LỜI MỞ ĐẦU.
Thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá do Đảng cộng sản Việt Nam đề ra cùng với sự lãnh đạo của gần 20 năm qua. Công ty Viễn thông Quốc tế(VTI) nói chung và Trung tâm Viễn thông quốc tế Khu vực 1 nói riêng đã có những bước tiến vượt bậc, ngày càng vươn lên sánh vai cùng với các nước trong khu vực.Trước yêu cầu của công nghiệp đổi mới ngày càng diễn ra mạnh mẽ, nhất thiết chúng ta phải có một hệ thống thông tin hoàn hảo, làm cơ sở cho việc phát triển và tăng trưởng kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, từng bước đưa viễn thông quốc tế làm khâu đột phá ngay từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới.
Đến nay, Công ty Viễn thông Quốc tế đã có một mạng lưới viễn thông quốc tế tương đối hoàn chỉnh, công nghệ hiện đại tương thích với thế giới, bao gồm 3 tổng đài cửa quốc tế, 6 trạm mặt đất thông tin vệ tinh làm việc với 2 hệ thống thông tin vệ tinh quốc tế Intelsat và Intersputnik; một hệ thống mạng thông tin vệ tinh VSAT với hàng trăm trạm đầu cuối đã được lắp đặt phục vụ thông tin liên lạc vùng sâu vùng xa, biên giới, hải đảo và các đối tượng khách hàng có nhu cầu phục vụ; có nhiều tuyến cáp quang biển quốc tế. Hiện nay VN đã liên lạc được với hầu hết các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Để có được những thành quả trên, các cán bộ công nhân viên ngành Bưu chính viễn thông đã nỗ lực không ngừng. Với việc nâng cao hiệu quả đầu tư, các lãnh đạo ngành đã tiên tiến trong việc áp dụng hình thức đấu thầu vào đầu tư. Đây là một hình thức đã được áp dụng tương đối sớm trong hoạt động đầu tư của ngành. Chính từ những hiệu quả mang lại từ công tác đấu thầu, như lựa chọn được nhà thầu tốt, giá cả thấp nhất và những sửa đổi ngày càng hoàn thiện của hệ thống văn bản pháp luật, đã giúp cho các cán bộ công nhân viên tại Trung tâm yên tâm thực hiện hình thức đấu thầu, nâng cao hiệu quả đầu tư, hiệu quả sử dụng vốn.
Do hoạt động đầu tư chính của Trung tâm là đấu thầu, nên trong quá trình thực tập, em đã được học hỏi rất nhiều từ kinh nghiệm thực tế trong công tác tổ chức đấu thầu tại đây. Nên em đã lựa chọn đề tài về mảng đấu thầu để viết chuyên đề, với tên đề tài: “ Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực tổ chức đấu thầu tại Trung tâm Viễn thông Quốc tế khu vực 1”. Từ thực trạng, em đã nghiên cứu khi học hỏi tại Trung tâm, em đã đưa ra các giải pháp vừa là giải pháp riêng cho Trung tâm, vừa là giải pháp chung cho ngành Bưu chính Viễn thông.
Cơ cấu chuyên đề em viết gồm có 2 phần chính:
*Chương 1: Thực trạng công tác tổ chức đấu thầu tại Trung tâm viễn thông Quốc tế Khu vực 1.
-Sơ lược về Trung tâm Viễn thông Quốc tế Khu vực 1.
-Tình hình tổ chức đấu thầu tại Trung tâm Viễn thông Quốc tế khu Vực 1.
-Đánh giá công tác tổ chức đấu thầu tại TTVTQTKV 1.
*Chương 2: Các giải pháp nâng cao năng lực công tác tổ chức đấu thầu tại Trung tâm Viễn thông Quốc tế Khu vực 1.
+Định hướng, mục tiêu của Trung tâm.
+Giải pháp.
Công tác đấu thầu của Trung tâm ngày càng được hoàn thiện dần, ngày càng nâng cao hiệu quả đầu tư; nhằm hiện đại hoá mạng lưới viễn thông Việt Nam nói chung và mạng lưới viễn thông quốc tế nói riêng, phát triển nhanh các dịch vụ viễn thông quốc tế, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
90 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 1576 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực tổ chức đấu thầu tại Trung tâm Viễn thông Quốc tế khu vực 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
-11/1995: Đưa vào khai thác hệ thống cáp quang biển TVH- hệ thống cáp quang biển quốc tế đầu tiên của Việt Nam kết nối 3 nước Thái Lan -Việt Nam - Hồng Kông.
-10/1996: Chính thức cung cấp dịch vụ kênh thuê riêng qua VSAT.
-7/1999: Đưa vào khai thác dịch vụ cáp quang biển quốc tế SMW-3 kết nối Việt Nam với gần 40 nước Á - Âu.
-11/1999: Bắt đầu cung cấp dịch vụ phát hình di động qua trạm VSAT Flyaway.
-9/2001: Trở thành nhà cung cấp dịch vụ viễn thông quốc tế đầu tiên tại Việt Nam cung cấp dịch vụ VoIP quốc tế.
-5/2005: Bắt đầu cung cấp dịch vụ Advantage Collect và Credit Call với đối tác BBG (Hoa Kỳ).
-8/2005: Bắt đầu cung cấp dịch vụ VSAT-IP băng rộng.
-11/2006: Đưa vào khai thác tuyến cáp quang đất quốc tế Việt Nam-Trung Quốc với đối tác China Unicom.
-1/2007: Bắt đầu cung cấp dịch vụ I-VPN/MPLS với đối tác Verizon Business (VzB).
Để có những thành quả như ngày hôm nay, cán bộ công nhân viên của cả ngành Viễn thông nói chung cũng như cán bộ công nhân viên của Trung tâm nói riêng đã không ngừng nỗ lực làm việc hiệu quả, áp dụng các máy móc thiết bị hiện đại, các biện pháp quản lý, phương pháp đầu tư tiên tiến, có hiệu quả nhất.
Cùng với việc ngày càng hoàn thiện hơn nữa trong các văn bản luật liên quan đấu thầu, và việc áp dụng hoạt động đấu thầu vào hoạt động đầu tư, đã đem lại những hiệu quả lớn. Do tính chất chuyên ngành của Viễn thông, các dự án có kỹ thuật phức tạp nên việc áp dụng công tác đấu thầu rộng rãi sẽ giúp Trung tâm lựa chọn đuợc nhà thầu ưng ý nhất, đáp ứng được đầy đủ các điều kiện mà bên mời thầu đề ra.
Trong vài ba năm nay, Trung tâm đã áp dụng đầy đủ yêu cầu, thủ tục của ngành và của Công ty về công tác đấu thầu. Trung tâm đã có những thành công nhất định.
a.Qui mô và số lượng các gói thầu ở Trung tâm:
Để đánh giá hiệu quả tổ chức đấu thầu tại Trung tâm, trước hết là xét đến qui mô và số lượng các gói thầu. Với số lượng các gói thầu tăng lên qua các năm cho thấy nhu cầu đầu tư của Trung tâm luôn tăng, phản ánh qui mô đầu tư của Trung tâm với mục đích luôn đa dạng và nâng cao chất lượng các dịch vụ Viễn thông. Điều này được thể hiện rõ nét ở bảng sau.
Bảng 3: Số dự án tiến hành các hình thức đấu thầu qua các năm của Trung tâm;
Năm
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006
Số dự án
Tỷ lệ (%)
Số dự án
Tỷ lệ (%)
Số dự án
Tỷ lệ (%)
Số dự án
Tỷ lệ (%)
Số dự án
Tỷ lệ (%)
Số dự án đấu thầu rộng rãi
0
0
0
0
1
7,1
2
11,1
5
25
Số dự án đấu thầu hạn chế
0
25
1
7,2
2
14,3
3
16,7
1
5
Số dự án chào hàng cạnh tranh
5
75
7
71,4
10
71,5
12
66,7
8
40
Số dự án chỉ định thầu
2
0
3
21,4
1
7,1
1
5,5
6
30
Tổng
7
100
11
100
14
100
18
100
20
100
Nguồn: Trung tâm viễn thông quốc tế khu vực 1.
Qua bảng số liệu, trong những năm gần đây số lượng dự án tiến hành đấu thầu ngày một tăng lên. Đặc biệt là số dự án đấu thầu rộng rãi đã tăng từ 2 dự án (năm 2005) lên 5 dự án (năm 2006). Cho thấy tính phân cấp từ công ty xuống trung tâm ngày một lớn. Trung tâm đã có nhiều dự án lớn với trách nhiệm ngày một tăng, đòi hỏi trung tâm phải hoạt động đầu tư hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, số dự án đấu thầu hạn chế đã giảm từ 4 dự án (năm 2005) xuống 1 dự án (năm 2006), số dựa án chào hàng cạnh tranh cũng giảm xuống từ 12 dự án (năm 2005) xuống 8 dự án (năm 2006) mà tăng đấu thầu rộng rãi, qua đây cho thấy trung tâm đang từng bước nâng cao hiệu quả công tác đấu thầu.
