Một là các giải pháp về xây dựng pháp
luật gồm: Đổi mới hệ thống TGXH đối với
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; cơ cấu lại tổ
chức bộ máy quản lý về TGXH; rà soát, sắp
xếp, bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện pháp
luật TGXH với tầm nhìn tổng thể và dài hạn;
hoàn thiện pháp luật về TGXH đối với trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt phù hợp với xu
hướng khu vực ASEAN và quốc tế.
Hai là các giải pháp về thực hiện pháp
luật gồm: Truyền thông, phổ biến giáo dục
về pháp luật về TGXH đối với trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt; nâng cao hiệu quả công
tác TGXH đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt; chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra
việc thực hiện hệ thống chính sách đối với
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; tăng cường sự
tham gia của chủ thể xã hội vào quá trình
TGXH đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt;
lồng ghép các chương trình TGXH đối với
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt với các chương
trình phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng
môi trường văn hóa lành mạnh và nâng cao
nhận thức và trách nhiệm của chính bản thân
trẻ em
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 226 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối vói trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
47
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 12(316) T6/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
THÛÅC TRAÅNG VAÂ KIÏËN NGHÕ HOAÂN THIÏåN PHAÁP LUÊÅT VÏÌ
TRÚÅ GIUÁP XAÄ HÖÅI ÀÖËI VÚÁI TREÃ EM COÁ HOAÂN CAÃNH ÀÙÅC BIÏåT
Tô ĐứC*
Hệ thống pháp luật về trợ giúp xã hội (TGXH) đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
đang từng bước được hoàn thiện nhằm bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, khả thi
và bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế, phù hợp với xu thế hội nhập khu vực và
quốc tế. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay, pháp luật TGXH đối
với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt còn bộc lộ nhiều bất cập, lạc hậu, chưa phù hợp
với thực tế cuộc sống hoặc chưa được quy định, điều chỉnh; nhiều vấn đề cần phải
nghiên cứu, làm rõ cả về phương diện lý luận và thực tiễn triển khai.
* NCS, Khoa Luật, Học viện Khoa học xã hội.
1. Khái niệm pháp luật về trợ giúp xã hội
đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
TGXH ra đời cùng với sự hình thành và
phát triển của xã hội loài người. Ngay từ khi
chưa có Nhà nước, các cá nhân trong gia
đình và cộng đồng đã tìm cách hỗ trợ, giúp
đỡ cho những nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt và các thành viên của mình khi gặp rủi
ro. Dân tộc ta có truyền thống “lá lành đùm
lá rách; lá rách ít đùm lá rách nhiều”,
“tương thân, tương ái”, “bầu ơi thương lấy
bí cùng” nên luôn có ý thức chia sẻ trách
nhiệm của cộng đồng, xã hội đối với những
trẻ em kém may mắn, gặp rủi ro về sức
khỏe, về điều kiện sống. Đây là truyền thống
nhân văn, nhân ái của dân tộc với sự chia sẻ
trách nhiệm xã hội của cộng đồng.
Trong điều kiện ở nước ta, TGXH là sự
giúp đỡ của Nhà nước và cộng đồng đối với
những cá nhân, gia đình hoặc nhóm xã hội
yếu thế, bị tổn thương nhằm bảo đảm thực
hiện các quyền cơ bản của công dân, đạt
được mức sống tối thiểu và ổn định cuộc
sống, hòa nhập cộng đồng. TGXH đối với
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là sự đảm bảo
của Nhà nước và cộng đồng về các điều kiện
sinh sống thiết yếu bằng các hình thức và
biện pháp khác nhau đối với các nhóm trẻ
em trong xã hội khi họ rơi vào hoàn cảnh rủi
ro, bất hạnh, nghèo đói, yếu thế hoặc hẫng
hụt trong cuộc sống mà bản thân có thể
không được sống cùng với gia đình ở mức
tối thiểu.
