Kết Luận
Nguồn vốn FDI của Nhật Bản đã góp
phần đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế
Việt Nam, làm tăng năng suất lao động
cũng như giải quyết vấn đề việc làm, hỗ trợ
những kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao và
khả năng quản lý. Thêm vào đó, FDI Nhật
Bản còn tạo tác động lan tỏa đến các ngành
công nghiệp phụ trợ, lĩnh vực xuất nhập
khẩu, thương mại và dịch vụ. Nghiên cứu
cũng đề cập về chất lượng thể chế và môi
trường kinh tế theo đánh giá của các doanh
nghiệp Nhật Bản, qua đó có thể thấy dòng
vốn FDI của Nhật Bản đầu tư vào Việt
Nam vẫn chưa tương xứng với tiềm năng
của cả hai quốc gia. Từ đó, kiến nghị giải
pháp nhằm cải thiện chất lượng thể chế,
môi trường kinh tế vĩ mô của Việt Nam,
phát triển nguồn nhân lực và xúc tiến hoạt
động thương mại để có thể thu hút nhiều
hơn nữa nguồn vốn FDI, cũng như duy trì
và phát triển các doanh nghiệp FDI
Nhật Bản hiện đang hoạt động tại Việt
Nam tốt hơn
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 438 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng và một số giải pháp nâng cao thu hút đầu tư nước ngoài của Nhật Bản vào Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 62 (02/2019) No. 62 (02/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
96
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO THU HÚT
ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI CỦA NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM
The reality and measures to enhance Japan’s foreign
direct investment into Vietnam
ThS. Đỗ Hoàng Oanh
Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM
Tóm tắt
Nhật Bản được biết đến như là một trong những quốc gia lớn nhất trong đầu tư FDI vào Việt Nam. Hiện
nay tổng vốn đầu tư FDI của Nhật Bản đã gần 30% FDI cả nước, đứng đầu và cao hơn hẳn so với 128
quốc gia còn lại đầu tư FDI vào Việt Nam. Điều đó cho thấy, FDI của Nhật Bản có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế Việt Nam. Nghiên cứu áp dụng thống kê mô
tả, so sánh để phân tích thực trạng và đề xuất kiến nghị nhằm thu hút và duy trì phát triển dòng vốn FDI
của Nhật Bản vào Việt Nam.
Từ khóa: Dự án đầu tư, FDI, Nhật Bản, đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Abstract
Japan is known as one of the largest countries in FDI investment in Vietnam. At present, the total FDI
capital of Japan is nearly 30% of FDI in Vietnam, leading and much higher than 128 countries. This
means that Japan's FDI is particularly important for the growth and development of Vietnam's economy.
Descriptive and comparative statistics are used in this study to analyze the situation and then provide
recommendations to attract and maintain Japan’s FDI inflows into Vietnam.
Keywords: Investment project, FDI, Japanese, Foreign Direct Investment.
1. Đặt vấn đề
Đối với các nước đang phát triển FDI
có vai trò vô cùng quan trọng. Nghiên cứu
của Blomstrom và Persson (1983) đã tìm
thấy tác động lan tỏa của FDI đến nền kinh
tế của nước nhận đầu tư thông qua năng
suất lao động. Nghiên cứu của Chen (1997)
đã kết luận dòng FDI có tác động tích cực
trong việc thúc đẩy đồng thời tổng kim
ngạch thương mại của Trung Quốc và dòng
thương mại song phương giữa Trung Quốc
và các đối tác thương mại. Còn Katz
(1969) tìm thấy dòng vốn đầu tư nước
ngoài vào lĩnh vực sản xuất của Argentina
vào những năm 1950 có ảnh hưởng đáng
kể đến kỹ thuật công nghệ được sử dụng
bởi các công ty trong nước. Nghiên cứu
khẳng định rằng tiến bộ kỹ thuật không chỉ
diễn ra trong các ngành công nghiệp FDI
tại thị trường trong nước mà còn lan tỏa
đến các ngành khác, bởi vì các chi nhánh
nước ngoài tạo ảnh hưởng buộc các công ty
trong nước phải hiện đại hóa bằng cách áp
dụng các tiêu chuẩn tối thiểu về chất lượng,
Email: hoangoanhlive@gmail.com
ĐỖ HOÀNG OANH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
97
ngày giao hàng, giá cả, v.v. trong việc cung
cấp các bộ phận và nguyên liệu thô cho họ.
