Thực trạng và phương hướng xuất khẩu gạo của Việt Nam vào khu vực mậu dịch tự do Asean

Lời mở đầu Trong điều kiện hiện nay, hoạt động giao tiếp giữa các quốc gia trên thế giới trong lĩnh vực kinh tế thương mại ngày càng phát triển mở rộng và mang tính khu vực hóa và toàn cầu hóa một cách mạnh mẽ, đặc biệt là sự hình thành, tồn tại và phát triển của các liên kết kinh tế thương mại trong phạm vi khu vực, tiểu khu vực và của các công ty xuyên quốc gia trong các thập kỉ qua đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lịch sử phát triển các quan hệ kinh tế thương mại quốc tế. Tình hình này làm cho các quốc gia không thể chỉ bó hẹp hoạt động kinh tế thương mại trong phạm vi quốc gia mà phải tham gia vào các hoạt động kinh tế thương mại trong khu vực hoặc toàn cầu nhằm tận dụng lợi thế so sánh của mình. Trong xu hướng toàn cầu hóa, ngày 8/8/1967, ngoại trưởng của 5 quốc gia Đông Nam Á là Malaisia, Indonesia, Thái Lan, Philippin và Singapore đã ra tuyên bố thành lập Asean. Ngày 28/7/1995, Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á tại hội nghị các bộ trưởng Ngoại giao Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á lần thứ 28 tại Brunây mở ra triển vọng mới cho xuất khẩu của Việt Nam vào khu vực mậu dịch tự do Asean (Afta). Nhìn chung, cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam tương đồng với cơ cấu hàng xuất khẩu của các nước ASEAN khác như Thái lan, Philíppin . với thế mạnh là hàng nông sản. Nhìn vào cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN năm 2006, có thể thấy hai mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch và tỷ trọng lớn nhất là dầu thô (thường chiếm tỷ trọng xung quanh mức 40% - năm 2005 lên tới trên 46,6%), sau đó là gạo (chiếm tỷ trọng trên 10%). Gạo là nguồn lương thực chính của hơn một nửa dân số thế giới, trong đó có hơn 2 tỷ người châu Á. Các nước nhập khẩu gạo lớn trong ASEAN như Inđônêxia, Philipin, Malaixia đều coi gạo là mặt hàng đặc biệt quan trọng và thực hiện nhiều biện pháp phi quan thuế để quản lý mặt hàng này. Hàng năm, các nước ASEAN sản xuất được 9.800 triệu tấn gạo, chiếm 42% tổng số gạo của thế giới và mỗi công dân ASEAN tiêu thụ trung bình 150-200 kg gạo/năm. Các nước trong khu vực Asean đều để mặt hàng gạo trong danh mục hàng nhạy cảm (SL), và việc nhập khẩu thường do cơ quan nhà nước quyết định dựa trên sản lượng sản xuất trong nước. 40 năm thành lập Asean cùng với tiềm năng to lớn về sản xuất và xuất khẩu gạo của một nước nông nghiệp trong một thời gian dài như Việt Nam, bản đề án sẽ trình bày một số khái niệm cơ bản, tác động và những biện pháp được sử dụng trong buôn bán quốc tế, về khu vực mậu dịch tự do Asean và xuất khẩu gạo của Việt Nam vào khu vực thương mại quan trọng này. Nội dung của đề án gồm những phần cơ bản như sau: Chương I: Lí thuyết chung về thương mại quốc tế và các hàng rào thuế quan 1.1 Thương mại quốc tế và lợi ích của thương mại quốc tế: 1.1.1 Các khái niệm về thương mại quốc tế, đặc trưng và đối tượng nghiên cứu 1.1.2 Lợi ích của thương mại quốc tế. Vai trò của thương mại quốc tế và phát triển kinh tế. 1.2 Các hàng rào thương mại 1.2.1 Thuế quan và vai trò của thuế quan: 1.2.2 Các hàng rào thương mại phi thuế quan: Chương II: Khu vực mậu dịch tự do Asean (Afta) 2.1 Khái quát về Khu vực mậu dịch tự do Asean 2.1.1 Giới thiệu về Afta: 2.1.2 Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung Cept: 2.2 Quá trình tham gia và lịch trình giảm thuế của Việt Nam 2.2.1 Những yêu cầu chung của Cept –Afta đối với Việt Nam 2.2.2 Những qui định của Cept –Afta đối với hàng nông nghiệp Việt Nam 2.2.3 Thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi tham gia vào khu vực mậu dịch tự do Asean Chương III: Thực trạng và phương hướng xuất khẩu gạo của Việt Nam vào khu vực mậu dịch tự do Asean: 3.1. Đặc điểm thị trường gạo ASEAN 3.2 Tình hình xuất khẩu gạo Việt Nam vào khu vực Asean: 3.3 Phương hướng đẩy mạnh xuất khẩu gạo Việt Nam

docx35 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1951 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và phương hướng xuất khẩu gạo của Việt Nam vào khu vực mậu dịch tự do Asean, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uốc gia hay vùng lãnh thổ. Thuế quan xuất khẩu có thể đánh vào thành phẩm hay đầu vào xuất khẩu (Nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm). Thuế quan xuất khẩu có vai trò: Bảo vệ nguồn tài nguyên khan hiếm trong nước, bảo vệ môi trường sống. Hướng dẫn đầu tư sản xuất và xuất khẩu Điều tiết giá cả hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu nhằm hạn chế tiêu cực do cạnh tranh bán của các doanh nghiệp xuất khẩu. Bảo vệ lợi ích của người sản xuất trong nước. Tăng thu cho ngân sách Nhà nước Thuế quan nhập khẩu và vai trò của thuế quan nhập khẩu Thuế quan nhập khẩu đánh vào các hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu vào một quốc gia hay vùng lãnh thổ. Thuế quan nhập khẩu có thể đánh vào thành phẩm hoặc đầu vào nhập khẩu (Nguyên vật liệu và bán thành phẩm). Thuế quan nhập khẩu có vai trò: Bảo hộ sản xuất trong nước Hướng dẫn tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân Tăng thu cho ngân sách Nhà nước Kích thích đầu tư sản xuất trong nước, đặc biệt là sản xuất thay thế nhập khẩu Công cụ gia tăng sức mạnh thương lượng với các đối tác. Các loại thuế quan khác và vai trò của chúng: Thuế quan chống bán phá giá: Thuế chống bán phá giá được áp đặt vào những hàng hóa nhập khẩu được xác định là bán phá giá hoặc sẽ bán phá giá. Một hàng hóa sẽ bị coi là bán phá giá nếu bán “thấp hơn giá trị thông thường của hàng hóa đó”. Thấp hơn giá trị thông thường có nghĩa là giá của hàng hóa nhập khẩu (giá mua hoặc giá bán của nhà xuất khẩu) thấp hơn giá bán của hàng hóa đó ở nước xuất xứ hoặc thấp hơn giá thành sản xuất. Thuế quan chống bán phá giá sẽ được áp đặt lên hàng hóa nhập khẩu khi có đơn kiện và điều tra của cơ quan chính phủ nước nhập khẩu kết luận là có bán phá giá. Thuế quan đối kháng: Thuế quan đối kháng là loại thuế được áp dụng nếu hàng hóa nhập khẩu bị xác định là đã được chính phủ của nước xuất khẩu trợ cấp trái với qui định của WTO. Thuế quan đối kháng qui định một khoản bồi thường dưới dạng thuế nhập khẩu phụ thu để bù vào phần trợ giá của hàng hóa nước ngoài nhập khẩu mà việc bán hàng hóa đó ở nước nhập khẩu gây thiệt hại cho nhà sản xuất hàng hóa giống hoặc tương tự hàng hóa nhập khẩu. Trong hầu hết các trường hợp, phần trợ giá hàng nhập khẩu phải bù lại do chính phủ nước ngoài trả. Thuế quan hạn ngạch: Thuế quan hạn ngạch là thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu vượt hạn ngạch vào một quốc gia hay vùng lãnh thổ. Số lượng hàng hóa trong hạn ngạch nhập khẩu được hưởng thuế quan thấp, ngoài hạn ngạch càng cao thuế càng cao. Thông thường, thuế quan hạn ngạch được thực hiện theo thuế tuyệt đối