 trở về sau là: 449,79 ha. 
3.3. Hiệu quả của công tác quản lý, sử dụng đất tại BQLRPH Khu Đông 
3.3.1. Hiệu quả của công tác khoán quản lý, bảo vệ rừng 
Chức năng, nhiệm vụ chính của BQLRPH Khu Đông là quản lý, bảo vệ diện tích đất 
có rừng tự nhiên và đất có rừng trồng phòng hộ hiện có; không để xảy ra mất rừng; đồng thời 
xây dựng quy hoạch, kế hoạch đưa diện tích đất trống quy hoạch chức năng phòng hộ trình cơ 
quan có thẩm quyền phê duyệt để thực hiện công tác phát triển rừng, nhằm đưa diện tích đất 
chưa sử dụng vào quản lý, sử dụng có hiệu quả. Đồng thời, thực hiện theo quy định tại Điều 
136 Luật Đất đai năm 2013 là BQLRPH được giao khoán đất rừng phòng hộ cho hộ gia đình, 
cá nhân đang sinh sống gần rừng để quản lý, bảo vệ, phát triển rừng. 
Ban quản lý, đã tổ chức thực hiện việc giao khoán đất có rừng phòng hộ đầu nguồn 
cho hộ gia đình, cá nhân đang sinh sống gần rừng để bảo vệ, phát triển rừng đảm bảo theo 
đúng quy định tại khoản 3, Điều 76, Luật Đất đai năm 2003 (nay là khoản 2, Điều 136, Luật 
Đất đai năm 2013). Từ năm 2011 - 2016, Ban quản lý đã thực hiện giao khoán trách nhiệm 
quản lý, bảo vệ cho 1.258 lượt hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn 05 xã, với tổng kinh phí để 
thanh toán tiền công bảo vệ rừng là 8.846.450.000,0 đồng. 
Bình quân mỗi năm có khoảng 5.655,11 ha đất có rừng phòng hộ được giao khoán bảo 
vệ, chiếm 52,23% diện tích đất có rừng được Nhà nước giao cho đơn vị quản lý và bình quân 
mỗi lượt hộ được nhận trên 7 triệu đồng/năm. 
Việc xét hộ để giao khoán theo tiêu chí phải là hộ nghèo hoặc hộ cận nghèo; sống gần 
với khu rừng giao khoán bảo vệ; đảm bảo đủ sức khỏe; tích cực trong phong trào quần chúng 
tham gia quản lý, bảo vệ rừng; mỗi hộ được giao khoán không quá 30 ha/hộ/năm; tiền công 
nhận khoán từ năm 2011 - 2013 là 200.000,0 đồng/ha/năm; từ năm 2014 - 2015 là 300.000,0 
đồng/ha/năm và năm 2016 là 400.000,0 đồng/ha/năm. Trên cơ sở hồ sơ đề nghị của UBND 
các xã; Ban quản lý xây dựng phương án trình Phòng NN&PTNT huyện thẩm định và UBND 
huyện phê duyệt. Sau khi phương án được phê duyệt, Ban quản lý tiến hành lập hồ sơ giao 
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 2(2) - 2018 
631 
khoán theo quy định tại Công văn số 4545/BNN-TCLN ngày 23/12/2013 của Bộ NN&PTNT, 
thời gian thực hiện giao khoán là 12 tháng tính từ ngày 01/01 đến 31/12. 
Bảng 2. Tổng hợp diện tích giao khoán bảo vệ rừng từ năm 2011 - 2016 
Năm 
Tổng cộng 
Giao khoán từ nguồn vốn của các chương trình, Dự án 
Bảo vệ và PTR 
(NS tỉnh) 
Nghị quyết 30a của CP 
và DA Jica2 (Vốn ODA) 
Ghi chú 
Diện tích 
(ha) 
Kinh phí 
(tr.đồng) 
Số hộ 
Diện 
tích(ha) 
Kinh phí 
(tr.đồng) 
Số 
hộ 
Diện tích 
(ha) 
Kinh phí 
(tr.đồng) 
Số 
hộ 
2011 2.720,0 544,00 96 720,0 144,00 29 2.000,0 400,00 67 
2012 720,0 144,00 29 720,0 144,00 29 - - - 
2013 9.542,4 1.908,48 352 348,0 69,60 14 9.194,4 1.838,88 338 
2014 3.088,2 734,27 122 410,0 90,82 16 2.678,2 643,45 106 Vốn ODA 
2015 9.356,5 2.666,30 351 922,0 295,94 10 8.434,5 2.370,36 341 Vốn ODA 
2016 8.503,6 2.849,40 308 922,0 295,94 10 7.581,6 2.553,46 298 Vốn ODA 
Tổng 33.930,7 8.846,45 1258 4.042,0 1.040,30 108 29.888,7 7.806,15 1150 
Qua nghiên cứu hồ sơ giao khoán, thì trong Hợp đồng giữa Ban quản lý với hộ gia 
đình, cá nhân, có xác nhận của UBND cấp xã nơi có rừng; được ràng buộc rất chặt chẽ về 
quyền lợi và nghĩa vụ của bên nhận khoán. Trên cơ sở Hợp đồng đã ký kết, các hộ nhận khoán 
tự tổ chức thành từng nhóm hộ từ 3 đến 5 người, theo từng thôn để tổ chức tuần tra, truy quét 
bảo vệ rừng, nhằm phát hiện kịp thời những hành vi xâm hại đến rừng để báo cáo cho bên giao 
khoán và cơ quan có thẩm quyền tiến hành lập hồ sơ để xử lý theo quy định của pháp luật. 
