Các giải pháp chủ yếu.
Thứ nhất: nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nâng cao chất lượng và thay đổi cơ cấu dạy nghề theo yêu cầu của thị trường lao động, phát triển mạnh giáo dục tiểu học, THCS và THPT ở các miền, vùng của đất nước nhất là vùng núi, trung du và hải đảo. Thực hiện tốt việc quy hoạch mạng lưới các trường ĐH, CĐ, các trường dạy nghề theo hướng xã hội hóa, đa dạng hóa hình thức đào tạo, linh hoạt, năng động và thiết thực kết hợp dạy nghề chính quy và không chính quy giữa cơ sở dạy nghề nhà nước với doanh nghiệp tư nhân có chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở dạy nghề trong các doanh nghiệp, ưu tiên tăng tỷ trọng đầu tư cho việc đào tạo nguồn nhân lực ở nông thôn để cải tạo cơ cấu nguồn nhân lực đã qua đào tạo. Nhanh chóng đổi mới cơ cấu kiến thức, trang bị các kiến thức cần thiết của CNH, nền kinh tế thị trường, kinh tế tri thức nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo. Từng bước gắn đào tạo với sử dụng, thực hiện xã hội hóa công tác đào tạo. Coi trọng việc nâng cao chất lượng chương trình đào tạo, phương pháp, điều kiện về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên đạt trình độ khu vực và tiến dần đến trình độ quốc tế để nguồn nhân lực Việt Nam có thể tham gia một cách có hiệu quả vào thị trường lao động thế giới.
34 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1207 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và những giải pháp khắc phục về thị trường việc làm và thị trường lao động ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hích sách phát triển kinh tế, pháp luật của một nước(luật đầu tư nước ngoài, luật doanh nghiệp).
2.2) Cầu việc làm.
Cầu việc làm là số lượng việc làm mà người lao động đang tích cực tìm kiếm trên thị trường việc làm.
Cầu việc làm phụ thuộc vào quy mô, cơ cấu dân số của một nước, chính sách tạo việc làm của quốc gia, chất lượng của nguồn lao động (trình độ văn hóa, chuyên môn, sức khỏe)
2.3) Giá cả việc làm.
Cũng giống như TTLĐ sự tác động của cung cầu việc làm hình thành nên giá cả sức việc làm. Theo em hiểu giá cả việc làm cũng chính là giá cả sức lao động, nó được thể hiện ở khoản thu nhập mà người sử dung lao động trả cho người lao động.Thu nhập là tổng số tiền mà người lao động nhận được trong một thời gian nhất định, từ các nguồn khác nhau.Các nguồn thu nhập đó có thể là từ cơ sở sản xuất (tiền lương, từ thưởng, các khoản phụ cấp, trợ cấp) trong đó tiền lương là khoản chính mà người lao động nhận được từ người lao động sau khi hoàn thành một công việc nhất định hoặc sau một thời lao động nhất định.
Giá cả việc làm phụ thuộc vào tính chất của việc làm , mức độ giản đơn hay phức tạp của công việc đòi hỏi trình độ cao hay thấp, điều kiện làm việc
Vai trò của TTVL.
Cung cấp thông tin về việc làm để người cung cấp việc làm và người cần việc làm có thể gặp gỡ, trao đổi thỏa thuận với nhau. Người đi tìm việc làm sẽ có những thông tin cần thiết cụ thể về việc làm đó để xác định xem có phù hợp với họ không.
Tạo điều kiện cho người lao động phát huy đúng khả năng, năng lực của bản thân từ đó nâng cao năng suất lao động xã hội.
Giúp ổn định, nâng cao đời sống cho người lao động, phát triển kinh tế đất nước.
Giải quyết vấn đề bức xúc của xã hội đó là tình trạng thất nghiệp, giảm những tệ nạn của xã hội.
II. Thị trường lao động (TTLĐ)
Khái niệm về TTLĐ
Thị trường lao động là sự trao đổi hàng hóa sức lao động giữa một bên là những người sở hữu sức lao động và một bên là những người cần thuê sức lao động đó.
Thị trường lao động là thị trường lớn nhất và quan trọng nhất trong hệ thống thị trường vì lao động là hoạt động chiếm nhiều thời gian nhất và kết quả của quá trình trao đổi trên TTLĐ là việc làm được trả công.Thị trường lao động biểu hiện mối quan hệ giữa một bên là người có sức lao động và một bên là người sử dụng sức lao động nhằm xác định số lượng và chất lượng lao động sẽ đem ra trao đổi và mức thù lao tương ứng.
Về cơ bản TTLĐ cũng chịu sự tác động của quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật độc quyền
Các yếu tố của TTLĐ và nhân tố tác động
Về cơ bản, TTLĐ được tạo thành từ ba bộ phận chính đó là cung, cầu của TTLĐ và giá cả sức lao động hay mức tiền công, tiền lương mà tại đó người sở hữu sức lao động đồng ý làm việc.
Cung lao động
Theo Samuelson, cung lao động biểu hiện số lượng lao động mà các hộ gia đình sẵn sàng đem bán trên thị trường.
Cung lao động là tập hợp những người có khả năng và có nhu cầu làm việc. Họ có thể đang có việc làm hay tạm thời không có việc làm song đamg đi tìm việc.
Nguồn cung lao động được hình thành từ các cơ sở đào tạo như các thị trường đại học, cao đẳng, dạy nghề và các cơ sở đào tạo khác. Nguồn cung này có thể từ những người đang tìm việc làm, từ các doanh nghiệp, cơ quan tổ chức và, nó được bổ sung thường xuyên từ đội ngũ những người đến độ tuổi lao động. ở Việt Nam tổng cục thống kê quy định nguồn lao động là những người trong độ tuổi lao động (nam từ 15-60 tuổi nữ từ 15-55 tuổi) và người trên tuổi lao động đang làm việc. Cung về lao động phụ thuộc vào qui mô. Cơ cấu dân số của một nước, chất lượng của nguồn lao động (Trình độ văn hóa, cơ cấu ngành nghề, sức khỏe phong tục, tập quán xã hội của một nước và chính sách phát triển nguồn nhân lực của nước đó.
Cầu lao động
Cầu lao động là lượng lao động mà người sử dụng lao động có thể thuê ở mỗi mức giá, có thể chấp nhận được.
Trong nền kinh tế thị trường cầu lao động là cầu dẫn xuất. Lao động là yếu tố đầu vào cần thiết để sản xuất ra một khối lượng hàng hóa vật phẩm nhất định, do vậy quy mô của nó phụ thuộc vào mức nhu cầu của hàng hóa do lao động sản xuất ra cũng như giá cả của hàng hóa đó trên thị trường.
Cầu về lao động được hình thành từ các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức hoặc từ nhu cầu lao động nhập khẩu của nước ngoài.
Cầu lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nguồn tài nguyên của một nước, qui mô, trình độ công nghệ, cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế, mức tiền công, phong tục tập quán, tôn giáo và chính sách phát triển kinh tế.