Công cụ hữu hiệu nhất để Nhà nước
thực hiện các hoạt động TGXH là ban hành
và bảo đảm thực hiện các quy phạm pháp
luật (QPPL) về TGXH. Pháp luật về TGXH
đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là hệ
48
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 12(316) T6/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
thống các quy tắc xử sự chung do Nhà nước
ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực tổ
chức và thực hiện TGXH đối với các nhóm
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt về thể chất, tinh
thần và điều kiện sống nhằm giảm bớt
những khó khăn, bảo đảm thực hiện quyền
TGXH, đạt được mức sống tối thiểu và ổn
định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng.
Pháp luật về TGXH đối với trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt điều chỉnh các quan hệ
xã hội diễn ra trong quá trình cung cấp các
biện pháp công cộng cho trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt về thể chất, tinh thần và điều
kiện sống. Phương pháp điều chỉnh của pháp
luật về TGXH đối với trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt được xác định trên cơ sở đặc điểm,
tính chất của đối tượng điều chỉnh. Xuất
phát từ tính chất của các quan hệ xã hội do
pháp luật về TGXH đối với trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt điều chỉnh, Nhà nước sử dụng
tổng hợp nhiều phương pháp, trong đó có
hai phương pháp chủ yếu thường dùng là
phương pháp mệnh lệnh và phương pháp tùy
nghi.
Pháp luật về TGXH đối với trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt ghi nhận, khẳng định
quyền được bảo đảm an sinh xã hội của trẻ
em; phản ánh, thể hiện chính sách xã hội của
Nhà nước trong từng thời kỳ phát triển của
đất nước và là công cụ góp phần thực hiện
công bằng xã hội. Pháp luật về TGXH ở Việt
Nam có ba bộ phận chính cấu thành: Pháp
luật về TGXH thường xuyên, pháp luật về
TGXH đột xuất và pháp luật về chăm sóc xã
hội.
2. Đánh giá pháp luật về trợ giúp xã hội
đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
2.1. Một số thành tựu
Pháp luật về TGXH đối với trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt ngày càng đầy đủ, toàn
diện
Pháp luật về TGXH là một trong những
chế định được thiết lập, thể chế hóa dưới
nhiều hình thức văn bản QPPL khác nhau,
bao gồm Hiến pháp, Bộ luật Lao động, Luật
Người khuyết tật, Luật Trẻ em, Luật Bảo
hiểm y tế, Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình. Hiện tại, có khoảng trên 25 văn bản
dưới luật liên quan đến TGXH, gồm 6 nghị
định của Chính phủ, 19 quyết định của Thủ
tướng Chính phủ và thông tư, thông tư liên
tịch có liên quan trực tiếp đến TGXH như
Nghị định số 28/2012/NĐ-CP về hướng dẫn
Luật Người khuyết tật, Nghị định số
136/2013/NĐ-CP quy định về chính sách
TGXH đối với đối tượng bảo trợ xã hội thay
thế Nghị định số 67/2007/NĐ-CP và Nghị
định số 13/2010/NĐ-CP
Các văn bản QPPL này đã quy định
không chỉ các chế định về TGXH hàng
tháng cho các nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt mà còn quy định về việc trợ giúp y tế,
giáo dục, học nghề; trợ giúp đột xuất đối với
các nhóm trẻ em gặp rủi ro trong cuộc sống
và mạng lưới các cơ sở cung cấp các dịch
vụ chăm sóc xã hội cho trẻ em.