Sở dĩ có sự tăng lên của các gói thầu tiến hành đấu thầu rộng rãi là do Trung tâm đã nhận thấy đựơc ưu thế của đấu thầu rộng rãi. Bên cạnh đó còn có một nguyên nhân chính nữa là, trước đây các dự án của Trung tâm là mua sắm máy móc thiết bị thường mang tính đặc chủng, chuyên ngành chỉ có một số hãng nổi tiếng trên thế giới mới có, nên việc đấu thầu mua sắm hay xây dựng, lắp đặt thường là đấu thầu hạn chế, chỉ định thầu hay chào hàng cạnh tranh. Cùng với sự bùng nổ của khoa học công nghệ, đã có nhiều hãng sản xuất được các thiết bị về thông tin, có nhiều thiết bị thay thế hơn, giảm tính đặc chủng nên Trung tâm dễ dàng tiến hành đấu thầu rộng rãi để lựa chọn được nhà thầu đảm bảo chất lượng, với giá thấp nhất. Cũng do tính chuyên ngành nên chu kỳ của các thiết bị tại Trung tâm thường 5 năm lại thay thế hoặc được nâng cấp lên. Chính vì vậy mà trung tâm cứ sau một giai đoạn của thiết bị lại tiến hành đấu thầu rộng rãi các thiết bị, kiến cho công tác đấu thầu ngày một tăng về số lượng gói thầu và chất lượng gói thầu ngày một tăng, góp phần nâng cao kinh nghiệm, trình độ của cán bộ làm công tác đấu thầu.
Không chỉ số lượng các gói thầu tăng mà còn cả qui mô các gói thầu cũng không ngừng tăng.
Bảng 4: Qui mô các gói thầu của Trung tâm giai đoạn 2002-2006:
Năm
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006
Số gói thầu trị giá trên 1 tỷ đồng
0
0
1
2
3
Số gói thầu trị giá trên 200 triệu đồng và dưới 1 tỷ đồng
1
2
3
2
4
Số gói thầu trị giá dưới 200 triệu đồng
6
9
10
14
13
Nguồn: Trung tâm viễn thông quốc tế khu vực 1.
Số lượng các gói thầu có trị giá trên 1 tỷ đồng, cũng như các gói thầu có trị giá trên 200 triệu đồng và dưới 1 tỷ đồng đã tăng dần qua các năm. Tuy tỷ lệ này còn khiêm tốn, song cũng thấy được, ngày càng có sự phân cấp cao của Công ty cho Trung tâm, tăng quyền hạn cũng như nâng cao tính trách nhiệm cho Trung tâm. Điều này cũng buộc Trung tâm phải tìm cách hoạt động đầu tư hiệu quả hơn. Tránh tình trạng ỷ lại, đổ lỗi cho nhau như trước đây. Khiến cho các cán bộ làm công tác đấu thầu không còn e ngại với việc tổ chức đấu thầu rộng rãi
b.Hiệu quả chất lượng và tiến độ tổ chức đấu thầu.
Để đánh giá được những thành công trong công tác đấu thầu ở Trung tâm thì nhất thiết phải đánh giá về chất lượng và tiến độ tổ chức đấu thầu. Một gói thầu được coi là tốt khi nó đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật theo đúng yêu cầu nêu trong HSMT và đảm bảo về tiến độ kỹ thuật. Do các gói thầu của Trung tâm luôn đòi hỏi cao về kỹ thuật nên việc đảm bảo yêu cầu về kỹ thuật luôn là quan trọng nhất. Có những gói thầu tiến hành đấu thầu rộng rãi hay hạn chế đòi hỏi yêu cầu về kỹ thuật là 90% tổng điểm kỹ thuật. Trong những năm qua, Trung tâm luôn hoàn thành tốt công tác lựa chọn nhà thầu, đã chọn được những nhà thầu có kinh nghiệm, trình độ, chuyên môn đủ đáp ứng các yêu cầu về kỹ thuật. Có nhiều thiết bị hiện đại, đều được Trung tâm tuyển chọn từ các nhà thầu có tên tuổi trên thế giới. Nên các thiết bị khi tiến hành lắp đặt đi vào sử dụng luôn hoạt động tốt, đem lại hiệu quả cao.
Nhà thầu tốt là nhà thầu không chỉ đáp ứng được về mặt kỹ thuật, với giá thành rẻ mà còn cả tiến độ thực hiện gói thầu. Nếu chậm tiến độ trong thực hiện gói thầu sẽ kéo theo những vướng mắc, những khó khăn, gây tốn kém về tiền bạc và thời gian. Với yêu cầu của Viễn thông là luôn phải đảm bảo đường truyền nhanh chóng, kịp thời, đảm bảo chất lượng đường truyền. Nên việc hoàn thành đúng tiến độ của các nhà thầu là vô cùng quan trọng. Đây cũng là một chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đấu thầu.
Bảng 5: Tiến độ thực hiện các gói thầu tại Trung tâm giai đoạn 2002-2006:
Năm
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006
Tổng số gói thầu hoàn thành trong năm (1).
7
11
14
16
15
Số gói thầu hoàn thành đúng thời hạn (2).
7
10
13
14
13
Số gói thầu không hoàn thành đúng thời hạn (3)=(1)-(2).
0
0
1
2
2
Tỷ lệ gói thầu hoàn thành đúng thời hạn (4)=(2)/(1)
100%
100%
92,8%
87,5%
86,7%
Nguồn: Trung tâm viễn thông quốc tế khu vực 1.
Qua bảng số liệu ta thấy, tỷ lệ gói thầu hoàn thành đúng thời hạn tương đối cao. Riêng 2 năm 2002 và 2003 thì tỷ lệ này là tuyệt đối (100%). Do hai năm này, công tác đấu thầu của Trung tâm còn hạn chế, chưa được áp dụng phổ biến, các hình thức áp dụng trong đấu thầu chủ yếu là chào hàng cạnh tranh, chỉ định thầu và các dự án tương đối nhỏ toàn vốn chủ yếu là dưới 200 triệu đồng nên luôn hoàn thành đúng tiến độ. Đến năm 2005, Trung tâm đã thực hiện hình thức đấu thầu rộng rãi và nhiều gói thầu trị giá lớn do Công ty giao xuống cho Trung tâm thực hiện nên tiến độ hoàn tành đã ngày một giảm xuống do những điều kiện khách quan và chủ quan. Năm 2004 là 92,8% đến năm 2005 giảm còn 87,5% và đến năm 2006 còn 86,7 %.
Mặc dù, các dự án tiến hành đấu thầu rộng rãi là các dự án vốn lớn, kỹ thuật phức tạp, mang tính chuyên ngành, đòi hỏi thời gian xây dựng và lắp đặt thiết bị tương đối lâu, nhiều thiết bị phải nhập ngoại, mất thời gian trong khâu nhập khẩu và quá cảnh, song vẫn hoàn thành đúng thời hạn qui định. Cho thấy khả năng hoàn thành dự án của Trung tâm tương đối cao.
Ngay cả trong quá trình lựa chọn, xét thầu với các gói thầu phức tạp thì Trung tâm vẫn hoàn thành tương đối tốt và đúng thời điểm. Để làm tốt được điều này, cán bộ công nhân viên của Trung tâm đã không ngừng nghiên cứu các văn bản luật liên quan đến đấu thầu và xây dựng, áp dụng đúng đầy đủ và tiến hành hiệu quả, nên các khâu lập hồ sơ mời thầu, xét thầu, phê duyệt, ký kết hợp đồng ít có sai phạm lớn nên thời gian tổ chức đấu thầu, xét thầu, công bố trúng thầu luôn đúng theo những dự định, ít bị bế tắc, đình chỉ xem xét lại.
Bên cạnh đó là các dự án của trung tâm thường là các dự án nhỏ, một số dự án có tính chất như nhau, không phức tạp, chỉ là nâng cấp môi trường làm việc cho cán bộ công nhận viên, sửa chữa đài trạm hàng năm nên Trung tâm chủ yếu áp dụng hình thức chào hàng cạnh tranh, nên thường những dự án này hoàn thành đúng tiến độ 100%.