Giá cả sức lao động
Sự tác động qua lại giữa cung và cầu về lao động hình thành giá cả sức lao động được thể hiện trực tiếp ở khoản thù lao mà người lao động nhận được
Giá cả hay tiền công lao động(W0) và số lượng lao động(L0) sẽ được xác định tại điểm giao nhau của hai đường cung và cầu về lao động. E0 gọi là điểm cân bằng cung cầu lao động, tại điểm E0 không có thất nghiệp . Thất nghiệp không xảy ra nếu cung cầu co giãn linh hoạt theo độ tăng của giá cả sức lao động
Mức tiền công
S
E0
W0
D
L0 Đơnvị LĐ
Những đặc trưng chủ yếu của thị trường lao động
Một là lao động không thể tách rời khỏi người cung cấp, người lao động. Đối với các loại hàng hóa thông thường, mối quan hệ giữa người bán và người mua sẽ kết thúc khi thỏa thuận xong việc mua bán, người mua sẽ kết thúc khi thỏa thuận xong việc mua bán, và quyền của người bán đối với hàng hóa của mình chấm dứt sau khi nhận được thanh toán sòng phẳng. Nhưng đối với hàng hóa sức lao động của mình mà người làm thuê phải tham gia tích cực, và chủ động trong quá trình khai thác và sử dụng sức lao động của mình, để tạo ra sản phẩm hàng hóa- dịch vụ với số lượng và chất lượng ngày càng tốt hơn. Đây là nét đặc trưng cơ bản, khác với thị trường khác của kinh tế thị trường
Hai là người lao động là người giữ quyền kiểm soát số lượng và chất lượng sức lao động, cho nên mối quan hệ lao động là mối quan hệ khá lâu dài. Để nâng cao năng suất và hiệu quả của quá trình lao động thì việc giữ vững và phát triển các mối quan hệ lao động là rất cần thiết. Do đó người sử dụng lao động phải xây dựng một cơ chế khuyến khích, tạo động lực đối với người lao động một cách phù hợp. Ngoài khuyến khích về tiền công, tiền thưởng, phúc lợi.. thì cần kích thích người lao động cả về mặt tinh thần.
Ba là chất lượng lao động của người lao động không đồng nhât. Nó phụ thuộc vào giới tính, tuổi tác, thể lực, trí thông minh về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, vv Vì vậy việc đánh giá chất lao động của người lao động trong quá trình tuyển dụng, trả công phù hợp với từng người gặp khó khăn, phức tạp.
Bốn là, lao động vừa là đầu vào của quá trình sản xuất, vừa quy định số lượng và chất lượng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ sản xuất ra. Cho nên, các chính sách, các quy định về tuyển dụng, tiền lương, bảo hiểmvv vừa ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của các đơn vị, vừa ảnh hưởng đến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như giá cả, việc làm.
Năm là thị trường lao động luôn có giới hạn về địa lý theo cung về chuyên môn theo ngành, nghề. Vì vậy phải nghiên cứu sự chuyển dịch và sự liên kết giữa các thị trường được phân đoạn theo các dấu hiệu (tiêu thức) khác nhau giữa các vùng, các nghề
Sáu là TTLĐ cũng giống như các loại thị trường khác trong hệ thống thị trường đều chịu sự tác động của pháp luật. Các thể chế, quy chế được luật hóa và các quy định thành văn bản có tác động đến hành vi và điều kiện của 2 chủ thể người lao động và người sử dụng lao động trong quá trình thỏa thuận các điều kiện và giá cả của dịch vụ lao động hay TTLĐ chịu sự điều tiết của Chính Phủ thông qua quy chế, hình thức luật, mức tiền lương tối thiểu
Các dạng thị trường lao động
Tùy vào mục đích nghiên cứu, sự tương tác giữa cung-cầu lao động sự tác động của Chính Phủ, thị trường lao động được phân loại như sau:
Theo khả năng cạnh tranh của thị trường
4.1.1 Thị trường lao động cạnh tranh hoàn hảo
Trong thì trường cung cầu lao động được điều chỉnh linh hoạt theo giá cả của lao động, chỉ tồn tại một thị trường duy nhất, không bị chia cắt. Đường cầu của thị trường là tập hợp các đường cầu của cá nhân vận động tương ứng với đường cung của lao động. Đường cung là tổng hợp các đường cung của doanh nghiệp, tuy nhiên tiền lương có thể hạ thấp tùy ý.
4.1.2 Thị trường lao động nhiều khu vực.
Trong thị trường này, cung-cầu lao động bị chia cắt, bị phân mảng thành các thị trường riêng (ngành, nghề, trình độ đào tạo, giới tính) Mỗi thị trường có đường cầu và đường cung riêng biệt với cơ chế vận động khác nhau. Trong thị trường này tồn tại đồng thời thất nghiệp hữu hình và thấp nghiệp cơ cấu. Kết quả tiền lương có sự phân biệt lớn giữa các vùng, nghành nghề, giới
Theo mức độ tương hỗ giữa cung cầu lao động.
Thị trường dư thừa lao động: Khi tốc độ của cung lớn hơn rất nhiều so với tốc độ tăng của cầu thì sẽ dẫn đến sự dư thừa lao động trên TTLĐ. Trong trường hợp này, cung lao động gần như một đường nằm ngang. Cầu lao động rất yếu và tiền công là một điểm rât thâp, không có phản ứng với mức cầu và giá lao động
Theo mức độ can thiệp của Nhà nước trong hệ thống thị trường.
- Hệ thống thị trường tự do: các cá nhân tự chịu trách nhiệm về các quyết định về tiền lương, việc làm. Hiệu quả kinh tế trong thị trường này được bảo đảm thông qua việc phân bố và sử dụng nguồn lực rất hợp lý nhưng vẫn chưa chú ý đúng mức đến hiệu quả xã hội:
- Hệ thống thị trường kế hoạnh hóa tập trung: Nhà nước là người giữ vị trí quan trọng, trực tiếp trong việc điều chỉnh các mối quan hệ lao động xã hội vơi mục tiêu bảo đảm việc làm đầy đủ cho mội thành viên trong xã hội. Vai trò của người lao động, người sử dụng lao động (doanh nghiệp, tổ chức) rất thấp, từ đó việc sử dụng nguồn lực lao động kém hiệu quả.
- Hệ thống thị trường hỗn hợp: Đây là thị trường mà ở đó vừa có sự can thiệp của Chính Phủ thông qua kế hoạch hóa tập trung, vừa sự điều tiết của hệ thống thị trường. Tùy vào đặc trưng về kinh tế, chính trị mà hệ thống thị trường hỗn hợp ở mỗi nước không giống nhau.
IV. Mối quan hệ giữa TTVL và TTLĐ.
TTVL và TTLĐ không tương tác
ở đây TTVL và TTLĐ có sự tách biệt, không liên hệ với nhau. Nó là hai chủ thể độc lập. Lượng lao động trên TTLĐ không tìm thấy hoặc không đáp ứng cung cầu việc làm trên TTVL. Với mối quan hệ này trên TTLĐ thì thừa lượng lao động đang có nhu làm việc còn TTVL số việc làm được tạo ra vẫn còn trống. Giữa TTVl và TTLĐ có tình trạng như vậy có thể là do sự mất cân đối hay chênh lệch về chất lượng lao động trên TTLĐ và yêu cầu của việc làm trên TTVL, Nguyên nhân của tình trạng này là do nguồn nhân lực chưa được đào tạo đúng với ngành nghề. Một nước mà giữa TTVL và TTLĐ có mối quan hệ như trên thì tỷ lệ thất nghiệp là rất lớn, gây khó khăn cho toàn xã hội, nền kinh tế phát triển chậm hoặc không phát triển.
2.TTVL và TTLĐ tương đối đồng nhất.
Nghĩa là giữa TTVL và TTLĐ có sự liwn kết chặt chẽ, có thể xảy ra 2 trường hợp.
TTLĐ lớn hơn TTVL
TTVL lớn hơn TTLĐ
Mặc dù có sự chêch lệch nhau giữa hai thị trường nhưng sự chênh lệch là không đáng kể. Giữa hai thị trường có mối quan hệ nay tức là lực lượng lao động trên TTLĐ đáp ứng hầu như các yêu câù của công việc trên TTVL người lao động được đào tạo đúng với ngành nghề . Có thể nói mối quan hệ này chỉ tồn tại ở những nưóc công nghiệp phát triển với hệ thống giáo dục- đào tạo và hướng nghiệp khá hoàn chỉnh. Một nước giữa TTVL và TTLĐ có mối quan hệ này thì tỷ lệ thất nghiệp là rất nhỏ thì TTLĐ lớn hơn TTVL; và không xảy ra tình trạng thất nghiệp khi TTVL lớn hơn TTLĐ mà lúc đó xảy ra tình trạng dư thừa việc làm.