Việc giao khoán đem lại hiệu quả rất thiết thực. Qua kết quả điều tra, năm nào có diện tích 
được giao khoán nhiều thì số vụ vi phạm giảm (Bảng 3); qua công tác giao khoán đã hạn chế 
dần việc phá rừng, lấn chiếm đất lâm nghiệp trái pháp luật, nâng cao được ý thức bảo vệ rừng 
của hộ nhận khoán nói riêng và nhân dân trong các xã nói chung; tăng thêm nguồn thu nhập 
từ tiền công nhận khoán và việc khai thác các sản phẩm từ rừng như Mây nước, Sa nhân tím 
góp phần giảm nghèo nhanh và bền vững theo tinh thần Nghị quyết 30a của Chính phủ. 
3.3.2. Hiệu quả mô hình trồng cây Mây nước và cây Sa nhân tím dưới tán rừng phòng hộ 
Từ nhiều năm nay việc khai thác cây Mây nước và cây Sa nhân tím trong rừng tự 
nhiên phòng hộ đã góp phần tạo thêm nguồn thu nhập đáng kể cho người dân trên địa bàn 
huyện nói chung và người dân ở vùng nghiên cứu của đề tài này nói riêng. Tuy nhiên, việc 
khai thác mang tính chất tận diệt, không theo các biện pháp khoa học, kỹ thuật và cũng không 
có kế hoạch chăm sóc, trồng phục hồi lại, nên đã làm cho cây Mây nước và cây Sa nhân tím 
trong tự nhiên ngày dần trở nên cạn kiệt, thiếu tính bền vững. Xuất phát từ thực tế đó, năm 
2012, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi ban hành Quyết định số 193/QĐ-UBND ngày 
16/02/2012 về việc phê duyệt danh mục đề tài, dự án khoa học và công nghệ; giao cho Trạm 
Khuyến nông huyện Ba Tơ chủ trì thực hiện Dự án “Trồng và phát triển cây Mây nước và cây 
Sa nhân tím dưới tán rừng phòng hộ cho đồng bào dân tộc H’re ở huyện Ba Tơ”. 
Theo báo cáo của dự án “Trồng và phát triển cây Mây nước và cây Sa nhân tím dưới 
tán rừng phòng hộ cho đồng bào dân tộc H’re ở huyện Ba Tơ”, diện tích trồng cây Mây nước 
năm 2014 và năm 2015, đang trong thời kỳ sinh trưởng, phát triển; riêng diện tích trồng năm 
2013 đã phát từ 4 - 5 cành, có chiều cao từ 2,0 m - 2,5 m, tán lá so với gốc rộng 50 - 60 cm, 
cây đang vươn lóng, dự kiến đến năm thứ 05 (cuối năm 2017) sẽ có sợi mây leo lên cây, năm 
thứ 06 thu hoạch lứa đầu tiên và các năm tiếp theo thu hoạch quanh năm. Còn cây Sa nhân tím 
trồng trong năm 2014 và 2015 (diện tích 18,0 ha), đến nay thời gian sau khi trồng được từ 2,5 
- 3,5 năm; cây sinh trưởng khỏe mạnh, đang bắt đầu ra hoa kết trái; riêng diện tích trồng năm 
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 2(2) - 2018 
632 
2013 (02 ha) của 04 hộ ở thôn Bùi Hui đã ra hoa, đậu quả bói vụ đầu tiên và cho thu hoạch, 
năng suất thực thu đạt 70 kg khô/ha, bình quân thu nhập/hộ 8.225.000,0 đồng (35 kg x 235.000 
đồng/kg); nguồn thu nhập tuy không lớn, song so với hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo ở 
vùng cao, thì đây là nguồn thu nhập khá ổn định và bền vững. 
