LỜI NÓI ĐẦU
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12 – 1986) Đảng ta đã đề ra chủ
trương đổi mới nền kinh tế một cách toàn diện, chuyển nền kinh tế kế hoạch
tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Lý
luận kinh tế về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội lúc này đã có những thay
đổi căn bản, sự tồn tại khách quan của năm thành phần kinh tế được thừa
nhận. Kinh tế quốc doanh nay được gọi là khu vực doanh nghiệp Nhà nước,
đồng thời thừa nhận sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh thì nhận thức về vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước cũng
được đổi mới.
Trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đảng
ta luôn khẳng định thành phần kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế quốc dân. Lý luận về kinh tế nhà nước là một trong những vấn
đề lý luận kinh tế trung tâm của các đảng cộng sản. Nhất là trong giai đoạn
lãnh đạo đất nước xây dựng và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Hiện nay lý luận đó vẫn mang ý nghĩa thời sự cấp bách cả
về nhận thức lý luận và thực tiễn.
Ở Việt Nam thì kinh tế nhà nước là một bộ phận có vai trò quyết định
trong cơ cấu kinh tế của nước ta. Trong các bộ phận cấu thành của kinh tế
nhà nước thì khu vực doanh nghiệp nhà nước là bộ phận chủ yếu có vị trí
đặc biệt. Nhưng thực trạng của khu vực doanh nghiệp nhà nước của nước ta
hiện nay thì chưa thể hiện được vai trò then chốt và chủ đạo trong nền kinh
tế, một số ngành, một số lĩnh vực của doanh nghiệp nhà nước không năng
động bằng khu vực kinh tế tư nhân. Có nhiều lý do dẫn đến tình trạng trên
nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là do khâu tổ chức và vận hành doanh
nghiệp nhà nước chưa thật hợp lý. Vậy để doanh nghiệp nhà nước có thể thể
hiện được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế quốc dân thì vấn đề tất
yếu là ta phải tổ chức và sắp xếp lại các doanh nghiệp cho thật hợp lý. Em
chọn đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển DNNN ở Việt Nam hiện
nay" để viết bài đề án Kinh tế chính trị.
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .1
CHƯƠNG I / MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DNNN .2
I/ Tính tất yếu khách quan .2
1. Định nghĩa về DNNN .2
2. Các bộ phận cấu thành của KTNN 2
3. Sự cần thiết phải củng cố và phát triển DNNN 3
3.1 Sự cần thiết của DNNN 3
3.2 Sự cần phải phát triển DNNN .5
II/ Vai trò then chốt của DNNN .11
CHƯƠNG II/ THỰC TRẠNG DNNN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 12
I/ Quá trình đổi mới DNNN 12
1. Giai đoạn 1980-1986 .12
2. Giai đoạn 1986-1990 .13
3. Giai đoạn 1990 đến nay 15
3.1 Đổi mới cơ chế quản lý DNNN 15
3.2 Sắp xếp lại DNNN .17
II/ Kết quả đạt được về quá trình đổi mới DNNN trong thời gian qua .20
1. Những thành tựu chủ yếu 20
2. Những yếu kém chủ yếu của các DNNN hiện nay .21
2.1 Về hiệu quả kinh doanh 21
2.2 Về khả năng cạnh tranh .22
2.3 Về cơ cấu DNNN .23
3. Những nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém của các DNNN 23
3.1 Đầu tư sai 23
3.2 Tình trạng thiếu vốn phổ biến .24
3.3 Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu .25
3.4 Số lao động dư thừa đang rất lớn .25
3.5 Doanh nghiệp không được tự chủ về tài chính 25
3.6 Không được tự chủ về nhân sự và tiền lương 25
3.7 Tổ chức quản lý không phù hợp .26
3.8 Môi trường kinh doanh chưa hoàn chỉnh 26
CHƯƠNG III PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI
DNNN TRONG THỜI GIAN TỚI .27
I/ Phương hướng đổi mới các DNNN trong thời gian qua 27
II/ Giải pháp tiếp tục đổi mới và phát triển DNNN .28
1. Định hướng sắp xếp, phát triển DNNN hoạt động kinh doanh và hoạt
động công ích .28
1.1 Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh .28
1.2 Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích .28
2. Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách .29
2.1 Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh .29
2.2 Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích 30
2.3 Giải quyết lao động dôi dư và nợ không thanh toán được 31
3. Đổi mới và nâng cao hiệu quả của các tổng công ty nhà nước; hình
thành một số tập đoàn kinh tế mạnh .31
4. Đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN .32
5. Thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể, phá
sản DNNN .32
KẾT LUẬN .33
38 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1694 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và giải pháp phát triển daonh nhân nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ghiệp phải định
hướng vào thị trường, đồng thời tăng quyền tự chủ của doanh nghiệp trong
các quyết định kinh doanh. Về mặt quan hệ với nhà nước, trong giai đoạn
này hệ thống quan hệ kế hoạch dần dần chuyển từ kế hoạch trực tiếp sang kế
hoạch gián tiếp, do đó các DNNN từ chỗ phải hoạt động theo kế hoạch với
9 chỉ tiêu pháp lệnh dần dần bãi bỏ chỉ còn 1 chỉ tiêu nộp ngân sách, xoá bỏ
bao cấp từ ngân sách nhà nước, bãi bỏ chế độ 2 giá, hạch toán kinh doanh
theo giá thị trường. Về quản lý, quyết định 217/HĐBT trao quyền tự chủ rất
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
15
rộng rãi cho doanh nghiệp mà hầu như không có biện pháp kiểm soát tương
ứng. Các doanh nghiệp lại trao quyền tự chủ cho các bộ phận, chi nhánh của
mình trong tìm kiếm, ký hợp đồng và tổ chức sản xuất kinh doanh với các
khách hàng dẫn đến tình trạng “trăm hoa đua nở” rất sôi động nhưng cũng
rất phức tạp, khó quản lý về mặt nhà nước .
Điều đáng chú ý trong giai đoạn này là thực hiện chủ trương phân cấp,
nhà nước, trung ương giao quyền cho chính quyền các địa phương ra quyết
định thành lập các DNNN. Vì vậy chỉ trong vòng 4 năm số lượng DNNN
tăng lên gần gấp 2 lần, đưa số DNNN của Việt nam lên 12084, trong đó đến
60% là các doanh nghiệp do địa phương quản lý. Rất nhiều DNNN do chính
quyền địa phương quyết định thành lập hầu như không được cấp vốn, chủ
yếu hoạt bằng vốn vay ngân hàng.
Nhìn chung, các DNNN giai đoạn này đã từng bước đổi mới. Một bộ
phận doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, ngược lại một bộ phận khác
không thích nghi được với thị trường, thua lỗ triền miên, trở thành gánh
nặng cho ngân sách nhà nước. Về tổng thể khu vực DNNN vẫn được giữ vai
trò chủ đạo của mình, chiếm trên dưới 35% GDP và 60% nộp ngân sách nhà
nước .
3. Giai đoạn 1990 đến nay
Tiếp tục đường lối đổi mới kinh tế, đại hội toàn quốc lần thứ VII năm
1991 đã chủ trương: “khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế
quốc doanh, bảo đảm kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu quả, nắm vững
những lĩnh vực và ngành then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế. Tập trung lực lượng củng cố và phát triển những cơ sở trọng điểm,
những cơ sở làm ăn có hiệu quả và có ý nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân.
Cho thuê, chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể các cơ sở thua lỗ kéo dài và
không có khả năng vươn lên. sắp xếp lại các liên hiệp xí nghiệp, tổng công
ty phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường” và “khu
vực quốc doanh phải được sắp xếp lại, đổi mới công nghệ và tổ chức quản
lý, kinh doanh có hiệu quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác,
thực hiện vai trò chủ đạo và chức năng của một công cụ quản lý vĩ mô của
nhà nước.