3. TTVL và TTLĐ có sự tương tác nhưng chưa chặt chẽ.
Đây là mối quan hệ tương đối phổ biến ở các nước đang phát triển khi mà hệ thống giáo dục đào tạo hướng nghiệp còn thấp. Nền kinh tế chưa phát triển số việc làm tạo ra còn thấp.Với mối quan hệ này chỉ một phần lực lượng lao động đáp ứng được một số lượng công việc nhất định, có hiện tượng thừa việc làm và thừa lao động nhưng lượng lao động này lại không đáp ứng được yêu cầu của công việc dẫn đến tình trạng lãng phí nguồn nhân lực xã hội. TYr lệ thất nghiệp của đất nước còn khá cao.
Chương II. phân tích mối quan hệ thị trường việc làm và thị trường lao động ở việt nam
I. Thực trạng thị trường việc làm
Đường lối đổi mới, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã tạo ra nhiều điều kiện thuậ lợi để người lao động có cơ hội tạo việc làm và có việc làm đáp ứng nhu cầu bức xúc về đời sống, góp phần ổn định đời sống tình hình kinh tế xã hội. Giải quyết vấn đề lao động việc làm trong 15 năm đổi mới vừa qua đã có những bước tiên vững chắc, có thể có đánh giá khái quát như sau.
Một là, số việc làm mới được tạo ra ngày càng lớn, theo số liệu báo cáo chính thức của tổng cục thống kê: việc làm đã tăng từ 30,2 triệu trong năm 1990 lên 40,6 triệu trong năm 2000, bình quân mỗi năm tăng thêm 1 triệu.Trong thời gian 5 năm (1996-2000) số người có việc làm tăng từ 34,6 triệu lên 40,6 tăng 6 triệu ( 17,6%) bình quân hằng năm tăng khoảng 3,2%. Năm 2001-2003 tạo ra 4,3 triệu việc làm và năm 2004 tạo thêm 1,59 triệu việc làm. Theo số liệu trên nhận thấy số việc làm ( cung việc làm )được tạo ra trong nền kinh tế quốc dân có xu hướng gia tăng đáp ứng số lao động tăng thêm hàng năm trên TTLĐ.
Với tốc độ phát triển kinh tế của nước ta trong 5 năm qua (2001-2005) luôn giữ ở mức trên 7% đã tạo điều kiện thuận lợi để thu hút lao động vào các ngành kinh tế.Từ đầu năm 2000 đến tháng 9 năm 2003 có 76 601 doanh nghiệp đăng kí với số vốn kinh doanh qui đổi là 9,5 tỷ USD gấp 1,7 lần về số doanh nghiệp và hơn 4 lần về số vốn đăng kí so với giai đoạn 1991 -1999. Năm 2002 tổng số lao động làm việc trong các doanh nghiệp đã lên tới 6 triệu người chiếm 16% tổng số lao động. Trong 4 năm (2001-2004) các hoạt động phát triển kinh tế xã hội từ việc sử dụng các nguồn vốn đầu tư theo các ngành , theo các lĩnh vực đã tạo chỗ việc làm mới cho 4,429 triệu người, trong đó đầu tư nước ngoài tạo việc làm cho 1,977 triệu người ( thông qua các dự án phát triển trọng điểm thu hút 849 000 lao động; đầu tư của Nhà nước vào các khu công nghiệp, khu chế xuất thu hút 233 000 lao động; các doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp thu hút 895 000 lao động), các chương trình phát triển Nông nghiệp- nông thôn tạo việc làm cho 2,077 triệu người, các dự án đầu tư nước ngoài phát triển và mở rộng sản xuất tạo được 245 000 chỗ việc làm mới.
Hai là tỉ lệ thất nghiệp giảm tỉ lệ sử dung thời gian lao động tăng. Trong 4 năm(2001-2004) cả nước tạo việc làm cho 5,9 triệu lao động, hạ tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực nông thôn lên 79%( dự kiến kế hoạch năm 2005 là 80%). quỹ vay vốn quốc gia về việc làm góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ lao động thất nghiệp có việc làm, người thiếu việc làm có việc làm đầy đủ, tăng tỉ lệ sử dụng thời gian lao động nông thôn.Tuy nhiên tỉ lệ thất ngiệp ở thành thị giảm chậm, thời gian lao động ở nông thôn tăng chậm.
Ba là có sự chuyển dịch cơ cấu việc làm giữa ngành công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ. Cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỉ lệ lao động làm việc trong nhóm ngành nông lâm ngư nghiệp tiếp tục giảm từ 62,8% năm 2001 còn 57,9%b năm 2004, trong khi đó tỉ lệ này trong các ngành công nghiệp –xây dựng và thương mạip dịch vụ tăng đáng kể, tương ứng là 17.4% và 24,7%. Trong giai đoạn 1996-2000 khu vưc nông lâm ngư nghiệp đã ổn định việc làm cho 23,5 triệu lao động và thu hút gần 2 triệu lao động mới. Khu vực công nghiệp –xây dựng và dịch vụ thương mại thu hút thêm 2,2triệu lao động. Khu dịch vụ có bước phát triển mạnh tăng thêm 2,3 -2,4 triệu lao động. Mặc dù đã có sự chuyển dịch việc làm giữa nông lâm ngư nghiệp ,công nghiệp – xây dựng và dịch vụ – thương mại nhưng số việc làm ở nông nghiệp vẫn chưa đáp ứng số lao động dư thừa , và việc làm chưa có tính ổn định cao(chủ yếu là việc làm theo thời gian ngắn, tạm thời) tỉ lệ thất nghiệp trá hình còn khá cao.
Bốn là các hình thức của TTVL.
Để giải quyết mối quan hệ cung cầu việc làm, TTVL đã có sự vận động mạnh mẽ với sự ra đời và hoạt động của các hình thức sau
- Các hội chợ việc làm.
Hội chợ việc làm là một hoạt động mới và hữu ích trong việc thông tin TTVL ở nước ta. Việc tổ chức hội chợ việc làm trong thời gian vừa qua được tiến hành khá phong phú và đa dạng với những hoạt động chính là
Hoạt động giới thiệu và quảng cáo về sự phát triển của doanh ngiệp qua băng hình, biểu đồ, tờ rơi
Hoạt động trao đổi trực tiếp bằng hình thức diễn đàn giữa người sử dụng lao động, doanh nghiệp, cơ sở dạy nghề và cơ quan nhà nước với người lao động, học sinh, sinh viên.
Hoạt động phỏng vấn, tuyển lao động trực tiếp tại hội chợ việc làm.
Từ năm 2000 đến nay, cả nước đã tổ chức 20 lần hội chợ việc làm ở các địa phương khác nhau: TP.HCM, TP.Đà Nẵng, TP. Hà Nội , tỉnh Quảng NinhCác hoạt động của hội chợ việc làm bước đầu đã đem lại kết quả đáng khích lệ.
Một là nâng cao nhận thức cho các đối tượng xã hội, đặc biệt của người lao động, người sử dụng lao động và cộng đồng về quỳên và nghĩa vụ của mình về việc làm.
Hai là hội chợ việc làm là nơi cung cấp và trao đổi thông tin về việc làm nghề nghiệp, đào tạo nghề và đem lại các kết quả tích
- Trao đổi và cung cấp thông tin nhiều chiều từ phía người sử dụng lao động , người lao động , cơ sở dạy nghề, trung tâm dịch vụ việc làm và của các cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội.
- Cung cấp các quy định và tư vấn pháp luật về lao động – việc làm và dạy nghề cho người lao động và người sử dụng lao động.
Ba là hội chợ việc làm đã thu hút nhiều đối tượng tham gia, theo số liệu báo cáo của 10 địa phương đã tổ chức hội chợ việc làm năm 2002 có khoảng 722 đơn vị tham gia. Tp.HCM nhiều nhất với 215 đơn vị. Các đơn vị tham gia hội chợ việc làm gồm: các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, các cơ sở dạy nghề. Đối tượng tham gia phần lớn là người lao động phần lớn là người lao động và các sinh viên trường cao đẳng, đại học
Bốn là hoạt động đăng kí và tuyển lao động đã đem lại những kết quả tích cực. Theo số liệu thông kê báo cáo thì số người đến đăng kí tìm việc làm ở mỗi hội chợ là 12.500 ngừơi. Số lao được phỏng vấn ngay tại mối hội chợ bình quân là 7.572 người chiếm 60% số người đến đăng kí tìm kiếm. Và qua hội chợ việc làm các doanh nghiệp và các tổ chức đã tuyển được những người lao động đáp ứng yêu cầu của mình (tìm đúng người đúng việc ).