Thêm vào đó, nghiên cứu Sjöholm (1999)
cho thấy rằng sự hiện diện của các công ty
đa quốc gia nước ngoài có thể nâng cao
năng suất của các công ty thuộc sở hữu
trong nước trong các ngành công nghiệp
khác thông qua các mối liên kết khác nhau,
và rõ nét nhất khi các công ty trong nước
nằm gần các công ty đa quốc gia nước
ngoài về vị trí địa lý. Các phân tích thống
kê về sự lan tỏa các tập đoàn đầu tư nước
ngoài cho Úc của Caves (1974), cho
Canada của Globerman (1979) và cho
Mexico của Blomström và Persson (1983)
đều kiểm tra sự tồn tại của ngoại tác lan
truyền bằng cách kiểm tra xem sự hiện diện
của đầu tư nước ngoài có ảnh hưởng gì đến
năng suất lao động ở các doanh nghiệp địa
phương hay không. Cả ba nghiên cứu đều
kết luận rằng có sự tồn tại ngoại tác lan tỏa
có ý nghĩa ở cấp độ tổng hợp này, mặc dù
nghiên cứu không phân tích rõ về cách
thức lan tỏa diễn ra như thế nào.
Nói cách khác, nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài sẽ thúc đẩy nền kinh tế
tăng trưởng, qua đó thu nhập bình quân của
người dân cũng tăng lên. Không chỉ thế,
các doanh nghiệp trong nước được tiếp cận
công nghệ kỹ thuật cao, kỹ năng quản lý
chuyên nghiệp, tăng năng suất lao động và
phát triển cả những ngành công nghiệp phụ
trợ, qua đó tạo hiệu ứng lan rộng qua
thương mại, dịch vụ và xuất khẩu...và các
ngành cũng như các lĩnh vực kinh tế khác.
Là một trong những đối tác quan
trọng, Nhật Bản đã đầu tư FDI vào Việt
Nam từ rất sớm và luôn nằm trong danh
sách các nhà đầu tư FDI lớn nhất tại Việt
Nam. Chỉ tính riêng năm 2017, Nhật Bản
là quốc gia đứng đầu trong 115 quốc gia
đầu tư FDI vào Việt Nam, đóng góp 25%
tổng đầu tư và năm 2018 là 31,8% tổng
đầu tư trên 128 quốc gia đầu tư FDI tại
Việt Nam. Điều đó cho thấy FDI của Nhật
Bản vào Việt Nam ảnh hưởng đến cả nền
kinh tế của quốc gia. Do đó, "làm cách nào
để thu hút cũng như duy trì và phát triển
dòng vốn FDI của Nhật Bản" là một vấn đề
hết sức quan trọng. Nghiên cứu thông qua
thống kê mô tả, so sánh, tiếp cận lý thuyết
và thực tiễn nhằm trình bày thực trạng,
phân tích tình hình FDI Nhật Bản cũng như
kiến nghị một số giải pháp nhằm khắc phục
những tồn tại trong việc thu hút FDI của
Nhật Bản vào Việt Nam.
2. Thực trạng FDI của Nhật Bản vào
Việt Nam từ năm 2006 - 2018
2.1. Chính sách thu hút FDI của Việt
Nam đối với Nhật Bản
Mặc dù Nhật Bản thuộc về một trong
ba quốc gia đầu tư đứng đầu (Nhật Bản,
Đài Loan, Hàn Quốc) trong 125 quốc gia
có đầu tư FDI tại Việt Nam với lượng đầu
tư FDI cao hơn cả về quy mô dự án và tổng
giá trị đầu tư dự án vào Việt Nam. Tuy
nhiên, đánh giá của các công ty Nhật Bản
về chính sách thu hút FDI của Việt Nam
chưa thật sự cao.
Cụ thể, các doanh nghiệp Nhật Bản
cho rằng thái độ của Nhà nước Việt Nam
với ngành nghề, lĩnh vực hoạt động của các
doanh nghiệp Nhật Bản đang hoạt động là
"bình thường", không thuận lợi và không
bất lợi, và 25% đánh giá chính sách của
Nhà nước chưa tạo thuận lợi cho các nhà
đầu tư Nhật Bản (Phan Văn Tâm, 2010)
Ngoài ra, có 40% doanh nghiệp Nhật
Bản e ngại luật pháp Việt Nam có “chế độ
luật pháp chưa hoàn thiện, thực thi luật
pháp thiếu minh bạch”, “cơ sở hạ tầng
chưa hoàn thiện”, “thủ tục hành chính (cấp
phép) phiền hà”. Thêm vào đó, các doanh
nghiệp Nhật Bản cho rằng mức độ can
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)
98
thiệp kinh tế của Nhà nước Việt Nam còn
cao, đặc biệt là phạm vi kiểm soát vốn sở
hữu và hạn chế vốn sở hữu của các nhà đầu
tư nước ngoài (86% doanh nghiệp đánh giá
bình thường và thấp) (Cơ quan Xúc tiến
thương mại Nhật Bản, 2016).
Tuy nhiên, về rủi ro đầu tư thì 79,7%
doanh nghiệp đánh giá môi trường Việt
Nam có tính ổn định về chính trị, ổn định
về kinh tế và ổn định về xã hội. Chỉ có
khoảng 15,6% doanh nghiệp Nhật Bản
đánh giá đầu tư vào Việt Nam có tính rủi ro
cao (The Leader, 2017).