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
16
Đại hội VIII của đảng năm 1996 tiếp tục khẳng định: “ tiếp tục đổi mới
và phát triển có hiệu quả KTNN để làm tốt vai trò chủ đạo: làm đòn bẩy đẩy
nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường,
hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển, làm lực lượng vật
chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền
tảng cho chế độ xã hội mới”.
Thực hiện đường lối đổi mới của đảng, Chính phủ đã ra hàng loạt quyết
định về đổi mới DNNN và trên thực tế đã tổ chức thực hiện hàng loạt biện
pháp rất mạnh trên cả hai mảng: sắp xếp tổ chức lại và đổi mới cơ chế quản
lý DNNN. Đó là quyết định 315/HĐBT(9-1990), nghị định 388/HĐBT (11-
1991), các quyết định 90 và 91/TTg (3-1994), luật doanh nghiệp nhà nước
(4-1995), chỉ thị 500/TTg (8-1995), nghị định 28/CP (5-1996), nghị định
56/CP ( 10-1996), nghị định 59/CP ( 10-1996), nghị định 50/CP (8-1996),
chỉ thị 20/TTg (4-1998) và nghị định 44/CP (6-1998); đồng thời từng bước
làm rõ thêm quan hệ quản lý giữa nhà nước và doanh nghiệp.
3.1 Đổi mới cơ chế quản lý DNNN
Theo quyết định 315/HĐBT các doanh nghiệp phải rà soát lại chức năng
hoạt động kinh doanh, rà soát lại các yếu tố sản xuất kinh doanh như: thị
trường, công nghệ, vốn, tổ chức lao động, tổ chức bộ máy và cán bộ, soát xét
lại tình hình tài chính doanh nghiệp, chấp hành kỷ luật tài chính, kế toán,
thống kê. Những xí nghiệp không tiêu thụ được sản phẩm, không thực hiện
được nhiệm vụ kinh doanh, liên tiếp bị lỗ trong thời gian dài, không có khả
năng thanh toán và không thể khắc phục bằng các biện pháp như chuyển
hướng sản xuất, thay đổi mặt hàng, đầu tư trang bị lại, cũng như các biện
pháp về chấn chỉnh và tổ chức lại sản xuất kinh doanh với sự hỗ trợ của cấp
trên ... có thể bị tuyên bố giải thể.
Theo nghị định 388/HĐBT, các DNNN phải được thành lập lại, đăng ký
lại để loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài. Như vậy, nghị
định 388 như một giải pháp hợp pháp hoá, chính thức hoá để công nhận các
DNNN tồn tại được trong cơ chế thị trường; đồng thời loại bỏ những doanh
nghiệp đã bị thị trường loại bỏ trên thực tế nhưng vẫn tồn tại trên danh
nghĩa. Các ngành, các địa phương đã khẩn trương triển khai và coi đây là
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
17
một công tác quan trọng nhằm thúc đẩy tổ chức và sắp xếp lại một bước để
nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. Điểm mới trong chủ trương này là
lần đầu quy định các điều kiện tối thiểu về vốn pháp định, ngành nghề kinh
doanh, luận chứng về thị trường tiêu thụ sản phẩm trong việc thành lập
DNNN. Thực hiện nghị định 388/HĐBT các bộ, địa phương và từng doanh
nghiệp tiến hành rà soát lại tổ chức của từng đơn vị để tổ chức theo đúng
chức năng, nhiệm vụ được quy định vừa đảm bảo quyền tự chư sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp vừa đảm bảo sự kiểm tra giám sát của nhà
nước
Luật doanh nghiệp nhà nước ban hành tháng 4-1995 và các văn bản
hướng dẫn thi hành đã tạo ra cơ sở pháp lý tổng quát trong quan hệ giữa
DNNN và nhà nước.
Về các nội dung cụ thể của cơ chế, đáng chú ý là hai mảng: tài chính và
lao động. Nghị định 59/CP ( 1996), sau đó là nghị định 27/CP (1999) bổ
sung, sửa đổi nghị định 59 nhằm xác lập cơ chế tài chính đối với DNNN.
Theo các nghị định này, một loạt biện pháp được áp dụng: chuyển chế độ
cấp vốn sang chế độ giao nhận vốn, chuyển từ định mức vốn sang chế độ
xác định vốn điều lệ cho doanh nghiệp, tăng quyền tự chủ tài chính đồng
thời gắn với trách nhiệm bảo toàn vốn, áp dụng một loạt hình thức tài chính
mới như bán trái phiếu, lập các quỹ dự trữ tài chính, quỹ dự phòng mất việc
làm ... Về cơ chế sử dụng lao động, theo tinh thần bộ luật lao động (12-
1994) đã có một loạt quyết định cho phép DNNN tăng quyền tự chủ trong sử
dụng lao động và trả lương: chuyển chế độ biên chế sang hợp đồng, áp dụng
cơ chế quản lý theo lương tối thiểu, cơ chế tuyển dụng, thôi việc thoả ước
tập thể ...
3.2 Sắp xếp lại DNNN
Trong giai đoạn 1991-1993 theo quyết định 315/HĐBT tháng 9 năm
1990 về giải thể và tổ chức lại những DNNN yếu kém, nghị định 388/HĐBT
tháng 11 năm 1991 về nguyên tắc và điều kiện là thành lập lại DNNN, quyết
định số 202/CP ngày 8 tháng 6 năm 1992 thí điểm cổ phần hoá một số
DNNN.
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
18
Trong giai đoạn 1994-1997, theo quyết định số 90/TTg và 91/TTg và chỉ
thị 500/TTg về sắp xếp các DNNN giải thể những liên hiệp xí nghiệp, tổng
công ty trước đây, hình thành những tổng công ty có quy mô lớn( tổng công
ty 91) va quy mô vừa(tổng công ty 90), nghị định 28/CP( 5-1996) về chuyển
đổi một số DNNN thành công ty cổ phần.
Từ giữ những năm 1998 đến nay, theo chỉ thị 20/CT-TTg ( 4-1998), chỉ
thị 15/CT-TTg ( 5-1999) và nghị định 44/CP về cổ phần hoá kết hợp phương
án tổng thể sắp xếp DNNN. Có ba nội dung cơ bản về sắp xếp tổ chức lại
DNNN được nhấn mạnh là: sắp xếp DNNN theo phương án tổng thể từng
vùng, ngành,tổ chức lại tổng công ty theo hướng thí điểm thành lập tập đoàn
kinh tế : cổ phần hoá DNNN. Nghị định số 103/1999/NĐ-CP về giao , bán,
khoán, cho thuê DNNN có vốn dưới 1tỷ đồng kinh doanh thua lỗ kéo dài
thuộc ngành nhà nước không cần nắm giữ cổ phần đã được ban hành ngày
10-9-1999 để có cơ sắp xếp các DNNN nhỏ, yếu kém.
Giữa năm 2000 theo số liệu của ban đổi mới doanh nghiệp trung ương,
đã giảm được trên một nửa số đầu mối DNNN, tổng số từ trên 12000 doanh
nghiệp giảm xuống còn 5280 doanh nghiệp, trong đó có 732 doanh nghiệp
công ích và 4548 doanh nghiệp kinh doanh. Như vậy số DNNN đã giảm trên
một nửa, trong đó 48% là sáp nhập vào các doanh nghiệp lớn hơn, hiệu quả
hơn, 52% giải thể. Mặc dù vậy tỷ trọng DNNN trong tổng sản phẩm quốc
nội vẫn tăng từ 36.5% năm 1991 lên 40.7% năm 1998, và tỷ lệ nộp ngân
sách nhà nước , lợi nhuận trên vốn nhà nước đều tăng lên đáng kể.