Ngoài những kết qua đạt được ở trên hội chợ việc làm vẫn còn những hạn chế nhất định.
- Quy mô tổ chức của hội chợ việc làm còn hẹp, chưa phát triển rộng rãi trong phạm vi toàn quốc mà mới chỉ tập trung ở các thành phố lớn của cả nước (Tp.HCM, HN, Đà Nẵng)
- Chưa thu hút hết lực lượng lao động và người sử dụng lao động vào tham gia, việc tiếp xúc trao đổi trực tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao động còn ít.
-Trung tâm dịch vụ việc làm
Trung tâm dịch vụ việc làm đã được hình thành từ những năm 1992 qua quá trình hoạt động từng bước đã được hoàn thiện cả về cơ chế chính sách cả về tổ chức thực hiện. Đến nay đã có khoảng 140 trung tâm dịch vụ việc làm trong cả nước, bao gồm cả các trung tâm thuộc hội phụ nữ, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Hội nông dân, TƯ đoàn. Các trung tâm này hoạt động theo chức năng của pháp luật quy điịnh, đồng thời còn tổ chức dạy nghề và tổ chức sản xuất. Hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm hoạt động từ năm 1992 đến năm 2000 đã tư vấn cho 2 triệu lượt người , dạy nghề gắn với việc làm và bổ túc nghề cho 70 vạn ngưỡi, giới thiệu việc làm và bổ túc nghề cho 70 vạn ngưỡi, giới thiệu việc làm và cung ứng việc làm cho 87 vạn người. Trong giai đoạn 2001-2004 hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm hằn năm đã tư vấn nghề và tư vấn đào tạo cho 20 vạn lượt người, giới thiệu việc làm và cung ứng việc làm cho 8 vạn người, đào tọa ngắn hạn và bổ túc nghề cho 10 vạn người.
Mặc dù đã giải quyết được một số lượng đáng kể viẹc làm cho người lao động nhưng hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm chưa có một cấu trúc tổ chức thành lập rõ ràng, quy mô hoạt độngcủa hệ thông còn hạn chế, nhỏ bé, chưa đảm bảo trng bị vạt chất cần thiết và độ ngũ cán bộ không đồng bộ chỉ mới phục vụ được một tỉ lệ nhỏ số ngừời có nhu cầu việc làm. Các trung tâm còn chưa thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp nên chưa có sự gặp gỡ kịp thời giữa cung cầu lao động trên TTLĐ.
II. Quá trình hình thành thị trường lao động ở Việt Nam.
Một trong những đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế Việt Nam là quá trình biến đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Từng quen với quan niệm coi lao động là một giá trị xã hội và tinh thần cao nhất, sức lao động không phải là hàng hóa đem trao đổi mua bán. Việc hình thành TTLĐ tại Việt Nam không phải là một quá trình dễ dàng. Vì được thừa nhận tương đối muộn hơn, nên TTLĐ hình thành chậm và yếu hơn và trải qua các giai đoạn sau.
1. Giai đoạn trước năm 1986
Cũng như nhiều nước đang phát triển, sự hình thành và phát triển thị trường lao động ở Việt Nam gắn liền với quá trình phân hóa tự nhiên của nền sản xuất nhỏ. Từ những năm 70 và đầu thập kỉ 80, chủ yếu là hình thức thuê muớn lao động theo kiểu thỏa thuận miệng, thời gian ngắn, mang tính tạm thời, và không ổn định. Trước năm 1986TTLĐ công khai chỉ xuất hiện trong khu vực kinh tế, nhà nước và khu vức kinh tế tập thể. Việc sử dụng lao động mang nặng tính kế hoạch hóa tập trung. Về mặt nhận thức, lao động không được coi là một thứ hàng hóa đặc biệt và do vậy không được “mua” và “bán” trên thị trường . Sự chuyển dịch lao lao động động còn ít giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn cũng như trong nước và nước ngoài: Lao động trong khu vực kinh tế Nhà Nước và khu vực kinh tế tập thể được tuyển dụng theo hình thức biên chế. Việc sử dụng lao động theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung một mặt đã dẫn đến Nhà nước phải chi nguồn kinh phí lớn để giải quyết số lao động dôi dư, mặt khác tạo ra tâm lý và ý thức phụ thuộc người lao động trong chờ vào Nhà nước, không tự lo việc cho mình. Trong thời kì này khái niệm thất nghiệp cũng như thị trường lao động chưa được đề cập một cách chính thức về mặt xã hội. Nhìn chung, trước năm 1986 thị trường lao động ở nước ta còn manh mún, phân tách chia cắt.
2. TTLĐ thời kì 1986-1993
Chủ trương chuyển dịch nền kinh tế hàng hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa được khởi thảo với Nghị quyết của đại hội đảng lần thứ VI (1986) cùng với một loạt những cải cách lớn về thể chế và chính sách kinh tế cụ thể như sau:
- Sự sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trong đó khẳng định rõ quyền của mọi công dân trong việc lựa chọn hình thức việc làm hợp lý. Vài trò của Nhà nước tập trung chủ yếu trong quản lý lao động và phát triển hệ thống cơ chế chính sách để phát triển hài hòa các mối quan hệ lao động.
- Phát triển chương trình quốc gia xúc tiến việc làm và các chính sách khung. Nhà nước từ vai trò tạo việc làm trực tiếp như thời kì trước đâysang hộ trợ với tính ưu đãi để khuyến khích tự tạo việc làm.
- Thừa nhận lao động như thứ hàng hóa đặc biệt được trao đổi trên thị trường và tiền lương được xác định trên cơ sở giá trị sức lao động.
- Quy định mức tiền lương tối thiểu(năm 1993) cho các khu vực kinh tế trong nước, từng bước hình thành mạng lưới an toàn xã hội cho người lao động trong điều kiện kinh tế thị thường.
Các cải cách kinh tế và thể chế trên đã tạo điều kiện cho TTLĐ dần dần được hình thành và phát triển. Hình thức việc làm đầy đủ đang mất dần trong thời kì này và thay bằng hệ thống hoạt động kinh tế mới của dân cư, các quan hệ xã hội lao động với sự có mặt của hệ thống việc làm độc lập , sự kinh doanh, lao động làm thuê và thất nghiệp.
3. TTLĐ Việt Nam thời kì 1993 đến nay.
Trong thời kì này, TTLĐ Việt Nam chuyển sang một bước phát triển mới, đặc biệt sự ra đời Bộ luật lao động (1994) đã thể chế hóa các quan niệm về việc làm cũng như các quy định có liên quan đến thị trường lao động, sự can thiệp của chính phủ đối với TTLĐ, nhà nước tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách khuyến khích phát triển kinh tế, tác động đồng bộ đến cung-cầu lao động: hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, an toàn vệ sinh lao động, tiền lương và chế độ trả lương, BHXH, xuất khẩu lao động.. Bộ luật lao động cũng đã cụ thể hóa các quy định của hiến pháp nhà nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 về lao động, quản lý lao động, về mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động về nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia TTLĐ. Bộ luật lao động đã tạo điều kiện thuận lợi về mặt pháp lý cho sự hình thành và phát triển một thị trường lao động thống nhất, linh hoạt trên phạm vị cả nước.
TTLĐ Việt Nam được công nhận chính thức từ khi Bộ luật lao động của nước CHXHCN Việt Nam được thông qua ngày 23/6/1994 và có hiệu lực thực thi hành từ ngày 1/1/1995 Bộ luật lao đông ra đời nhằm điều chỉnh các mối quan hệ lao động, đặc biệt là các quan hệ làm công ăn lương trong các thành phần kinh tế .