Điều nữa là, nếu như trước đây, các văn
bản QPPL chủ yếu tập trung giải quyết hậu
quả, trợ giúp, chăm sóc, giáo dục một số
nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; chế độ,
cơ chế TGXH phân tán, nhỏ lẻ, tác động đến
nhiều nhóm đối tượng trẻ em cụ thể khác
nhau, chẳng hạn, Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Quyết định số 65/2005/QĐ-TTg
chú trọng thí điểm một số mô hình chăm sóc
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn dựa
vào cộng đồng; Quyết định số 19/2004/QĐ-
TTg tập trung giải quyết tình trạng trẻ em
lang thang, trẻ em bị xâm hại tình dục, trẻ
em lao động trong điều kiện nặng nhọc nguy
hiểm; Quyết định số 84/2009/QĐ-TTg giải
quyết các vấn đề chăm sóc và hỗ trợ cho trẻ
em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDs, thì đến
nay, việc xây dựng pháp luật, chính sách,
chương trình đến từng nhóm đối tượng trẻ
em yếu thế trong xã hội đã được chuyển
sang xây dựng khung pháp lý toàn diện, như
Quốc hội đã thông qua Luật Bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em (năm 1991, sửa đổi
năm 2004); Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 267/QĐ-TTg ngày
22/2/2011 nhằm phát triển toàn diện hệ
thống bảo vệ trẻ em, trong đó có hoàn thiện
49
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 12(316) T6/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
khuôn khổ pháp lý, bao gồm: luật các văn
bản QPPL dưới luật liên quan đến bảo vệ trẻ
em và các chính sách xã hội; Quyết định số
1555/QĐ-TTg ngày 17/10/2012 đã đưa ra
khung chương trình, chính sách đầu tư cho
trẻ em trung hạn và dài hạn nhằm hướng tới
một khung chính sách toàn diện cho trẻ em
và thúc đẩy việc chủ động phòng ngừa, can
thiệp sớm, loại bỏ những nguy cơ cho mọi
trẻ em trước khi bị tổn hại1. Đặc biệt là, ngày
5/4/2016 vừa qua, Quốc hội khóa XIII đã
thông qua Luật Trẻ em tại kỳ họp thứ 11.
Chế độ TGXH được điều chỉnh phù hợp
với điều kiện kinh tế - xã hội
Chế độ TGXH đối với các nhóm trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt đã được nghiên cứu,
sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong
từng thời kỳ, với những ưu điểm như: (i) Có
nhiều loại chế độ TGXH khác nhau để đáp
ứng các loại nhu cầu khác nhau của các
nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. (ii) Chế
độ TGXH thường xuyên đã được quy định
căn cứ vào mức sống tối thiểu của cộng
đồng dân cư để đảm bảo hỗ trợ chăm sóc,
đáp ứng những nhu cầu cấp thiết, cơ bản
trong cuộc sống hàng ngày của các nhóm trẻ
em. (iii) Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt hưởng
chế độ TGXH đã được bổ sung thêm các chế
độ trợ cấp một lần bằng tiền hay bằng hiện
vật. (iv) Mức TGXH liên tục được điều
chỉnh cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã
hội và khả năng bố trí của ngân sách nhà
nước (NSNN). Nghị định số 07/2000/NĐ-
CP của Chính phủ quy định mức trợ giúp
thường xuyên tối thiểu bằng 45 ngàn
đồng/người/tháng; Nghị định số
67/2007/NĐ-CP quy định mức trợ giúp
thường xuyên 120 ngàn đồng/người/tháng;
Nghị định số 13/2010/NĐ-CP quy định mức
TGXH thường xuyên lên 180 ngàn
đồng/người/tháng và Nghị định số
136/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định
mức TGXH lên 270 ngàn đồng/người/tháng.
“Mức TGXH thường xuyên được điều chỉnh
đã phần nào giảm bớt khó khăn và cải thiện
cuộc sống cho một số nhóm trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt”2.