Về cốt lõi nội dung quyết định đầu tư
thì có 58% doanh nghiệp Nhật Bản cho
rằng giá nhân công là yếu tố chủ yếu thu
hút đầu tư FDI, trong đó có 83% doanh
nghiệp sản xuất đánh giá cao cả về chất
lượng nhân công và mức lương nhân công.
Mặc dù, lương của nhân viên quản lý bậc
trung có tăng nhưng vẫn thấp hơn so với
mặt bằng chung của các quốc gia ASEAN
(Cơ quan Xúc tiến thương mại Nhật Bản,
2016).
Cuối cùng, các nhà đầu tư Nhật Bản
vẫn xem Việt Nam là quốc gia hứa hẹn
nhất trong khu vực về lợi nhuận hoạt động
trong tương lai: 67% các nhà đầu tư Nhật
Bản tại Việt Nam dự kiến sẽ mở rộng trong
một hoặc hai năm tới, 32% cho biết sẽ giữ
nguyên quy mô, trong khi chỉ có chưa tới
2% cho biết sẽ giảm hoặc chuyển hoạt
động ra khỏi quốc gia. Như vậy, tỷ lệ
doanh nghiệp Nhật Bản dự kiến sẽ mở
rộng, Việt Nam đứng thứ hai, chỉ sau Ấn
Độ và cao hơn mức bình quân của các quốc
gia ASEAN (Cơ quan Xúc tiến thương mại
Nhật Bản, 2016).
Từ đây có thể thấy rằng, dù các doanh
nghiệp Nhật Bản vẫn chưa hoàn toàn hài
lòng về chính sách thu hút FDI và hỗ trợ
doanh nghiệp đầu tư, nhưng Nhật Bản vẫn
đầu tư FDI vào Việt Nam về cả quy mô và
tổng số vốn đầu tư cao hơn so với các quốc
gia khác đầu tư vào Việt Nam, với lý do
chủ yếu là nguồn nhân lực và môi trường
đầu tư ổn định. Các doanh nghiệp Nhật
Bản vẫn xem Việt Nam là thị trường hoạt
động đầy hứa hẹn trong khu vực. Điều này
cho thấy tiềm năng đầu tư FDI của Nhật
Bản vào Việt Nam vẫn còn rất cao và việc
cải thiện chính sách, cơ sở hạ tầng có thể
tạo cơ sở duy trì vững chắc cũng như thu
hút thêm được nhiều FDI của các doanh
nghiệp Nhật Bản.
2.2. Về quy mô và tốc độ đầu tư FDI
của Nhật Bản
Năm 2006, FDI của Nhật Bản vào Việt
Nam có 253 dự án với tổng vốn đầu tư là
1502 triệu USD được cấp phép. Đến năm
2008, FDI của Nhật Bản vào Việt Nam đạt
mức tăng gấp bốn lần so với năm 2006 là
6308 triệu USD với 196 dự án. Nhưng năm
2009, FDI chỉ còn 439 triệu USD với 124
dự án đầu tư. Nguyên do chỉ trong ba năm
2006-2009, FDI tăng rồi lại giảm thất
thường gắn liền với hai sự kiện: Việt Nam
tham gia vào WTO dẫn đến sự lạc quan
của các nhà đầu tư, sau đó năm 2009 thì
các quốc gia trên thế giới trong đó có Nhật
Bản và Việt Nam đều chịu ảnh hưởng nặng
nề của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Từ năm 2010 - 2015, số dự án của
Nhật Bản liên tục tăng nhanh và đạt mức
cao nhất vào 2012 và năm 2013. Năm
2012, Nhật Bản chiếm tới 51% tổng vốn
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam với 5593
triệu USD và 5875 triệu USD được cấp
phép năm 2013. Tuy nhiên, dù số dự án tiếp
tục tăng thêm 16% vào năm 2014 nhưng
hầu hết đều là dự án vừa và nhỏ, cho nên
tổng vốn đầu tư chỉ còn 2299 triệu USD.
ĐỖ HOÀNG OANH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
99
Tính từ năm 2017 đến nay, Việt Nam
đã có 125 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự
án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam, trong
đó đứng đầu là Hàn Quốc với số dự án tích
lũy là 6532 dự án, tổng vốn tích lũy đạt
57,66 tỷ USD (chiếm 18,1% tổng vốn đầu
tư). Nhật Bản đứng thứ hai với tổng tích
lũy 3599 dự án, tổng vốn tích lũy 49,46 tỷ
USD (chiếm 15,5% tổng vốn đầu tư), tiếp
theo lần lượt là Singapore với 13,2% và
Đài Loan 9,7%, Britishvirgin Island 7,1%
và Hồng Kông 5,6% tổng vốn đầu tư tích
lũy trong các quốc gia hiện đang đầu tư
FDI tại Việt Nam.