và khi đó thuế hàng hóa nhập khẩu vượt hạn ngạch sẽ trở thành thuế quan hỗn hợp. Phần thuế quan tuyệt đối nếu tính theo giá trị hàng hóa sẽ rất cao. Một số quốc gia và vùng lãnh thổ sử dụng thuế quan hạn ngạch như một hàng rào thương mại kĩ thuật hiệu quả để ngăn cản hàng hóa nhập khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước và tăng tính cạnh tranh cho những hàng hóa sản xuất có chi phí cao trong cùng một liên kết kinh tế. Thuế quan ưu đãi: Thuế quan ưu đãi là thuế quan giành cho hàng hóa nhập khẩu từ một số quốc gia hoặc vùng lãnh thổ. Thuế quan ưu đãi thấp hơn cả thuế quan MFN. Vai trò của thuế quan ưu đãi trước hết là khuyến khích các quốc gia tham gia các liên kết kinh tế quốc tế ở cấp độ cao, thúc đẩy các quốc gia đàm phán và kí kết các hiệp định thương mại song phương, từ đó thúc đẩy thương mại quốc tế và đầu tư. 1.2.2 Các hàng rào thương mại phi thuế quan: Các hàng rào định lượng Cấm nhập khẩu: Là hàng rào phi thuế quan được áp đặt lên một số hàng hóa, dịch vụ nhất định trong một khoảng thời gian xác định. Cấm nhập khẩu thường áp đặt chủ yếu cho hàng hóa ảnh hưởng đến an ninh, quốc phòng, các chất độc hại, sản phẩm văn hóa gây tác hại cho đạo đức, xã hội. Tuy nhiên đối với một số nước đang phát triển, để bảo hộ cho một số ngành công nghiệp trong nước, nhất là những ngành công nghiệp non trẻ, hàng rào thương mại quốc tế cấm nhập khẩu vẫn dùng khá phổ biển. Vai trò của hàng rào cấm nhập khẩu là để bảo hộ, tạo điều kiện cho các ngành sản xuất trong nước phát triển, hướng dẫn tiêu dùng, bảo vệ lợi ích quốc gia và lơị ích của cộng đồng dân cư trong nước nhập khẩu. Hàng rào cấm nhập khẩu cần phải sử dụng kết hợp với công cụ chính sách khác, kể cả chính sách thương mại nội địa mới có thể phát huy vai trò kích thích sản xuất trong nước phát triển. Nếu không, hàng rào cấm nhập khẩu sẽ có tác dụng ngược lại tạo ra độc quyền, lãng phí nguồn lực xã hội và làm giảm năng lực cạnh tranh của các sản phẩm sản xuất trong nước. Tác động kinh tế của cấm nhập khẩu đối với các nước xuất khẩu là hàng hóa, dịch vụ không thâm nhập được vào thị trường, sản lượng sẽ giảm và ảnh hưởng đến việc làm. Người tiêu dùng ở nước nhập khẩu sẽ bị thiệt hại do phải cắt giảm tiêu dùng và chịu giá cả cao hơn. Người sản xuất sẽ đẩy sản lượng lớn đến điểm cân bằng nội địa và được hưởng lợi do tăng sản lượng và giá cả cao hơn. Thiệt hại của người tiêu dùng một phần thuộc về người sản xuất và một phần là thiệt hại ròng của xã hội do nguồn lực bị sử dụng không hiệu quả để sản xuất ra hàng hóa thay thế nhập khẩu. Hạn ngạch nhập khẩu (Import quota) Hạn ngạch nhập khẩu là lượng hàng hóa được phép nhập khẩu vào một quốc gia hay vùng lãnh thổ trong một thời kì nhất định. Hạn ngạch nhập khẩu là hàng rào thương mại phi thuế quan đơn giản nhất. Cơ chế tác động của hạn ngạch cũng có thể so sánh với tác động của thuế quan. Hạn ngạch tác động về mặt lượng còn thuế quan tác động thông qua giá Cấp phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu Cấp phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu là hàng rào định lượng do chính phủ sử dụng đối với một số hàng hóa khi xuất hoặc nhập khẩu vào một thị trường xác định. Có thể áp đặt cho các doanh nghiệp xuất hoặc nhập khẩu. Cấp phép có thể theo thời kì hoặc cho từng số lượng hàng hóa nhất định. Cấp phép xuất hoặc nhập khẩu có thể tự động hoặc không tùy vào điều kiện thương mại cụ thể giữa hai quốc gia. Mục đích là quản lí những mặt hàng ảnh hưởng đến an ninh, quốc phòng, bảo vệ tài nguyên... Hạn chế xuất khẩu tự nguyện Là hàng rào phi thuế quan mà các quốc gia xuất khẩu thỏa thuận hạn chế xuất khẩu một số loại hàng hóa cụ thể sang một số thị trường cụ thể. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện có thể là chính thức hoặc không chính thức. Hạn ngạch của hạn chế xuất khẩu tự nguyện không nghiêm ngặt, mang tính linh hoạt. Tùy sự biến động của cung cầu về hàng hóa trên thị trường cụ thể, các thành viên tham gia hạn chế xuất khẩu tự nguyện có thể thắt chặt hay nới lỏng hạn ngạch. Tác động kinh tế của hạn chế xuất khẩu tự nguyện cũng tương tự như hạn ngạch nhập khẩu nhưng có ba sự khác biệt lớn là tiến thuê hạn ngạch do hạn chế xuất khẩu tự nguyện hoàn toàn thuộc về dân cư của nước xuất khẩu. Có nghĩa là nước nhập khẩu bị thiệt. Thứ hai, ảnh hưởng cân bằng tổng quan ở chỗ nước nhập khẩu phải thanh toán ở mức giá nội địa đầy đủ mà không ở mức giá thế giới cho các hàng hóa nhập khẩu. Thứ ba, hạn chế xuất khẩu tự nguyện mang tính phân biệt đối xử nên chỉ áp dụng cho các nước cung ứng sản phẩm với chi phí thấp nhất. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện cũng có thể buộc các nhà nhập khẩu phải chấp nhận nhập khẩu của nước có chi phí cao hơn và phân phối không hiệu quả các nguồn lực của thế giới. Các hàng rào liên quan đến giá và quản lí giá Phương thức định giá hải quan: Phương thức định giá hải quan là hàng rào phi thuế quan kĩ thuật dễ nhận thấy nhất. Nếu thực hiện tính thuế theo giá trị hàng hóa, bằng cách định giá hàng nhập khẩu ở mức giá cao hơn, nhân viên hải quan tăng tiền thuế phải trả. Sử dụng phương thức định giá hải quan như là một hàng rào thương mại chỉ làm tăng chi phí nhậu khẩu tương tự như thuế quan nhưng không làm tăng thu nhập cho chính phủ của nước nhập khẩu. Qui định giá bán tối đa trong nước: Để cản trở một số loại hàng hóa nhập khẩu, công cụ qui định giá bán tối đa trong nước có thể được sử dụng bằng cách qui định giá bán tối đa cao, người tiêu dùng phải chịu chi phí bổ sung tối đa trong nước thấp, người nhập khẩu sẽ không đạt được lợi nhuận mong muốn nên cắt giảm sản lượng nhập khẩu. Áp dụng cho các hàng hóa tiêu dùng hoặc đầu vào thay thế nhập khẩu. Phụ thu và phí: Khi tham gia các liên kết kinh tế quốc tế hoặc thực hiện các hiệp định thương mại đa phương hoặc song phương, các hàng rào định lượng không được sử dụng, thuế quan phải cắt giảm theo phụ thu và các loại phí được sử dụng. Phụ thu là một khoản thu theo tỉ lệ % so với giá trị hàng hóa hay một số tiền tuyệt đối trên một đơn vị hàng hóa áp đặt lên hàng hóa xuất khẩu hoặc nhập khẩu. Thuế nội địa: không phân biệt hàng hóa nhập khẩu và sản xuất trong nước. Tuy nhiên đối với một số hàng hóa có thể đề ra các loại thuế khác nhau với mức thuế khác nhau. Thuế tiêu thụ đặc biệt là một hàng rào điển hình. Các hàng rào liên quan đến doanh nghiệp Doanh nghiệp thương mại nhà nước: Phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp thương mại nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước cũng là một loại rào cản thương mại quốc tế. Nhiều doanh nghiệp thương mại nhà nước được hưởng nhũng ưu đãi trong kinh doanh xuất nhập dẫn đến chênh lệch giá. Quyền kinh doanh xuất nhập khẩu: Một số quốc gia trên thế giới sử dụng việc trao quyền kinh doanh xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp như một