Đến nay, Dự án đã kết thúc giai đoạn đầu tư; để đánh giá tổng thể dự án; ngày 
15/9/2016, UBND huyện Ba Tơ phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Ngãi tổ 
chức Hội nghị tổng kết, đánh giá hiệu quả của Dự án; Hội nghị do đồng chí Huỳnh Thương - 
PCT. UBND huyện chủ trì và kết luận tại Thông báo số 856/TB-UBND ngày 23/9/2016. Tại 
Hội nghị các đại biểu đều nhận định đây là một mô hình mới, có ý nghĩa về mặt khoa học và 
thực tiễn, phù hợp với điều kiện tự nhiên của huyện. Mặc dù đây mới chỉ là mô hình thí điểm, 
nhưng Dự án bước đầu đã tạo được sự phấn khởi, đồng thuận của đồng bào dân tộc thiểu số 
sống gần rừng; việc trồng và phát triển cây Mây nước và cây Sa nhân tím dưới tán rừng phòng 
hộ đã giúp cho hộ nhận khoán bảo vệ rừng tăng thêm thu nhập, hạn chế việc phá rừng phòng 
hộ để lấy đất sản xuất, nâng cao ý thức bảo vệ rừng, góp phần bảo vệ môi trường bền vững; tạo 
nên sự đa dạng về lâm sản ngoài gỗ, tạo nguồn nguyên liệu cung cấp cho thị trường trong và 
ngoài nước. Tại Hội nghị, các đại biểu đã đề ra nhiệm vụ trong thời gian đến là tiếp tục quản 
lý, bảo vệ, chăm sóc diện tích đã trồng cây Mây nước và cây Sa nhân tím để ổn định cho thu 
hoạch; đồng thời, nghiên cứu áp dụng nhân rộng trên địa bàn các xã Ba Chùa, Ba Giang và Ba 
Liên. Hiện tại mô hình đang được triển khai tại tiểu khu 370, xã Ba Liên, với diện tích 4,5 ha. 
3.4. Những bất cập trong quản lý và sử dụng đất và rừng của BQLRPH Khu Đông 
3.4.1. Tác động của việc quản lý, sử dụng đất đến công tác quy hoạch, bảo tồn các điểm tích 
lịch sử 
Trên lâm phần do đơn vị quản lý hiện tồn tại 02 điểm di tích lịch sử gồm: Di tích Núi 
Cao Muôn, Hang Vọt Rẹp, thuộc các tiểu khu 343, 356, 363, 364, xã Ba Vinh, đây là hai điểm 
di tích gắn liền với cuộc khởi nghĩa Ba Tơ 11/3/1945. Diện tích rừng và đất lâm nghiệp tại khu 
vực Núi Cao Muôn, thuộc địa phận xã Ba Vinh và các xã giáp ranh như Ba Chùa, Ba Cung, 
Ba Dinh trước thời điểm năm 2007, được quy hoạch vào mục đích rừng đặc dụng, với tổng 
diện tích là 1.828,5 ha; trong đó: xã Ba Vinh 512,2 ha; xã Ba Dinh 704,3 ha; xã Ba Cung 169,0 
ha và xã Ba Chùa 443,0 ha. Như vậy, trên lâm phần của Ban quản lý trước đây có tồn tại 681,2 
ha đất rừng đặc dụng (gồm xã Ba Cung và Ba Vinh), chiếm 37,25% diện tích rừng đặc dụng 
của toàn huyện. Tuy nhiên, do công tác quản lý, sử dụng diện tích đất có rừng tự nhiên đặc 
dụng này chưa thực sự hiệu quả, tình trạng phá rừng, săn bắt động vật hoang dã trái phép một 
cách bừa bãi, đã làm cho một số loài động, thực vật quý hiếm bị mất dần, hệ sinh thái rừng bị 
suy giảm, nên khi thực hiện Chỉ thị số 38/2005/CT-TTg ngày 05/12/2005 của Thủ tướng Chính 
phủ về việc rà soát, quy hoạch lại 03 loại rừng; thì toàn bộ diện tích này không còn đủ tiêu chí 
của rừng đặc dụng, nên được quy hoạch chuyển sang mục đích rừng phòng hộ từ năm 2007 
cho đến nay. 
 Về quần thể di tích lịch sử nơi sống, làm việc và hy sinh của Anh hùng Liệt sĩ - Bác 
sĩ Đặng Thùy Trâm và cũng là rừng phòng hộ đầu nguồn Hồ Chứa Nước Liệt Sơn, có tổng 
diện tích khoảng 250,0 ha. Tổ Đồng Lớn hiện có gần 20 hộ gia đình, cá nhân đang sinh sống, 
xung quanh đều là diện tích đất có rừng tự nhiên phòng hộ (không có đất rừng sản xuất). 