Song tỷ lệ hoàn thành ngày một giảm là do Công ty ngày một giao xuống cho Trung tâm những dự án tương đối lớn.Việc mua sắm thiết bị với qui mô lớn, hiện đại có thể không tương thích với trang thiết bị cơ sở hạ tầng hiện tại. Do đó, khi lắp đặt thiết bị, có hiện tượng nghẽn mạng về thông tin, đường truyền quá tải, các thiết bị nhiều khi không tương thích nhau, không tương thích giữa đầu vào và đầu ra của đường truyền, cần mất nhiều thời gian để khắc phục các sự cố khách quan này. Nên nhiều khi phải mất nhiều thời gian để khắc phục sự cố, dẫn đến việc không hoàn thành ảnh hưởng đến dự án tiếp sau, sẽ ảnh hưởng đến tiến độ hoàn thành gói thầu sau đó. Một số dự án do Công ty phân cấp xuống, trong quá trình xét thầu nhiều khi Trung tâm phải trình lên Công ty thẩm định và phê duyệt kết quả đấu thầu, trong khi lượng cán bộ làm công tác đấu thầu ở Công ty thiếu, không đử sức thẩm định hết các dự án của Công ty và Trung tâm, chính điều đó mà mất nhiều thời gian trong khâu thẩm định và phê duyệt kết quả đấu thầu làm chậm tiến độ hoàn thành đấu thầu.
c.Hiệu quả về chi phí:
Hiệu quả chi phí được thể hiện thông qua mức độ tiết kiệm giữa giá trúng thầu và giá dự toán gói thầu. Tỷ lệ tiết kiệm này ở Trung tâm thường là ở các gói thầu áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn chế.
Bảng 6: Mức tiết kiệm sau đấu thầu tại Trung tâm qua các năm:
Đơn vị: Triệu đồng.
Năm
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006
Tổng giá trị các gói thầu được duyệt
846
968
3.130
6.265
8.650
Tổng giá các gói thầu sau đấu thầu
846
968
3080
6130,3
8318,18
Mức tiết kiệm
0
0
50
134,7
331,82
Tỷ lệ tiết kiệm
0%
0%
1,6%
2,15%
3,84%
Nguồn: Trung tâm viễn thông quốc tế khu vực 1.
Hai năm 2002 và 2003 tỷ lệ tiết kiệm là bằng 0 do chưa áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi, chỉ áp dụng hình thức chào hàng cạnh tranh và chỉ định thầu nên mức tiết kiệm là rất nhỏ, hầu như không đáng kể. Đến năm 2004, do áp dụng thêm hình thức đấu thầu rộng rãi và chỉ định thầu, nên tỷ lệ tiết kiệm đã tăng lên là 1,6% và 2,15% năm 2005. Riêng năm 2006 là có sự vượt bậc về số lượng và qui mô của các gói thầu, Trung tâm đã tiến hành nhiều hơn các gói thầu có qui mô lớn, nhiều gói thầu tiến hành đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn chế, nên tỷ lệ tiết kiệm đã tăng lên đáng kể là 3,48% năm 2006.
Mặc dù tỷ lệ tiết kiệm này còn thấp, do chỉ mới 2 năm gần đây Trung tâm tiến hành đấu thầu rộng rãi ở một số các gói thầu, kinh nghiệm của các cán bộ làm công tác đấu thầu chưa nhiều; nhưng đã có mức tiết kiệm như vậy là đã phản ánh một phần nào hiệu quả trong công tác tổ chức đấu thầu và lựa chọn nhà thầu tại Trung tâm. Mặt khác, do tính chất chuyên ngành về kỹ thuật của Viễn thông, đòi hỏi tính đặc chủng cũng như tính tương thích giữa các thiết bị cùng với việc xây dựng, lắp đặt thiết bị ở môi trường và địa hình phức tạp nên tỷ lệ tiết kiệm như vậy là đã đáng khích lệ.
d.Trình độ của cán bộ làm công tác đấu thầu ngày càng nâng cao.
Việc tổ chức đấu thầu có hiệu quả hay không phụ thuộc rất nhiều vào năng lực, trình độ, kinh nghiệm của các cán bộ làm công tác đấu thầu. Do đó, trong vài năm gần đây trình độ, kinh nghiệm cán bộ làm công tác đấu thầu đã không ngừng được nâng cao. Nhiều cán bộ đã được Trung tâm hay Công ty cử đi học ở các lớp tập huấn liên quan đến đấu thầu.
Nhưng năm gần đây số lượng các dự án liên quan đến đấu thầu ngày càng tăng, càng có nhiều dự án tiến hành chào hàng cạnh tranh và đấu thầu rông rãi ngày một nhiều hơn, trong đó số dự án tiến hành đấu thầu rộng rãi ngày một tăng (do đấu thấu rộng rãi qui định chặt chẽ hơn chào hàng cạnh tranh). Do đó kéo theo trình độ , kinh nghiệm của các cán bộ làm công tác đấu thầu không ngừng được nâng cao.
Trước kia các cán bộ làm công tác đấu thầu là không được học chuyên ngành về hoạt động đấu thầu, chủ yếu là các cán bộ kỹ thuật (do tính chuyên ngành của Viễn thông) chứ không phải là các cán bộ quản lý kinh tế, nên việc chuyển sang làm đấu thầu gặp nhiều khó khăn. Các cán bộ phải kiêm nghiệm vừa phải làm công tác kỹ thuật vừa phải làm công tác đầu tư. Do vậy những cán bộ này đã được trực tiếp đào tạo một cách bài bản về công tác đấu thầu, chứ không phải dựa trên kinh nghiệm nữa. Sau một thời gian làm việc bài bản thấy được hiệu quả do đấu thầu đem lại nên hiện nay toàn bộ 100% hoạt động đấu tư đều thông qua hình thức đấu thầu.
Các cán bộ do ngày càng làm, càng tiếp xúc nhiều hơn về đấu thầu nên trình độ, kinh nghiệm ngày một nâng cao, ngày một cọ xát, việc thẩm định các gói thầu ngày một chặt chẽ hơn. Đối với các gói thầu phức tạp, kỹ thuật cao thì Trung tâm tiến hành tuyển chọn tư vấn, chính những lần tuyển chọn tư vấn, đã giúp cán bộ của Trung tâm học hỏi nhiều hơn nữa về kinh nghiệm và trình độ.
e.Nâng cao và cải thiện môi trường làm việc cho cán bộ công nhân viên:
Trong những năm qua Trung tâm đã không ngừng cải thiện môi trường làm việc cho cán bộ cong nhân viên làm việc tại Trung tâm. Nhiều nhà làm việc được cải tạo nâng cấp, xây mới, hay thuê văn phòng làm việc cho cán bộ công nhân viên, với đầy đủ trang thiết bị làm việc như: máy tính luôn được nâng cấp mới phục vụ cho CBCNV làm việc dễ dàng, hệ thống máy điều hoà, phòng làm việc rộng rãi thoáng mát. Bên cạnh đó là hệ thống Internet mở rộng, 100% hệ thống máy tính tại trung tâm nối mạng, giúp cho CBCNV có điều kiện trao đổi thông tin, tìm hiểu các thông tin, học hỏi, cập nhật các tài liệu trên mạng, giúp các cán bộ làm công tác đấu thầu có thể tìm hiểu các văn bản luật và luật đấu thầu trên các trang web, các báo điẹn tử.
Chính môi trường làm việc thuận lợi như vậy mà đã khiến cho CBCNV tại Trung tâm yên tâm, thoải mái làm việc, đóng góp đáng kể cho Trung tâm.
Chính nhờ hiệu quả trong tổ chức đấu thầu mà Trung tâm luôn phục vụ tốt thông tin liên lạc, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, những năm qua Trung tâm luôn hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất kinh doanh do Công ty giao, sản lượng quốc tế, lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước và được thể hiện thông qua bảng số liệu lợi nhuận như sau:
Bảng 7: Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh của Trung tâm Viễn thông Quốc tế khu vực 1 qua các năm:
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Đơn vị
Triệu đồng
Triệu đồng
Triệu đồng
Triệu đồng
Triệu đồng
Triệu đồng
Lợi nhuận
680,76
28.243,36
29.165,74
69.952,97
98.567,78
45.915,34
Nguồn: Trung tâm Viễn thông Quốc tế khu vực 1
Ngoài việc kinh doanh có hiệu quả, Trung tâm còn phục vụ tốt thông tin liên lạc đến vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nhiều trạm thông tin mặt đất vệ tinh đã được lắp đặt tại Kẹo Nưa (Hà Tĩnh), Mường Lát (Thanh Hoá), Sơn Vĩ, Lũng Cú (Hà Giang), Phú Quý (Bình Thuận), Trường Sa (Khách Hoà) và nhiều địa phương khác, đảm bảo thông tin liên lạc phục vụ nhân dân và lực lượng vũ trang, góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội, nâng cao dân trí, giữ vững an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia.
Bên cạnh việc đem lại lợi ích cho nhân dân trong nước thì các dịch vụ viễn thông quốc tế cũng ngày càng thuận tiện hơn, dễ liên lạc, kết nối đi quốc tế hơn, với mức cước ngày càng giảm.