hàng rào thương mại, chỉ những doanh nghiệp được phép của chính phủ mới được quyền kinh doanh xuất nhập khẩu dẫn đến phân phối sai lệch lợi ích thương mại quốc tế. Đầu mối xuất khẩu, nhập khẩu: Áp đặt lên hàng xuất khẩu để hạn chế xuất khẩu những hàng hóa không khuyến khích Các hàng rào liên quan đến đầu tư Hàm lượng nội địa: Qui định thành phần sản phẩm có nguồn gốc địa phương cũng là một hàng rào thương mại quan trọng. Các qui định này bảo vệ các nhà sản xuất phụ tùng nội địa tương tự như hạn ngạch nhập khẩu. Tuy nhiên, các qui định này không khuyến khích đầu tư nước ngoài mà chỉ làm tăng buôn bán và có thể làm tăng chi phí do hàng hóa không được kết thúc quá trình sản xuất tại nơi có chi phí thấp nhất Tỉ lệ ngoại hối: Nhiều quốc gia qui định tỉ lệ giữa lượng ngoại hối để nhập khẩu và lượng ngoại hối thu được từ xuất khẩu đối với các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Tác động của hàng rào này tới ngành công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng vì đây là những ngành mang lại lợi nhuận cao và nguồn nguyên liệu trong nước sẵn có. Tỉ lệ sản phẩm xuất khẩu: đối với một số loại sản phẩm mà nhu cầu tiêu dùng trong nước đã tới hạn và để bảo hộ thị trường cho doanh nghiệp nội địa, qui định tỉ lệ sản phẩm xuất khẩu trở thành một hàng rào quan trọng. Tỉ lệ sản phẩm xuất khẩu cao buộc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải xây dựng chiến lược kinh doanh dựa vào xuất khẩu sản phẩm, hạn chế tiêu thụ nội địa. Hàng rào kĩ thuật Tiêu chuẩn kĩ thuật: là những qui định của các quốc gia về tiêu chuẩn kĩ thuật sản xuất và sản phẩm. Trên thị trường thế giới có các tiêu chuẩn kĩ thuật của các quốc gia, tiêu chuẩn kĩ thuật quốc tế. Tiêu chuẩn kĩ thuật không mang tính bắt buộc vì một hàng hóa có thể tuân theo tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn của nước nhập khẩu hoặc nước sản xuất. Tiêu chuẩn kĩ thuật chỉ có thể trở thành hàng rào thương mại khi có sự ủng hộ mạnh mẽ của người tiêu dùng. Qui định kĩ thuật: mang tính bắt buộc. Doanh nghiệp phải điều chỉnh qui trình sản xuất, thay đổi yếu tố đầu vào để tạo ra sản phẩm đáp ứng qui trình kĩ thuật. Xuất xứ và nhãn hiệu hàng hóa: Các quốc gia nhất là những nước phát triển thường qui định chặt chẽ về nhãn hàng hóa, từ chữ viết, khổ chữ. Những hàng hóa không đáp ứng yêu cầu về nhãn hàng đều không được nhập khẩu. cùng với nhãn hàng là qui định về xuất xứ hàng hóa. Nhiều quốc gia qui định nơi sản xuất, các hàng hóa nhập khẩu phải ghi rõ xuất xứ trên bao bì. Các hàng rào mang tính hành chính: Qui định về thanh toán thuế nhập khẩu: Các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa phải thanh toán ngay thuế nhập khẩu và không phân biệt đó là hàng nhập khẩu hay hàng hóa tái xuất khẩu, tạm nhập tái xuất, hàng hóa là đầu vào của kinh doanh gia công quốc tế. Gắn với qui định này thường là thủ tục hoàn thuế phức tạp và mất thời gian đã làm cho nhiều nhà nhập khẩu nản chí. Qui định về quảng cáo: Quảng cáo là công cụ marketing nhằm thúc đẩy việc bán hàng hóa. Những hạn chế về quảng cáo sẽ cản trở cho những hàng hóa nhập khẩu bán ra. Biện pháp thông thường nhất là cấm quảng cáo một số hàng hóa nhất định làm cho người tiêu dùng không biết đến sản phẩm. Chẳng hạn, Việt Nam cấm quảng cáo các loại sữa dành cho trẻ em dưới một tuổi dưới mọi hình thức. Thực chất của giải pháp này là để bảo vệ sức khỏe trẻ em nhưng cũng đã hạn chế khả năng tiêu thụ của các loại sản phẩm này.Để hạn chế nhập khẩu, các quốc gia còn cấm quảng cáo một số sản phẩm trên những phương tiện quảng cáo nhất định và vào những thời điểm nhạy cảm. Đơn vị đo lường và kích cỡ sản phẩm: Sự khác biệt đơn vị đo lường thường cản trở các hàng hóa thâm nhập thị trường, nhiều quốc gia còn sử dụng đơn vị đo lường như những qui định về kích cỡ cần thiết cho hàng hóa nhập khẩu. Chẳng hạn, độ lớn của phích cắm điện, hiệu điện thế của hàng điện tử tiêu dùng, kích thước tối thiểu của nấm tươi hay khoai tây xuất khẩu. Chương II: Khu vực mậu dịch tự do Asean: 2.1 Khái quát về Khu vực mậu dịch tự do Asean 2.1.1 Giới thiệu về Afta: Quá trình hình thành ASEAN là một trong những khu vực có nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ nhanh nhất thế giới (tốc độ tăng trưởng kinh tế của ASEAN giai đoạn 1981-1991 là 5,4%, gần gấp hai lần tốc độ tăng trưởng trung bình của thế giới). Tuy vậy, trước khi AFTA ra đời, những nỗ lực hợp tác kinh tế của ASEAN đều không đạt được mục tiêu mong muốn. ASEAN đã có các kế hoạch hợp tác kinh tế như: - Thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA). Các dự án công nghiệp ASEAN (AIP). Kế hoạch hỗ trợ công nghiệp ASEAN (AIC) và Kế hoạch hỗ trợ sản xuất công nghiệp cùng nhãn mác (BBC). Liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV) Các kế hoạch hợp tác kinh tế kể trên chỉ tác động đến một phần nhỏ trong thương mại nội bộ ASEAN và không đủ khả năng ảnh hưởng đến đầu tư trong khối. Sự ra đời của AFTA: Vào đầu những năm 90, khi chiến tranh lạnh kết thúc, những thay đổi trong môi trường chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã đặt kinh tế các nước ASEAN đứng trước những thách thức lớn không dễ vượt qua nếu không có sự liên kết chặt chẽ hơn và những nỗ lực chung của toàn Hiệp hội, những thách thức đó là : i). Quá trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại, chủ nghĩa bảo hộ truyền thống trong ASEAN ngày càng mất đi sự ủng hộ của các nhà hoạch định chính sách trong nước cũng như quốc tế. ii). Sự hình thành và phát triển các tổ chức hợp tác khu vực mới đặc biệt như EU, NAFTA sẽ trở thành các khối thương mại khép kín, gây trở ngại cho hàng hoá ASEAN khi thâm nhập vào những thị trường này. iii). Những thay đổi về chính sách như mở cửa, khuyến khích và dành ưu đãi rộng rãi cho các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với những lợi thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực của các nước Trung Quốc, Việt Nam, Nga và các nước Đông Âu đã trở thành những thị trường đầu tư hấp dẫn hơn ASEAN, đòi hỏi ASEAN vừa phải mở rộng về thành viên, vừa phải nâng cao hơn nữa tầm hợp tác khu vực. Để đối phó với những thách thức trên, năm 1992, theo sáng kiến của Thái lan, Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN họp tại Singapore đã quyết định thành lập một Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN ( gọi tắt là AFTA). Đây thực sự là bước ngoặt trong hợp tác kinh tế ASEAN ở một tầm mức mới. Mục tiêu AFTA đưa ra nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế sau: Tự do hoá thương mại trong khu vực bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi quan thuế. Điều này sẽ khiến cho các Doanh nghiệp sản xuất của ASEAN càng phải có hiệu quả và khả năng cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới. Đồng thời, người tiêu dùng sẽ mua được những hàng hoá từ những nhà sản suất có hiệu quả và chất lượng trong ASEAN, dẫn đến sự tăng lên trong thương mại nội khối. Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo ra một khối thị trường thống nhất, rộng lớn hơn. Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt là với sự phát triển của các thỏa thuận thương mại khu vực (RTA) trên thế giới. 2.1.2 Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (Cept –Afta) Để thực hiện thành công Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN, các nước ASEAN cũng trong năm 1992, đã ký Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (Common Effective Preferential Tariff), gọi tắt là CEPT. CEPT là một thoả thuận chung giữa các nước thành viên ASEAN về giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN xuống còn từ 0-5%, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi quan thuế trong vòng 10 năm, bắt đầu từ 1/1/1993 và hoàn thành vào 1/1/2003. ( Đây là thời hạn đã có sự đẩy nhanh hơn so với thời hạn ký Hiệp định ban đầu : từ 15 năm xuống còn 10 năm). Nói đến vấn đề xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN là nói tới việc thực hiện Hiệp định chung về thuế quan và phải hoàn thành 3 vấn đề chủ yếu, không tách rời dưới đây : Thứ nhất là vấn đề giảm thuế quan : Mục tiêu cuối cùng của AFTA là giảm thuế quan xuống 0-5%, theo từng thời điểm đối với các nước cũ và các nước mới, nhưng thời hạn tối đa là trong vòng 10 năm. Thứ hai là vấn đề loại bỏ hàng rào phi quan thuế (NTB) : hạn ngạch, cấp giấy phép, kiểm soát hành chính và hàng rào kỹ thuật : kiểm dịch, vệ sinh dịch tễ. Thứ ba là hài hoà các thủ tục Hải quan Các nội dung và qui định cụ thể Vấn đề về thuế quan: Các bước thực hiện như sau : Bước 1: Các nước lập 4 loại Danh mục sản phẩm hàng hoá trong biểu thuế quan của mình để xác định các sản phẩm hàng hoá thuộc đối tượng thực hiện CEPT: Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay ( Tiếng Anh viết tắt là IL). Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế ( viết tắt là TEL). Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm ( viết tắt là SEL) Danh mục các sản phẩm loại trừ hoàn toàn ( viết tắt là GEL) Trong 4 loại Danh mục nói trên thì : Danh mục các sản phẩm loại trừ hoàn toàn (GEL): là những sản phẩm không phải thực hiện các nghĩa vụ theo Hiệp định CEPT, tức là không phải cắt giảm thuế, loại bỏ hàng rào phi quan thuế. Các sản phẩm trong danh mục này phải là những sản phẩm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, cuộc sống, sức khoẻ con người, động thực vật, đến việc bảo tồn các giá trị văn hoá nghệ thuật, di tích lịch sử, khảo cổ...( theo điều 9B Hiệp định CEPT). Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm và nhạy cảm cao (SEL): là những sản phẩm được thực hiện theo một lịch trình giảm thuế và thời hạn riêng, các nước ký một Nghị định thư xác định việc thức hiện cắt giảm thuế cho các sản phẩm này, cụ thể thời hạn bắt đầu cắt giảm là từ 1/1/2001 kết thúc 1/1/2010, mức thuế giảm xuống 0-5%, nghĩa là kéo dài thời hạn hơn các sản phẩm phải thực hiện nghĩa vụ theo CEPT. Danh mục sản phẩm cắt giảm thuế ngay (IL) và Danh mục sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế (TEL): Là 2 Danh mục mà sản phẩm trong những Danh mục này phải thực hiện các nghĩa vụ CEPT, tức là phải cắt giảm thuế và loại bỏ hàng rào phi quan thuế. Tuy nhiên tiến độ có khác nhau. Sản phẩm hàng hoá trong 2 Danh mục này là những sản phẩm công nghiệp chế tạo, nguyên nhiên vật liệu, sản phẩm nông nghiệp... nghĩa là tất cả những sản phẩm hàng hoá được giao dịch thương mại bình thường trừ những sản phẩm hàng hoá được xác định trong 2 Danh mục SEL và GE nêu trên. ii) Bước 2 : Xây dựng lộ trình tổng thể cắt giảm thuế 10 năm ( toàn bộ thời gian thực hiện Hiệp định): Việc thực hiện Hiệp định chính là các nước thành viên phải xây dựng lộ trình tổng thể cho việc cắt giảm thuế đối với 2 Danh mục sản phẩm cắt giảm thuế ngay(IL) và Danh mục tạm thời chưa giảm thuế (TEL): Các nguyên tắc xây dựng lộ trình giảm thuế tổng thể như sau : Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay (Inclusion List - IL): Các sản phẩm nằm trong danh mục này được cắt giảm thuế quan ngay tại thời điểm bắt đầu thực hiện cho đến thời hạn kết thúc, tiến trình cắt giảm như sau : + Các sản phẩm có thuế suất trên 20% (> 20%) sẽ được giảm xuống 20% trong vòng 5 năm đầu và tiếp tục giảm xuống còn 0-5% trong 5 năm còn lại. Cụ thể: Các sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống 20% vào 1/1/1998, và tiếp tục giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2003. + Các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% (Í 20%) sẽ được giảm xuống còn 0-5% trong vòng 7 năm đầu . Cụ thể : Các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ được giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2000. Các nước có quyền được quyết định mức cắt giảm nhưng tối thiểu mỗi năm 5 %, không được duy trì cùng thuế suất trong 3 năm liền, trong trường hợp thuế MFN thay đổi tại một thời điểm nào đó nếu cao hơn thuế suất CEPT tại thời điểm đó thì không được nâng thuế CEPT bằng mức thuế MFN đó; trường hợp thuế MFN thấp hơn thuế CEPT thì việc áp dụng phải tự động theo thuế suất MFN đó và phải điều chỉnh lịch trình. Không được nâng mức thuế CEPT của năm sau lên cao hơn năm trước. Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế (TEL): Để tạo thuận lợi cho các nước thành viên có một thời gian chuẩn bị và chuyển hướng đối với một số sản phẩm tương đối trọng yếu, Hiệp định CEPT cho phép các nước thành viên ASEAN được đưa ra một số sản phẩm tạm thời chưa thực hiện tiến trình cắt giảm thuế quan ngay theo CEPT. Tuy nhiên, Danh mục TEL này chỉ mang tính chất tạm thời, các sản phẩm trong Danh mục loại trừ tạm thời sẽ được chuyển toàn bộ sang Danh mục cắt giảm thuế(IL) ngay trong vòng 5 năm, kể từ năm thứ 4 thực hiện Hiệp định tức là từ 1/1/1996 đến 1/1/2000, mỗi năm chuyển 20% số sản phẩm trong Danh mục TEL vào Danh mục IL. Lịch trình cắt giảm thuế của các sản phẩm chuyển từ Danh mục TEL sang Danh mục IL này như sau: Đối với những sản phẩm có thuế suất trên 20%, phải giảm dần thuế suất xuống bằng 20% vào thời điểm năm 1998, trường hợp các sản phẩm được chuyển vào đúng hoặc sau thời điểm năm 1998 thì thuế suất lập tức phải bằng hoặc thấp hơn 20%, và tiếp tục giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2003 như lịch trình đối với sản phẩm trong Danh mục IL. Đối với những sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% (Í 20%) sẽ được giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2003 Các quy định khác cũng tương tự như đối với Danh mục IL nói trên. Ngoài các quy định được nêu trên trong quá trình xây dựng và thực hiện, không được có sự thụt lùi về tiến độ, cũng như không được phép chuyển các mặt hàng từ Danh mục cắt giảm (IL) sang bất kỳ Danh mục nào, không được chuyển