Như vậy khu vực DNNN nói chung sau khi xác lập cơ chế quản lý mới
và tổ chức sắp xếp lại vẫn phát triển khá. Trong 5 năm 1991-1995 tốc độ
tăng trưởng bình quân hàng năm của kinh tế quốc doanh là 11.7%, gần gấp
rưỡi tốc độ tăng trưởng bình quân của toàn bộ nền kinh tế và gấp đôi kinh tế
ngoài quốc doanh
Việc sắp xếp các DNNN đã góp phần thay đổi một bước cơ cấu vốn và
lao động của doanh nghiệp, có tác động nhất định đến quá trình tích luỹ và
tập trung. Và bằng những chính sách hỗ trợ phù hợp chúng ta đã giải quyết
được cơ bản vấn đề trợ cấp và bảo đảm chính sách cho 600000 công nhân
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
19
giảm biên chế trong hai đợt sắp xếp; đồng thời lại tuyển dụng mới một số
lượng gần tương đương.
Để đẩy mạnh sắp xếp lại DNNN, theo tinh thần nghị quyết hội nghị ban
chấp hành trung ương lần thứ tư khoá VIII, thủ tướng chính phủ đã ra chỉ thị
số 20/1998/CT-TTg ngày 21 tháng 4 năm 1998 thì vấn đề trọng tâm là tổ
chức phân loại DNNN dựa trên sự nắm vững và phân tích tình hình hoạt
động của các doanh nghiệp trong ba năm gần đây nhất để tổ chức lại sản
xuất kinh doanh cho phù hợp với từng loại, DNNN được phân thành ba
nhóm: nhóm một gồm những doanh nghiệp quan trọng, cần duy trì hoạt
động theo luật DNNN để phát huy vai trò nòng cốt và dẫn dắt trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Những doanh nghiệp thuộc loại này duy
trì 100% vốn nhà nước. Nhóm hai gồm những doanh nghiệp cần chuyển đổi
cơ cấu sở hữu, là những doanh nghiệp không cần duy trì 100% vốn nhà
nước. Nhóm ba gồm những doanh nghiệp bị thua lỗ kéo dài cần được sử lý
thích hợp
Theo các chủ trương, quyết định, hướng dẫn của nhà nước phương hướng
xử lý các doanh nghiệp sau khi phân loại quy mô lớn và trunh bình như sau:
- Đối vớidoanh nghiệp hoạt động công ích: những doanh nghiệp nào có đủ
điều kiện hạch toántheo quy mô doanh nghiệp thì tiếp tục duy trì 100% sở
hữu nhà nước và thực hiện các cính sách hỗ trợ đối với những nhiệm vụ mà
nhà nước giao. Doanh nghiệp có trách nhiệm bảo toàn vốn và được quyền
huy động thêm các nguồn vốn khác theo quy định của nhà nước, được trích
lập 3 quỹ trên cơ sở hoàn thành định mức chi phí do nhà nước quy định và
thực hiện cơ chế quản lý như doanh nghiệp. Còn những DNNN công ích quá
nhỏ có thể thực hiện phương thức giao khoán cho tập thể lao động hoặc cho
các thành phần kinh tế khác đấu thầu quản lý thực hiện hợp đồng của nhà
nước.
- Đối với các DNNN hoạt động kinh doanh: trừ lĩnh vực nhà nước độc
quyền kinh doanh cần giữ sở hữu nhà nước, còn lại các doanh nghiệp có quy
mô vừa và lớn đang hoạt động có hiệu quả sẽ mạnh dạn cổ phần hoá và cho
phép doanh nghiệp tự quyết định cơ cấu sở hữu trong quá trình cổ phần hoá,
không cần duy trì tỷ lệ cổ phần khống chế của nhà nước hoặc duy trì một
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
20
phần giai đoạn đầu rồi có thể bán tiếp trong quá trình hoạt động sau khi
chuyển thành công ty cổ phần.
- Những DNNN không thuộc diện độc quyền nhà nước, đang bị thua lỗ và
những DNNN quá nhỏ không thể cổ phần hoá được thì áp dụng phương thức
giao, bán, khoán, cho thuê, đấu thầu doanh nghiệp theo những điều kiện quy
định của nhà nước. Đối với những DNNN đang lâm vào tình trạng mất khả
năng thanh toán nợ đến hạn 2-3 năm liên tục, sau khi đã áp dụng các biện
pháp khắc phục vẫn không có chuyển biến tích cực thì kiên quyết cho giai
thể hoặc phá sản.
Thực hiện củ trương sắp xếp trên, đến giữa năm 2000, các bộ, địa phương
và tổng công ty đã có đề án tổng thể sắp xếp lại DNNN. Theo tổng hợp sơ
bộ của ban đổi mới doanh nghiệp, phương án đề ra của các bộ, địa phương
như sau:
- Số doanh nghiệp cần duy trì 100% vốn nhà nước chiếm 49.68% tổng số
doanh nghiệp
- Số doanh nghiệp cần chuyển đổi cơ cấu sở hữu chiếm 42.10% tổng số
doanh nghiệp
- Số doanh nghiệp bị thua lỗ kéo dài, liên tục từ hai năm trở lên
chiếm8.22% tổng số doanh nghiệp
Tuy nhiên trên thực tế việc sắp xếp lại DNNN gặp rất ngiều khó khăn và
không thực hiện đúng như đề án của chính các bộ, địa phương và tổng công
ty lập nên. Cho đến cuối năm 2000 mới chỉ sắp xếp được trên 500 doanh
nghiệp, chủ yếu là cổ phần hoá, đạt chưa tới 50% kế hoạch, còn các hình
thức sắp xếp khác như giao, bán, khoán, đấu thầu, giải thể, phá sản hầu như
chưa được thực hiện.
II/ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VỀ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI DNNN
TRONG THỜI GIAN QUA
1. Những thành tựu chủ yếu
Về tổng thể, mặc dù số lượng DNNN giảm đáng kể, số lượng công
nhân điều chỉnh mạnh khoảng 600000 người ra khỏi DNNN, đồng thời cũng
bổ xung một lực lượng mới. Quá trình đổi mới vừa thay đổi cơ chế quản lý,
vừa tổ chức sắp xếp lại nhiều đợt trong điều kiện chuyển đổi kinh tế, nhưng
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
21
khu vực DNNN vẫn có tốc độ tăng trưởng cao và giữ vị trí đáng kể trong
đóng góp ngân sách và xuất khẩu. Thành tựu tăng trưởng của khu vực
DNNN càng có ý nghĩa khi đặt trong tổng thể tốc độ tăng trưởng chung của
nền kinh tế thời kỳ 10 năm qua ở mức khá cao ( GDP năm 2000 đã gấp 2
lần GDP năm 1990). Như vậy tăng trưởng của khu vực DNNN cao hơn khu
vực dân doanh , cao hơn tốc độ chung của nền kinh tế quốc dân
Đã thay đổi cơ bản cơ chế tài chính đối với DNNN có tác dụng xoá bỏ
bao cấp cho khu vực này từ ngân sách nhà nước. Tính chung cho cả yhời kỳ
1988-1998 tỷ lệ tài trợ trực tiếp từ ngân sách nhà nước dưới tất cả các hình
thức: đầu tư, cấp vốn lưu động, bù lỗ, bù giá đã giảm từ mức 8.5% GDP
xuống còn 0.5%GDP. như vậy về cơ bản các DNNN đã được “ thương mại
hoá” - một quá trình không dễ thực hiện ở các nước chuyển đổi. Do vậy chi
ngân sách nhà nước có điều kiện tập tring cho các mục tiêu khác trong khi
vẫn duy trì được hiệu quả, vai trò của các DNNN như những tổ chức kinh tế
hoạch toán độc lập
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của DNNN về tổng thể đã được nâng
lên so với trước xét trên át cả các mặt. Các chỉ số về hiệu suất vốn , lãi tuyệt
đối, số nộp ngân sách, tỷ lệ nộp ngân sách nhà nước trên vốn mặc dù thấp
hơn nhiều so với các khu vực khác nhưng so với thời kỳ trước đổi mới đã có
sự cải thiện đáng kể
Về mặt quản lý bước đầu đã phân định chức năng quản lý nhà nước của
các cơ quan nhà nước với chức năng sản xuất kinh doanh của các DNNN.