Theo báo cáo sơ bộ từ Cục Đầu tư
nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(2018), tính đến ngày 20/6/2018, cả nước
có 1366 dự án mới được cấp giấy chứng
nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký là 11,8
tỷ USD, bằng 99,7% so với cùng kỳ năm
2017; và có 507 lượt dự án đăng ký điều
chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký
tăng thêm là 4,43 tỷ USD, bằng 86,2% so
với cùng kỳ năm 2017. Theo đó, nếu như
tổng vốn FDI vào Nhật Bản năm 2017
chiếm 8639 triệu USD thì sáu tháng đầu
năm 2018 đã đạt 6466 triệu USD khoảng
74,8% toàn năm 2017. Thời điểm này,
Nhật Bản đứng thứ nhất về đầu tư FDI vào
Việt Nam với 6466 triệu USD, khoảng
31,8%, Hàn Quốc đứng thứ hai với 5059
triệu USD (24,88%), Singapore với 2389
triệu USD (11,75%), Britishvirgin Island
và Hồng Kông là 2349 triệu USD (10%)
tổng vốn FDI năm 2018.
Như vậy, FDI vào Việt Nam dù biến
động nhưng vẫn theo xu hướng tăng lên
theo thời gian, cụ thể FDI năm 2017 tăng
42,3% so với năm 2016, và nửa năm 2018,
FDI đã tăng 8,4% so với cùng kỳ năm
2017. Theo đó, vai trò FDI vào Nhật Bản
cũng ngày càng tăng lên, FDI của Nhật
Bản đứng hàng thứ 2 năm 2016 với tỷ
trọng đầu tư là 14,3% trên 114 quốc gia và
năm 2017 với tỷ trọng đầu tư là 15,5% trên
125 quốc gia. Hiện nay, Nhật Bản vượt
Hàn Quốc, trở thành quốc gia dẫn đầu về
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)
100
với tỷ trọng là 31,8% trên 128 quốc gia.
2.3. Về hình thức đầu tư FDI của
Nhật Bản vào Việt Nam
Các dự án của Nhật Bản tại Việt Nam
chủ yếu theo ba hình thức cơ bản: 100%
vốn nước ngoài, hình thức liên doanh và
BOT. Theo đó, hình thức dự án đầu tư với
100% vốn nước ngoài được các nhà đầu tư
Nhật Bản quan tâm, vì hình thức này sẽ
giúp nhà đầu tư Nhật Bản làm chủ được
công nghệ, khả năng sản xuất kinh doanh,
bảo vệ văn hóa công ty và không chịu ảnh
hưởng hay lệ thuộc vào đối tác. Cụ thể, chỉ
tính riêng năm 2016-2017, hình thức 100%
vốn nước ngoài với 2678 dự án, tổng vốn
đầu tư 24,17 tỷ USD (chiếm 82,8% tổng số
dự án và 57,5% tổng vốn đầu tư). Đứng thứ
hai là hình thức liên doanh với 540 dự án,
tổng vốn đầu tư 16,16 tỷ USD. Còn lại theo
hình thức hợp đồng BOT, BT, BTO và
hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh,
tuy nhiên chiếm tỷ lệ không cao.
Về lĩnh vực đầu tư thì đầu tư FDI Nhật
Bản từ năm 2016 đến nay có xu hướng ổn
định, được triển khai trên 19 ngành và lĩnh
vực. Nhưng FDI Nhật Bản vẫn tập trung
chủ yếu vào ba ngành chính: đứng đầu là
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm
48,41% tổng số dự án và 80,02% tổng vốn
đầu tư; kinh doanh bất động sản đứng thứ
hai khoảng 2% tổng số dự án với vốn đầu
tư khoảng 1,91 tỷ USD (khoảng 5% tổng
vốn đầu tư) ; và thứ ba là sản xuất, phân
phối điện, khí, nước với 0,5% - 1% tổng số
dự án chiếm khoảng 3% tổng vốn đầu tư
hiện có; 11% tổng vốn đầu tư cho các
ngành còn lại.