III. Thực trạng về TTLĐ ở Việt Nam
Những kết quả đạt được
1.1 Nguồn nhân lực dồi dào
Việt Nam là nước có nguồn lao động dồi dào. Năm 1995 là 41,29 triệu người, năm 1998 là 45,2 triệu người tăng 3,91 triệu người. Năm 2000 là 46,2 triệu người tăng so với năm 1998 là 1 triệu người. Như vậy tính trung bình tốc độ tăng hàng năm là 1,2 triệu người. Có được tốc độ tăng như vậy là do kết quả của tốc độ tăng dân số tương đối cao và ổn định từ những năm trước đó.
Theo số liệu thống kê mỗi năm nước ta có 1,8 triệu người bước vào tuổi lao động và 0,35 triệu người bước ra khỏi độ tuổi lao động. Đây là một tiềm năng, cơ hội lớn để phát triển kinh tế nhưng cũng tạo ra không ít khó khăn và thử thách cho xã hội đặc biệt là vấn đề việc làm.
1.2 Tăng cầu về số lượng và chất lượng
1.2.1 Thị trường lao động trong nước
Tỷ lệ lao động làm công ăn lương trong tổng số lao động có việc làm ngày càng tăng, đặc biệt là các tỉnh, thành phố trọng điểm. Năm 2004, cả nước có 25,6% trong tổng số lao động có việc làm đang làm công ăn lương, tăng 6,6% so với tỷ lệ ở năm 1998 bình quân hàng năm (1998 – 2004) tỷ lệ lao động có việc làm tăng thêm 11%/ năm.
1.2.2 Thị trường lao động ngoài nước
Bên cạnh sự tăng cầu của TTLĐ trong nước, cầu cuả TTLĐ ngoài nước cũng ngày càng gia tăng nừa tăng về số lượng các nước xuất khẩu, vừa tăng về số lượng lao động đi xuất khẩu
Bảng1. Số lao động Việt Nam đến làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng chia theo khu vực và các nước.
2000
2001
2002
2003
I. Châu Âu
2915
5300
29
-
II. Châu á
27793
28898
45548
74095
1. Hàn Quốc
7316
3910
1190
4226
2.Lào
10698
13731
9000
-
3.Nhật Bản
1329
3249
2202
2264
4.Singapore
84
203
-
-
5.Malaysia
-
23
19965
39624
6. Đài Loan
7865
7782
13191
27981
7.Các nước khác
501
-
-
-
III. Châu Phi, Trung Đông
326
700
381
-
IV. Châu Mỹ
-
545
-
-
V. Các nước khác
935
725
164
1605
Tổng cộng
31468
36168
46122
75700
Theo bảng trên năm 2000 tổng số lao động xuất khẩu là 31.468 triệu người, năm 2001 tăng 4.700 người, năm 2003 tổng số xuất khẩu là 75.700 người, gấp 2,4 lần so với năm 2000, trung bình hàng năm thời kỳ 2000 – 2003 tăng 36 %/ năm với quy mô tăng là 14.744 người / năm. Khu vực thị trường lao động được mở rộng nhưng cầu ở khu vực Châu á vẫn chiếm tỷ lệ lớn đặc biệt là Malaysia chiếm 53,47%.
Tình trạng mất cân đối cung cầu trên TTLĐ ngày càng được thu hẹp
Kết quả điều tra lao động – việc làm 1/7/2004 cho thấy lực lượng lao động từ đủ 15 tuổi trở lên ở khu vực thành thị có 5,4 % thất nghiệp; khu vực nông thôn có 1,1% thất nghiệp. so với thời điểm 1/7/2001 tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động nói chung ở khu vực thành thị giảm 0,73%, ở khu vực nông thôn giảm 0,55%.
Tỷ lệ thành thị của lực lượng lao đọng trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thị cũng giảm ở hầu hết các vùng lãnh thổ.
Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động đã qua đào tạo nghề giảm từ 3,54% ở năm 2001 xuống còn 1,8% so với năm 2004.
Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp tăng từ 3,5% ở năm 2001 lên 4,4% ở năm 2004.
Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động tôt nghiệp CĐ, ĐH tăng từ 3,3% ở năm 2001 lên 3,8% ở năm 2004.
1.4 Thu nhập của người lao động làm công ăn lương ngày càng được cải thiện.
Cùng với sự gia tăng về tỷ lệ lao động làm công, ăn lương trong tổng số lao động có việc làm nói chung, thu nhập của lao động tham gia TTLĐ cũng ngày càng được cải thiện và tương quan giữa thất nhiệp với chất lượng lao động ngày càng chặt chẽ theo hướng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật càng cao thì thu nhập từ việc làm cũng càng cao. Theo kết quả điều tra lao động – việc làm 1/4/2004 tính trung cả nước tiền lương bình quân tháng của một lao động làm công ăn lương hưởng là 845.000 đồng, tăng 9% so với năm 2003, gấp 1,4 lần mức thất nghiệp bình quân tháng của một lao động có việc làm nói chung. Thất nghiệp bình quân tháng của một lao động làm công ăn lương tốt nghiệp CĐ,ĐH gấp gần 2 lần lao động chưa qua đào tạo. Như vậy, việc trả công cho người lao động ngày càng đánh giá đúng với trình độ chuyên môn, có vai trò tích cực trong việc khuyến khích người lao động năng cao trình độ của mình.
Có sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo nghành kinh tế và khu vực
Với sự chuyển đổi nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì sự chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các nghành kinh tế là rất quan trọng. Nhìn chung, nước ta sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo nghành và khu vực kinh tế đã có sự chuyển biến tích cực. Tuy lực lượng lao động vẫn chiếm tỷ lệ lớn (>50%) nhưng đã có sự tăng lên của lực lượng lao động trong nghành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ.
Bảng 2. Lao động có việc làm chia theo nhóm ngành
kinh tế 1996 - 2003
số lượng
cơ cấu
năm
năm
1996
2002
2003
1996
2002
2003
Cả nước
33,978
39,29
39,585
100
100
100
Nông-Lâm –Ngư nghiệp
23,431
24,023
25,099
68,96
61,14
58,35
Công nghiệp- xây dựng
3,698
5,912
6,713
10,88
15,05
16,96
Dịch vụ
6,849
9,355
9,773
20,16
23,81
24,69
Theo kết quả điều tra lao động việc làm thì cơ cấu lực lượng lao động trong nông – lâm – ngư – nghiệp năm 2003 là 58,35% giảm so với năm 2001 là 2,79% so với năm 1996 là 7,08%. Trong ngành công nghiệp – xây dựng năm 2003 là 16,96% tăng so với năm 2001 là 1,91% so với năm 1996 là 4,17%. Ngành dịch vụ cũng có sự gia tăng đáng kể năm 2003 là 24,69% tăng so với năm 2003 là 0,87%.
Tuy nhiên sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành và khu vực kinh tế còn chậm chạp. Hàng năm trên 60% số việc làm mới được tạo ra chủ yếu trong khu vực nông nghiêp. Khu công nghiệp – dịch vụ tuy có tốc đọ tăng việc làm cao song cũng chỉ thu hút khoảng trên dưới 30% số việc làm mới hàng năm. Nhìn chung cơ cấu lao động của cả nước chia theo nhóm ngành vẫn luôn chuyển dịch theo hướng tích cực giảm tỷ lệ ở khu vực Nông - Lâm - Ngư Nghiệp tăng ở khu vực Công nghiệp – Xây dựng – Dịch vụ. Điều đó phản ánh xu thế Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế của nước ta.