Công tác chất lượng dịch vụ luôn là lĩnh vực được Trung tâm đặt ưu tiên hàng đầu. Trong năm 2006, Trung tâm đã triển khai nhiều biện pháp kỹ thuật, nghiệp vụ để nâng cao chất lượng mạng lưới, dịch vụ. Nhờ đầu tư có chiều sâu và dự phòng đầy đủ, chất lượng dịch vụ viễn thông quốc tế luôn được đảm bảo. Công tác chăm sóc khách hàng năm qua cũng đạt được nhiều tiến bộ quan trọng. Công ty đã xây dựng và đưa vào khai thác website cung cấp thông tin hỗ trợ giải quyết khiếu nại của khách hàng.
Trên cơ sở có mạng lưới được đầu tư, quản lý khai thác ổn định, hiệu quả, mối quan hệ hợp tác truyền thống lâu năm với các đối tác và tổ chức quốc tế, Trung tâm không những đảmbảo việc cung cấp các dịch vụ VTQT thường xuyên mà còn tham gia phục vụ thông tin liên lạc cho các sự kiện văn hoá, chính trị quan trọng diễn ra tại Việt Nam như Hội nghị các nhà lãnh đạo các nền kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương APEC-14 và các nguyên thủ quốc gia đến thăm và làm việc tại Việt Nam.
2.Những vấn đề còn tồn tại:
Công tác đấu thầu thực hiện theo Qui chế đấu thầu trong thời gian qua tại Trung tâm đã thực sự đi vào nền nếp và đạt được những thành tích khả quan, góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả đầu tư của Trung tâm. Tuy nhiên sau một thời gian thực hiện Qui chế đấu thầu, ngoài những mặt đã đạt được vẫn còn một số tồn tại cần chấn chỉnh để đảm bảo nâng cao chất lượng công tác đấu thầu trong thời gian tới.
a.Về hồ sơ mời thầu:
Hiện nay HSMT của một số gói thầu có những nội dung chưa phù hợp với Qui chế đấu thầu, cụ thể như sau:
-Hồ sơ mời thầu đã nêu ra những yêu cầu cụ thể về nguồn gốc xuất xứ của hàng hoá, vật tư, thiết bị hoặc ký ám hiệu của thiết bị chưa phù với điểm 2, khoản 12 và khoản 14 Điều 14 Nghị định 66/CP/2003/NĐ-CP. Do đó ảnh hưởng đến tính công bằng trong cạnh tranh đấu thầu.
-Một số gói thầu qui định thời gian chuẩn bị HSDT ngắn hơn so với qui định của Qui chế đấu thầu là chưa phù hợp. Ảnh hưởng đến chất lượng HSDT của các nhà thầu do thời gian chuẩn bị ít.
-Một số tiêu chuẩn kỹ thuật trong HSMT còn nêu chung chung và không phù hợp với nội dung gói thầu, Bảng biểu đánh giá gói thầu và nguyên tắc đánh giá HSDT nêu trong HSMT còn chưa đầy đủ và chưa đúng theo qui định; còn tình trạng thiếu thống nhất giữa tiêu chuẩn đánh gía HSDT và các yêu cầu nêu trong HSMT chưa phù hợp với khoản 12 Điều 1 Nghị định 66/2003/NĐ-CP.
-HSMT của một số gói thầu còn sơ sài, không đầy đủ, không theo đúng trình tự của HSMT mẫu, các điều kiện tiên quyết để loại bỏ HSDT có trường hợp không đúng với qui định.
-Có HSMT không chỉ rõ những vật tư thiết bị do bên chủ đầu tư cung cấp. Do đó, gây khó khăn cho các nhà thầu khi đưa ra giá dự thầu không chính xác, gây ảnh hưởng đến việc đánh giá về tài chính các HSDT.
-Đối với gói thầu xây lắp, bản tiên lượng bóc từ thiết kế phải đầy đủ, chính xác, làm cơ sở pháp lý cho nhà thầu lập giá dự thầu, (khoản 14 Điều 1 Nghị định 66/2003/NĐ-CP) tuy nhiên có HSMT vẫn ghi tiên lượng chỉ dùng để tham khảo.
b.Về đánh giá HSDT:
-Việc đánh giá HSDT của tổ chuyên gia trong một số trường hợp chưa bám sát các yêu cầu cũng như tiêu chuẩn đánh giá nêu trong HSMT, từ đó đưa ra kết luận thiếu căn cứ và kết quả đánh giá chưa chính xác.
-Trong quá trình đánh giá vẫn còn tình trạng bỏ bớt, bổ sung hay thay đổi một số nội dung trong tiêu chuẩn đánh giá qui đinh trong HSMT. Do đó phải có bản tiêu chí, mỗi tiêu chí chỉ được đánh giá một lần không trùng lặp.
-Đối với một số gói thầu, việc đánh giá HSDT của Bên mời thầu thể hiện trong biên bản đánh giá còn sơ sài, còn những sai sót, thiếu chính xác ( như loại nhà thầu trong bước đánh giá sơ bộ với lý do không nằm trong các điều kiện tiên quyết nêu trong HSMT, hay dùng giá dự thầu là giá đánh giá để so sánh, không hiệu chỉnh sai lệch mặc dù HSDT có sai lệch hoặc hiệu chỉnh sai lệch không chính xác…).
c.Phân cấp chưa triệt để.
Do phân cấp chưa triệt để, nhiều dự án lớn Công ty không giao cho Trung tâm. Việc quá ôm đồm dẫn đến việc đầu tư không hiệu quả. Do phân cấp chưa rõ ràng, nên các thủ tục trình duyệt văn bản, xin phê duyệt mất nhiều thời gian dẫn đến chậm tiến độ. Các cán bộ làm công tác thẩm định các kết quả đấu thầu cũng như kết quả đầu tư phải làm việc quá nhiều, nên việc thẩm định không được đảm bảo về chất lượng cũng như thời gian. Trong khi đó Công ty không giao xuống cho các cán bộ của Trung tâm tiến hành thẩm định, mặc dù các cán bộ này có khả năng làm tốt công việc. Do đó cần giao nhiều dự án cho Trung tâm nhiều hơn nữa, tăng quyền và tăng tính trách nhiệm cho Trung tâm, chính điều này sẽ khiến cho Trung tâm hoạt động hiệu quả hơn.
d.Hoạt động đấu thầu còn chủ yếu là chào hàng cạnh tranh.
Việc đấu thầu ở Trung tâm chủ yếu là chào hàng cạnh tranh nên việc lựa chọn các nhà thầu trở nên hạn chế, không lựa chọn được nhà thầu tốt nhất và tỷ lệ tiết kiệm được trong đấu thầu còn ít. Với tâm lý sợ tiến hành đấu thầu rộng rãi do mất nhiều thời gian và sức lực, trình độ của các cán bộ còn hạn chế, nên việc tiến hành thương thảo, ký kết hợp đồng còn mắc một số sai sót, nhiều khi còn bị động trong việc sử lý các tình huống trong đấu thầu phát sinh. Bên cạnh đó, do trình độ có hạn của nhà thầu mà hồ sơ dự thầu không được xét duyệt do phải chỉnh sửa nhiều lần, gây sự cố trong thực hiện dự án, mất nhiều thời gian và tiền bạc trong việc giải quyết.
e.Cán bộ làm công tác đấu thầu còn chưa có nhiều kinh nghiệm.
Một là, năng lực của một số cán bộ thực hiện công tác đấu thầu còn hạn chế, chưa nắm vững các qui định về đấu thầu của Nhà nước, do chưa tích cực nghiên cứu, tìm hiểu Quy chế đấu thầu cũng như các nghị định của Chính phủ ban hành về qui chế đấu thầu, và các văn bản pháp luật khác có liên quan (Luật xây dựng). Một số cán bộ trước kia không làm lĩnh vực đấu thầu, nay chuyển sang làm đấu thầu, mang tính kiêm nghiệm,chưa học một trường lớp nào chính thống liên quan đến đấu thầu (vì công tác đấu thầu mớI chỉ được tiến hành, áp dụng rộng rãi trong vài ba năm gần đây), chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và áp dụng các văn bản luật, qui chế liên quan đến đấu thầu; do đó cũng không tránh khỏI những sai lầm ban đầu.
Hai là Trung tâm cũng như trên công ty chưa tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả các cán bộ làm công tác đấu thầu được tham gia đầy đủ các lớp tập huấn về đấu thầu. Do đó, trong quá trình làm công tác đấu thầu, còn sử dụng suy nghĩ chủ quan hơn là cơ sở pháp lý.
Ba là, các thành viên của tổ chuyên gia xét thầu của một số gói thầu (đặc biệt là các gói thầu đòi hỏi kỹ thuật cao, vốn lớn) thì chưa thực sự là người có trình độ chuyên môn liên quan đến gói thầu, chưa có kinh nghiệm về quản lý thực tế và am hiểu về đấu thầu. Dẫn đến những sai xót trong hồ sơ mời thầu cũng như đánh giá hồ sơ dự thầu, mất nhiều thời gian trong khâu đánh giá. Do chưa có nhiều kinh nghiệm trong thương thảo ký kết hợp đồng nên trong quá trình thương thảo còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều cán bộ còn phải ôm đồm nhiều công tác khác, các cán bộ làm công tác đầu tư trước đây đều làm kỹ thuật và kèm theo công việc kỹ thuật, có quá ít người học về đấu thầu và đầu tư một cách bài bản, nên khi tiến hành tổ chức đấu thầu với các gói thầu kỹ thuật phức tạp, nhà thầu nước ngoài đã gặp không ít khó khăn.