2.4. Phát triển công nghiệp phụ trợ
trong việc hấp thụ công nghệ từ FDI
Mặc dù đầu tư FDI vào các ngành
khoáng sản, hạ tầng, hoặc bất động sản sẽ
tạo được nhiều việc làm và giải quyết tình
trạng thất nghiệp, nhưng đầu tư vào những
lĩnh vực này thường ít có đóng góp cho
việc tích lũy lâu dài các bí quyết kinh
doanh, kỹ năng hay công nghệ trong lĩnh
ĐỖ HOÀNG OANH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
101
vực chế tạo, chế biến để tạo năng lực cạnh
tranh cho các doanh nghiệp Việt Nam trên
thị trường quốc tế. Theo VCCI (2018), từ
năm 2010 đến năm 2017, có 115 hợp đồng
chuyển giao từ nước ngoài vào Việt Nam,
với tổng giá trị khoảng 447000 tỷ đồng,
trong đó có 02 hợp đồng chuyển giao công
nghệ của Tập đoàn Samsung thực hiện
năm 2017 có tổng giá trị khoảng 323000
tỷ đồng. Tuy nhiên, kết quả kiểm tra của
VCCI cho biết trong số 115 hợp đồng chỉ
có 23 hợp đồng công nghệ ở mức tiên
tiến, còn 92 hợp đồng thì ở kỹ thuật công
nghệ đều đã lạc hậu. Lý giải điều này,
VCCI cho rằng những doanh nghiệp FDI
không tới Việt Nam để tiếp cận bí quyết
kinh doanh hay công nghệ mới hay sản
phẩm mới, mà chủ yếu đến vì sự sẵn có
của số lượng lớn nhân công có chi phí
tương đối thấp.
Do đó, theo dự thảo Chiến lược và
định hướng thu hút FDI thế hệ mới 2018-
2030 của Bộ Kế Hoạch Đầu Tư và Ngân
Hàng Thế Giới (2018) với mục tiêu chiến
lược là: xây dựng các ngành công nghiệp
phụ trợ như xây dựng và vật liệu xây dựng;
gốm sứ và thủy tinh; linh kiện điện tử; kim
loại; nhựa; cao su; dệt; giấy, in và bao bì;
sản xuất kim loại và linh kiện công nghệ
cao. Nguyên nhân đầu tư FDI vào nhóm
này vì hàng hóa xuất khẩu hiện được sản
xuất tại Việt Nam ở hầu hết các ngành nghề
đều phụ thuộc đầu vào và linh kiện nhập
khẩu, có thể nói xuất khẩu và nhập khẩu
của Việt Nam đều dựa vào nhập khẩu. Do
đó, theo nghiên cứu Bộ Kế Hoạch Đầu Tư
và Ngân Hàng Thế Giới (2018), đầu tư FDI
vào công nghiệp phụ trợ sẽ đem lại được
nhiều tiềm năng nhất trong việc cải thiện
năng lực của các ngành công nghiệp Việt
Nam và sự phát triển của công nghiệp phụ
trợ trong nước có năng lực cạnh tranh quốc
tế, cung cấp được nhu cầu cho các doanh
nghiệp trong nước và cho cả các doanh
nghiệp FDI của nước ngoài hiện đang hoạt
động tại Việt Nam, cũng như tạo bước phát
triển xuất khẩu linh kiện và sản phẩm phụ
trợ sang các quốc gia khác.
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)
102
Căn cứ theo số liệu nguồn thu mua đầu
vào của các công ty Nhật Bản vào năm
2016, nếu như doanh nghiệp FDI Nhật Bản
hoạt động tại Trung Quốc có thể sử dụng
nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào do
chính Trung Quốc cung cấp là 67,8%; chỉ
có khoảng 25,8% là cần phải nhập linh
kiện từ chính nước đầu tư Nhật Bản và
6,4% từ các quốc gia khác. Hay tại Thái
Lan và Ấn Độ, tỷ lệ nội địa cũng rất cao từ
54% - 58% nguồn nguyên liệu đầu vào
cung cấp cho các doanh nghiệp FDI Nhật
Bản đang hoạt động tại thị trường này và
chỉ có khoảng 25% yếu tố đầu vào là phải
nhập khẩu từ Nhật Bản. Nhưng khi doanh
nghiệp FDI Nhật Bản hoạt động tại Việt
Nam thì các doanh nghiệp FDI Nhật Bản
phải chịu chi phí và bị động do hơn 75%
linh kiện và máy móc phụ trợ đều nhập
khẩu từ nước ngoài (trong đó, nhập khẩu
yếu tố đầu vào từ Nhật Bản gần 36% và
nhập khẩu thêm 30% từ các quốc gia
khác). Hay nói cách khác, tỷ lệ nội địa hóa
từ các doanh nghiệp phụ trợ Việt Nam
cung cấp được cho doanh nghiệp FDI Nhật
Bản chỉ có 34,2% thấp nhất trong các quốc
gia trong khu vực (cao hơn mỗi
Phillippines). Điều này cũng là yếu tố gây
cản trở trong việc thu hút FDI Nhật Bản
vào Việt Nam.