1.6 Xuất khẩu lao động là một hướng đi cơ bản nhằm giải quyết việc làm cho người lao động.
Trong thập niên 90, chúng ta đã đưa được gần 90.000 người đi làm việc tại khoảng 40 quốc gia và vùng lãnh thổ, thấp hơn nhiều so với 300.000 trong thập kỷ 80. Từ năm 1996 nhiều thị trường cũng có dấu hiệu phục hồi, đồng thời mở thêm được một số thị trường mới. Năm 2003, Việt Nam đã đưa trên 75.000 lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài, bằng 163% năm 2002. Nhiều cơ chế chính sách đã được tháo gỡ tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động vay vốn đi lao động ở nước ngoài. Nâng cao năng lực của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và việc tăng cường công tác tuyên truyền cũng là một trong giải pháp cho sự thành công của xuất khẩu lao động trong thời gian qua. Tuy nhiên chất lượng lao động Việt Nam vẫn còn hạn chế về trình độ chuyên môn, ngoại ngữ và ý thức nên giảm tính hấp dẫn so với nguồn nhân lực của các nước khác: Trung Quốc, Philippin, Indonexia.
Những mặt hạn chế trên TTLĐ
2.1 Chất lượng lao động còn thấp
Thứ nhất về mặt sức khỏe, thể lực người lao động Việt Nam còn kém xa
so với các nước trong khu vực về cân nặng, chiều cao, sức bền
Thứ hai là chất lượng nước ta còn thấp thể hiện rõ qua trình độ văn hóa và cơ cấu trình độ đào tạo của lao động tham gia hoạt động kinh tế.
Bảng 3. Cơ cấu lao động từ 15 tuổi tham gia hoạt động
kinh tế theo trình độ văn hóa(%)
1996
1997
1998
Chưa biết chữ
5,8
5,1
3,8
Chưa tốt nghiệp cấp I
20,9
20,3
18,5
Đã tốt nghiệp cấpI
27,8
28,1
29,4
Đã tốt nghiệp cấp II
32,3
32,4
32,1
Đã tốt nghiệp cấp III
13,5
14,1
16
Qua số liệu bảng trên, tỷ lệ người chưa biết chữ đã giảm, số lao động chưa tốt nghiệp cấp I mặc dù giảm nhưng vẫn còn cao, trong khi cơ cấu lao động theo trình độ cấp I, II, và III chuyển biến chậm, cơ cấu theo trình độ chuyên môn chưa đáp ứng yêu cầu kinh tế phát triển. Đại bộ phận lực lượng lao động nước ta không có chuyên môn, nghiệp vụ tập chung chủ yếu ở nông thôn. Số lượng công nhân được đào tạo nghề giảm sút nghiêm trọng, chỉ có 42% đội ngũ công nhân được qua đào tạo, số công nhân không có tay nghề hoặc thợ bậc thấp chiếm gần 56% và khoảng 20% lao động không có chuyên môn.
Quy mô và mức độ tham gia TTLĐ còn thấp.
ở Việt Nam, hiện nay TTLĐ chủ yếu tập chung ở khu vực đô thị lớn như: TP Hồ Chí Minh, Thủ đô Hà Nội, các trung tâm công nghiệp mới.
Điều tra mức sống dân cư Việt Nam của tổng cục thống kê gần đây cho thấy có 21,45% lao động so với tổng số lao động trong tuổi của khu vực nông thôn làm công ăn lương, trong đó làm công ăn lương chuyên nghiệp là 4,29%. Con số này ở thành thị là 42,81% và 32,75%. Lao động làm công ăn lương ở nước ta từ ba tháng trở lên trên năm nhìn chung còn chiếm tỷ lệ nhỏ (17% trong tổng số lực lượng lao động xã hội, trong khi đó ở các nước có nền kinh tế phát triển tỷ lệ này thường chiếm từ 60%đến 80%). Hầu hết các lao động ở nông thôn đều là lao động tự do.
Hệ thống tiền lương còn kém linh hoạt.
Tiền lương trong khu vực công còn chậm được điều chỉnh, kém linh hoạt, làm hạn chế sự vận động của TTLĐ. Tiền lương trong khu vực trứơc tiên bị ảnh hưởng của mức tiền lương tối thiểu. Tiền lương tối thiểu chậm được diều chỉnh, đã hạn chế tính linh hoạt của TTLĐ, Ngoài ra đặc biệt tiền lương ở khu vức công còn chưa thực sự gắn vớiquan hệ cung cầu lao động, do việc sử dụng còn káh cứng nhắc hệ thống bảng lương quy định của Nhà nước, bị sư cứng giảm khu vực điều tiết của TTLĐ.
Một sự hạn chế nữa đó là sự can thiệp của Nhà nước trong công tác tiền lương của doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn rất lớn như việc giao đơn giá tiền lương hàng năm cho các doanh nghiệp, xác định mức giá trần, khống chế mức tiền lương bình quân. Điều đó tạo ra sự biến tướng tiền lương tối thiểu dưới nhiều dạng khác nhau nhằm hợp lí hóa thu nhập dẫn đến tỉ lệ phần mềm trong tiền lương của nhiều đơn vị còn quá lớn.
IV. Mối quan hệ giữa TTVL và TTLĐ ở Việt Nam.
Qua phân tích thực trạng của TTVL và TTLĐ ở nước ta như trên cho thấy giữa TTVl vàTTLĐ có mối quan hệ qua lại lẫn nhau.TTVL đã hình thành và phát triển giúp giải quyết lượng khá lớn lực lượng lao động. Hàng năm đã tạo ra gần một nghing chỗ làm việc cho nền kinh tế quốc dân.với sự phát triển mạnh mẽ của các loại hình kinh tế đặc biệt là các loại hình doang nghiệp ngoài quốc doanh và kinh tế hộ gia đình đã tạo ra nhiều việc làm mới tù việc làm mang tích chất giản đơn đến phức tạp phù hợp với trinhg độ chuyên môn của lực nlượng lao động. Tuy nhiên, số việc làm moéi được tạo ra vẫn chưa đắpngs đầy đủ cho lực lượng lao động dồi dào. Hàng năm số người chưa có việc làm vẫn còn khá cao, tỷ lệ thất nghiệp luôn dao động từ 5 – 7%.
Bảng 4: Lao động có việc làm và chưa có việc làm cả nước
năm 1996- 2003
lưc lượng lao động
lao động có viêc làm
lao động chưa có việ làm
1996
35,87
33,978
1,892
2002
40,717
38,878
1,839
2003
41,313
39,585
1,728
Dựa vào bảng ta thấy số lao động có việc làm qua các năm 1996-2003 luôn tăng lên năm2002 tăng so với năm 1996 là 4,9 triệu người năm 2003 tăng so với năm2002 là 0,707 triệu người. Số lao động chưa có việc làm giảm qua các năm nhưng vẫn còn tương đối cao.Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị vẫn cón khá lớn đặc biệt tỷ lệ thất nghiệp ttrá hình cao mà phần lớn là ở nông thôn và những người nông thôn ra thành thị tìm việc làm.Đó chỉ là những công việc tạm thời, bán thời gian. Nước ta tỷ lệ thất nghiệp còn cao là do lực lượng lao động trên TTLĐ được đào tạo còn thấp chưa đáp ứng yêu cầu việc làm trên TTVL. Trong số lao động có trình độ chuyên môn được đào tạo vẫn còn chưa phù hợp với ngành, nghề, công việc, sinh viên ra trường thường làm việc trái ngành, nghề đào tạo.
Hiện nay, mối quan hệ giữa TTVL và TTLĐ đã chặt chẽ hơn. Giữa hai thị trường đã có sự liên kết thông qua nhiều hình thức khác nhau trong đó quan trọng nhất là hệ thống thông tin đã phát triển, giúp người lao động trên TTLĐ có đầy đủ thông tin về việc làm trên TTVL, ngược lại TTVL cũng đã bắt kịp diễn biến về TTLĐ từ đó có các biện pháp để tạo việc làm đáp ứng yêu cầu của xã hội.
V. Nguyên nhân thực trạng của TTVL và TTLĐ ở Việt Nam
Những kết quả và hạn chế trên TTVL và TTLĐ ở nước ta là do một số nguyên nhân sau:
Một là chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước về đổi mới trong lĩnh vực lao động và việc làm. Thực chất đó là thay đổi về đổi mới trong lĩnh vực lao động và việc làm phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều chủ yếu của sự đổi mới tư duy trong lĩnh vực lao động và việc làm là bằng mọi giải pháp giải phóng sức sản xuất, giải phóng và phát huy mọi tiềm năng sức lao động, khơi dậy tiềm năng của mỗi người và của cả cộng động dân tộc, coi trọng giá trị lao động, mở rộng co hội cho mọi người cùng phát triển, đã thay đổi căn bản tư tưởng bao cấp và cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây để chuyển sang nhận thức, quan niệm mới về lao động và việc làm.