các mặt hàng từ Danh mục TEL sang Danh mục nhạy cảm (SEL) hay Danh mục Loại trừ hoàn toàn (GE) mà chỉ có sự chuyển từ Danh mục TEL sang Danh mục IL nói trên, hoặc chuyển từ Danh mục SEL, GE sang Danh mục TEL hoặc IL. Nếu vi phạm thì nước thành viên phải đàm phán lại với các nước khác và phải có nhân nhượng bồi thường. iii). Bước 3: Ban hành văn bản pháp lý xác định hiệu lực thực hiện việc cắt giảm thuế hàng năm : Trên cơ sở Lịch trình cắt giảm tổng thể thuế nêu trên, hàng năm các nước thành viên phải ban hành văn bản pháp lý để công bố hiệu lực thi hành thuế suất CEPT của năm đó. Văn bản này phải được gửi cho Ban Thư ký ASEAN để thông báo cho các nước thành viên. Vấn đề loại bỏ các hạn chế định lượng (QRs) và các rào cản phi thuế quan khác (NTBs) Để thiết lập được khu vực mậu dịch tự do, việc cắt giảm thuế quan cần phải được tiến hành đồng thời với việc loại bỏ các hàng rào phi thuế quan. Các hàng rào phi thuế quan bao gồm các hạn chế về số lượng (như hạn ngạch, giấy phép,...) và các hàng rào phi thuế quan khác (như các khoản phụ thu, các quy định về tiêu chuẩn chất lượng,...) Các hạn chế về số lượng có thể được xác định một cách dễ dàng và do đó, được quy định loại bỏ ngay đối với các mặt hàng trong Chương trình CEPT được hưởng nhượng bộ từ các nước thành viên khác. Tuy nhiên, đối với các rào cản phi thuế quan khác, việc xác định và loại bỏ phức tạp hơn rất nhiều. Hiệp định CEPT quy định về vấn đề này như sau: Các nước thành viên sẽ xoá bỏ tất cả các hạn chế về số lượng đối với các sản phẩm trong CEPT trên cơ sở hưởng ưu đãi áp dụng cho sản phẩm đó; cụ thể: những mặt hàng đã được đưa vào Danh mục cắt giảm ngay (IL) sẽ phải bỏ các hạn chế về số lượng. Các hàng rào phi quan thuế khác sẽ được xoá bỏ dần dần trong vòng 5 năm sau khi sản phẩm được hưởng ưu đãi; Các hạn chế ngoại hối mà các nước đang áp dụng sẽ được ưu tiên đặc biệt đối với các sản phẩm thuộc CEPT; Tiến tới thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, công khai chính sách và thừa nhận các chứng nhận chất lượng của nhau; Trong trường hợp khẩn cấp (số lượng hàng nhập khẩu gia tăng đột ngột gây phương hại đến sản xuất trong nước hoặc đe doạ cán cân thanh toán), các nước có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa để hạn chế hoặc dừng việc nhập khẩu. 2.2 Quá trình tham gia và lịch trình giảm thuế của Việt Nam 2.2.1 Những yêu cầu chung của Cept –Afta với Việt Nam: Theo quy định của Hiệp định chung về Chương trình ưu đãi thuế quan (CEPT) cho Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), sáu nước thành viên cũ bao gồm Brunei, Malaysia, Indonesia, Philippines, Thái Lan và Singapore sẽ thực hiện lịch trình cắt giảm thuế quan trong vòng 10 năm, từ 01/01/1993 đến 01/01/2003 xuống 0 - 5%, theo đó là bỏ các hàng rào phi thuế qua. Thực tế từ 01/01/2003, riêng Singapore đã giảm thuế nhập khẩu xuống 0%, còn năm nước khác giảm thuế nhập khẩu xuống 0 - 5%. Gần đây, ASEAN lại cam kết sẽ giảm thuế nhập khẩu xuống 0% vào năm 2010 đối với sáu nước thành viên cũ và đến năm 2015 - 2018 đối với bốn nước thành viên mới. Việt Nam là nước thành viên mới, nên theo cam kết bắt đầu từ 01/01/2001 sẽ giảm thuế các mặt hàng có mức thuế cao xuống còn 20%, sau đó mỗi năm sẽ giảm tiếp để đến năm 2006 mức thuế của phần lớn các mặt hàng nhập khẩu từ ASEAN xuống còn 0 - 5% và thời gian loại bỏ hoàn toàn thuế nhập khẩu xuống 0% sẽ áp dụng vào năm 2015. Việc cắt giảm thuế được chia thành từng nhóm. Nhóm thứ nhất, là nhóm danh mục cắt giảm thuế quan ngay (IL). Đến năm 2002, Việt Nam đã chuyển 5.550 dòng thuế vào IL, chiếm 85% trên tổng số 6.523 dòng thuế của biểu thuế nhập khẩu (Danh mục hài hòa thuế quan của ASEAN - AHTN là 8.770 dòng). Nhóm này đến năm 2006 sẽ giảm mức thuế xuống 0 - 5%. Nhóm thứ hai, là danh mục loại trừ tạm thời gồm 755 dòng thuế (theo AHTN là 1.415 dòng thuế) sẽ chuyển sang danh mục cắt giảm IL từ 01/7/2003 các dòng thuế có mức thuế cao sẽ đưa xuống 20% và giảm dần xuống 0 - 5% vào năm 2006. Danh mục này bao gồm các nhóm hàng dầu thực vật, bánh kẹo, rau quả chế biến, clinker, xi măng, thiết bị vệ sinh, giấy báo, giấy in, giấy vệ sinh, hóa chất, mỹ phẩm, kính xây dựng, điện tử, điện lạnh, quần áo, giày dép,... Nhóm thứ ba, là danh mục nhạy cảm gồm hàng nông sản chưa chế biến, chủ yếu cần bảo hộ cao, như thịt, trứng gia cầm, động vật sống, thóc gạo lức, đường mía,... Nhóm này có 53 dòng thuế (theo AHTN là 89 dòng thuế) bắt đầu giảm thuế từ 01/01/2004 và kết thúc vào 01/01/2013 với mức thuế cuối cùng là 0 - 5%. Riêng mặt hàng đường sẽ kết thúc vào 01/01/2010. Nhóm thứ tư, là danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) gồm các sản phẩm không cam kết trong AFTA vì lý do an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, bảo vệ cuộc sống con người và động thực vật, bảo vệ các tác phẩm có giá trị nghệ thuật, lịch sử, khảo cổ học. Việt Nam cũng đưa vào một số mặt hàng cần bảo hộ cao hơn như ô-tô, xe máy nguyên chiếc có dung tích dưới 250 cc. Nhóm này có 158 dòng thuế (AHTN là 415 dòng). Như vậy, lộ trình cắt giảm theo danh mục phải cắt giảm ngay IL và danh mục loại trừ tạm thời, lộ trình của Việt Nam chậm hơn sáu nước thành viên cũ là ba năm. Hai nhóm nhạy cảm và loại trừ hoàn toàn thời gian dài hơn, đến năm 2010 hoặc 2015. Đây là cơ hội để Việt Nam có thể đẩy mạnh các mặt hàng xuất khẩu của mình sang các nước ASEAN. Rất tiếc hai năm qua việc nghiên cứu và khai thác cơ hội này của các doanh nghiệp còn thấp. Tổng kim ngạch xuất khẩu sử dụng giấy chứng nhận xuất xứ ASEAN dùng Form D chiếm 0,57% tổng kim ngạch xuất khẩu sang ASEAN. Năm 2002, số lượng Form D đã cấp là 3983 bộ, đạt kim ngạch 94,7 triệu USD, tăng 59% so với năm 2001. Cơ hội thứ hai là để thu hẹp khoảng cách kinh tế giữa các thành viên mới với các thành viên cũ, sáu nước thành viên cũ sẽ dành Hệ thống ưu đãi hội nhập ASEAN (AISP) cho các nước mới gia nhập Cam-pu-chia, Lào, Myanmar, Việt Nam. Theo đó, Brunei sẽ dành một mặt hàng, Indonesia 50 mặt hàng, Malaysia 173 mặt hàng và Thái-lan 17 mặt hàng cho Việt Nam hưởng AISP. Các mặt hàng này sẽ được hưởng ngay mức thuế ưu đãi không phải chờ đến khi chuyển vào danh mục cắt giảm thuế ngay. 2.2.2 Những qui định của Cept –Afta với hàng nông sản Việt Nam: Đối với ngành nông nghiệp, Việt Nam cam kết thực hiện giảm thuế suất thuế nhập khẩu của 760 mặt hàng nông sản xuống 0 - 5% (2006). Danh mục nông sản nhạy cảm (SL) gồm 89 dòng thuế, chủ yếu bao gồm các mặt hàng nông sản chưa chế biến có yêu cầu bảo hộ cao như: các loại thịt, trứng gia cầm, động vật sống, thóc, gạo lức, đường mía. Các mặt hàng thuộc Danh mục SL bắt đầu giảm thuế từ ngày 1/1/2004 và kết thúc vào ngày 1/1/2013 với thuế suất cuối cùng bằng 0-5%. Trong đó một số mặt hàng chủ yếu sau: + Lúa gạo: giảm từ 20 - 40% xuống 10% (2003 - 2004); 5% (2005 - 2006). + Cà phê (thô): giảm từ 20 - 