Cụ thể là làm rõ các quan hệ: ai là chủ sở hữu vốn; mức độ tự chủ của doanh
nghiệp đến đâu, quan hệ với cơ quan chủ quản. Nhờ xác định rõ quyền tự
chủ của DNNN nên trong việc thực hiện chủ trưởng liên doanh, liên kết với
nước ngoài qua hoạt động đầu tư quốc tế, các DNNN ( chiếm 96% số dự án
) đã chủ động, tích cực và thực hiện khá thành công, góp phần thu hút, đẩy
mạnh vốn đầu tư nước ngoài vào Việt nam hơn 10 năm qua.
Trong đổi mới tổ chức quản lý, mô hình tổng công ty ( chủ yếu là các
tổng công ty 91 ) đã bước đầu phát huy tác dụng là những DNNN nòng cốt
của kinh tế nhà nước ( hiện nay 17 tổng công ty 91 và 76 tổng công ty 90,
cộng chung là 93 tổng công ty với 1534 doanh nghiệp thành viên nắm giữ
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
22
66% vốn, 55% lao động, trên 90% kim ngạch xuất khẩu, 80% nộp ngân sách
của khu vực DNNN; các tổng công ty sản xuất 94% sản lượng điện, 97%
than, 64% thép, 59% xi măng, 50% giấy …) Mặc dù còn nhiều vấn đề trong
tổ chức mô hình tổng công ty như đã xác lập được trên thực tế nhiều tổng
công ty mạnh, có khả năng thực hiện các dự án đầu tư lớn, cạnh tranh với
các doanh nghiệp nước ngoài
Trong thực hiện đa dạng hoá sở hưũ: cổ phần hoá, tư nhân hoá, giao
khoán, giải thể, phá sản; mặc dù tiến hành chậm nhưng sau 6 năm thí điểm ,
tìm tòi, tranh luận đến năm 1998-1999 chúng ta đã tươnh đối thống nhất về
quan điểm và triển khai mạnh các giải pháp chuyển đổi sở hữu, đặc biệt là
cổ phần hoá đều chứng tỏ tính hiệu quả của giải pháp. Rõ ràng kết quả cổ
phần hoá và đa dạng hoá hình thức sở hữu thời kỳ vừa qua vừa có tác dụng,
ý nghĩa khẳng định hướng tổ chức sắp xếp lại DNNN, vừa có tác dụng tập
dượt mô hình và cách làm để tiến hành ở quy mô rộng hơn đối với các doanh
nghiệp khó khăn hơn ở giai đoạn sau năm 2000
2. Những yếu kém chủ yếu của các DNNN hiện nay
2.1 Về hiệu quả kinh doanh
Mặc dù đã được đầu tư và ưu đãi nhiều từ phiá nhà nước, sau nhiều lần
sắp xếp tổ chức lại và đổi mới cơ chế, nhưng các DNNN vẫn chưa chứng tỏ
được tính hiệu quả của mình so với khu vực dân doanh, chưa đáp ứng được
mong muốn của đảng và nhà nước, chưa tương xứng với tiềm lực và ưu đãi
do nhà nước dành cho
Một DNNN kinh doanh có hiệu quả theo các tiêu chí hiện hành do bộ
tài chính quy định, phải đạt các tiêu chuẩn: bảo toàn và phát triển được vốn,
phải trích đủ khấu hao tài sản cố định; lương bình quân phải bằng hoặc vượt
mức bình quân của doanh nghiệp cùng ngành nghề trên địa bàn; trả đầy đủ
các khoản nợ đến hạn, nộp đủ các khoản thuế theo luật định; có lãi, nộp đủ
tiền sử dụng vốn và lập đủ các quỹ doanh nghiệp như: dự phòng tài chính,
trợ cấp mất việc làm, đầu tư phát triển, khen thưởng, phúc lợi. Nhưng theo
số liệu năm 1997 của bộ tài chính, trong tổng số 5429 DNNN thì số kinh
doanh có hiệu quả chỉ chiếm 40.44%. Số liệu này thống nhất với số liệu của
ban đổi mới doanh nghiệp trung ương tháng 2-2000: số doanh nghiệp có lãi
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
23
thực sự chiếm 40%, số doanh nghiệp bị thua lỗ chiếm 20% ( nếu tính đủ
khấu hao giá trị tài sản cố định thì doanh nghiệp làm ăn thua lỗ còn lớn hơn
), số doanh nghiệp còn lại nằm trong tình trạng không ổn định, khi lỗ, khi lãi
và lãi cũng không lớn. Về tốc độ tăng trưởng bình quân của DNNN: sau
một thời gian dài đạt liên tục tăng 13%/năm, đến năm 1998 và đầu năm 1999
tốc độ tăng còn 8-9%. Hiệu quả sử dụng vốn giảm; năm 1995, một đồng vốn
tạo ra được 3.46 đồng doanh thu và 0.19 đồng lợi nhuận; đến năm 1998 các
con số tương ứng chỉ còn 2.9 và 0.14; năm1998 trong ngành công nghiệp,
một đồng vốn chỉ làm ra được 0.024 đồng lợi nhuận; số doanh nghiệp bị lỗ
trong ngành thương mại, dịch vụ, du lịch, khách sạn chiếm tới 41%. Công
nợ trong DNNN hiện quá lớn: nợ phải thu chiếm tới trên 60% và nợ phải trả
bằng 124% vốn nhà nước trong doanh nghiệp, trong đó tỷ lệ quá hạn hoặc
khó đòi chiếm tỷlệ lớn. Số này đặc biệt nhiều trong các DNNN do địa
phương quản lý. Do tình hình tài chính như vậy, nhà nướcvẫn phải thường
xuyên dành tiền hỗ trợ cho DNNN: trong 3 năm 1997-1999 ngân sách nhà
nước đã đầu tư trực tiếp cho doanh nghiệp gần 8000 tỷ đồng trong đó có
6482 tỷ đồng cấp bổ sung cho doanh nghiệp. Ngoài ra nhà nước còn miễn
giảm thuế 2288 tỷ đồng, xoá nợ 1088 tỷ đồng, khoanh nợ 3392 tỷ đồng ,
giãn nợ 540 tỷ đồng, cho vay vốn tín dụng ưu đãi 8685 tỷ đồng. Nhưng đáng
chú ý là việc hỗ trợ này không mang lại hiệu quả tương ứng, số nộp vào
ngân sách nhà nước ít hơn phần nhà nước hỗ trợ cho doanh nghiệp. Tình
trạng không hiệu quả của DNNN trong điều kiện nước ta hiện nay có nguy
cơ đe doạ tính an toàn của toàn bộ hệ thống tài chính bởi vì các DNNN là
các khách hàng vay chủ yếu của 4 ngân hàng thương mại quốc doanh (
chiếm 57-60% vay vốn nội tệ, trên 90% vay ngoại tệ tín dụng của các ngân
hàng thương mại quốc doanh )
2.2 Về khả năng cạnh tranh
Các DNNN rất yếu kém về khả năng cạnh tranh. Có nhiều ngành, sản
phẩm của DNNN đang được bảo hộ tuyệt đối hoặc bảo hộ qua hàng rào thuế
quan, trợ cấp ( qua ưu đãi tín dụng và bù lỗ, miễn thuế …) nhưng các DNNN
vẫn chưa chứng tỏ khả năng cạnh tranh của mình, thậm chí nhiều doanh
nghiệp lại cố gắng luận chứng để nhà nước tăng cường các biện pháp bảo hộ
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
24
mạnh hơn để duy trì việc làm và thị phần. Theo một số số liệu nghiêm cứu
gần đây của bộ kế hoạch và đầu tư, năm 2000 cho thấy các mặt hàng như
thép, xi măng, phân bón, đồ điện dân dụng, kính xây dựng, sứ xây dựng, xe
đạp, động cơ nổ …đều được bảo hộ bằng cả công cụ thuế quan và phi thuế
quan dẫn đến giá cả thị trường Việt nam cao hơn giá quốc tế 10-50% tuỳ
mặt hàng. Khả năngcạnh tranh kém của các DNNN thể hiện ngay trên thị
trường nội địa: ở những ngành có khả năng sinh lợi, thị phần của cáccó xu
hướng giảm sút nhường chỗ cho khu vực đầu tư nước ngoài và khu vực dân
doanh … Khả năng cạnh tranh kém của các DNNN trong điều kiện Việt nam
đang và sẽ thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế có nguy cơ dẫn đến tình
hình đất nước sẽ phải chịu chi phí rất lớn trong tương lai để trợ cấp, duy trì
các DNNN
2.3 Về cơ cấu DNNN
Khu vực DNNN có cơ cấu còn bất hợp lý. Cơ cấu ngành, vùng, quy mô
còn bất hợp lý đều chưa được chuyển dịch theo hướng sắp xếp lại. Trước hết
tỷ trọng DNNN ( xét về số lượng ở khu nông nghiệp ( 25%) và thương mại,
dịch vụ (40%) là quá lớn trong khi một cơ cấu hợp lý đòi hỏi DNNN, đặc
biệt là công nghiệp chế biến, chế tạo. Cơ cấu cấp quản lý cũng bất hợp lý ở
chỗ tỷ trọng doanh nghiệp thuộc địa phương quản lý qua cao ( trên 60% về
số lượng ). Về quy mô, tính đến 1-9-1999 số doanh nghiệp có quy mô dưới 5
tỷ đồng chiếm 65%, trong đó gần 3/4 là doanh nghiệp địa phương, còn có
đến 1314 doanh nghiệp (23%) có vốn dưới 1 tỷ đồng. Số doanh nghiệp có
vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 21%. Với cơ cấu bất hợp lý nêu trên DNNN
khó có thể thực hiện đầy đủ các chức năng và kỳ vọng về vai trò mà đảng và
nhà nước mong đợi.