Từng bước tiếp cận theo quyền của trẻ
em
Trong giai đoạn vừa qua, hệ thống pháp
luật về TGXH đối với trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt được xây dựng “theo hướng tiếp
cận từ đáp ứng nhu cầu trẻ em sang đảm bảo
quyền cho mọi trẻ em trong xã hội”3. Quyền
của trẻ em đã được pháp luật ghi nhận và
bảo đảm thực hiện với nhiều nội dung cụ
thể4: Quyền sống; quyền được khai sinh, có
họ, tên và có quốc tịch; quyền được chăm
sóc sức khỏe; quyền được chăm sóc, nuôi
dưỡng; quyền được học tập, giáo dục và
phát triển năng khiếu; quyền được vui chơi,
giải trí; quyền được giữ gìn, phát huy bản
sắc; quyền được tự do tín ngưỡng, tôn giáo;
quyền có tài sản; quyền bí mật đời sống
riêng tư; quyền được sống chung với cha,
mẹ; quyền được đoàn tụ, liên hệ và tiếp xúc
với cha mẹ; quyền được chăm sóc thay thế
và nhận làm con nuôi; quyền được bảo vệ
để không bị xâm hại tình dục; quyền được
bảo vệ để không bị bóc lột sức lao động;
quyền được bảo vệ để không bị bạo lực, bỏ
mặc, bỏ rơi; quyền được bảo vệ để không bị
bắt cóc và mua, bán; quyền được bảo vệ
khỏi chất ma túy; quyền được bảo vệ trong
tố tụng và xử lý vi phạm hành chính; quyền
được bảo vệ khi gặp thiên tai, thảm họa,
xung đột vũ trang; quyền được bảo đảm an
1 Xem Báo cáo đánh giá 9 năm thi hành Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, (2014), Bộ Lao động-Thương binh và
Xã hội (LĐ-TBXH).
2 Báo cáo đánh giá hệ thống pháp luật về TGXH giai đoạn 2000-2015, (2015), Bộ LĐ-TBXH.
3 Báo cáo đánh giá 9 năm thi hành Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, (2014), Bộ LĐ-TBXH.
4 Xem Luật Trẻ em năm 2016.
50
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 12(316) T6/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
5 Xem Nghiên cứu tổng quan về TGXH ở Việt Nam, (2014), Dự án Hỗ trợ cải thiện hệ thống TGXH thuộc Bộ LĐ-TBXH.
sinh xã hội; quyền được tiếp cận thông tin
và tham gia hoạt động xã hội; quyền được
bày tỏ ý kiến và được kết bạn, hội họp;
quyền của trẻ em khuyết tật; quyền của trẻ
em không quốc tịch, trẻ em lánh nạn, tị nạn.
2.2. Một số tồn tại, bất cập
Thứ nhất, đối tượng trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt hưởng chế độ TGXH chưa
được xác định đầy đủ: (i) Chưa có sự thống
nhất giữa việc xác định đối tượng trẻ em
được hưởng chế độ TGXH với việc xác định
độ tuổi của người lao động là người đủ 15
tuổi. Những người đã đủ 15 tuổi cần đi làm
để tự nuôi sống bản thân nên cần nghiên
cứu, không đưa nhóm đối tượng này vào
hưởng chế độ TGXH, trừ trường hợp đặc
biệt không thể đi làm kiếm sống; (ii) Điều
kiện để trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt hưởng
chế độ TGXH thường xuyên khá khắt khe
dẫn đến số lượng đối tượng được thụ hưởng
còn thấp. Điều kiện để các nhóm người dân
và trẻ em gặp rủi ro trong cuộc sống được
hưởng chế độ trợ giúp đột xuất còn dễ dàng,
chưa chặt chẽ; (iii) Một số nhóm đối tượng
yếu thế vẫn đang tiếp tục bị bỏ quên, trong
khi các nhóm đối tượng khác mới nảy sinh
do những biến cố kinh tế - xã hội cũng đang
cần nghiên cứu, bổ sung vào nhóm đối
tượng thụ hưởng TGXH. Nhóm đối tượng
mới phát sinh do biến cố kinh tế - xã hội -
tự nhiên đang rất cần được trợ giúp, ví dụ
như nhóm trẻ em di cư, trẻ em là con của
người lao động làm việc ở các khu vực phi
chính thức ở nước ta hiện nay, có việc làm
bấp bênh và nguồn thu nhập thấp, chưa được
hưởng nhiều các chính sách an sinh xã hội,
TGXH5. Đây là vấn đề cần nghiên cứu, bàn
luận để sớm có cơ sở cho việc điều chỉnh bổ
sung diện bao phủ của chính sách trợ giúp
đến các nhóm đối tượng cần trợ giúp.