Chính vì vậy, để đảm bảo cuộc sống họ phải tác động vào rừng để lấy đất sản xuất; làm cho 
diện tích rừng bị suy giảm nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến việc giữ gìn, bảo vệ, tôn tạo 
các điểm di tích lịch sử. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 2(2) - 2018 
633 
3.4.2. Những xung đột trong việc quản lý, sử dụng đất giữa người dân và BQLRPH Khu Đông 
Xung đột về đất đai trên địa bàn huyện nói chung và xung đột giữa người dân với các 
tổ chức sử dụng đất lâm nghiệp nói riêng trong thời gian qua là rất gay gắt và phức tạp; cụ thể 
như vụ xung đột giữa người dân xã Ba Bích với Công ty Cổ phần Huyền Trang; xung đột giữa 
người dân xã Ba Nam với Công ty TNHHMTV Lâm nghiệp Ba Tô; xung đột giữa người dân 
xã Ba Thành, Ba Vinh với Công ty TNHHMTV Lâm nghiệp Ba Tơ và xung đột giữa người 
dân xã Ba Thành, Ba Cung, Ba Khâm với BQLRPH Khu Đông  Đây đều là những vụ xung 
đột có tính chất nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn 
xã hội trên địa bàn huyện. Chính vì vậy mà trong thời gian qua Huyện ủy, UBND huyện đã 
ban hành nhiều văn bản chỉ đạo các cấp, các ngành tập trung phối hợp giải quyết dứt điểm các 
vụ xung đột này, không để xảy ra điểm nóng; có thể nói chưa khi nào mà cả hệ thống chính trị 
của huyện đặc biệt quan tâm đến vấn đề giải quyết các xung đột về đất đai như trong thời điểm 
hiện nay. Tuy nhiên, việc giải quyết vẫn chưa đem lại hiệu quả. Trong phạm vi nghiên cứu của 
đề tài này; qua nghiên cứu thực tế điển hình tại một số xã có diện tích đất của BQLRPH Khu 
Đông, thì việc phát sinh xung đột vì các nguyên nhân chính như: Do công tác bồi thường, thu 
hồi đất có nhiều bất cập, do công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. 
3.4.3. Tình hình phá rừng và lấn chiếm đất đai trái pháp luật 
Theo số liệu Báo cáo của BQLRPH Khu Đông, thì từ năm 2011 - 2016, trên lâm phần 
do đơn vị quản lý đã xảy ra 555 vụ/455,29 ha rừng và đất lâm nghiệp quy hoạch phòng hộ bị 
phá và lấn chiếm trái pháp luật; trong đó: Phá rừng: 247 vụ/199,35 ha; Lấn, chiếm đất đai: 308 
vụ/255,94 ha; 
Tình hình phá rừng, lấn chiếm đất lâm nghiệp trái pháp luật trên lâm phần do đơn vị 
quản lý là rất lớn, chỉ trong 06 năm mà đã có 199,35 ha rừng bị phá, bình quân mỗi năm có 
33,23 ha rừng bị mất và 255,94 ha đất lâm nghiệp quy hoạch cho mục đích phòng hộ bị lấn, 
chiếm trái pháp luật, bình quân mỗi năm có 42,66 ha đất bị lấn, chiếm. Xã có số vụ vi phạm 
nhiều nhất là xã Ba Liên 155 vụ/125,29 ha (trong đó: Phá rừng 67 vụ/47,97 ha; lấn chiếm đất 
88 vụ/77,32 ha); xã có số vụ ít nhất là xã Ba Cung 65 vụ/50,51 ha (trong đó: Phá rừng 28 
vụ/20,42 ha; lấn chiếm đất 37 vụ/30,09 ha). Kết quả xử lý các vụ vi phạm như sau: 
Về xử lý hình sự: 02 vụ/03 đối tượng/1,20 ha rừng tự nhiên bị phá tại tiểu khu 370, xã 
Ba Liên; đối tượng phá rừng là các ông Phạm Văn Kít, bà Phạm Thị Keo và bà Phạm Thị Phá, 
đều thường trú tại thôn Núi Ngang, xã Ba Liên; cả hai vụ việc đều bị Cơ quan cảnh sát điều 
tra Công an huyện Ba Tơ truy tố về tội “Hủy hoại rừng” và Tòa án nhân dân huyện xét xử với 
mức án 36 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo và buộc các bị cáo phải bồi thường chi phí khôi 
phục lại rừng (trồng lại rừng thay thế), với số tiền 33.960.000,0 đồng. Đến nay, các đối tượng 
vi phạm đều đã thi hành xong chi phí khôi phục lại rừng. 
Về xử lý hành chính: Tổng số vụ đã chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền (UBND 
xã và Hạt Kiểm lâm huyện) ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là: 53 vụ/26,70 
ha/139.000.000,0 đồng; trong đó: Xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực đất đai (đối với 
hành vi lấn, chiếm đất) theo Nghị định số 105/2009/NĐ-CP ngày 11/11/2009 của Chính phủ 
(nay được thay thế theo Nghị định số 102/2014/NĐ-CP ngày 10/11/2014 của Chính phủ) là 
40 vụ/22,23 ha/92.000.000,0 đồng và xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực quản lý, bảo vệ 
rừng theo Nghị định số 99/2009/NĐ-CP ngày 02/11/2009 của Chính phủ (nay được thay thế 
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 2(2) - 2018 
634 
theo Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ) là 13 vụ/4,47 
ha/47.000.000,0 đồng. 
Số vụ không xác định được đối tượng vi phạm: Đã thực hiện phá bỏ cây trồng trái 
phép theo Chỉ thị số 08/CT-UBND ngày 19/8/2014 của Chủ tịch UBND huyện là: 88vụ/58,48 
ha (Trong đó: Phá bỏ cây trồng trên diện tích đất lấn chiếm là 60 vụ/41,06 ha và trên diện tích 
rừng bị phá là 28 vụ/17,42 ha). 