3. Những nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém của các DNNN
3.1 Đầu tư sai
Trong xây dựng mới và cải tạo các DNNN không tính đến sự biến động
của thị trường. Đầu tư sai bắt nguồn từ những quyết định từ thời bao cấp, ví
dụ công ty gang thép Thái Nguyên, công ty dâu tơ tăm, một số mỏ và nhà
máy hoá chất … Tuy nhiên sau nhiều năm đổi mới theo cơ chế thị trường
việc đầu tư sai vẫn tiếp diễn. Sự quản lý của nhà nước không đủ hiệu lực để
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
25
ngăn chặn tình trạng đầu tư không tính đến thị trường, không cân đối với
nguyên liệu, cũng không tính đến giá thành. Có những ngành hoặc địa
phương vẫn muốn tranh thủ càng nhiều vốn nhà nước càng tốt để xây dựng
cho được những doanh nghiệp không thật cần thiết của ngành mình, địa
phương mình, có khi vì mục đích ngoài kinh tế. Tình trạng đầu tư sai, không
tính đến thị trường một phần bắt nguồn từ công tác quy hoạch. Trong khá
nhiều trường hợp, quy hoạch thường xuất phát từ ý muốn chủ quan, nói là
tập trung mũi nhọn, nhưng rồi ngành nào cũng đầu tư, địa phương nào cũng
muốn tự túc, tự cấp, có đủ “ cơ cấu kinh tế ” theo hướng “công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ”, bỏ qua những nguyên tắc cơ bản của công tác này. Chủ
trương đầu tư đã sai ngay từ đầu, công việc xây dựng lại giao cho một ban
quản lý dự án kém năng lực và không có trách nhiệm , gây ra chất lượng xây
dựng thấp, vốn đầu tư thất thoát không nhỏ. Tất cả dồn giá thành công trình
làm cho không có giám đốc nào có thể tài giỏi đến mức khắc phục được hậu
quả kém hiệu quả và năng lực cạnh tranh.
3.2 Tình trạng thiếu vốn phổ biến
Doanh nghiệp do nhà nước quyết định thành lập, nhưng không cấp đủ
vốn cho sản xuất kinh doanh buộc phải đi vay với lãi suất ngân hàng. Nhìn
chung vốn nhà nước thường chỉ chiếm khoảng 60% tổng số vốn kinh doanh
của doanh nghiệp, trong đó tại tổng công ty 91 là 75%, tại các doanh nghiệp
do bộ, ngành quản lý là 45% và do các địa phương quản lý là 50%. Xét về số
tuyệt đối năm 1998 vốn Nhà nước bình quân của một tổng công ty 91 là
3661 tỷ đồng ( tương đương 240 triệu USD ), nhưng lại có đến 14/17 tổng
công ty 91 có vốn dưới mức bình quân đó. Vốn của tổng công ty 90 còn thấp
hơn nhiều: bình quân một tổng công ty 90 chỉ có 280 tỷ đồng, trong đó 80%
số tổng công ty 90 có mức vốn thấp hơn mức bình quân, 35% số tổng công
ty 90 có vốn Nhà nước dưới 100 tỷ đồng. Khả năng trích lợi nhuận để lập
quỹ phát triển sản xuất rất thấp; số vốn lưu động hiện có cũng chỉ huy động
cho kinh doanh được khoảng 50%, số còn lại nằm ở vật tư mất mát, kém
phẩm chất, công nợ không thu hồi được… 70-90% vốn lưu động của DNNN
phải đi vay ngân hàng.
3.3 Trình độ kỹ thuật , công nghệ lạc hậu
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
26
Phần lớn các DNNN được trang bị máy móc thiết bị từ nhiều nguồn
khác nhau, có những thiết bị lạc hậu, già cỗi, sản xuất từ những năm 50,60.
Theo điều tra của viện bảo hộ lao động giữa năm 1999 thì trên 70% đã hết
khấu hao, gần 50% đã được tân trang; theo báo cáo của bộ khoa học, công
nghệ và môi trường thì công nghệ của ta lạc hậu so với thế giới từ 10-20
năm; mức độ hao mòn hữu hình từ 30-50%, thậm chí 38% trong số này ở
dạng thanh lý.
3.4 Số lao động dư thừa đang rất lớn
Theo báo cáo của ban đổi mới doanh nghiệp trung ương tháng 2-2000 đưa
ra con số là 4% tổng số lao động dư thừa. Có một số địa phương, ngành số
lao động dôi dư khá lớn như: Hải Dương 33%, Nam Định 27%, Nghệ An
16%, Hải Phòng 15%, Thanh Hoá 10%, tổng công ty thép 12%, bộ thuỷ sản
14% lao động dôi dư
3.5 Doanh nghiệp không được tự chủ về tài chính
Có thể coi đây là trở ngại rất quan trọng khiến doanh nghiệp không thể
tự chủ kinh doanh. Đại diện chủ sở hữu của tài sản nhà nước tại doanh
nghiệp là ai cho đến nay vẫn không rõ, gây ra nhiều lúng túng, khó khăn
trong việc sử dụng tài sản đó. Cơ quan chức năng quản lý tài sản của DNNN
về cơ bản vẫn đang thực hiện quyền quản lý theo kiểu cũ. Cơ chế tài chính
và hạch toán của DNNN bị những ràng buộc vô lý trói chặt từ nhiều năm mà
vẫn không được sửa đổi. Nhiều doanh nghiệp cho rằng từ nghị định 59/CP
đến nghị định 27/1999 về quản lý tài chính DNNN, sự đổi mới khôg nhiều,
vẫn những ràng buộc về các khoản chi phí, những bất hợp lý đã rõ như
khoản thu về sử dụng vốn trong đó kể cả những tài sản do doanh nghiệp tự
đầu tư từ nguồn tích luỹ hoặc vay ngân hàng để xây dựng, nay đều bị coi là
tài sản của nhà nước và buộc doanh nghiệp chịu thuế vốn. Doanh nghiệp
muốn khấu hao nhanh cũng không được, phải theo khung thời gian khấu
hao
3.6 Không được chủ động về nhân sự và tiền lương
Cho đến nay DNNN vẫn không chủ động trong việc sắp xếp lại số lao
động, giảm bớt người không phù hợp, tuyển người mới, vì nhà nước chưa có
đủ các chính sách phù hợp để giải quyết công ăm việc làm và đời sống của
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
27
số lao động dư thừa. Chế độ tiền lương, các thang lương, bậc lương trong
DNNN còn nhiều bất hợp lý giữa khu vực kinh doanh với khu vực hành
chính sự nghiệp, giữa doanh nghiệp các ngành nghề khác nhau và ngay trong
nội bọ doanh nghiệp.