30% xuống 5% (2006). + Cao su (thô): giảm từ 30% xuống 3% (2003 - 2006). + Hạt tiêu: giảm từ 30% xuống 5% (2006). + Chè: giảm từ 50% xuống 20% (2003); 15% (2004) và 5% (2006). + Lạc: giảm từ 15% xuống 5% (2003 - 2005) và 0% (2006). + Cá: giảm từ 30 - 45% xuống 15% (2003- 2004); 10% (2005); 5% (2006). + Quả các loại: giảm từ 40 - 60% xuống 5% (2003 - 2006). + Tôm: giảm từ 50-75% xuống 20% (2003), 15% (2004), 10% (2005) và 5% (2006). + Rau các loại: (khoai tây, dưa chuột, cà chua, hành tỏi...) giảm từ 30% xuống 5% (2006). Hiện nay, Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực phấn đấu đẩy nhanh tốc độ thực hiện CEPT theo tinh thần mới của Hiệp hội các nước ASEAN. Trong năm 2003, Việt Nam đưa 50 dòng thuế hàng nông sản (135 mặt hàng) vào Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) để hoàn thành việc cắt giảm thuế xuống 0-5% vào ngày 1/1/2006. ''Các mặt hàng nông sản chế biến sẽ phải cạnh tranh gay gắt, trong khi điều này lại không đáng ngại đối với nông sản thô'' - Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch và Quy hoạch (Bộ NN-PTNT) Phạm Thị Tước khẳng định. Việt Nam hiện đã cắt giảm trên 80% số dòng thuế hàng nông sản. Từ 1/1/2003, Việt Nam phải thực hiện lộ trình giảm thuế nhập khẩu đối với tất cả các mặt hàng nông sản còn lại: sữa và các sản phẩm từ sữa; dầu thực vật đã tinh chế; sản phẩm chế biến từ thuỷ, hải sản; rau, quả chế biến, gồm cả nước quả ép và cà phê tinh chế. Chỉ một vài dòng thuế thuộc danh mục hàng nông sản nhạy cảm có thời hạn giảm thuế muộn hơn (năm 2010), như gạo, đường, quả có múi, giống gia cầm, thịt chế biến. Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm của Việt nam chiếm 0,8% tổng số nhóm mặt hàng của Biểu thuế nhập khẩu được xây dựng căn cứ vào yêu cầu bảo hộ cao của sản xuất trong nước đối với một số mặt hàng nông sản chưa chế biến và theo đề nghị của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đồng thời trên cơ sở tham khảo Danh mục này của các nước ASEAN khác. Các mặt hàng này đang được áp dụng các biện pháp phi thuế quan như quản lý theo hạn ngạch hàng tiêu dùng, quản lý của Bộ chuyên ngành. 2.2.3 Khó khăn và thuận lợi của Việt Nam khi tham gia khu vực mậu dịch tự do Asean: Thuận lợi: - Khi gia nhập AFTA , hàng hoá của Việt nam sẽ được hưởng thúê suất ưu đãi thấp hơn cả thuế suất tối huệ quốc mà các nước ASEAN dành cho các nước thành viên WTO, từ đó có điều kiện thuận lợi hơn để hàng hoá Việt nam có thể thâm nhập thị trường của tất cả các nước thành viên ASEAN. - Bên cạnh những thuận lợi thu được từ hoạt động thương mại trong nội bộ khối , khi gia nhập AFTA, VN sẽ có thế hơn trong đàm phán thương mại song phương và đa biên với các cường quốc kinh tế, cũng như các tổ chức thương mại quốc tế lớn như Mỹ, nhật, EU hay WTO.. - Tuy có những trùng lặp giữa VN và các nước ASEAN, nhưng có nhiều lĩnh vực mà VN có thể khai thác từ thị trường các nước ASEAN như VN có thế mạnh trong xuất khẩu nông sản, hàng dệt và may mặc, và ta cũng có nhu cầu nhập nhiều mặt hàng từ các nước ASEAN với giá thấp hơn từ các khu vực khác trên thế giới. - Một mặt Doanh nghiệp được lợi do tăng được khả năng cạnh tranh so với các nước ngoài ASEAN về giá cả, mặt khác người tiêu dùng được hưởng lợi do giá cả rẻ hơn và chủng loại hàng hoá phong phú hơn. - Thu hút vốn đầu tư, tiếp thu công nghệ, tận dụng nhân công, sử dụng vốn và kỹ thuật cao trong khu vực Khó khăn: - Lợi ích trực tiếp của nhà nước là nguồn thu ngân sách về thuế xuất nhập khẩu giảm. - Việc tham gia dẫn tới sự xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi quan thuế, nghĩa là xoá bỏ sự bảo hộ của chính phủ đối với các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải tham gia thật sự vào cuộc chới cạnh tranh khốc liệt trên thị trường khu vực : cạnh tranh thúc đẩy sản cuất phát triển, nhưng đồng thời có thể làm điêu đứng và phá sản hàng loạt các doanh nghiệp, thậm chí hàng loạt ngành. Dẫn tới việc thay đổi cơ cấu kinh tế. Đây là vấn đề nan giải đối với các doanh nghiệp Việt nam. Tóm lại gia nhập AFTA là bước tập duyệt đầu tiên cho nền kinh tế và các doanh nghiệp VN để chuẩn bị cho sự gia nhập thị trường thế giới rộng lớn và đầy sự cạnh tranh hơn. Chương III: Thực trạng và phương hướng xuất khẩu gạo của Việt Nam vào Asean: Gạo là hàng hoá nhạy cảm được đưa vào hoặc được thoả thuận trong các hiệp định song phương và đa phương, bao gồm cả AFTA, CEPT . Xuất khẩu gạo chiếm tỉ lệ lớn trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Các chuyên gia kinh tế đã cảnh báo rằng việc thực hiện AFTA có thể sẽ không giúp gì nhiều cho các nhà sản xuất gạo của Việt Nam trong việc tiếp cận hơn nữa các thị trường khu vực và thế giới. Thị trường gạo Việt Nam ngày càng chịu nhiều tác động tiêu cực của quá trình Việt Nam hội nhập vào thị trường thế giới theo thoả thuận trong khuôn khổ của AFTA và các Hiệp định song phương. Chính phủ gặp nhiều khó khăn trong các nỗ lực bình ổn giá hoặc tăng giá bán gạo có lợi cho nông dân vì chi phí quá lớn. Quá trình hội nhập vào kinh tế thế giới đang đặt ngành gạo Việt Nam vào những thách thức và khó khăn mới. 3.1 Đặc điểm thị trường gạo Asean: Tổng dân số các nước ASEAN đã vượt quá 520 triệu người, có diện tích hơn 4.5 triệu km2; GDP khoảng 731 tỷ đô la Mỹ và tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm 339,2 tỷ USD. Các nước ASEAN có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và hiện nay đang đứng hàng đầu thế giới về cung cấp một số nguyên liệu cơ bản như: gạo, đường dầu thô, dứa... Thị trường ASEAN có một số đặc điểm đáng lưu ý. ASEAN là thị trường gần, Việt Nam không phải tốn nhiều chi phí vận chuyển. Đây là thị trường có nhu cầu, thị hiếu về chất lượng, chủng loại, giá cả khá tương đồng với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam; các nước ASEAN cũng là thị trường thuộc loại sớm nhất khi Việt Nam tiến hành mở cửa hội nhập sau chuyển đổi cơ chế, đồng thời đang thực hiện cam kết cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu và chẳng còn mấy thời gian mức thuế này sẽ chỉ còn 0-5%, lại không bị hạn chế bằng những hàng rào phi thuế quan như hạn ngạch, kiện bán phá giá... như các thị trường khác.  