Thứ tư là do chính sách hậu đãi nhân tài của Trung tâm còn chưa tốt nên đã có nhiều người có năng lực, có trình độ sau một thời gian làm việc đã rời bỏ Trung tâm tới các công ty khác. Hiện tượng thiếu người làm việc hiệu quả đã khó khăn ngày một khó khăn hơn, với sự cạnh tranh ngày một ngay gắt về nhân tài.
f.Sử dụng vốn chưa hiệu quả.
-Việc huy động vốn của Trung tâm vẫn là huy động vốn trong ngành của Tổng công ty, của Công ty, phần còn lại là vốn tự có của Trung tâm. Còn các vốn khác hầu như không có. Do đó, việc thiếu vốn sẽ làm hạn chế trong hoạt động đầu tư của Trung tâm. Các dự án của Trung tâm đều là các dự án nhỏ, vốn ít nên hiệu quả mang lại còn chưa cao. Bên cạnh đó là vấn đề yêú kém trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài và vốn vay khác.
-Bên cạnh đó nhiều khi tính toán không đúng đã dẫn đến lãng phí vốn, đầu tư không hiệu quả. Theo tính chất của ngành, việc đầu tư xây dựng cơ bản chỉ cần xác định, tính toán sai sẽ dẫn đến hậu quả lớn.
CHƯƠNG II.CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CÔNG TÁC TỔ CHỨC ĐẤU THẦU TẠI TRUNG TÂM VIỄN THÔNG QUỐC TẾ KHU VỰC1.
I. ĐỊNH HƯỚNG, MỤC TIÊU CỦA TRUNG TÂM, CỦA CÔNG TY VÀ CỦA NGÀNH VIỄN THÔNG.
Trong xu thế hội nhập hoá, toàn cầu hoá ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế ở các nước trong khu vực và trên thế giới, sự bùng nổ công nghệ thông tin là tất yếu. Trong đó, Viễn thông quốc tế là cầu nối Việt Nam với quốc tế và những kết quả thu được từ “khâu đột phá” là cơ sở quan trọng để phát triển Việt Nam. Trình độ công nghệ thông tin là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá sự hội nhập cũng như sự phát triển của mỗi quốc gia. Đó là sự mở rộng các mạng lưới viễn thông, với việc cung cấp đầy đủ các thông tin nhanh chóng, kịp thời và đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Đối với Việt Nam với xuất phát điểm chậm hơn các nước trong khu vực và trên thế giới thì việc đấy mạnh phát triển công nghệ thông tin và các dịch vụ viễn thông là vô cùng quan trọng.
1. Đa dạng hoá các dịch vụ viễn thông.
-Ngày càng đa dạng hoá các dịch vụ viễn thông và Internet, phát triến các dịch vụ gia tăng, giảm cước dịch vụ, đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc trong cả nước. Đẩy mạnh phát triển mạng truy cập băng rộng, phát triển các dịch vụ mạng ngoại vi như chính phủ điện tử, thương mại điện tử, đào tạo và khám chữa bệnh từ xa.
-Đẩy mạnh việc phổ cập điện thoại cố định và Internet. Dự tính đến năm 2010 đảm bảo 100% số xã cáo điểm truy cập dịch vụ điện thoạI công cộng, 70% số xã có điểm truy cập Internet công cộng.
2.Phát triển mạng cáp quang biển tới tất cả các huyện trong cả nước.
- Nhanh chóng hoàn thiện mạng ngoại vi theo hướng tăng cường sử dụng cáp sợi quang và nâng cao tỷ lệ cáp ngầm dưới mặt đất nhằm bảo vệ chất lượng đường truyền cũng như mỹ quan đường phố. Phát triển mạng cáp quang tới tất cả các huyện trong cả nước, phát triển mạng viễn thông quốc tế liên tỉnh dung lượng lớn, có độ tin cậy, an toàn cao, kết nối được nhiều hướng, đáp ứng nhu cầu các dịch vụ băng rộng. Phát triển mạng viễn thông quốc tế và liên tỉnh dung lượng lớn, có độ an toàn, tin cậy cao, kết nối nhiều hướng trên cơ sở kết hợp các tuyết cáp quang biển, tuyến cáp quang trên đất liền và hệ thống thông tin vệ tinh đáp ứng nhu cầu cung cấp các dịch vụ băng rộng. Mở rộng vùng phủ sóng thông tin di động đến tất cả các huyện trong cả nước, hầu hết các xã trong vùng kinh tế trọng điểm và hầu hết các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ quan trọng.
3. Định hướng phát triển thị trường:
-Tạo lập một thị trường cạnh tranh bình đẳng. Trước kia, Bưu chính Viễn thông được được coi là một ngành độc quyền thì nay đã có những cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà cung cấp các dịch vụ viễn thông, với sự phát triển của các dịch vụ Viễn thông Quân đội và Điện lực; tạo nên một môi trường lành mạnh tới các doanh nghiệp Viễn thông trong nước. Việc mở rộng không ngừng các mạng viễn thông, các dịch vụ điện thoại quốc tế, các kênh thuê riêng, thông tin di động và Internet đã giúp cho Bưu chính Viễn thông của Việt Nam ngày một lớn mạnh.
-Việc phát triển, mở rộng và sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài tới đầu tư và kinh doanh cung cấp các dịch vụ di động như S-phone, HT-mobile và các giá trị gia tăng cũng như Internet băng rộng, ADSL, công nghệ CDMA với các nhà cung cấp S-phone, HT-mobile, E-mobile.
-Bên cạnh việc phát triển các dịch vụ viễn thông trong nước thì chúng ta cũng đã mở rộng ra nước ngoài với việc đặt các văn phòng đại diện ở các nước trên thế giới và đặc biệt là đầu tư của Viễn thông quân đội (Vietel) sang Lào, việc đầu tư này cũng đã mang lại những hiệu quả vô cùng khả quan.
4. Đẩy mạnh quan hệ hợp tác với nước ngoài.
-Đẩy mạnh quan hệ hợp tác với nước ngoài, mở rộng thị trường viễn thông quốc tế ra nước ngoài, cùng nguyên cứu với nước ngoài đưa ra thị trường các dịch vụ mới, không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ viễn thông quốc tế, quan tâm chăm sóc, phục vụ khách hàng. Nhanh chóng từng bước mở rộng thị trường kinh doanh ra nước ngoài như: tiến hành triển khai theo các dự án giai đoạn của phương án thành lập POP của VNPT/VTI ở Hồng Kông, xúc tiến triển khai kế hoạch mở rộng văn phòng đại diện ở Mỹ; chủ đạo trong việc cung cấp dung lượng đường truyền tại Việt Nam; phân tích đánh giá việc kinh doanh dịch vụ Pre-paid Card ở Mỹ, Hồng Kông, Nhật Bản, Đài Loan để có định hướng đúng trong việc kinh doanh dịch vụ này ở nước ngoài.
-Qui hoạch xây dựng, mở rộng , tăng cường và hoàn thiện mạng lưới VTQT: hoàn chỉnh tổ chức, củng cố công tác điều hành, chuẩn bị sẵn sàng khai thác hệ thống OMC, xây dựng phương án thay thế 3 tổng đài AXE và hệ thống OTN cũ, xây dựng phương án thiết lập CALL CENTER, triển khai các công việc để đưa hệ thống VSAT băng rộng VSAT-IP vào khai thác chính thức, thực hiện qui hoạch lại mạng VoIP quốc tế sau khi tiếp nhận hệ thống cung cấp dịch vụ 1717 từ công ty VDC; triển khai các công việc liên quan đến kế hoạch bổ sung dung lượng truyền dẫn quốc tế; triển khai dự án thiết lập mạng C7-STAND ALONE, nghiên cứu triển khai dịch vụ HCD.
II.GIẢI PHÁP:
Để khắc phục những tồn tại trên, lãnh đạo Trung tâm thống nhất tăng cường các biện pháp xử lý trong thi đua ,khen thưởng và kỷ luật hành chính những vi phạm trong công tác đấu thầu, đồng thời đưa ra các biện pháp tăng cường công tác tổ chức đấu thầu, để hoạt động tổ chứ đấu thầu ngày càng hiệu quả. Sau một quá trình thực tập ở Trung tâm, được nghiên cứu tài liệu thì em xin đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao năng lực tổ chức đấu thầu tại Trung tâm như sau:
1.Chấp hành nghiêm chỉnh các qui định của Nhà nước về đấu thầu:
-Áp dụng chủ yếu là hình thức đấu thầu rộng rãi trong các dự án thuộc phạm vi và trách nhiệm của Trung tâm.