Hai là các chính sách cơ chế phù hợp, tạo môi trường nguồn nhân lực. Nhà nước tạo ra hành lang pháp lý và điều kiện kinh tế kĩ thuật để có môi trường đầu tư lành mạnh của toàn xã hội, khuyến khích mọi người đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh tạo việc làm cho mình và thu hút lao động xã hội. Người lao động được tự do hành nghề, tự do liên doanh liên kết, tự do thuê mướn lao động theo pháp luật và sự hướng dẫn của Nhà nước đã giúp cho TTVL và TTLĐ phát triển và có mối quan hệ chặt chẽ hơn.
Ba là người lao động đã năng động và chủ động tự tạo việc làm cho mình và cho toàn xã hội, không thụ động trông chờ vào sự bố trí của Nhà nước, đặc biệt là hinh thức kinh tế hộ gia điình phát truển giải quyết việc làm
cho lao động dư thừa mà chủ yếu là ở nông thôn.Người lao động đã tích cực tham gia cac chương trình đào tạo để nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn. Người sử dụng lao động được khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ tạo việc làm tạo nhiều việc làm đã tạo nhiều việc làm cho TTVL và giải quyết cung lao động dồi dào trên TTLĐ từ đó tăng thu nhập nâng cao chất lượng cuộc sống.
Bốn là công tác giáo dục đào tạo nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong bối cảnh đổi mới, đẩy mạnh CNH-HĐH và hội nhập.
Lực lượng lao động đã qua đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của TTLĐ, khả năng cạnh tranh yếu đặc biệt là TTLĐ có chất lượng cao. Theo số liệu thống kê điều tra lao động-việc làm 1/7/2004 nước ta có tỉ lệ đã qua đào tạo nói chung của lực lượng lao động cả nước là 22,5 %, tốt nghiệp THCN là 4,4%, tốt nghiệp CĐ, ĐH trở lên là 4,8%.
- Hệ thống định hướng nghề nghiệp đào tạo và đào tạo lại phối hợp không ăn khớp với công việc cần làm dẫn đến sự mật cân đối trên TTVL và TTLĐ nói cách khác ngườ lao động không đáp ứng yêu cầu công việc dẫn tới tình trạng thừa việc làm thiếu lao động.
- Cơ sở hạ tầng giáo dục đào tạo còn hạn chế, chủ yếu là lý thuyết, thực hành còn ít hoặc có thực hành thì chỉ trên thiết bị lạc hậu dẫn đến chất lượng lao động kém
.Năm là quỹ quốc gia giải quyết viêc làm hình thành từ năm 1992-2000 có khoảng 2.000 tỉ đồng hỗ trợ cho người thất nghiệp, thiếu việc làm nhưng vẫn hoạt động chưa có hiệu quả.
Những bất cập trong chính sách lao động và việc làm hiện nay còn nhiều bất hợp lý, chính sách còn thiếu đồng bộ, việc soạn thảo chiến lược đổi mới công nghệ không đầy đủ và sự chậm chạp dịch chuyển cấu trúc ngành kinh tế dẫn đến sự mất cân đối nghiêm trọng cấu trúc việc làm ở Việt Nam. Nhiều ngành (công nghiệp rừng, đánh bắt thủy sản, du lịch, dịch vụ) có nhiều tiềm năng rất lớn trong việc tạo việc làm mới nhưng thiếu vốn, cơ sở hạ tầng, kĩ thuật và công nghệ lạc hậu
Hệ thống thông tin trên TTVL và TTLĐ vẫn chưa phát triển nên hạn chế việc trao đổi, gặp gỡ giữa người lao động và người sử dụng lao động, giữa người lao động và các tổ chức, doang nghiệp, cơ sở.
Chương III Những giải pháp khắc phục và phảt triển TTVL và TTLĐ ở Việt Nam
Giải quyết việc làm là nhiệm vụ cấp bạch và lâu dài là một trong những chính sánh xã hội cơ bản, là xu hướng ưu tiên trong toàn bộ chính sách kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, phải thấy sức ép về lao động việc làm vẫn vô cùng gay gắt, đòi hỏi về nhu cầu việc làm rất lớn. Vì vậy cần có một số giải pháp chủ yếu sau.
I. Mục tiêu kế hoạch 5 năm 2006 – 2010.
Tốc độ tăng trưởng việc làm trong kế hoạnh 2006 – 2010 là 14%
ước số lượng lao động làm việc trong nền kinh tế quốc dân là 44 triệu người thì số lao động được giải quyết việc làm trong 5 năm 2006 – 2010 là 6,2 triệu người, cộng với các giải pháp khác giải quyết việc làm cho 1,8 triệu người, tổng số lao động được giải quyết việc làm trong 5 năm 2006 – 2010 là 8 triệu người, nâng cao thời gian sử dụng lao động ở khu vực nông thôn lên 82% vào cuối năm 2010. Giảm tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị xuống dưới 5% vào năm 2010. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động ngành Nông – Lâm – Ngư Nghiệp xuống 50%, các ngành phi nông nghiệp là 50%.
II. Các giải pháp chủ yếu.
Thứ nhất: nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nâng cao chất lượng và thay đổi cơ cấu dạy nghề theo yêu cầu của thị trường lao động, phát triển mạnh giáo dục tiểu học, THCS và THPT ở các miền, vùng của đất nước nhất là vùng núi, trung du và hải đảo. Thực hiện tốt việc quy hoạch mạng lưới các trường ĐH, CĐ, các trường dạy nghề theo hướng xã hội hóa, đa dạng hóa hình thức đào tạo, linh hoạt, năng động và thiết thực kết hợp dạy nghề chính quy và không chính quy giữa cơ sở dạy nghề nhà nước với doanh nghiệp tư nhân có chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở dạy nghề trong các doanh nghiệp, ưu tiên tăng tỷ trọng đầu tư cho việc đào tạo nguồn nhân lực ở nông thôn để cải tạo cơ cấu nguồn nhân lực đã qua đào tạo. Nhanh chóng đổi mới cơ cấu kiến thức, trang bị các kiến thức cần thiết của CNH, nền kinh tế thị trường, kinh tế tri thức nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo. Từng bước gắn đào tạo với sử dụng, thực hiện xã hội hóa công tác đào tạo. Coi trọng việc nâng cao chất lượng chương trình đào tạo, phương pháp, điều kiện về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên đạt trình độ khu vực và tiến dần đến trình độ quốc tế để nguồn nhân lực Việt Nam có thể tham gia một cách có hiệu quả vào thị trường lao động thế giới.
Thứ hai: Tập chung nguồn lực và sự chỉ đạo của TW, sự nỗ lực của các nghành các địa phương thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế – xã hội trong thời gian tới. Tổ chức triển khai có hiệu quả một số chương trình trọng điểm có khả năng tạo nhiều việc làm mới như chương trình phát triển Nông nghiệp – Nông thôn, phân bố xây dựng dân cư, xây dựng các vùng kinh tế mới, phát triển nuôi trồng đánh bắt chế biến thủy hải sản, chương trình phát triển Công nghiệp – Dịnh vụ du lịch, chương trình mở rộng, phát triển nang nghề, xã nghề, hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa tạo ra nhiều chỗ làm việc giải quyết việc làm cho người lao động.