Thứ hai, chế độ TGXH chưa hợp lý: (i)
Mức chuẩn chế độ TGXH và các mức chuẩn
khác trong hệ thống an sinh xã hội chưa
được nghiên cứu để bảo đảm mối tương
quan trong hệ thống như mức chuẩn bảo
hiểm xã hội, mức sống tối thiểu, chuẩn
nghèo; (ii) Mức chuẩn TGXH là 270.000
đồng/người/tháng vẫn còn khá thấp so với
mức chuẩn nghèo của Việt Nam. Theo
Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày
19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ về
việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều
áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 thì hộ
nghèo ở khu vực nông thôn có thu nhập bình
quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng
trở xuống hoặc có thu nhập bình quân đầu
người/tháng trên 700.000 đồng đến
1.000.000 đồng. Hộ nghèo ở khu vực thành
thị có thu nhập bình quân đầu người/tháng
từ đủ 900.000 đồng trở xuống hoặc có thu
nhập bình quân đầu người/tháng trên
900.000 đồng đến 1.300.000 đồng. Hộ cận
nghèo ở khu vực nông thôn là hộ có thu
nhập bình quân đầu người/tháng trên
700.000 đồng đến 1.000.000 đồng. Hộ cận
nghèo ở khu vực thành thị là hộ có thu nhập
bình quân đầu người/tháng trên 900.000
đồng đến 1.300.000 đồng; (iii) Chế độ
TGXH mang tính cào bằng và thay đổi
chậm hơn so với biến động giá cả thị trường.
Quy định về nguồn kinh phí dành cho trợ
giúp không ngừng được bổ sung mở rộng,
huy động tối đa khả năng tài chính của Nhà
nước, địa phương. Tuy nhiên, cơ chế tự cân
đối ngân sách cũng đang tạo nên sự chênh
lệch và khác biệt giữa các địa phương về
phân bổ ngân sách cho hoạt động TGXH,
dẫn đến chế độ TGXH đối với các nhóm trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt là khác nhau ở các
địa phương.
Thứ ba, khung pháp lý TGXH đối với trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt chưa được luật
hóa. Hệ thống pháp luật về TGXH nói
chung và hệ thống pháp luật về TGXH đối
với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói riêng
bao gồm: pháp luật về TGXH thường xuyên,
51
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 12(316) T6/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
pháp luật về TGXH đột xuất và pháp luật về
chăm sóc xã hội. Nhiều bộ, ngành đã chủ trì
xây dựng, ban hành hoặc trình ban hành
nhiều văn bản QPPL điều chỉnh các quan hệ
trong lĩnh vực theo nhóm các vấn đề khác
nhau liên quan đến trẻ em, dẫn đến sự chồng
chéo, thậm chí mâu thuẫn. Đặc biệt, hệ
thống các văn bản QPPL quy định về TGXH
thường xuyên, chăm sóc xã hội được quy
định tản mát, chia nhỏ các nhóm vấn đề cần
điều chỉnh ở nhiều hình thức văn bản khác
nhau Do vậy, hiệu quả của TGXH còn
thấp, các địa phương, tổ chức, trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt gặp nhiều khó khăn trong
việc thực hiện, tiếp cận và thụ hưởng
TGXH.