-Không được nêu yêu cầu cụ thể về nguồn vốn, ký hiệu, mã hiệu, thương hiệu của hàng hoá, vật tư, thiết bị trong hồ sơ mời thầu, để tăng tính cạnh tranh công bằng trong xét thầu, lựa chọn được nhà thầu tốt nhất theo đúng tiêu chuẩn của HSMT.
-Đảm bảo các mốc thời gian trong đấu thầu như: Đấu thầu rộng rãi phải được thông báo 10 ngày trước khi phát hành HSMT, thời gian chuẩn bị HSDT tối thiểu là 15 ngày đối với đấu thầu trong nước và 30 ngày đối với gói thầu quốc tế. Để các nhà thầu có đủ thời gian chuẩn bị tốt HSDT, nâng cao tính hiệu quả trong HSDT.
-Không được bán vượt quá 500.000 đồng/1 bộ (đối với đấu thầu trong nước)
-Không sử dụng giá xét thầu, giá sàn trong đánh giá HSDT.
-Giá đề nghị trúng thầu không được vượt quá giá gói thầu trong kế hoạch đấu thầu đã được duyệt.
-Sau khi đóng thầu, nhà thầu không được phép bổ sung HSDT, kể cả thư giảm giá.
-Tư vấn không được tham gia thực hiện các gói thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp do mình làm tư vấn.
-Chuyên gia xét thầu không được tham gia thẩm định kết quả đấu thầu trong cùng một gói thầu.
-Đánh giá HSDT theo đúng HSMT và tiêu chuẩn đánh giá trong HSMT.
-Bên mời thầu phải theo dõi việc thực hiện hợp đồng đã ký kết với nhà thầu và phải có trách nhiệm xử lý khi nhà thầu vi phạm hợp đồng.
2.Chuẩn bị tốt hồ sơ mời thầu.
Hồ sơ mời thầu là khâu vô cùng quan trọng quyết định tới kết quả hoạt động đấu thầu và hoạt động đầu tư, vì hồ sơ mời thầu chỉnh là đề bài, việc hoàn thiện chính xác đề bài, là tiêu chuẩn đầu tiên và quan trọng nhất để đánh giá hồ sơ dự thầu sau này. Do đó, hồ sơ mời thầu phải đảm bảo đầy đủ các nội dung quan trọng, cần phải viết dễ hiểu, dễ đọc, tránh các ngôn từ khó hiểu gây hiểu nhầm cho các nhà thầu khi lập hồ sơ dự thầu, cũng như quá trình thương thảo hợp đồng sau này.Việc chuẩn bị tốt hồ sơ mời thầu sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà thầu lập hồ sơ dự thầu và thuận lợi cho quá trình đánh giá so sánh các hồ sơ dự thầu.
Một hồ sơ mời thầu nếu làm không tốt, gây sai lầm , hiểu lầm sẽ gây ra lúng túng cho các nhà thầu, cũng như việc tính toán thiếu (thừa) các công việc sẽ dẫn đến tính toán sai giá gói thầu, mất nhiều thời gian trình lên cấp có thẩm quyền xem xét lại, phê duyệt, làm chậm tiến độ của gói thầu của cả dự án, cũng như tiền của. Đặc biệt là đối với gói thầu đòi hỏi kỹ thuật, vốn lớn chỉ một sai sót nhỏ cũng gây ra hậu quả nghiêm trọng. Để nâng cao chất lượng HSMT, đối với gói thầu phức tạp cần thuê tư vấn, tuyển chọn nhà thầu tư vấn.Do đó các điều kiện tiên quyết phải được nêu rõ trong hồ sơ mờI thầu như:
-Về mặt kỹ thuật:
+Đối với đấu thầu mua sắm hàng hoá: phải có đầy đủ các nội dung chính về số lượng, chất lượng hàng hoá, tiêu chuẩn công nghiệp, tiêu chuẩn sản xuất, tính năng kỹ thuật, khả năng lắp đặt thiết bị và năng lực cán bộ kỹ thuật, nguồn gốc hàng hoá, khả năng thích ứng về mặt địa lý, thời gian bảo hành, các dịch vụ kèm theo sau bán hàng và yêu cầu về việc đảm bảo môi trường…
+Đối với đấu thầu xây lắp: bên cạnh bản thiết kế còn phải có bản tiên lượng, yêu cầu về lao động kỹ thuật, máy móc thiết bị thi công, yêu cầu về tiến độ và bảo đảm điều kiện vệ sinh môi trường và các điều kiện khác như phòng chống cháy nổ, an toàn lao động…
-Về tài chính:
+Giá dự thầu tính theo giá nào (đối với hàng hoá thiết bị, vật tư nhập khẩu).
+Các nhà thầu cần khai báo về tình trạng tài chính của mình trong những năm gần đây (tuỳ vào tính chất cảu gòi thầu mà yêu cầu về số năm tài chính).
+Ghi rõ đồng tiền bỏ thầu và tỷ giá so sánh, để tiện cho việc đánh giá, so sánh giá đánh giá sau này.
+Điều kiện thanh toán.
+Loại hợp đồng và các vấn đề liên quan.
-Về tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu: nêu đầy đủ, rõ ràng trong hồ sơ mời thầu. Tất cả các tiêu chuẩn nêu trong HSMT phải được người hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt trước khi tiến hành mở thầu.
3.Phân cấp và có quan hệ chặt chẽ giữa các phòng, ban.
Hiện nay vấn đề phân cấp còn chồng chéo, dẫn đến sai lầm trong đầu tư, qui kết, đổ lỗi, trach nhiệm lẫn nhau. Do đó, cần phân cấp cụ thể, tới từng phòng ban, từng cơ sở, gắn trách nhiệm với hoạt động đầu tư mà mình làm, khi đó sẽ tăng tính hiệu quả trong đầu tư. Cần phải có qui trình chặt chẽ, hạn mức kỹ thuật cho các đơn vị. Bên cạnh đó , phải phối hợp với các đơn vị chức năng để xâu dựng hồ sơ mời thầu, các tiêu chuẩn kỹ thuật cho phương án kỹ thuật. Báo cáo đầu tư phải được lập chặt chẽ, phân chia trách nhiệm cho từng đơn vị. Chậm ở khâu nào thì khâu đó phải chịu trách nhiệm, không được đổ lỗi lẫn nhau. Qui định về thời gian, hạn định, trách nhiệm cho từng đơn vị. Gắn trách nhiệm tới từng đơn vị, giúp cho đơn vị đó nâng cao vai trò của mình.
Cần phải phấn cấp nguồn vốn của Công ty cho Trung tâm nhiều hơn nữa, cần phải giao cho Trung tâm các dự án của Công ty, tránh ôm đồm, không hiệu quả, tức là mở rộng phân cấp cho Trung tâm, tăng tính chủ động cho Trung tâm, từ đó tăng cao tính trách nhiệm của Trung tâm, tăng tính hiệu quả kinh tế trong sử dụng vốn.
4.Nâng cao trình độ, kinh nghiệm cho đội ngũ cán bộ làm công tác đấu thầu.
Cử đi học nước ngoài hay học các khoá học trong nước đối với các cán bộ làm công tác chuyên môn, giảm bớt chi phí thuê tư vấn. Các cán bộ làm công tác đấu thầu phải được đào tạo một cách bài bản, chứ không phải dựa trên kinh nghiệm. Đối với thế hệ trẻ thì cần phải đào tạo hệ thống, căn bản và toàn diện ngay từ đầu. Cần có sự kết hợp giữa hai đội ngũ cán bộ già, có kinh nghiệm và đội ngũ thanh niên trẻ năng động, ham học hỏi. Đội ngũ cán bộ ngày càng được cọ sát, nâng cao kinh nghiệm. Đặc biệt là cần phải đào tạo các cán bộ có kinh nghiệm, trình độ để tiến hành đàm phán, ký kết hợp đồng. Người đàm phán không chỉ có trình độ, kinh nghiệm mà còn phải sáng suốt, có tâm lý vững vàng và đặc biệt là phải có nghệ thuật trong đàm phán, tạo lợi thế trong ký kết hợp đồng, cũng như phát hiện các sai sót trong hợp đồng.
Do đó, phải nâng cao năng lực các cán bộ làm công tác chuẩn bị HSMT tức là nâng cao chất lượng hợp đồng ký kết vớI nhà thầu. Nếu áp dụng hình thức hợp đồng điều chỉnh giá phải đáp ứng các điều kiện tiên quyết đã nêu trong trong qui chế đấu thầu và phải có qui định cụ thể về điều kiện, phạm vi, công thức điều chỉnh trong HSMT.