Thứ ba: Hoàn thiện cơ chế chính sách theo hướng giải phóng sức sản xuất, giải phóng sức lao động, khuyến khích mọi người đầu tư phát triển sản xuất tạo việc làm. Hoàn thiện các cơ sở tạo động lực phát triển sản xuất như khuyến khích đầu tư nước ngoài thông qua luật đầu tư nước ngoài với cơ chế thông thoáng, nhanh gọn, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển nguồn nhân lực và dạy nghề tạo điều kiện cho mọi người học tập thường xuyên suốt đời , đổi mới chính sách di dân và phát triển vùng kinh tế mới, khai thác tiềm năng các vùng đất nước, đảm bảo phát triển thị trường lao động thông thoáng, không bị chia cắt về mặt hành chính, cạnh tranh lành mạnh , nhiều người có việc làm. Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, thự hiện bảo hiểm thất nghiệp để hỗ trợ người mất việc làm có điều kiệnổn điịnh đời sống, đào tạo lại giúp họ sớm trở lại thị trường lao động. Cần tổ chức thục hiện tốt chủ trương xã hội hóa giải quyết việc làm, huy động tổng hợp các nguồn lực trong nước tại chỗ và sự trợ giúp quốc tế để giải quyết vấn đề lao động – việc làm.
Thứ tư: Nâng cao hiệu quả thực hiện các chương trình giải quyết việc làm bằng cách xây dựng hệ thống hưỡng dẫn, giám sát, kiểm tra điều chỉnh chặt chẽ từ TW đến địa phương. Cần nâng cao vai trò của các cấp chính quyền địa phương trong giải quyết việc làm bao gồm trách nhiệm về đóng góp tài chính, hưỡng dẫn thực hiện, hưỡng dẫn kĩ thuật, giám sát và đánh giá. Không nên thực hiện chương trình giải quyết việc làm một cách dàn trải, nên ưu tiên cho các vùng, miền có điều kiện phát triển.
Thứ năm: Tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp luật cho nó vận hành trong nền kinh tế thị trường là hết sức cần thiết. Cụ thể là hoàn thiện khung khổ pháp luật về tiền công, tiền lương, các chế độ đối với người lao động ( khi chuyển việc, thôi việc, điều kiện lao động) Đặc biệt là công tác tiền lương, nên giảm sự can thiệp của nhà nước trong công tác tiền lương nhất là với các doanh nghiệp nhà nước. Cần hoàn chỉnh chế độ tiền lương theo hướng thị trường, tiến tới thống nhất chính sách tiền lương cho mọi loại hình doanh nghiệp. Nhà nước không cần ban hành thang bẳng lương như hiện nay ma hướng dẫn để doanh nghiệp tự xây dựng và trả lương cho người lao động, không nên duyệt đơn giá tiền lương và khống chế mức tiền lương bình quân. Cần có chế độ ưu đãi khác đối với người lao động lao động làm công việc nặng nhọc, độc hại.
Thứ sáu: sắp xếp , chấn chỉnh hệ thống Trung tâm dịch vụ việc làm trước mắt là thông qua quy hoạnh mạng lưới các Trung tâm dịch vụ việc làm trong cả nước và nâng cao chất lượng của các Trung tâm dịch vụ việc làm như: cung cấp thông tin cho nhà lao động trình độ quản lý đào tạo việc làm
Phát triển hệ thống thông tin lao động và việc làm qua việc tổ chức hội chợ việc làm hằng năm ở các thành phố đảm bảo mục đích rõ ràng.
Tăng cường nhận thức các cấp các nghành, các tổ chức và cá
nhân về lao động việc làm và dạy nghề.
Cung cấp thông tin đấy đủ về lao động việc làm, dạy nghề cho
người lao động người sử dụng lao động, các cơ quan, tổ chức, cơ sở dạy nghề, các trường ĐH, CĐ, trung học chuyên nghiệp.
- Tạo điều kiện cho người lao động tiếp xúc, trao đổi trực tiếp với người sử dụng lao động và các cơ quan tổ chức về nhu cầu tuyển dụng lao động, giúp người lao động tìm được việc làm thông qua hội chơ việc làm.
- Giúp cho cơ quan quản lý nhà nước hoạch định chính sách, xây dựng kế hoạch và đưa ra các biện pháp thích hợp về lao động việc làm và dạy nghề trong từng thời kỳ.
Thứ bẩy: Chú trọng về công tác xuất khẩu lao động, trước tiên cần phải tạo được nhận thức đúng đắn trong các cấp và toàn xã hội về xuất khẩu lao động. Nâng cao chất lượng nghề của lao động đi xuất khẩu đào tạo ngoại ngữ, giáo dục văn hóa, pháp luật, phong tục tập quán của nước mà lao động xễ đến. Tạo ra tính liên thông giữa thị trường lao động trong nước với thị trường lao động ngoài nước, như cung cầu, giá cả sức lao động. Coi trọng việc mở cửa từng thị trường sức lao động để người lao động Việt Nam tiếp cận dần với trình độ chuyên môn, kĩ năng, kĩ xảo, và ý thức tổ chức kỉ luật của các nước công nghiệp.
kết luận
Chuyển sang nền kinh tế thị trườnh sự quản lý của Nhà nước theođịnh hưỡng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã xác định sự cần thiết của việc thiết lập và nâng cao hiệu quả lao động việc làm. Những năm gând đay được sự quan tâm và đầu tư của Nhà nước, các cấp, các ngành công tác lao động việc làm đã có những kết quả nhất định. TTVL và TTLĐ trong nước đang phát triển vừa có những đòi hỏi khắt khe đối với người lao động. Nếu không tự đào tạo và đào tạo lại tự nâng cao về trình độ, pháp luật lao động, kỉ luật lao động, thì người lao động khó khẳng định mình trong TTVL. Giải quyết việc làm và phát triển TTLD không phải là công việc của một Bộ, ngành nó chỉ đem lại hiệu quả khi những chính sách ngân quỹ, hệ thống giáo dục đào tạo hoạt động có hiệu quả. Toàn xã hội và cộng đồng phải cùng nhau tham gia giải quyết việc làm.
.
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình kinh tế lao động
PGS. TS nhà giáo ưu tú Phạm Đức Thành
PGS. Mai Quốc Chánh
Thị trường lao động Việt Nam định hướng và phát triển
Thạc sỹ Nguyễn Thị Lan Hương
Tạp chí lao động xã hội
Tạp chí thị trường lao động
Tạp chí kinh tế phát triển
Tạp chí ngiên cứu kinh tế
Niên giám thống kê lao động việc làm 1999- 2004
Mục lục
Lời mở đầu1
Chương I2
I. việc làm 2
1. Những khái niệm về việc làm 2
2.Hàng hóa việc làm 2
3.Phân loại việc làm 3
4.Tiêu chuẩn đánh giá việc làm 3
II. Thị trường việc làm. 3
Khái niệm về thị trường việc làm 3
Các yếu tố của TTVL và nhân tố tác động 4
Vai trò của TTVL 4
III. Thị trường lao động 5
Khái niệm TTLĐ 5
Các yếu tố của TTLĐ và nhân tố tác động 5
Những đặc trưng chủ yếu của TTLĐ 7
Các dạng TTLĐ 8
IV. Mối quan hệ giữa TTVL và TTLĐ. 9
TTVL và TTLĐ không tương tác lẫn nhau 9
TTVL và TTLĐ tương đối đồng nhất 10
TTVL và TTLĐ đã có sự tương tac nhưng chưa chặt chẽ 10
ChươngII. Thị trường lao động và thị trường việc làm
ở Việt Nam 12
I. Thực trạng TTVL ở Việt Nam 12
II. Quá trình hình thành TTLĐ ở Việt Nam 15
1.Trước năm 1986 16
2. Từ năm 1986 đến năm 1993 16
3. Từ năm 1993 đén nay 17
III. Thực trạng TTLĐ ở Việt Nam 18
Những bước phát triển 18
Những mặt hạn chế 21
IV Mối quan hệ giữa TTVL và TTLD ở Viêt Nam 23
V. Nguyên nhân của thực trạng trên 24
Chương III. Những giải pháp khắc phục về TTVL và TTLĐ ở Việt Nam 27
Mục tiêu kế hoạch 5 năm 2006- 2010 27
Các giải pháp chủ yếu 28
Kết luận.......31
danh mục tài liệu tham khảo....32
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0604.doc