Pháp luật về TGXH còn thiếu đồng bộ,
chưa nhất quán, chắp vá và mới chỉ dừng lại
ở hình thức nghị định. Hiện có quá nhiều
văn bản QPPL liên quan đến TGXH nhưng
“chưa có văn bản luật để thống nhất điều
chỉnh lĩnh vực này, đặc biệt là lĩnh vực
TGXH thường xuyên, đột xuất, chăm sóc xã
hội và lĩnh vực công tác xã hội”6. TGXH đối
với các nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
nói riêng và các nhóm người dân yếu thế, dễ
bị tổn thương nói chung đang trở thành
những vấn đề xã hội bức xúc, cấp thiết trong
điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường
hiện nay.
Thứ tư, cơ chế bảo đảm quyền TGXH
của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt chưa đầy
đủ và chưa hiệu quả: Do điều kiện kinh tế -
xã hội còn khó khăn, thiên tai xảy ra thường
xuyên, nguồn lực thực hiện các chính sách
xã hội cho trẻ em còn rất hạn hẹp, chủ yếu
dựa vào NSNN; chưa động viên, thu hút
được nhiều sự tham gia của xã hội và
khuyến khích gia đình có trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt tự vươn lên. Bên cạnh đó, hệ
thống pháp luật về TGXH chưa có cơ chế
hiệu quả bảo đảm cho trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt được hưởng mức tối thiểu các dịch
vụ xã hội cơ bản như giáo dục, chăm sóc sức
khỏe, đặc biệt ở khu vực miền núi, hải đảo,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn rất thấp.
Điều kiện kinh tế - xã hội có sự chênh lệch
giữa miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số với mức trung bình của cả nước còn lớn.
Một số địa phương nghèo, có điều kiện kinh
tế - xã hội khó khăn, thu không đủ chi, thu
không kịp nhu cầu chi dẫn đến tình trạng
thực hiện chế độ TGXH còn chậm, thậm chí
dồn 2 - 3 tháng mới thực hiện một lần đã
làm đời sống của các nhóm trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt càng khó khăn hơn. Bên cạnh
đó, điều kiện địa lý đa dạng, trải dài với văn
hóa nhiều sắc tộc dẫn đến nhận thức của
người dân ở các vùng miền khác nhau, nên
hiệu quả bảo đảm thực hiện quyền của trẻ
em còn hạn chế, nhiều địa phương chỉ tập
trung chính vào đáp ứng nhu cầu của trẻ
em7.
Thứ năm, pháp luật về TGXH đối với trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt chưa được nghiên
cứu chuyên sâu, toàn diện: Pháp luật TGXH
đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt hiện
nay bộc lộ nhiều nội dung bất cập, lạc hậu,
không còn phù hợp với thực tế cuộc sống
hoặc chưa được quy định, điều chỉnh; nhiều
vấn đề cần phải được nghiên cứu, làm rõ cả
về phương diện lý luận và thực tiễn triển
khai. Làm thế nào để lấp đầy những khoảng
trống trong hệ thống pháp luật về TGXH đối
với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt? Làm thế
nào để có những cơ chế TGXH đối với trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt hiệu quả? Làm thế
nào để Nhà nước và cộng đồng, các tổ chức,
cá nhân trong và ngoài nước cùng chung tay,
góp sức trợ giúp cho trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt hoà nhập cộng đồng, có cơ hội vươn
lên trong cuộc sống, góp phần xây dựng nền
6 Đề xuất xây dựng Luật TGXH, (2015), Bộ LĐ-TBXH.
7 Xem Nghiên cứu tổng quan về TGXH ở Việt Nam, (2014), Dự án Hỗ trợ cải thiện hệ thống TGXH thuộc Bộ LĐ-TBXH.
52
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 12(316) T6/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
8 Báo cáo xây dựng Danh mục dịch vụ công về TGXH, (2015), Bộ LĐ-TBXH.
an sinh xã hội tiên tiến ở Việt Nam? Đến
thời điểm này, chưa có một công trình nào
nghiên cứu vấn đề pháp luật về TGXH đối
với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt một cách
có hệ thống và toàn diện, chưa có công trình
nào nghiên cứu vấn đề này trong mối quan
hệ mật thiết với các điều kiện kinh tế - xã
hội của Việt Nam để góp phần giải đáp phần
nào những vấn đề nêu trên.