Trong hợp đồng phải qui định rõ trách nhiệm của bên mời thầu và nhà thầu. Phải có các điều kiện ràng buộc, thưởng phạt với nhà thầu trong trường hợp nhà thầu không thực hiện đúng các điều khoản đã cam kết.
Chủ đầu tư cần giám sát chặt chẽ việc thực hiện hợp đồng cung cấp đã ký cả về số lượng và chất lượng (đặc biệt là xuất xứ hàng hoá) và tiến độ thực hiện hợp đồng. Trường có những vi phạm (hoặc dấu hiệu vi phạm) hợp đồng đã ký từ phái nhà thầu cần phải có những biện pháp điều chỉnh hoặc xử lý ngay ( theo pháp lệnh về hợp đồng kinh tế, luật thương mại và các điều khoản của hợp đồng đã ký), không để dây dưa kéo dài.
Cần phải có chính sách hậu đãi thoả đáng để thu hút và giữ chân những cán bộ có trình độ, kinh nghiệm làm việc hiệu quả. Chính sách tiền lương, tiền thưởng hợp lý, cũng như các chính sách nghỉ ngơi, chăm sóc sức khoẻ, nghỉ mát, và môi trường làm việc tốt sẽ thu hút nhân tài và giữ chân những người làm được việc.
5.Cần lưu trữ hồ sơ thiết kế và bản vẽ hoàn công công trình xây dựng:
Một công trình sau khi hoàn thành đưa vào sử dụng thì việc xuống cấp, hư hỏng công trình sau một thời gian là khó tránh khỏi do điều kiện khách quan (nắng gió, bão, động đất…) hay điều kiện chủ quan (việc xây dựng của nhà thầu có chỗ sai sót với bản thiết kế mà khi xây dựng công trình bên mời thầu giám sát chưa biết). Đặc biệt là đối với công trình xây dựng đòi hỏi kỹ thuật phức tạp, vốn lớn thì việc hư hỏng cần phải sửa chữa kịp thời. Chính vì vậy, việc lưu trữ hồ sơ thiết kế, bản vẽ hoàn công công trình xây dựng là vô cùng quan trọng. Trong những năm trước nhiều dự án xây dựng sau khi đã hoàn thành, hầu hết bên mời thầu không giữ lại hồ sơ thiết kế, bản vẽ hoàn công. Nên khi sửa chữa công trình gặp nhiều khó khăn, tốn kém thời gian và tiền bạc.
Cần căn cứ vào tuổi thọ công trình để qui định thời gian lưu trữ phù hợp. Không chỉ chủ đầu tư, chủ sở hữu lưu trữ hồ sơ thiết kế, bản vẽ hoàn công mà cả nhà thầu thiết kế, nhà thầu thi công công trình xây dựng cũng cần phải lưu trữ.
-Đối với chủ đầu tư hay chủ sở hữu sử dụng công trình xây dựng: cần lưu trữ hồ sơ thiết kế cơ sở, hồ sơ thiết kế kỹ thuật, hồ sơ thiết kế bản vẽ thi công, bản vẽ hoàn công công trình xây dựng.
-Đối với nhà thầu thiết kế: cần lưu trữ phần hồ sơ thiết kế do mình thực hiện. Riêng nhà thầu đảm nhận tổng thầu thiết kế phải lưu trữ toàn bộ hồ sơ thiết kế công trình xây dựng bao gồm hồ sơ thiết kế cơ sở, hồ sơ thiết kế kỹ thuật, hồ sơ thiết kế bản vẽ thi công do mình thực hiện.
-Đối với nhà thầu thi công xây dựng: cần lưu trữ hồ sơ thiết kế, bản vẽ thi công, bản vẽ hoàn công công trình xây dựng do mình thực hiện.
6. Đa dạng hoá và nâng cao tính cạnh tranh giữa các nhà thầu:
Để nâng cao hiệu quả đấu thầu thì cần phảI đa dạng hoá và nâng cao tính cạnh tranh giữa các nhà thầu. Do đó, cần khuyến khích đấu thầu rộng rãi, vì đấu thầu rộng rãi sẽ tăng được số lượng nhà thầu. Khi đó, tính cạnh tranh càng cao, càng có nhiều cơ hội để lựa chọn nhà thầu tốt nhất, cũng như nâng cao tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch.
Để tăng số lượng nhà thầu tham gia thì phòng Kế hoạch-Đầu tư có thể tăng thời gian nộp Hồ sơ dự thầu, để có nhiều thời gian cho các nhà thầu chuẩn bị tốt Hồ sơ dự thầu, thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Phòng Kế hoạch - Đầu tư cần đảm bảo tính công khai minh bạch trong Hồ sơ mời thầu, tiếp nhận Hồ sơ dự thầu và xét thầu.
7.Nâng cao chất lượng công tác lập thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán:
Do tính chất của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản phải mất nhiều thời gian đển thực hiện dự án, bên cạnh việc xây dựng, lắp đặt các đài trạm chuyên dụng là việc mua sắm máy móc thiết bị đòi hỏi kỹ thuật lớn thường phải nhập ngoại, do đó yêu cầu về kỹ thuật, tính chính xác trong lắp đặt thiết bị, xây dựng đài trạm là vô cùng quan trọng để dự án đi vào hoạt động tốt. Hàng năm các cán bộ kỹ thuật của Phòng kỹ thuật nghiệp vụ luôn phải tính toán cẩn thận các nhu cầu và tính toán chính xác về mặt thiết kế kỹ thuật đối với từng dự án đã được phê duyệt tiến hành đấu thầu. Thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán là cơ sở lập Hồ sơ mời thầu và định giá gói thầu. Nếu có sai sót trong thiết kế kỹ thuật, tính giá sai sẽ làm cho thiết kế và tổng dự toán thay đổi, ảnh hưởng đến uy tín của bên mời thầu. Nếu tính toán khối lượng công việc sai sẽ mất thời gian trong việc chỉnh sửa, xin bổ sung quyết toán, kéo dài thời gian gây ức chế tớIi các nhà thầu, ảnh hưởng đến chất lượng hồ sơ mời thầu. Đặc biệt đối với gói thầu đòi hỏi kỹ thuật cao, vốn lớn, chỉ một sai sót nhỏ đã gây ra hậu quả nghiêm trọng. Nên để nâng cao chất lượng hồ sơ mời thầu, đối với gói thầu phức tạp cần thuê tư vấn, tuyển chọn nhà thầu tư vấn, lựa chọn nhà thầu tư vấn phù hợp, đủ trình độ năng lực thực hiện tốt các công tác lập hồ sơ mời thầu.
8.Nâng cao công tác giám sát, thực hiện quyết toán kịp thời cho các nhà thầu:
Hiện nay nhiều công trình đã thực hiện xong nhưng bên mời thầu vẫn chưa quyết toán hết cho nhà thầu, do một số vướng mắc. Do vậy, phòng kế hoạch đầu tư cần phải giám sát thường xuyên kịp thời, phát hiện và sửa đổi những vướng mắc, sai sót, phát hiện kịp thờI để đưa lên cấp thẩm quyền phê duyệt nhanh chóng quyết toán cho nhà thầu, nhằm nâng cao uy tín cho bên mời thầu cũng như niềm tin tưởng của các nhà thầu. Bên mời thầu cần phải thực hiện nghiêm túc các điều khoản ký kết trong hợp đồng, thanh quyết toán theo đúng thủ tục, giám sát kỹ các chi phí phát sinh để có sửa đổi kịp thời. Bên mời thầu cần tạo điều kiện cho nhà thầu hoàn thành tốt công việc, đặc biệt đối với các gói thầu xây lắp, bên mời thầu phải có quan hệ tốt với các địa phương cho phép xây dựng, không được để gây khó khăn cho nhà thầu trong xây dựng, đảm bảo đúng tiến độ của công trình.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC TRONG CÔNG TÁC ĐẤU THẦU.
1.Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống văn bản luật đấu thầu và các văn bản luật có liên quan.
Hiện nay, chúng ta đang hoàn thiện hệ thống pháp luật, từng bước thống nhất hệ thống, trong đó có hệ thông văn bản qui phạm pháp luật về đấu thầu. Mặc dù qua hai lần sửa đổi bổ sung Qui chế đấu thầu song vẫn còn nhiều thiếu sót, tồn tại. Nhiều qui định khi áp dụng còn nhiều mập mờ, trở thành kẽ hở cho bên mời thầu và nhà thầu lợi dụng. Một so qui định thiếu thực tế gây khó khăn cho người thực hiện. Chẳng hạn như việc qui định giá sàn trong đấu thầu, nhưng vẫn còn nhiều dự án giá trúng thầu thấp hơn nhiều so với giá gói thầu với việc qui định mức giá sàn thấp cũng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng công trình.