3.7 Tổ chức quản lý không phù hợp
Mặc dù đã có chủ trương xoá bỏ chủ quan nhưng hiện đang có quả nhiều
cấp, nhiều ngành trực tiếp can thiệp công việc kinh doanh hàng ngày của
doanh nghiệp. Tình trạng phân cáp trên dưới, ngang dọc chưa rõ ràng đã gây
ra tình trạng doanh nghiệp chịu nhiều cấp, nhiều ngành cngf ra sức “ tăng
cường quản lý”, công tác thanh tra, kiểm tra chồng chéo, gây phiềm hà cho
DNNN hoạt động, Đặc biệt là cơ chế “bộ chủ quản”, cấp chủ quản” đang
gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Việc phân chia “ quốc doanh trung
ương”, “quốc doanh địa phương” đã tạo ra nhiều bất hợp lý, phân biệt đối
sử, ảnh hưởng đến kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Mấy năm gần đây, nhiều DNNN đã được sắp xếp lại trong cơ cấu tổng
công ty 90, 9. Thế nhưng có những tổng công ty được tổ chức theo lối hành
chính, bằng số cộng đơn thuần không dựa trên tính tất yếu về kinh tế, đã
không mang lại kết quả mong muốn; không những thế một số tổng công ty
trở thành vật cản đối với công ty thành viên trong kinh doanh.
3.8 Môi trương kinh doanh chưa hoàn chỉnh
Môi trường kinh doanh ở nước ta đang còn nhiều bất cập. Điểm hình là hệ
thống tài chính, ngân hàng, giá cả chưa thật sự được xây dựng theo kinh tế
thị trường. Vẫn còn những tình trạng buộc ngân hàng cho vay theo lệnh,
ngân hàng thụ động không chịu trách nhiệm về hiệu quả vốn cho vay và thu
hồi nợ; khi gặp nợ khó đòi thì buộc ngân hàng phải khoanh nợ, giãn nợ hoặc
cho vay mới để trả nợ cũ. Cũng chưa có hệ thống văn bản pháp quy để
khuyến khích cạnh tranh hợp pháp và kiểm soát độc quyền. Các thị trường
yếu tố sản xuất chưa hoàn chỉnh. Đó là không kể những thủ tục hành chính,
cơ chế xin- cho và những hành vi nhũng nhiễu của không ít công chức đang
gây khó khăn cho doanh nghiệp. DNNN còn phải tham gia các nhiệm vụ xã
hội mà đáng lẽ không thuộc trách nhiệm của doanh nghiệp, phải đóng góp
nhiều khoản cho phường, xã, cho các tổ chức, đoàn thể đia phươn, tuy mang
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
28
danh nghĩa tự nguyện nhưng thức chất là áp đặt nhiều khi quá sức chịu
đựng của doanh nghiệp.
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI
DNNN TRONG THỜI GIAN TỚI
I/ PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI CÁC DNNN TRONG THỜI GIAN
QUA
KTNN có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa , ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
DNNN phải không ngừng đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí
then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để nhà nước
định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để
kinh tế nhà nước thực hiện vai trò trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế
Kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để DNNN có cơ cấu hợp lý, tập ytung vào
những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ
lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu; không nhất thiết phải giữ tỷ
trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế. Đại bộ
phận DNNN phải có quy mô vừa và lớn, công nghệ tiên tiến; một bộ phận
cần có quy mô nhỏ để kinh doanh những sản phẩm, dịch vụ thiết yếu, nhất là
ở vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý để DNNN kinh doanh tự chủ, tự chịu
trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác theo pháp luật. Bảo hộ cầ thiết, có điều kiện đối với
những ngành, lĩnh vực, sản phẩm quan trọng. Thực hiện độc quyền nhà nước
trong lĩnh vực cần thiết, nhưng không biến độc quyền nhà nước thành độc
quyền doanh nghiệp. Xoá bao cấp, đồng thời có chính sách đầu tư đúng đắn
và hỗ trợ phù hợp đối với những ngành, lĩnh vực, sản phẩm cần ưu tiên phát
triển.
Việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN là
nhiệm vụ cấp bách và cũng là nhiệm vụ chiến lượ, lâu dài với nhiều khó
khăn, phức tạp. mới mẻ. Đối với những vấn đề đã rõ, đã có nghị quyết thì
phait khẩn trương, kiên quyết triển khai thực hiện; những vấn đề chưa đủ rõ
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
29
thì phải tổ chức thí điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, kịp thời uốn nắn các
sai sót, lệch lạc để có bước đi thích hợp tích cực nhưng vững chắc.
Tăng cường sự lãnh đạo của đảng ở tất cả các cấp, các ngành đối với việc
sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN. Đổi mới phương
thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng, phát huy quyền làm chủ của người lao
động và vai trò của các đoàn thể quần chúng tại doanh nghiệp.
II / GIẢI PHÁP TIẾP TỤC ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN DNNN
1.Định hướng sắp xếp, phát triển DNNN hoạt động kinh doanh và hoạt
động công ích
1.1 Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
Nhà nước giữ 100% vốn đối với cơ chế thị trường doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực độc quyền nhà nước, bao gồm: vật liệu nổ, hoá chất độc, chất
phóng xạ, hệ thống truyền tải điện quốc gia, mạng trục thông tin quốc gia và
quốc tế, sản xuất thuốc lá điếu.
Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc giữ 100% vốn đối với DNNN hoạt
động kinh doanh trong các ngành và lĩnh vực:bán buôn lương thực, bán
buôn xăng dầu, sản xuất điện, khai thác các khoáng sản quan trọng ... Những
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bảo đảm nhu cầu thiết yếu cho phát
triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào nông
thôn, đồng bào các dân tộc ở mìn núi, vùng sâu, vùng xa.
Chuyển các doanh nghiệp mà nhà nước giữ 100% vốn sang hình thức công
ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là nhà nước hoặc công ty cổ phần
gồm các cổ đông là các DNNN. Từ đó Chính phủ chỉ đạo rà soát, phê duyệt
phân loại cụ thể các DNNN hiện có để triển khai thực hiệnvà từng thời kỳ
xem xét đièu chỉnh định hướng phân loại doanh nghiệp cho phù hợp với yêu
cầu phát triển kinh tế – xã hội
Việt thành lập mới DNNN hoạt động kinh doanh chủ yếu sẽ thực hiện
dưới hình thức công ty cổ phần. Chỉ thành lập mới doanh nghiệp 100% vốn
nhà nước đối với những ngành và lĩnh vực mà nhà nước cần giữ độc quyền,
hoặc các thành phần kinh tế khác không muốn hay không có khả năng tham
gia.
1.2 Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
30
Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp công ích hoạt động
trong các lĩnh vực:in bạc và chứng chỉ có giá; điều hành bay;bảo đảm hàng
hải; kiểm soát và phân phối tần số vô tuyến điện; sản xuất, sửa chữa vũ khí,
khí tài, trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh; doanh nghiệp được
giao thực hiện nhiệm vụ quốc phòng đặc biệt và các doanh nghiệp tại các địa
bàn chiến lược quan trọng kết hợp kinh tế với quốc phòng theo quyết định
của chính phủ.