Số vụ còn lại chưa được xử lý là 412 vụ/368,91 ha (Trong đó: Phá rừng 204 vụ/176,26 
ha và lấn chiếm đất là 208/192,65 ha). Toàn bộ số vụ này đều không xác định được đối tượng 
vi phạm; nên không có cơ sở để xử lý vi phạm hành chính. Qua ý kiến của đại diện lãnh đạo 
Ban quản lý thì để xử lý các vụ việc này chỉ có thực hiện việc phá bỏ cây trồng trái phép trên 
đất vi phạm theo tinh thần Chỉ thị số 08/CT-UBND ngày 19/8/2014 của Chủ tịch UBND 
huyện. Tuy nhiên, để thực hiện được công việc này thì cần phải có kinh phí để thuê nhân công; 
nhưng hiện nay nguồn kinh phí của đơn vị rất hạn chế, chưa đủ nguồn lực để thực hiện cho 
công tác này. 
Từ kết quả trên cho thấy: Số vụ việc vi phạm pháp luật, về rừng và đất lâm nghiệp bị 
xử lý là rất ít, chỉ có 143 vụ/86,38 ha, đạt tỷ lệ 25,77% về số vụ, 18,97% về diện tích. 
Bảng 3. Tổng hợp số vụ vi phạm về rừng và đất từ năm 2011-2016 
T
T 
Tên xã 
Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 
Phá rừng Lấn, chiếm đất Phá rừng Lấn, chiếm đất Phá rừng Lấn, chiếm đất 
Số 
vụ 
(vụ) 
Diện 
tích 
(ha) 
Số 
vụ 
(vụ) 
Diện 
tích 
(ha) 
Số 
vụ 
(vụ) 
Diện 
tích 
(ha) 
Số 
vụ 
(vụ) 
Diện 
tích 
(ha) 
Số 
vụ 
(vụ) 
Diện 
tích 
(ha) 
Số 
vụ 
(vụ) 
Diện 
tích 
(ha) 
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 
1 Ba Cung 6 3,80 8 6,40 9 4,90 12 4,90 4 4,70 7 9,90 
2 Ba Khâm 12 11,70 15 19,70 6 8,20 9 11,60 5 6,50 8 6,90 
3 Ba Liên 11 9,80 16 18,90 13 14,50 16 25,00 5 6,90 9 7,20 
4 Ba Trang 13 8,70 14 16,50 9 8,90 17 9,80 6 7,80 11 6,80 
5 Ba Vinh 8 5,70 9 15,60 12 12,40 14 8,30 6 8,20 11 8,60 
Tổng cộng 50 39,70 62 77,10 49 48,90 68 59,60 26 34,10 46 39,40 
T
T 
Tên xã 
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 
Phá rừng Lấn, chiếm đất Phá rừng Lấn, chiếm đất Phá rừng Lấn, chiếm đất 
Số 
vụ 
(vụ) 
Diện 
tích 
(ha) 
Số 
vụ 
(vụ) 
Diện 
tích 
(ha) 
Số 
vụ 
(vụ) 
Diện 
tích 
(ha) 
Số 
vụ 
(vụ) 
Diện 
tích 
(ha) 
Số 
vụ 
(vụ) 
Diện 
tích 
(ha) 
Số 
vụ 
(vụ) 
Diện 
tích 
(ha) 
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 
1 Ba Cung 5 4,90 6 5,60 2 0,62 1 0,73 2 1,50 3 2,56 
2 Ba Khâm 9 6,80 12 6,70 4 7,50 3 2,50 10 7,38 1 1,01 
3 Ba Liên 13 9,50 16 10,60 5 3,16 1 0,05 20 4,11 30 15,57 
4 Ba Trang 16 9,70 15 9,70 5 5,36 1 1,12 13 4,21 23 6,69 
5 Ba Vinh 11 6,90 11 6,80 4 3,26 4 5,58 3 1,75 5 4,63 
Tổng cộng 54 37,80 60 39,40 20 19,90 10 9,98 48 18,95 62 30,46 
Phá rừng 
 (vụ) 
Diện tích 
 (ha) 
Lấn, chiếm đất 
(vụ) 
Diện tích 
 (ha) 
1 Ba Cung 28 20,42 37 30,09 
2 Ba Khâm 46 48,08 48 48,41 
3 Ba Liên 67 47,97 88 77,32 
4 Ba Trang 62 44,67 81 50,61 
5 Ba Vinh 44 38,21 54 49,51 
Tổng cộng 247 199,35 308 255,94 
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 2(2) - 2018 
635 
3.5. Đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất 
3.5.1. Đối với công tác quản lý, sử dụng đất 
Ban quản lý cần thực hiện rà soát lại hiện trạng toàn bộ diện tích đất được nhà nước 
giao quản lý, sử dụng để có kế hoạch và biện pháp xử lý những tồn tại, vướng mắc trong việc 
quản lý, sử dụng đất của mình. 