Nguyên nhân là do kết nối giữa doanh
nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước
còn hạn chế như: không tìm được nhà cung
cấp cạnh tranh (về giá cả, thời gian, khối
lượng, v.v) có năng lực đáp ứng các tiêu
chuẩn quốc tế; khó khăn trong xác định
nhà cung cấp có năng lực do thiếu thông
tin về các ngành công nghiệp phụ trợ trong
nước; ngoài ra do tiến độ hình thành các
cụm công nghiệp giúp thúc đẩy liên kết
còn chậm. Việt Nam thiếu liên kết chính
sách nhất quán để giúp gia tăng tỷ lệ nội
địa hóa, kể cả khi chính sách thúc đẩy liên
kết đã được ban hành thì quy trình xin ưu
đãi và thủ tục phê duyệt cũng rất phức tạp,
từ đó dẫn tới sự trì trệ của chương trình kết
nối giữa các doanh nghiệp FDI Nhật Bản
và các doanh nghiệp tại Việt Nam.
3. Một số vướng mắc và hạn chế trong
thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam
Mặc dù Nhật Bản được xem là một
trong những quốc gia đầu tư FDI tổng vốn
ĐỖ HOÀNG OANH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
103
lớn vào Việt Nam, tuy nhiên, Việt Nam
vẫn chưa thật sự thu hút được thế mạnh của
các doanh nghiệp FDI Nhật Bản. Cụ thể,
Nhật Bản được biết đến như là một quốc
gia có thế mạnh công nghiệp về công nghệ,
đóng tàu, điện tử, sản xuất đồ gia dụng, sản
xuất ô tô và kim loại màu, hóa dầu, thép và
dây chuyền máy móc... Và hiện nay là cuộc
cách mạng robot, công nghệ tự động và trí
thông minh nhân tạo, nhưng FDI Nhật Bản
vào Việt Nam chủ yếu lại là ngành thâm
dụng lao động, may mặc, dệt may, tiêu
dùng và bất động sản. Trong khi đó, xu
hướng kinh tế các quốc gia ngày nay đang
chuyển sang công nghệ thì Việt Nam sẽ
mất dần lợi thế và dễ rơi vào tình trạng
kinh tế trì trệ. Cụ thể:
Thứ nhất, các doanh nghiệp Nhật Bản
e ngại luật pháp Việt Nam có chính sách
thiếu đồng bộ, thủ tục hành chính còn quan
liêu, chi phí thuế cao, tồn tại tham nhũng,
dẫn đến tình trạng năm 2015 - 2016, FDI
Nhật Bản đã rút khỏi Việt Nam và đầu tư
vào Singapore, Indonesia (Vneconomy,
2016). Cho thấy, FDI Nhật Bản đầu tư vào
Việt Nam tuy có cao nhưng lại thiếu tính
vững chắc và bền lâu.
Thứ hai, các dự án FDI Nhật Bản đầu
tư vào Việt Nam chủ yếu theo hình thức
100% vốn nước ngoài chiếm lên đến 83%
tổng dự án đầu. Tuy nhiên, các dự án FDI
100% vốn nước ngoài thường có tác động
lan tỏa rất chậm, ngoài đóng góp về thuế
thì hầu như ít đem lại lợi ích gì khác cho
Việt Nam. Trong khi đó, nếu các dự án
FDI được đầu tư dưới hình thức liên doanh
sẽ có sức lan tỏa mạnh mẽ, qua đó các
doanh nghiệp liên doanh Việt Nam có thể
tiếp cận và học hỏi được nhiều phương
thức quản lý kinh doanh hiện đại, công
nghệ khoa học mới...
Thứ ba, công nghiệp phụ trợ Việt Nam
chưa tương ứng với yêu cầu của các doanh
nghiệp FDI Nhật Bản. Nếu như tại Trung
Quốc có thể cung cấp gần 70% linh kiện,
phụ tùng cho các doanh nghiệp FDI Nhật,
Thái Lan 60% hay Ấn Độ cung cấp 55%
thì công nghiệp phụ trợ Việt Nam chỉ cung
cấp được khoảng hơn 30% cho các doanh
nghiệp Nhật Bản đang hoạt động tại Việt
Nam, dẫn đến sự gia tăng chi phí cho các
doanh nghiệp FDI Nhật Bản, cũng như sự
đánh mất cơ hội cho chính các doanh
nghiệp Việt Nam trong quá trình phát triển
công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Nguyên
nhân, do các doanh nghiệp trong nước khó
đáp ứng được chất lượng sản phẩm như các
doanh nghiệp FDI Nhật Bản yêu cầu, cũng
như tiếp cận thông tin vẫn chưa thật sự
hiệu quả. Các doanh nghiệp Việt Nam gặp
nhiều khó khăn trong kết nối và giới thiệu
chất lượng sản phẩm đến các doanh nghiệp
Nhật Bản, thiếu nguồn nhân lực có tay
nghề cao và biết tiếng Nhật để đáp ứng nhu
cầu của các doanh nghiệp Nhật Bản.