Sau 9 năm kể từ ngày 28-7-1995, ngày Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các nước thành viên khác trong Hiệp hội không ngừng phát triển sâu rộng, góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Thị trường ASEAN hiện chiếm khoảng 20% kim ngạch xuất khẩu và khoảng 25% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam, trong đó Singapore, Philippines, Thái Lan và Inđônêsia là những khách hàng lớn. Thị trường ASEAN là nơi tiêu thụ khối lượng lớn nông sản, nhất là gạo của Việt Nam, đồng thời là nơi cung cấp nhiều máy móc thiết bị và nguyên vật liệu cho Việt Nam. Mỗi công dân ASEAN tiêu thụ trung bình 150-200 kg gạo/năm. So với năm 1994, năm trước khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và các nước ASEAN hiện nay đã gấp hàng chục lần. ASEAN vẫn là thị trường lớn nhất trong các châu lục nhập khẩu hàng của Việt Nam. Năm 2004, xuất khẩu vào thị trường này chiếm 54,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, cao hơn nhiều so với các châu lục khác. Như vậy, năm 2003 đã tăng 9,7%; năm 2004 tăng 29,1%, cao hơn tốc độ chung; kế hoạch năm 2005 dự kiến tăng 17,9%, cao hơn tốc độ chung theo mục tiêu do Quốc hội đề ra. 3.2 Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam Nước ta đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới: 9 năm xuất khẩu 18 triệu tấn gạo (trong 7 tháng đầu năm 1998 đã xuất khẩu trên 2,75 triệu tấn). Cho đến nay, Việt Nam đã qua 16 năm xuất khẩu gạo. Gạo Việt Nam đã có mặt trên các thị trường thế giới. Năm 1999 đạt đỉnh cao về số lượng xuất khẩu 4,5 triệu tấn. Năm 2004 đạt 4,062 triệu tấn. Gạo Việt Nam xuất khẩu chủ yếu là gạo trắng, chiếm 95-97% tổng số xuất khẩu, còn lại là gạo thơm, từ vài ngàn tấn đến vài chục ngàn tấn, cao nhất là năm 2004, xuất khẩu được gần 100.000 tấn, chủ yếu là loại gạo Jasmine. Điều đáng chú ý là sắp tới nhu cầu của thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam (là châu Á, chiếm 50% gạo trắng các loại) sẽ giảm dần do một số nước đẩy mạnh sản xuất, đưa khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp, tăng năng suất và tăng sản lượng. Vì thế, trong những năm tới Việt Nam phải phấn đấu nâng cao chất lượng gạo trắng và tăng chủng loại nhất là gạo thơm để đáp ứng nhu cầu thị trường và tăng kim ngạch xuất khẩu. Mặc dù xuất khẩu gạo Việt Nam liên tục tăng trong những năm qua, nhưng kim ngạch xuất khẩu lại biến động hết sức thất thường do yếu tố giá trên thị trường thế giới và chất lượng gạo của Việt Nam. Xuất khẩu gạo tăng về lượng, nhưng giá trị lại không tăng, hoặc tăng ở tốc độ không tương xứng. So với Thái Lan, các chỉ tiêu về xuất khẩu gạo của chúng ta đều thấp hơn. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (Vinafood), giá xuất khẩu gạo của Việt Nam thấp hơn khoảng 20-25 USD/tấn so với gạo cùng loại của Thái Lan. Chẳng hạn gạo 5% tấm của Việt Nam chào giá 305 USD/tấn thì gạo cùng loại của Thái giá 330 USD/tấn. Gạo 10% tấm của Việt Nam giá 300 USD/tấn thì gạo cùng loại của Thái giá 325 USD/tấn, còn gạo 15% tấm của Việt Nam giá 295 USD/tấn thì gạo cùng loại của Thái giá 315 USD/tấn. Nếu xét về mức tăng trưởng qua các năm cho thấy mặc dù chỉ tiêu tăng về khối lượng xuất khẩu của chúng ta không thấp hơn nhiều so với Thái Lan, nhưng do tăng về giá xuất khẩu lại thấp hơn rất nhiều so với nước này, kết quả là Thái Lan luôn đạt mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu lớn hơn. Lý giải tình trạng này, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế cũng như các nhà xuất khẩu gạo Việt Nam thì có mấy nguyên nhân chủ yếu sau đây: Thứ nhất, chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn thấp so với yêu cầu thị trường. Trong bối cảnh Việt Nam thực hiện lộ trình CEPT/AFTA, sự cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu nông sản nói chung, xuất khẩu gạo nói riêng diễn ra quyết liệt, nhất là về chất lượng. Trong khi đó lúa gạo Việt Nam chưa có chuyển biến đồng bộ từ sản xuất đến chế biến nên chất lượng chưa theo kịp yêu cầu thị trường. Cho dù đã có những tiến bộ trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, nhưng trong sản lượng gạo xuất khẩu trong những năm gần đây vẫn có tới trên, dưới 60% là gạo cấp thấp (gạo 25% tấm) và trong số gần 40% còn lại hầu hết là gạo 5% tấm và 10% tấm, còn gạo thơm và gạo nếp chỉ chiếm vài phần trăm. So sánh với Thái Lan thì cơ cấu xuất khẩu của họ gần như ngược lại với Việt Nam. Trong cơ cấu gạo xuất khẩu của Thái Lan diện gạo thơm và gạo cao cấp đã chiếm tới 45%, còn trong 55% gạo còn lại phần lớn là gạo 100% B và gạo 5% tấm. Do cơ cấu hàng hóa xuất khẩu như vậy, thực trạng đáng buồn là, mỗi khi khách hàng chọn đối tác để ký hợp đồng, nếu là gạo cao cấp và cao giá thì họ chọn Thái Lan, còn gạo thấp cấp và giá rẻ thì họ đến với chúng ta. Và do vậy giá xuất khẩu trung bình một tấn gạo của Việt Nam luôn thấp. Nếu tính theo giá bình quân mỗi tấn gạo xuất khẩu thì Thái Lan đã đạt 266,54 USD/tấn, cao hơn của chúng ta là 14,86%. Trong sản xuất, những năm gần đây nông dân chủ yếu mở rộng diện tích các giống lúa mới nguồn IRRI (phía Nam), lúa lai Trung Quốc (phía Bắc), có ưu điểm ngắn ngày, năng suất cao nhưng chất lượng gạo thương phẩm chưa cao, không hợp gu các thị trường có sức mua và yêu cầu chất lượng cao như Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, Mỹ, EU… Trong một vài năm trở lại đây, cơ cấu gạo xuất khẩu Việt Nam tuy có tiến bộ nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của các thị trường khó tính. Do đó giá gạo Việt Nam hiện nay vẫn còn thấp hơn gạo Thái Lan cả trên thị trường thế giới và trong nước. Thứ hai, tuy đã trải qua nhiều năm xuất khẩu gạo trên quy mô lớn và đã trở thành cường quốc xuất khẩu gạo thứ hai thế giới từ gần 10 năm nay, nhưng đến nay chúng ta vẫn chưa quan tâm đúng mức đến nhu cầu gạo của thị trường. Bởi dường như chúng ta vẫn xuất khẩu những gì chúng ta có. Mặc dù nhu cầu của thế giới về gạo cấp thấp là một thực tế, nhưng cũng có một thực tế khác là nhu cầu gạo đặc sản, gạo cao cấp cũng luôn luôn tồn tại. Chẳng hạn, Trung Quốc sau khoảng hai thập kỷ cải cách, đời sống của đại bộ phận dân cư của đất nước 1,3 tỷ dân có tập quán sử dụng lúa, gạo làm lương thực chính đã được nâng cao, làm phát sinh nhu cầu gạo đặc sản của nền nông nghiệp của chính người khổng lồ về sản xuất và tiêu dùng lúa gạo này không thể đáp ứng nổi, phải nhập khẩu khoảng 300 nghìn tấn/năm. Và chính Thái Lan đã đón bắt được nhu cầu này. Thứ ba, việc tổ chức, điều hành xuất khẩu gạo cũng bộc lộ nhiều nhược điểm. Kế hoạch xuất khẩu được giao từ đầu năm trong khi chưa biết kết quả sản xuất lúa trong năm lại phụ thuộc nhiều vào yếu tố khí hậu, thời tiết, sâu bệnh,… do đó liên tục phải điều chỉnh. Đơn cử năm 2005, kế hoạch xuất khẩu gạo ban đầu ở mức dưới 4 triệu tấn, rồi sau mới điều chỉnh lên 4,2 – 4,5 triệu tấn và cuối cùng tổng kết cả năm xuất khẩu trên 5,2 triệu tấn. Tình trạng kế hoạch không gắn với quy hoạch đang là một thực tế chưa khắc phục được. Việc dựa vào “cầu” của các khách hàng theo hợp đồng ký kết để quyết định kế hoạch xuất khẩu gạo cả năm chưa tính đến khả năng “cung” là chưa hợp lý. Đã xuất hiện tình trạng một số hợp đồng đã ký từ đầu năm với giá thấp, cuối năm giá cao nên nông dân không bán lúa theo giá hợp đồng dẫn đến tình trạng phá vỡ hợp đồng xuất khẩu gạo, làm giảm lòng tin của khách hàng và thiệt hại cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Mặt khác, việc phân bố lợi nhuận xuất khẩu gạo giữa người nông dân trồng lúa với