Diện tích đất theo hồ sơ pháp lý là của Ban quản lý; nhưng trên thực tế người dân đã 
sử dụng (trồng keo) là 3.448,32 ha, đơn vị không quản lý được; chiếm 25,70% diện tích lâm 
phần của Ban. Trong phần diện tích này hiện tại có 2.794,37 ha người dân đã sử dụng ổn định 
từ trước khi giao đất, giao rừng cho Ban quản lý (sử dụng trước năm 2013); trong quá trình 
lập hồ sơ thu hồi, giao đất chưa có quyết định thu hồi đất chi tiết, chưa thực hiện các chính 
sách bồi thường, hỗ trợ theo quy định. Do đó, Ban quản lý cần có báo cáo cụ thể và đề xuất, 
kiến nghị Nhà nước quan tâm, xem xét thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ theo đúng quy 
định của pháp luật. 
Đối với diện tích 653,95 ha bị người dân phá rừng, lấn chiếm đất trái pháp luật từ sau 
năm 2013 đến nay; Ban quản lý cần tăng cường phối hợp với UBND các xã, Hạt Kiểm lâm và 
các ban, ngành của huyện tổ chức thẩm tra, xác minh tìm đối tượng vi phạm để lập hồ sơ xử 
lý theo đúng quy định của pháp luật. Trường hợp không tìm ra đối tượng vi phạm thì thông 
báo và chuẩn bị lực lượng tổ chức phá bỏ cây trồng trên đất vi phạm theo tinh thần Chỉ thị số 
08/CT-UBND ngày 19/8/2014 của Chủ tịch UBND huyện về việc tăng cường kiểm tra, xử lý 
hành vi phá rừng, lấn, chiếm đất lâm nghiệp trái pháp luật trên địa bàn huyện. 
Rà soát diện tích đất người dân đang sử dụng và diện tích đất rừng phòng hộ đầu nguồn 
ít xung yếu theo tiêu chí quy định tại Quyết định số 845/QĐ-BNN-TCLN ngày 16/3/2016 của 
Bộ NN&PTNT để đề nghị cơ quan có thẩm quyền chuyển sang quy hoạch rừng sản xuất với 
tổng diện tích dự kiến 3.203,95 ha. 
Điều chỉnh lại quy hoạch 03 loại rừng đã được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định 
số 2480/QĐ-UBND ngày 31/12/2015, theo hướng chuyển toàn bộ diện tích rừng và đất lâm 
nghiệp ít xung yếu sang đất rừng sản xuất. Trên cơ sở đó, đề nghị UBND tỉnh thay thế Quyết 
định 298/QĐ-UBND ngày 28/11/2013 về việc thu hồi, giao đất cho Ban quản lý, đảm bảo 
đúng thực tế diện tích mà đơn vị hiện đang quản lý được trên thực địa. Đồng thời, điều chỉnh 
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng quy định. 
Kiến nghị UBND huyện, Sở NN&PTNT quan tâm, chỉ đạo giải quyết dứt điểm các 
trường hợp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân chồng lên diện 
tích đất quy hoạch rừng phòng hộ mà đã giao và cấp giấy chứng nhận cho Ban quản lý. Đảm 
bảo lợi ích hài hòa, giữa Ban quản lý và người dân. 
Các cơ quan có thẩm quyền cần quan tâm nhiều hơn nữa đến công tác điều tra, xác 
minh, truy tìm đối tượng phá rừng, lấn chiếm đất lâm nghiệp quy hoạch phòng hộ trái pháp 
luật để xác lập hồ sơ vi phạm và kiên quyết xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật; bởi vì 
qua nghiên cứu thì số vụ vi phạm còn tồn đọng chưa được xử lý chiếm tới 75,0%. Chính vì 
không giải quyết dứt điểm nên không có tính răn đe, giáo dục trong nhân dân. 
3.5.2. Đề xuất các chính sách 
Về chính sách đất đai: Tiếp tục đẩy mạnh công tác giao khoán bảo vệ rừng từ các 
nguồn vốn như: Bảo vệ và phát triển rừng, Nghị quyết 30a, Dự án JICA 2, Nghị định 75/2015 
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 2(2) - 2018 
636 
của Chính phủ... cho hộ gia đình, cá nhân đang sinh sống gần rừng; nhằm góp phần xói đói, 
giảm nghèo, hạn chế tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất trái pháp luật. Đồng thời, cần quan 
tâm xem xét giao đất cho hộ gia đình, cá nhân sống trong khu vực quy hoạch rừng phòng hộ 
từ quỹ đất UBND tỉnh thu hồi của Công ty TNHHMTV Lâm nghiệp Ba Tơ và Công ty Cổ 
phần Tập Đoàn Giấy Tân Mai; trong đó cần đặc biệt quan tâm đến 20 hộ gia đình, cá nhân 
đang sinh sống tại Tổ Đồng Lớn, thôn Nước Đang, xã Ba Trang. 