Nhà nước giữ 100% vốn hoặc cổ phần chi phối đối với những doanh
nghiệp công ích đang hoạt động trong các lĩnh vực: kiểm định kỹ thuật
phương tiện giao thông cơ giới lớn; xuất bản sách giáo khoa, sách báo chính
trị, phim thời sự và tài liệu; quản lý, bảo trì hệ thống đường sắt quốc gia, sân
bay; quản lý thuỷ nông đầu nguồn; trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn; thoát
nước ở đô thị lớn; ánh sáng đường phố; quản lý, bảo trì hệ thống đường bộ,
bến xe, đường thuỷ quan trọng; sản xuất sane phẩm và cung ứng dịch vụ
khác theo quy định của Chính phủ.
Đối với các doanh nghiệp hoạt động công ích hiện có, Chính phủ căn
cứ vào định hướng trên đây chỉ đạo rà soát và phê duyệt phân loại cụ thể để
triển khai thực hiện. Những doanh nghiệp công ích đang hoạt động không
thuộc diện nêu trên sẽ được sắp xếp lại. Việc thành lập mới DNNN hoạt
động công ích phải được xem xét chặt chẽ, đúng định hướng, có yêu cầu các
điều kiện cần thiết . khuyến khích nhân dân và doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế sản xuất những sản phẩm, dịch vụ công ích mà xã hội cần và
pháp luật không cấm.
2. Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách
2.1 Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
Doanh nghiệp tự chủ quyết định kinh doanh theo quan hệ cung cầu trên
thị trường phù hợp với mục tiêu thành lập và điêù lệ hoạt động. Xoá bỏ bao
cấp đối với doanh nghiệp. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các ngành,
vùng, các sản phẩm và dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích phát triển,
không phân biệt thành phần kinh tế. Ban hành luật cạnh tranh để bảo vệ và
khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh,
hợp tác bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật chung. Đối với DNNN hoạt
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
31
động trong lĩnh vực độc quyền cần có quy định kiểm soát giá và điều tiết lợi
nhuận và cần tổ chức một số DNNN cùng cạnh tranh bình đẳng.Và đổi mới
chế độ kế toán , kiểm toán, chế độ báo cáo, thông tin, thực hiện công khai
hoạt động kinh doanh và tài chính doanh nghiệp
- - Về vốn:Doanh nghiệp được tiếp cận và thu hút các nguồn vốn trên thị
trường để phát triển kinh doanh ; được chủ động sử lý các tài sản dư thừa,
vật tư, hàng hoá ứ đọng. Doanh nghiệp được tự chủ trong việc phân phối và
trích lập các quỹ từ lợi nhuận để lại theo khung quy định chung. nhà nước có
chính sách đối với những tài sản do doanh nghiệp đầu tư bằng vốn vay và đã
trả hết nợ bằng nguồn khấu hao cơ bản và lợi nhuận do chính taì sản đó làm
ra theo hướng thực hiện hài hoà các lợi ích, phù hợp với đặc điểm của từng
ngành nghề, lĩmh vực cụ thể, khuyến khích doanh nghiệp tiếp tục tái đầu tư
phát triển .
- Về đầu tư: Tăng thêm quyền và trách nhiệm của DNNN trong quyết
định đầu tư trên cơ sở chiến lược, quy hoạch phát triển được phê duyệt.
- Về đổi mới, hiện đaị hoá công nghệ: Doanh nghiệp được áp dụng chế
độ ưu đãi đối với người có đóng góp vào đổi mới công nghệ mang lại hiệu
quả thiết thực cho doanh nghiệp: chi phí này được hạch toán vào giá thành
phẩm. nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư đổi
mới công nghệ.
- Về lao động, tiền lương: Doanh nghiệp quyết định việc tuyển chọn lao
độngvà chịu trách nhiệm giải quyết chế độ đối với người lao đddoanh nghiệp
mình tuyển dụng không có việc làm bằng các nguồn kinh phí của doanh
nghiệp; được tự chủ trong việc trả tiền lương và tiền thưởng trêmn cơ sở
năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Về cán bộ quản lý doanh nghiệp: Doanh nghiệp chủ động lựa chọn và
bố trí cán bộ quản lý theo hướng chủ yếu là thi tuyển; cơ quan nhà nước và
tổ chức có thẩm quyền ra quyết định bổ nhiệm cán bộ chủ chốt của doanh
nghiệp. nhà nước có cơ chế khuyến khích vật chất, tinh thần, đồng thời nâng
cao trách nhiệm của cán bộ quản lý doanh nghiệp.
- Về thanh tra, kiểm tra: Hàng năm doanh nghiệp phải được kiểm toán,
kết quả kiểm toán là căn cứ pháp lý về tình hình tài chính của doanh nghiệp.
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
32
Các cơ quan quản lý nhà nước phải có chương trình thanh tra, kiểm tra định
kỳ đối với doanh nghiệp và thông báo cho doanh nghiệp.
2.2 Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích
Chuyển từ cơ chế cấp vốn, giao nhiệm vụ sang cơ chế đặt hàng hoặc đấu
thầu thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích. nhà nước có chính sách ưu đãi
đối với các sản phẩm và dịch vụ công ích, không phân biệt loại hình doanh
nghiệp, thành phần kinh tế. nhà nước cấp đủ vốn điều lệ cho DNNN hoạt
động công ích. Thực hiện cơ chế quản lý lao động, tiền lương và thu nhập
trên cơ sở khối lượng, chất lượng sản phẩm, dịch vụ mà nhà nước giao hoặc
đặt hàng. doanh nghiệp công ích cũng phải thực hiện hạch toán.
2.3 Giải quyết lao động dôi dư và nợ không thanh toán được
Bổ sung cơ chế, chính sách đối với lao động dôi dư trong sắp xếp, cơ cấu
lại DNNN. doanh nghiệp phải rà soát và xây dựng đúng định mức để xác
định số lao động cần thiết. Lao đông dôi dư được doanh nghiệp tạo điều kiện
đào tạo lại hoặc nghỉ việc hưởng nguyên lương một thời gian để tìm việc;
nếu không tìm được việc thì được nghỉ chế độ mất việc theo quy định của
Bộ luật lao động.
Xử lý nợ không thanh toán được: Chính phủ quy định biện pháp giải
quyết dứt điểm các khoản nợ không có khả năng thanh toáncủa doanh
nghiệp đối với ngân sách nhà nước và ngân hàng, đồng thời có giải phảp để
ngăn ngừa sự tái phát.
3. Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà
nước; hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh
3.1 Tổng công ty nhà nước phải có vốn điều lệ đủ lớn, có thể huy động
vốn từ nhiều nguồn, trong đó vốn nhà nước là chủ yếu; thực hiện kinh doanh
đa ngành, có ngành chính chuyên sâu; có liên kết giữa các đơn vị thành viên
về sản xuất, tài chính, thị trường...; có trình độ công nghệ và quản lý tiên
tiến, năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt, có khả năng cạnh
tranh trên thị trường trong nước và quốc tế .
Hoàn thành việc sắp xếp các tổng công ty nhà nước hiện có nhằm tập trung
hơn nữa nguồn lực để chi phối được những ngành, lĩnh vực then chốt của
nền kinh tế; làm lực lượng chủ lực trong việc bảo đảm các cân đối lớn và ổn
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
33
định kinh tế vĩ mô; cung ứng những sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế
quốc dân và xuất khẩu, đóng góp lớn cho ngân sách; làm nòng cốt thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.
3.2 Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty
nhà nước ,có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành,
trong đó có ngành kinh doanh chính chuyên môn hoá cao và giữ vai trò chi
phối lớn trong nền kinh tế quốc dân, có quy mô rất lớn về vốn, hoạt động cả
trong và ngoài nước, có trình độ công nghệ cao và quản lý hiện đại, có sự
gắn kết trực tiếp, chặt chẽ giữa khoa học công nghệ, đào tạo, nghiên cứu
triển khai với sản xuất kinh doanh.
4. Đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN
Mục tiêu cổ phần hoá DNNN là nhằm: tạo ra loại hình doanh nghiệp có
nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, để sử dụng có hiệu
quả vốn, tài sản của nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển
sản xuất, kinh doanh; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động,
có hiệu quả cho DNNN; phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao
động, của cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với doanh
nghiệp; bảo đảm hài hoà lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp và người lao
động. Cổ phần hoá DNNN không được biến thành tư nhân hoá DNNN.
Nhà nước có chính sách để giảm bớt tình trạng chênh lệch về cổ phần ưu
đãi cho người lao động giữa các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá. Có
quy định để người lao động giữ được cổ phần ưu đãi trong một thời gian
nhất định. Sửa đổi, bổ sung cơ chế ưu tiên bán cổ phần cho người lao động
trong doanh nghiệp để gắn bó người lao động với doanh nghiệp; dành một tỷ
lệ cổ phần thích hợp bán ra ngoài doanh nghiệp.
Sửa đổi phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo hướng gắn với
thị trường; nghiên cứu đưa giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh
nghiệp, thí điểm đấu thầu bán cổ phiếu và bán cổ phiếu qua các định chế tài
chính trung gian. nhà nước ban hành cơ chế, chính sách phù hợp đối với
DNNN đã chuyển sang công ty cổ phần. Sửa đổi chính sách ưu đãi đối với
các doanh nghiệp cổ phần hoá theo hướng ưu đãi hơn đối với những doanh
nghiệp khi cổ phần hoá có khó khăn.
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
34
5. Thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải
thể, phá sản DNNN
Đối với doanh nghiệp quy mô nhỏ có vốn nhà nước dưới 5 tỷ đồng, nhà
nước không cần nắm giữ và không cổ phần hoá được, tuỳ thực tế của từng
doanh nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định một trong các
hình thức: giao, bán, khoán kinh doanh , cho thuê. Khuyến khích DNNN đã
giao, bán được chuyển thành công ty cổ phần của người lao động. Sáp nhập,
giải thể, phá sản những DNNN hoạt động không hiệu quả, nhưng không
thực hiện được các hình thức nói trên.
Sửa đổi, bổ sung luật phá sản doanh nghiệp theo hướng người quyết định
thành lập doanh nghiệp có quyền đề nghị tuyên bố phá sản. Đẩy mạnh tuyên
truyền, nâng cao nhận thức, hiểu biết của người lao động và toàn xã hội đối
với chủ trương cổ phần hoá, giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp
nhập, giải thể, phá sản DNNN .
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
35
KẾT LUẬN
Tổng kết 15 năm đổi mới và xác định phương hướn, chiến lược phát
triển kinh tế – xã hội trong thời kỳ mới, đại hội lần thứ IX của Đảng đã
khẳng định: “ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó KTNN giữ vai trò chủ đạo;
KTTN cùng với kinh tế tập thểngày càng trở thành nền tảng vững chắc”,
“KTNN phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất
quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh
tế. DNNN giữ vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công
nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế – xã hội và chấp
hành pháp luật”. Hội nghị trung ương lần này bàn và ra nghị quyết để thực
hiện nghị quyết đại hội đảng, bảo đảm DNNN có vị trí then chốt góp phần
chủ yếu để KTNN làm tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa nhằm nâng cao hiệu quả, đủ sức cạnh tranh trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước
Qua ba chương vừa nêu trên, chúng ta có thể khẳng định được rằng:
Vai trò của DNNN là then chốt trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta. DNNN vừa hỗ trợ các thành phần kinh tế khác
phát triển vừa góp phần giữ vững ổn định chính trị – xã hội. DNNN là cánh
cửa mở ra cho chúng ta nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, mở ra một
triển vọng xã hội xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Do đó tiếp tục quá trình đổi mới DNNN ở nước ta là
một tất yếu khách quan trong thời kỳ hiện nay.
Dù đã rất cố gắng, song trong khuôn khổ tài liệu cũng như thời gian
và khả năng có hạn, đề án của em vẫn chưa thể giải quyết vấn đề một cách
triệt để và toàn diện. Tuy vậy, em vẫn mong thầy cô giáo xem xét và châm
chước cho bản đề án của em.Và em xin cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy
cô rất nhiều.
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
36
Sinh viên
Vũ Thị Hương Lan
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Văn kiện đại hội đảng lần thứ VII, VIII, IX
2- Đảng cộng sản : “Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương 3
khoá IX về đổi mới và phát triển DNNN”
3- Nông Đức Mạnh : “ việc sắp xếp, đổi mới DNNN phải hướng tới hiệu
quả cao để KTNN giữ vai trò chủ đạo trong kinh tế nhiều thành phần”-
Tạp chí cộng sản số 13 tháng 9/2001
4- PGS.TS. Ngô Quang Minh : “KTNN và quá trình đổi mới DNNN”-
NXB chính trị quốc gia năm 2001
5- Kinh tế và dự báo số 6/2003
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
37
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.........................................................................................1
CHƯƠNG I / MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DNNN...2
I/ Tính tất yếu khách quan.........................................................................2
1. Định nghĩa về DNNN...........................................................................2
2. Các bộ phận cấu thành của KTNN......................................................2
3. Sự cần thiết phải củng cố và phát triển DNNN ....................................3
3.1 Sự cần thiết của DNNN ....................................................................3
3.2 Sự cần phải phát triển DNNN ...........................................................5
II/ Vai trò then chốt của DNNN .............................................................11
CHƯƠNG II/ THỰC TRẠNG DNNN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY......12
I/ Quá trình đổi mới DNNN ..................................................................12
1. Giai đoạn 1980-1986...........................................................................12
2. Giai đoạn 1986-1990...........................................................................13
3. Giai đoạn 1990 đến nay ......................................................................15
3.1 Đổi mới cơ chế quản lý DNNN ........................................................15
3.2 Sắp xếp lại DNNN ...........................................................................17
II/ Kết quả đạt được về quá trình đổi mới DNNN trong thời gian qua .....20
1. Những thành tựu chủ yếu ....................................................................20
2. Những yếu kém chủ yếu của các DNNN hiện nay...............................21
2.1 Về hiệu quả kinh doanh ....................................................................21
2.2 Về khả năng cạnh tranh .....................................................................22
2.3 Về cơ cấu DNNN .............................................................................23
3. Những nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém của các DNNN ..................23
3.1 Đầu tư sai ..........................................................................................23
3.2 Tình trạng thiếu vốn phổ biến ...........................................................24
3.3 Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu.................................................25
3.4 Số lao động dư thừa đang rất lớn.......................................................25
3.5 Doanh nghiệp không được tự chủ về tài chính ..................................25
3.6 Không được tự chủ về nhân sự và tiền lương ....................................25
3.7 Tổ chức quản lý không phù hợp .......................................................26
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
38
3.8 Môi trường kinh doanh chưa hoàn chỉnh ..........................................26
CHƯƠNG III PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI
DNNN TRONG THỜI GIAN TỚI .......................................................27
I/ Phương hướng đổi mới các DNNN trong thời gian qua ......................27
II/ Giải pháp tiếp tục đổi mới và phát triển DNNN .................................28
1. Định hướng sắp xếp, phát triển DNNN hoạt động kinh doanh và hoạt
động công ích .........................................................................................28
1.1 Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh ...................................28
1.2 Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích .........................................28
2. Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách ...................................................29
2.1 Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh ...................................29
2.2 Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích ........................................30
2.3 Giải quyết lao động dôi dư và nợ không thanh toán được..................31
3. Đổi mới và nâng cao hiệu quả của các tổng công ty nhà nước; hình
thành một số tập đoàn kinh tế mạnh .......................................................31
4. Đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN ...........................................................32
5. Thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể, phá
sản DNNN .............................................................................................32
KẾT LUẬN ...........................................................................................33
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Th7921c tr7841ng v gi7843i php pht tri7875n DNNN 7903 Vi7879.pdf