Thứ sáu, cơ chế trợ giúp mang tính bao
cấp, lạc hậu chưa phù hợp với điều kiện
kinh tế thị trường: Hiện nay, hệ thống
TGXH đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
chủ yếu hoạt động theo cơ chế TGXH bao
cấp, NSNN bảo đảm chi trả các chế độ
TGXH và các hoạt động thường xuyên của
cơ sở cung cấp dịch vụ chăm sóc xã hội
công lập. Cơ chế TGXH còn cứng nhắc,
chưa huy động được nguồn lực từ người
dân, từ cộng đồng; “chưa tạo lập được cơ
chế cạnh tranh, bình đẳng giữa cơ sở công
lập và ngoài công lập; chưa có cơ chế tự
chủ, cơ chế có thu phí trong các hoạt động
TGXH”8. Quy định về nguồn kinh phí thực
hiện trợ giúp như hiện nay thể hiện được vai
trò, trách nhiệm của Nhà nước, nhất là các
địa phương đối với công tác TGXH, đồng
thời thể hiện được trách nhiệm của cộng
đồng xã hội đối với các thành viên của mình.
Tuy nhiên, qua quy định này cũng dễ dàng
nhận thấy những bất cập như: (i) Kinh phí
thực hiện TGXH chủ yếu dựa vào ngân sách
địa phương tự cân đối. Điều này gây ra rất
nhiều khó khăn cho những địa phương có
nguồn thu ít hoặc các địa phương thường
xảy ra thiên tai, dịch bệnh. Từ đó gây ra sự
thiếu công bằng trong việc tiếp cận chính
sách xã hội của người dân trong các địa
phương khác nhau; (ii) Sự trợ giúp trên tinh
thần từ thiện của cộng đồng xã hội cho công
tác TGXH là thực sự cần thiết. Tuy nhiên,
sự thiếu thuận tiện về mặt thủ tục và những
biểu hiện tiêu cực trong việc sử dụng các
nguồn tài chính, hiện vật thực hiện TGXH
(trong đó có phần đóng góp từ thiện của
cộng đồng xã hội) đã làm ảnh hưởng không
nhỏ tới sự tham gia của cộng đồng xã hội
vào công tác này. Điều này thể hiện sự bất
cập trong công tác quản lý nhà nước về công
tác TGXH nói chung, quản lý nguồn tài
chính thực hiện TGXH nói riêng, trong đó
đáng chú ý là công tác tổ chức thực hiện
TGXH.
Cơ chế trợ giúp bao cấp, lạc hậu chưa
phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường tác
động không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động
TGXH. Những vấn đề này đang đặt ra nhiều
thách thức lớn đối với hiệu quả hoạt động
của hệ thống TGXH ở nước ta hiện nay.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật
về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt
Pháp luật về TGXH đối với trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt chịu sự tác động của
nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác
nhau. Cho nên, khi trong xã hội xuất hiện
những điều kiện, tiền đề làm thay đổi các
yếu tố này thì pháp luật tất yếu cần phải thay
đổi để phù hợp với các yếu tố khách quan,
chủ quan mới.