Về chính sách tài chính: Nhà nước cần quan tâm, bố trí kịp thời các nguồn vốn từ các 
chương trình, dự án; đảm bảo tính liên tục, ổn định lâu dài từ 5 đến 10 năm hoặc nhiều hơn nữa 
để Ban quản lý chủ động trong việc lập phương án giao khoán, bảo vệ và phát triển rừng. Ngoài 
ra, cần phải quan tâm bố trí đủ kinh phí để thực hiện việc phá bỏ cây trồng trái phép trên đất vi 
phạm theo tinh thần Chỉ thị số 08/CT-UBND ngày 19/8/2014 của Chủ tịch UBND huyện. Bên 
cạnh đó UBND tỉnh cần quan tâm dành nguồn lực để đầu tư xây dựng, phục hồi, trùng tu các 
điểm di tích lịch sử thuộc quần thể di tích Anh hùng Liệt sĩ - Bác sĩ Đặng Thùy Trâm, kết hợp 
giữa du lịch tâm linh gắn với du lịch sinh thái theo đúng quy hoạch đã được phê duyệt. 
Về nguồn nhân lực: Theo quy định của Chính phủ thì cứ bình quân 700 ha rừng có 01 
biên chế; như vậy Ban quản lý cần phải có khoảng 19 - 20 biên chế để quản lý, bảo vệ 
13.579,35 ha. Tuy nhiên, hiện tại Ban quản lý mới chỉ có 06 biên chế, còn thiếu ít nhất là 13 
biên chế. Do đó, Nhà nước cần bố trí, sắp xếp đủ biên chế cho đơn vị; việc tuyển dụng phải 
thực sự khách quan, công khai, dân chủ, minh bạch, lựa chọn những người thật sự có trình độ, 
đúng chuyên môn, có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Ngoài 
ra, cần tổ chức thành lập lực lượng bảo vệ rừng chuyên trách của chủ rừng theo Quy định tại 
Quyết định số 44/2016/QĐ-TTg ngày 19/10/2016 của Thủ Tướng Chính phủ. Đồng thời, cử 
những cán bộ, viên chức trẻ có năng lực đi đào tạo lại chuyên ngành về lâm nghiệp và quản lý 
đất đai để đáp ứng theo yêu cầu nhiệm vụ trong thời gian đến; bởi vì qua nghiên cứu cho thấy 
cán bộ, viên chức đang làm việc tại Ban quản lý có trình độ chuyên môn không đúng với nhiệm 
vụ được giao. 
Về chính sách an sinh xã hội: Tổng số hộ nghèo và cận nghèo trên địa bàn 05 xã của 
vùng nghiên cứu là 1.448 hộ, chiếm 44,57%. Do đó, nhà nước cần quan tâm đầu tư phát triển 
cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất theo Nghị quyết 30a của Chính phủ, tạo mọi điều kiện 
thuận lợi để hộ gia đình, cá nhân vươn lên thoát nghèo; xem đây là một giải pháp hữu hiệu 
nhằm làm giảm tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất trái pháp luật. 
Chính sách về đầu tư cơ sở hạ, trang thiết bị, công cụ hỗ trợ: Nhà nước cần quan tâm 
đầu tư kinh phí cho Ban quản lý để xây dựng trụ sở làm việc, xây dựng thêm các Trạm quản 
lý bảo vệ rừng tại các xã Ba Trang, BaVinh và mua sắm các công cụ hỗ trợ cho lực lượng bảo 
vệ rừng chuyên trách để sử dụng trong thi hành nhiệm vụ. 
4. KẾT LUẬN 
Quá trình thành lập các Ban quản lý rừng phòng hộ trên địa bàn tỉnh nói chung và 
BQLRPH Khu Đông nói riêng đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật, với mục tiêu là xác 
lập quyền quản lý, sử dụng diện tích đất lâm nghiệp quy hoạch rừng phòng hộ cho các Ban 
quản lý này; góp phần giữ ổn định diện tích rừng, bảo vệ môi trường, tăng cường khả năng 
phòng hộ đầu nguồn. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 2(2) - 2018 
637 
Theo quyết định số 2480/QĐ-UBND tỉnh Quảng Ngãi ngày 31/12/2015 về việc phê 
duyệt kết quả rà soát, điều chỉnh bổ sung quy hoạch 03 loại rừng trên địa bàn tỉnh thì BQLRPH 
Khu Đông hiện tại đang quản lý 13.499,26 ha diện tích đất rừng. 
Trên thực tế người dân đã sử dụng (trồng keo) 3.448,32 ha chiếm 25,7% tổng diện 
tích thuộc lâm phần đơn vị quản lý tính đến ngày 31/12/2016 (13.416,91 ha); trong đó diện 
tích đã được người dân sử dụng trước thời điểm giao đất, giao rừng (trước năm 2013) là 
2.794,37 ha; diện tích do lấn, chiếm sử dụng từ sau khi giao đất, giao rừng là 653,95 ha; những 
bất cập này, đã gây khó khăn cho công tác quản lý, sử dụng đất của đơn vị. 