Cũng như, kết cầu hạ tầng của Việt
Nam còn yếu, thiếu đồng bộ, chưa tương
xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, kể cả
ở hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh. Nguồn cung cấp điện không
ổn định, thường hay xảy ra tình trạng cắt
điện không theo kế hoạch. Dịch vụ bưu
chính - viễn thông và giao thông còn yếu,
dẫn đến vận chuyển hàng hóa gặp nhiều
khó khăn, cầu cảng và pháp lý Hải Quan
phiền hà, hàng hóa nhập cảng - xuất cảng
mất nhiều thời gian, điều kiện bảo quản
chưa tốt, dễ dẫn đến một số hàng hóa bị
hao hụt, bị hỏng trước khi kịp rời cảng.
Vì vậy, nhằm cải thiện và giải quyết
những vấn đề tồn đọng nêu trên, bài viết kiến
nghị một số giải pháp nhằm cải thiện môi
trường đầu tư thuận lợi, góp phần thu hút
FDI Nhật Bản vào những lĩnh vực phát triển
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)
104
trọng tâm theo chiến lược công nghiệp hóa -
hiện đại hóa của Việt Nam đến năm 2020
4. Một số giải pháp thu hút FDI của
Nhật Bản vào Việt Nam
Theo tinh thần của Nghị quyết 103/NQ-
CP ngày 29/8/2013 về Định hướng nâng
cao hiệu quả thu hút, sử dụng và quản lý
FDI trong thời gian tới, cũng như theo Kế
hoạch hành động thực hiện chiến lược Công
nghiệp hóa đến năm 2020 tầm nhìn 2030
trong khuôn khổ hợp tác với Nhật Bản, tập
trung chủ yếu vào 6 ngành: điện tử, máy
nông nghiệp, chế biến nông, thủy sản, đóng
tàu, môi trường và tiết kiệm năng lượng, sản
xuất ô tô và phụ tùng ô tô. Nghiên cứu kiến
nghị một số giải pháp như sau:
Một là, hoàn thiện môi trường đầu tư,
trong đó hoàn thiện cả về mặt chính sách
đầu tư và cơ sở hạ tầng nhằm đáp ứng yêu
cầu thu hút vốn FDI trong giai đoạn mới.
Cụ thể là cần hoàn thiện các chính sách đầu
tư trực tiếp nước ngoài; tăng cường và đẩy
mạnh thực tế hóa những thỏa thuận các
Hiệp định thương mại trong thực tế; minh
bạch hóa chính sách đầu tư; hoàn thiện hệ
thống pháp luật về đầu tư nước ngoài, đẩy
mạnh mô hình "một cửa, một dấu" theo đó
Sở Kế Hoạch và Đầu Tư là cơ quan duy
nhất giải quyết vấn đề cho các doanh
nghiệp FDI nói chung và Nhật Bản nói
riêng. Thêm vào đó, những thủ tục hải
quan và cầu cảng, xuất nhập khẩu hàng hóa
cũng cần minh bạch và gọn nhẹ, tránh tồn
đọng hàng hóa tại các kho bãi do thủ tục
phiền hà, gây thất thoát và hư tổn cho các
doanh nghiệp FDI.
Hai là, nâng cao chất lượng đào tạo
và chú trọng vào đào tạo nguồn nhân lực,
tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo, đáp
ứng và thay thế lao động nước ngoài cũng
như bảo đảm giá nhân công thấp hơn so
với các nước trong khu vực. Cụ thể, cần có
các trung tâm, cao đẳng và thậm chí là đại
học liên kết với các công ty Nhật Bản, vừa
đào tạo tiếng Nhật vừa theo kịp nhu cầu và
yêu cầu của các doanh nghiệp Nhật Bản.
Ba là phát triển các ngành công
nghiệp phụ trợ, công nghiệp phụ trợ không
chỉ đáp ứng nhu cầu nguyên vật liệu, phụ
liệu và các yếu tố đầu vào cho doanh
nghiệp Nhật Bản đang hoạt động tại Việt
Nam, mà còn giải quyết được vấn đề việc
làm cho công nhân Việt Nam, cũng như
tiếp cận được công nghệ và kỹ thuật cho
chính các doanh nghiệp Việt Nam. Do đó,
Việt Nam cần có những chính sách, cụ thể
như giảm bỏ các loại thuế đánh vào linh
kiện nhập khẩu, quy hoạch quỹ đất cho các
khu công nghiệp phụ trợ và các chính sách
ưu đãi khác. Ngoài ra, Cục Đầu Tư Nước
Ngoài nên phối hợp chặt chẽ với Bộ Công
thương và các cơ quan, tổ chức liên quan
để phát triển cơ sở dữ liệu toàn diện chất
lượng cao về nhà cung cấp tiềm năng ở
Việt Nam (bao gồm cả các doanh nghiệp
nước ngoài và trong nước). Điều này sẽ
giúp giảm chi phí tìm kiếm chung cho cả
các doanh nghiệp Nhật Bản và cả doanh
nghiệp Việt Nam.