Trong bối cảnh hiện nay, định hướng
hoàn thiện pháp luật về TGXH đối với trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt ở nước ta hiện nay
là ghi nhận quyền hưởng TGXH của trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt là một quyền cơ bản
của công dân trong Hiến pháp; mở rộng các
nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được
TGXH; phát triển các hình thức chăm sóc
thay thế dựa vào cộng đồng; đổi mới cơ chế
TGXH đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
phù hợp với nền kinh tế thị trường; phát
triển các dịch vụ công tác xã hội với trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt; xây dựng hệ thống
quản lý trường hợp đối với trẻ em có hoàn
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
phân cấp cho Bộ KH&CN ban hành 03 danh
mục này;
- Bổ sung quy định đối với loại hình
đánh giá công nghệ, định giá công nghệ
thuộc nhóm loại hình dịch vụ kinh doanh có
điều kiện, đồng thời bổ sung quy định các
tổ chức hoạt động đối với các dịch vụ trên
đây cũng là các tổ chức dịch vụ có điều kiện.
Thứ hai, sửa đổi Luật SHTT, về quy
định phương pháp xác định giá trị tài sản vô
hình;quy định về các đối tượng sở hữu công
nghiệp cho phù hợp với các Công ước Paris
và Hiệp định TRIPs, cũng như các quy định
của WTO, FTA, TPP... Hoàn thiện các quy
định về thực thi quyền SHTT trong pháp
luật hành chính; bổ sung quy định về giải
quyết tranh chấp SHTT thông qua thương
lượng, hoà giải.
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung các quy định
của pháp luật về CGCN trong các quy định
trong, Luật Xử lý vi phạm hành chính để
ngăn chặn và xử lý các hành vi gian lận, trốn
lậu thuế, chuyển giá trong các hoạt động
CGCN.
Thứ tư, sửa đổi,bổ sung các quy định
của pháp luật về đầu tư, doanh nghiệp, công
nghệ cao, thương mại, hải quan, theo
hướng bắt buộc đối với tất cả các dự án đầu
tư (như FDI, đầu tư trong nước) phải được
thẩm định công nghệ trước khi cấp Giấy
chứng nhận đầu tư và phải đăng ký chứng
nhận hợp đồng CGCN với cơ quan quản lý
KH&CN khi có giao dịch công nghệ phát
sinh.
Thứ năm, sửa đổi, bổ sung các quy định
trong pháp luật về KH&CN, doanh nghiệp,
tín dụng, thuế, đầu tư mạo hiểm... để khuyến
khích và đẩy mạnh hoạt động CGCN, ứng
dụng và đổi mới, sáng tạo công nghệ tại các
doanh nghiệp n
Hoàn thiện chính sách...
(TiÕp theo trang 40)
9 Tô Đức, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội (Học viện Khoa học xã hội), số 3, năm 2016.
cảnh đặc biệt; xây dựng và ban hành Luật
TGXH, Luật Công tác xã hội; thúc đẩy sự
tham gia của doanh nghiệp xã hội9.
Để hoàn thiện pháp luật về TGXH đối
với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt theo những
định hướng nêu trên, chúng ta cần quan tâm
thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp:
Một là các giải pháp về xây dựng pháp
luật gồm: Đổi mới hệ thống TGXH đối với
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; cơ cấu lại tổ
chức bộ máy quản lý về TGXH; rà soát, sắp
xếp, bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện pháp
luật TGXH với tầm nhìn tổng thể và dài hạn;
hoàn thiện pháp luật về TGXH đối với trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt phù hợp với xu
hướng khu vực ASEAN và quốc tế.
Hai là các giải pháp về thực hiện pháp
luật gồm: Truyền thông, phổ biến giáo dục
về pháp luật về TGXH đối với trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt; nâng cao hiệu quả công
tác TGXH đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt; chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra
việc thực hiện hệ thống chính sách đối với
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; tăng cường sự
tham gia của chủ thể xã hội vào quá trình
TGXH đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt;
lồng ghép các chương trình TGXH đối với
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt với các chương
trình phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng
môi trường văn hóa lành mạnh và nâng cao
nhận thức và trách nhiệm của chính bản thân
trẻ em n
53
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 12(316) T6/2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_va_kien_nghi_hoan_thien_phap_luat_ve_tro_giup_xa.pdf