Từ năm 2011 - 2016, Ban quản lý đã thực hiện giao khoán trách nhiệm quản lý, bảo 
vệ cho 1.258 lượt hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn 05 xã, với tổng kinh phí để thanh toán tiền 
công bảo vệ rừng là 8.846.450.000,0 đồng. 
Diện tích đất thực tế tại thời điểm thu hồi, giao đất cho Ban quản lý mà thuộc đất do 
UBND các xã quản lý chỉ là 11.910,38 ha (trong đó: Diện tích đất có rừng phòng hộ 9.908,92 
ha; đất trống chưa sử dụng quy hoạch phòng hộ 2.001,46 ha); phần diện tích còn lại 1.668,97 
ha là thuộc diện tích đất nương rẫy và đất của hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng nằm trong 
quy hoạch rừng phòng hộ 
Từ nhiều năm nay, việc khai thác cây Mây nước và cây Sa nhân tím trong rừng tự 
nhiên phòng hộ đã trở thành mô hình sản xuất kinh doanh chủ chốt của địa phương, nó đã góp 
phần tạo thêm nguồn thu nhập đáng kể cho người dân. 
Tình hình phá rừng, lấn chiếm đất lâm nghiệp trái pháp luật trên lâm phần do đơn vị 
quản lý là rất lớn, chỉ trong 06 năm mà đã có 199,35 ha rừng bị phá, bình quân mỗi năm có 
33,23 ha rừng bị mất và 255,94 ha đất lâm nghiệp quy hoạch cho mục đích phòng hộ bị lấn, 
chiếm trái pháp luật, bình quân mỗi năm có 42,66 ha đất bị lấn, chiếm. Xã có số vụ vi phạm 
nhiều nhất là xã Ba Liên 155 vụ/125,29 ha (trong đó: Phá rừng 67 vụ/47,97 ha; lấn chiếm đất 
88 vụ/77,32 ha); xã có số vụ ít nhất là xã Ba Cung 65 vụ/50,51 ha (trong đó: Phá rừng 28 
vụ/20,42 ha; lấn chiếm đất 37 vụ/30,09 ha). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Ban Quản lý Rừng phòng hộ Khu Đông Ba Tơ. (2016). Báo cáo số 15/BC-BQL ngày 04/3/2016, về tình 
hình và kết quả hoạt động của Ban quản lý trong năm 2014 và 2015 để phục vụ công tác thanh 
tra. 
Ban Quản lý Rừng phòng hộ Khu Đông Ba Tơ. (2016). Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác 
năm từ năm 2011- 2016. 
Ban Quản lý Rừng phòng hộ Khu Đông Ba Tơ. (2016). Báo cáo số 68/BC-BQL ngày 24/10/2016, về 
kết quả thực hiện công tác kiểm kê rừng. 
Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn. (2015). Dự án tổng điều tra, kiểm kê rừng toàn quốc giai đoạn 
2012 – 2015. 
Chi cục Thống kê huyện Ba Tơ. (2016). Niên giám thống kê huyện Ba Tơ năm 2011 - 2016. 
Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn & Môi trường. (2011). Tài liệu hướng dẫn đánh giá tác động của 
Biến đổi khí hậu và xác định các giải pháp thích ứng. 
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 2(2) - 2018 
638 
CURRENT STATUS AND SOLUSIONS TO IMPROVE THE EFFECTIVENESS OF 
MANAGEMENT AND USING LAND AT THE KHU DONG PROTECTION FOREST 
MANAGEMENT COMMETTEE IN BA TO DISTRICT, QUANG NGAI PROVINCE 
Huynh Van Chuong, Le Hoang Vu, Nguyen Ngoc Thanh 
Hue University – University of Agriculture and Forestry 
Contact email: nguyenngocthanh@huaf.edu.vn 
ABSTRACT 
This article forcuses on the evaluation of the current status of protection forest and land use 
management at the Khu Dong Protection Forest Management Commettee (PFMC) in Ba To district, 
Quang Ngai province. Two main methods were used, including: the data collection methods and data 
analysis, processing, synthetical methods. Following land use plan of Quang Ngai Committee, the total 
area of protection forest in five wards (Ba Cung, Ba Kham, Ba Liên, Ba Vinh, Ba Trang) belong to the 
Khu Dong protection forest management is 13,499.26 ha. From the investigation process, we know that 
the forest land use rights of Khu Dong PFMC have been given local people to use and manage, so, 
which has promoted forest protection and economic development of the locality. In the study area, 
Daemonorops poilanei and Amomum longiligulare are planted widely and popularly. 
Key words: Status, Solutions, Protection Forest, Ba To, Quang Ngai 
Received: 15th March 2018 Reviewed: 30th April 2018 Accepted: 15th May 2018 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 thuc_trang_va_giai_phap_nang_cao_hieu_qua_quan_ly_su_dung_da.pdf thuc_trang_va_giai_phap_nang_cao_hieu_qua_quan_ly_su_dung_da.pdf