Bốn là, ban hành chính sách quy định
rõ ngành, nghề, lĩnh vực nào thì cho phép
đón nhận các dòng vốn 100% nước ngoài,
lĩnh vực nào bắt buộc phải đầu tư theo hình
thức liên doanh để bảo đảm một cách hài
hòa lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài và
lợi ích của Việt Nam.
Cuối cùng là tăng cường hơn nữa các
hoạt động xúc tiến đầu tư với Nhật Bản
dưới nhiều hình thức. Chú trọng xúc tiến
đầu tư đối với các doanh nghiệp nhỏ và
vừa (SME), nhất là các doanh nghiệp trong
lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và nông
nghiệp, hiện nay các SME chiếm 99,7%
tổng số doanh nghiệp tại Nhật, có công
ĐỖ HOÀNG OANH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
105
nghệ kỹ thuật hiện đại và đang có xu
hướng đầu tư ra nước ngoài. Cụ thể như
thành lập các bộ phận hỗ trợ chuyên biệt
cho các nhà đầu tư Nhật Bản và nhà đầu tư
của một số tỉnh của Nhật Bản nói riêng,
xây dựng trang web xúc tiến đầu tư bằng
tiếng Nhật.v.v.
Kết Luận
Nguồn vốn FDI của Nhật Bản đã góp
phần đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế
Việt Nam, làm tăng năng suất lao động
cũng như giải quyết vấn đề việc làm, hỗ trợ
những kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao và
khả năng quản lý. Thêm vào đó, FDI Nhật
Bản còn tạo tác động lan tỏa đến các ngành
công nghiệp phụ trợ, lĩnh vực xuất nhập
khẩu, thương mại và dịch vụ... Nghiên cứu
cũng đề cập về chất lượng thể chế và môi
trường kinh tế theo đánh giá của các doanh
nghiệp Nhật Bản, qua đó có thể thấy dòng
vốn FDI của Nhật Bản đầu tư vào Việt
Nam vẫn chưa tương xứng với tiềm năng
của cả hai quốc gia. Từ đó, kiến nghị giải
pháp nhằm cải thiện chất lượng thể chế,
môi trường kinh tế vĩ mô của Việt Nam,
phát triển nguồn nhân lực và xúc tiến hoạt
động thương mại để có thể thu hút nhiều
hơn nữa nguồn vốn FDI, cũng như duy trì
và phát triển các doanh nghiệp FDI
Nhật Bản hiện đang hoạt động tại Việt
Nam tốt hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Blomström, M., & Persson, H. (1983).
Foreign investment and spillover efficiency in
an underdeveloped economy: evidence from
the Mexican manufacturing industry. World
development, 11(6), 493-501.
2. Chunlai, C. (1997). Foreign direct investment
and trade: an empirical investigation of the
evidence from China (No. 1997-11).
University of Adelaide, Chinese Economies
Research Centre.
3. Katz, J. M. (1969). Production functions,
foreign investment and growth; a study
based on the Argentine manufacturing
sector 1946-1961 (No. 04; HC175, K3.)
4. Sjöholm, F. (1999). Productivity growth in
Indonesia: the role of regional
characteristics and direct foreign
investment. Economic Development and
Cultural Change, 47(3), 559-584..
5. Cơ quan Xúc tiến thương mại Nhật Bản
JETRO. (2017). White Paper on
International Trade Japan. Support Japan's
Direct Investment in Vietnam 2016 - 2017.
6. Cục Đầu Tư Nước Ngoài FIA. (2018). Tình
hình đầu tư của Nhật Bản tại Việt Nam. Bộ
Kế Hoạch Và Đầu Tư.
7. Phan Văn Tâm. (2010). Một số yếu tố ảnh
hưởng đến thu hút đầu tư trực tiếp của Nhật
Bản vào Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu
Kinh tế, số 391, trang 58 - 64.
8. Phạm Mạnh Thắng (2017). Đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) của Nhật Bản vào TP Hồ
Chí Minh trong 10 năm gần đây (2006 - 2016).
Tạp chí Khoa Học, số 5, trang 183-188.
9. Tổng hợp số liệu FDI từ FIA. Tình hình đầu
tư nước ngoài từ 2006 - 2018. Bộ Kế Hoạch
Và Đầu Tư - Cục Đầu Tư Nước Ngoài.
10. VCCI. (2018, ngày 30 tháng 03). Nâng cao
chất lượng chuyển giao công nghệ. Truy
xuất từ:
kinh-doanh/nang-cao-chat-luong-chuyen-
giao-cong-nghe-cach-nao-138395.html
Ngày nhận bài: 30/11/2018 Biên tập xong: 15/02/2019 Duyệt đăng: 20/02/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_va_mot_so_giai_phap_nang_cao_thu_hut_dau_tu_nuoc.pdf