Bên cạnh đó do Qui chế đấu thầu còn nhiều mập mờ nên đẫn đến việc móc ngoặc giữa bên mời thầu với nhà thầu gây nên tình trạng không minh bạch và không công bằng do sựu thoả thuận ngầm giữa hai bên. Từ đó cũng ảnh hưởng đến chất lượng công trình do tình trạng ăn cắp vật tư, rút bớt vật tư, hiện nay còn xảy ra nhiều với các công trình, kể cả những công trình lớn với nhà thầu nước ngoài.
Qui chế hệ thống thông tin, tính công khai, minh bạch chưa rõ ràng, chưa có sự bình đảng giữa các nhà thầu, nhiều thông tin còn bị bóp méo, sai sự thật. Cúng với sự thiếu thống nhất giữa các văn bản pháp lý vì các văn bản đấu thầu có quá nhiều sự sửa đổi bổ sung từ các nghị định và sự không thống nhất giữa các văn bản liên quan đã gây nhiều khó khăn cho ngườI thực hiện công tác đấu thầu.
Để khắc phục những thiếu xót trên thì đòi hỏi cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải biết trách nhiệm của mình là phải sửa đổi, khắc phục những sai sót, thiếu sót đó là vấn đề sống còn cần phải sửa đổi kịp thời, nhanh chóng trong quá trình hội nhập. Cần gấp rút hoàn thiện hệ thống văn bản một cách đồng bộ, thống nhất tạo điều kiện thuận lợi cho người áp dụng. Thêm vào đó là phải có sự tuyên truyền, hướng dẫn các văn bản mới tới các bộ, ngành, địa phương có điều kiện thuận lợi cấp nhật các văn bản mới, tránh để các dự án thực hiện tại thời điểm văn bản mới và văn bản cũ gây khó khăn cho việc xử phạt những sai lầm giữa 2 văn bản cũ và mới.
2 Giảm bớt thủ tục hành chính:
Vấn đề thủ tục hành chính của Việt Nam đang là vấn đề mà nhiều người bàn tán và quan tâm. Thủ tục quá rườm rà, gây khó khăn cho người dân. Và thủ tục hành chính đối với đấu thầu cũng không thoát khỏi điều này; đặc biệt là trong đấu thầu xây dựng. Với các thủ tục xin cấp giấy phép xây dựng, cấp đất, thuê đất đã không ít lần làm chậm tiến độ của các nhà thầu. Do đó, Nhà nước cần phải tạo một khung pháp lý rõ ràng, khách quan, tránh tình trạng móc ngoặc, tham ô, hối lộ. Với các công trình của Nhà nước, Nhà nước đã đi sâu vào can thiệp quá sâu vào lĩnh vực đấu thầu, gây ra những thủ tục phiền hà, gây khó khăn cho các nhà thầu.
Hiện nay, vấn đề công khai hoá vốn và phân bổ vốn còn yếu kém, chính sự mập mờ trong phân bổ vốn, dự toán và quyết toán vốn trong đấu thầu đã để cho chủ đầu tư và nhà thầu móc ngoặc với nhau, gây thất thoát, lãng phí vốn. Việc can thiệp quá sâu của Nhà nước vào thủ tục cấp vốn và thanh quyết toán vốn đã làm cho tình trạng cấp vốn, thanh quyết toán vốn kéo dài hay quá nhỏ giọt, gây nên tình trạng chậm tiến độ, lãng phí, ảnh hưởng đến chất lượng công trình. Để giảm bớt các thủ tục hành chính thì Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật, chặt chẽ, rõ ràng, minh bạch; có chỉ dẫn về các thủ tục cho chủ đầu tư và các nhà thầu biết.
3.Tăng cường công khai hoá hoạt động đấu thầu.
Cung cấp đầy đủ thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí ( Tờ thông tin đấu thầu), các trang web về luật, về đấu thầu và tính công khai của các nhà thầu song thông tin đưa ra mới còn ở dạng sơ lược, rời rạc, thông báo ít có sự phân tích kỹ. Như tờ thông tin đấu thầu chủ yếu là các thông báo mời thầu chưa có sự phân tích về hoạt động đấu thầu hiện nay ra sao.Việc truy cập vào các trang web này, đôi khi còn chưa nhanh cóng, kịp thời, chưa thuận tiện trong việc tìm kiếm thông tin. Nhiều văn bản, nghị định, qui chế, thông tư còn chưa cập nhật hết. Do đó, cần có sự phân tích, cung cấp thông tin thường xuyên, kịp thời của các bộ, ngành, địa phương và sự quan tâm hơn nữa của bộ Kế hoạch-Đầu tư làm lớn mạnh hơn nữa về trang web đấu thầu của bộ, công khai hoá các hệ thống dữ liệu về thông tin đấu thầu, giúp cho công tác giám sát dễ dàng, thống nhất, công khai và minh bạch. Để nâng cao chất lượng các trang web đấu thầu, có thể bán các thông tin đấu thầu cho những người cần tìm hiểu. Hiện nay, các trang web này chủ yếu là miễn phí, nên việc duy trì và nâng cấp các trang web là rất khó khăn. Cần thu phí riêng, khi đó sẽ nâng cao chất lượng các trang web về đấu thầu.
4.Nâng cao năng lực chuyên môn cán bộ trong hệ thống quản lý đấu thầu
Bộ kế hoạch đầu tư cần mở các lớp tập huấn về đấu thầu tại các địa phương để phổ biến việc áp dụng các văn bản mới. Bên cạnh đó, các bộ, ngành, địa phương cần chủ động tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo nghiệp vụ về đấu thầu cho các đơn vị mình.
Cử đi học nước ngoài đối với các cán bộ nghiên cứu làm luật, để họ có điều học hỏi những kiến thức tiên tiến của nước phát triển, nâng cao trình độ chuyên môn, đúc rút kinh nghiệm, để hoàn thiện tốt hệ thống văn bản luật nói chung và văn bản luật nói riêng.
Cần mở các lớp đào tạo nhà hoạch định chính sách để họ được đào tạo khoa học, bài bản, tạo nền tảng vững chắc cho hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật. Các cán bộ này cũng phải đến xem xét các bộ, ngành, địa phương; lắng nghe những yêu cầu, nắm bắt thực tế, đúc rút kinh nghiệm, tìm ra các kẽ hở trong luật đấu thầu nhằm đưa ra biện pháp khắc phục kịp thời, tránh để những sai lầm nghiêm trọng xảy ra, gây hậu quả lớn, khó lường.
KẾT LUẬN
Nói tóm lại, với chuyên đề mà em lựa chọn đã giúp em có nhiều hiểu biết hơn về lĩnh vực đấu thầu. Cũng với sự giúp đỡ của các anh chị ở Trung tâm và những kiến thức em tìm hiểu được, em đã hoàn thành tốt chuyên đề của mình. Cùng với hoạt động đấu thầu ngày một nâng cao thì hiệu quả đầu tư ở Trung tâm ngày một khởi sắc. Quá trình tiến hành đấu thầu hàng năm đã không ngừng cải tiến máy móc thiết bị hiện đại, nâng cao mạng lưới phục vụ tốt và kinh doanh có hiệu quả. Việc đấu thầu đã nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác đấu thầu trong đàm phán với đối tác quốc tế, đảm bảo quyền lợi của quốc gia, của ngành và của công ty.
Bên cạnh những thành công mà Trung tâm có được thì cũng không phải không có mặt hạn chế. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, em cũng nhận thấy một số hạn chế và khó khăn mà Trung tâm gặp phải. Việc khắc phục những khó khăn trên không chỉ một người có thể làm được, mà tất cả CBCNV trong Trung tâm cùng đồng lòng. Em cũng đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu thầu tại Trung tâm; với mục đích, góp phần đóng góp ý tưởng của mình vào công cuộc đổi mới, hiện đại hoá lĩnh vực viễn thông.
Tài liệu tham khảo
1.Hệ thống văn bản pháp luật hướng dẫn thực hiện.Qui chế quản lý đầu tư và xây dựng. Qui chế đấu thầu. Nhà xuất bản chính trị quốc gia. Hà nội-2-2004.
2.Luật xây dựng và văn bản hướng dẫn thực hiện. Nhà xuất bản xây dựng Hà nội-2005.
3.Thông tư số 08/2005/TT –BXD ngày 06-05-2005 của Bộ xây dựng hướng dẫn một số nội dung về lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình và xử lý chuyển tiếp thực hiện Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 của Chính phủ.
4.Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế đấu thầu.
5.Nghị định số 66/2003/NĐ-CP ngày 12/06/2003 của Chính phủ về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo NĐ số 88/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 và Nghị định số 14/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000 của Chính phủ.
6.15 năm một chặng đường.Nhà xuất bản Bưu điện.
7.Tài liệu tập huấn về qui chế quản lý hoạt động đầu tư-Công ty Viễn thông Quốc tế.
8.Trung tâm thông tin Bưu điện: “10 sự kiện nổi bật của ngành Bưu chính Viễn thông Việt Nam các năm 2004, 2005”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DT33.docx