các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gạo chưa hợp lý, trong đó phần thiệt thòi vẫn thuộc về nông dân và Nhà nước. Tình trạng này có từ lâu những vẫn tồn tại đến nay dù năm 2002 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 80 về hợp đồng tiêu thụ nông sản, trong đó trọng tâm là lúa gạo. Đã hơn 3 năm thực hiện Quyết định 80, nhưng kết quả đạt được trong lĩnh vực hợp đồng tiêu thụ lúa gạo ở các vùng đều rất hạn chế, kể cả vùng đồng bằng sông Cửu Long. Thứ tư, công tác dự báo thị trường lúa gạo thế giới, đặc biệt là dự báo giá của Việt Nam còn yếu kém. Có thể nói, tuy xuất khẩu gạo là một trong những thành tựu to lớn của đường lối đổi mới, nhưng trong hoạt động xuất khẩu mặt hàng nông sản chiến lược này, chúng ta thường rơi vào thế bị động cả về sản lượng xuất khẩu tiến độ xuất khẩu và cả giá xuất khẩu. Đó là, cứ hễ được mùa và được giá, thì chúng ta lại găm hàng lại để “chờ” cho đến khi mất giá mới tung ra thị trường thế giới. Với tiến độ xuất khẩu như vậy, nếu đọc các số liệu thống kê về giá gạo xuất khẩu của nước ta như trên, buộc lòng phải thừa nhận bài học quá đắt giá là: trong năm 2002, khi gạo được giá trên thị trường thế giới (tăng 33,62% so với năm 2001) thì chúng ta đã găm hàng lại. Và khi giá gạo thế giới năm 2003 giảm 15,59% so với năm 2002, chúng ta lại đẩy mạnh xuất khẩu. Do vậy, khi cơ hội vàng năm 2004 xuất hiện, kho gạo dự trữ của chúng ta đều như trống trơn. Trong khi đó nhìn sang nước láng giềng, con số kỷ lục xuất khẩu trên 10 triệu tấn gạo trong năm 2004 có lẽ chính người Thái lan cũng khó lặp lại được trong tương lai. Việt Nam xuất khẩu gạo sang Philippines và Malaysia, vài năm Indonesia duy trì lệnh cấm nhập khẩu gạo để giữ việc tiêu thụ gạo trong nước, nhưng tiềm năng việc tiếp tục xuất khẩu gạo vào thị trường này vẫn còn lớn. Hiện nay, chúng ta đang gặp phải khó khăn mới. Do giá dầu tăng, cước vận chuyển gạo tăng bình quân 20-30 USD /tấn so với cuối năm ngoái. Cước tăng nhưng khó thuê tàu, nhất là tuyến vận chuyển đi các nước ASEAN, mà ASEAN là thị trường xuất khẩu tới 50% sản lượng gạo của Việt Nam. Hiện cước phí vận chuyển gạo xuất khẩu chiếm tới 30%-35% giá gạo xuất khẩu tính theo giá FOB. 3.3 Phương hướng đẩy mạnh xuất khẩu gạo Việt Nam Đối với Việt Nam, hạn hạn, lũ lụt, sầu rầy vẫn còn là những thách thức lớn và sẽ ảnh hưởng đến sản xuất lúa trong những năm tới. Thêm vào đó, diện tích đất lúa sẽ giảm dần do nhu cầu công nghiệp hóa, đô thị hóa và chuyển đổi cơ cấu cây trồng, do đó mức tăng sản lượng lúa hàng hóa sẽ chậm lại.Với dân số tăng thêm trên 1 triệu người/năm nên lương thực bình quân nhân khẩu những năm tới chỉ tăng chậm. Do vậy, khả năng nguồn gạo xuất khẩu trong các năm tới sẽ rất khó khăn. Vì vậy, vấn đề đặt ra trong sản xuất và xuất khẩu gạo là nâng cao chất lượng và nâng cao giá trị. Để đạt được điều này, cần phải chú ý đến các vấn đề sau: Thứ nhất, cần phải đột phá vào khâu chất lượng lúa hàng hóa và gạo xuất khẩu chúng ta mới có thể đạt mục tiêu tiếp tục đẩy mạnh hiệu quả xuất khẩu gạo và giữ vững vị trí nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 trong những năm tới. Cần đẩy mạnh xúc tiến thương mại mở rộng thị trường gạo cao cấp: hạn chế hợp đồng xuất khẩu gạo cấp thấp để đạt giá trị xuất khẩu bình quân khoảng 250-260 USD/tấn. Tăng mạnh tỷ trọng gạo đặc sản ít nhất lên khoảng 10 – 20% trong tổng khối lượng gạo xuất khẩu, tức là gấp khoảng 4 – 5 lần so với hiện nay, nhưng với giá cao gấp khoảng 2-3 lần giá gạo thường trong bối cảnh nhu cầu về các loại gạo này của thế giới tăng rất nhanh. Thứ hai, Việt Nam cần phải chuyển sang đa dạng hóa mặt hàng gạo xuất khẩu để bán ở các thị trường cao cấp hơn, nếu muốn cạnh tranh với các nước láng giềng trong việc sản xuất gạo chất lượng cao. Điều này đòi hỏi không chỉ công nghệ sản xuất và xay xát mà cả kỹ năng tiếp thị, xây dựng thương hiệu sản phẩm và tăng cường các mối liên kết trong chuỗi giá trị gồm chu trình các hoạt động sản xuất và dịch vụ. Những thay đổi đó sẽ tạo nên một chiến lược xuất khẩu gạo mang tính kinh doanh nhiều hơn và thu hút sự tham gia nhiều hơn của khu vực tư nhân trong hoạt động xuất khẩu. Ngoài ra, việc bán được nhiều hơn các loại gạo đã có “thương hiệu” sẽ có giá trị cao hơn ngay tại thị trường nội địa sẽ hướng đến các hộ nông dân, kể cả các nông dân nghèo ở vùng sâu vùng xa ngày càng quan tâm nhiều hơn đến chất lượng và thương hiệu sản phẩm. Thứ ba, hình thành mạng lưới thu gom, vận chuyển lúa gạo xuất khẩu theo hợp đồng. Xây dựng mới các cơ sở chế biến lúa gạo xuất khẩu tại các vùng sản xuất lúa hàng hóa phục vụ xuất khẩu gạo theo quy hoạch. Giải quyết thỏa đáng quan hệ giữa Nhà nước, nông dân và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong phân phối lợi nhuận theo hướng quan tâm nhiều hơn đối với người trồng lúa. Nâng cấp, hiện đại hóa các cơ sở chế biến, đánh bóng gạo xuất khẩu hiện có đồng thời xây dựng các cơ sở mới cần thiết theo quy hoạch, tăng cường đầu tư để nâng cấp hệ thống kho tàng, cơ sở phơi sấy, đường sá, bến cảng, nhất là cảng Cần Thơ nhằm phục vụ đắc lực và hiệu quả xuất khẩu gạo. Thứ tư, xây dựng thương hiệu “gạo Việt Nam” trên thị trường quốc tế. Hiện nay, gạo Việt Nam được xuất sang nhiều thị trường với mức độ khác nhau, bao gồm: Châu Á 46%; Trung Đông 25%; Châu Phi 12%; Châu Mỹ 1%; các nước khác 13,5%. Ngòai ra Việt Nam còn xuất sang Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan… Phần lớn nhu cầu tại các khu vực thị trường này là gạo chất lượng thấp và khả năng thanh toán hạn chế. Nhìn chung việc xuất khẩu gạo của ta vào thị trường có chất lượng tiêu dùng cao đang bị cạnh tranh quyết liệt, bởi ngoài chất lượng gạo còn do chung ta chậm trong xây dựng thương hiệu. Tăng cường công tác dự báo thị trường lúa gạo quốc tế, củng cố và mở rộng hệ thống thông tin thị trường để kịp thời điều hành hoạt động xuất khẩu gạo hợp lý và hiệu quả. Kết luận Nhìn chung lại việc tham gia AFTA đã và sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhiều hơn cho mặt hàng gạo của Việt Nam trong việc nâng cao tính cạnh tranh. Việc hoàn tất thực hiện các nghĩa vụ AFTA đối với tất cả 10 nước ASEAN sẽ mở ra một thị trường rộng lớn với khoảng 500 triệu người tiêu dùng ở Đông Nam Á, với những mức thuế quan ưu đãi và hàng rào phi quan thuế được giảm thiểu, hứa hẹn những cơ hội đầu tư hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Việc tham gia AFTA có tác dụng kích thích khả năng tự cường kinh tế của từng quốc gia thành viên trong đó có Việt Nam, cũng như của cả ASEAN, thúc đẩy hơn nữa thương mại nội khối ASEAN, mở rộng các cơ hội đầu tư và sản xuất. Đối với Việt Nam, việc thực hiện CEPT/AFTA còn có ý nghĩa tạo nền tảng cho Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới là yếu tố để hội nhập thị trường khu vực và thế giới. Nếu như trước đây, chúng ta coi lúa gạo là mặt trận hàng đầu khi đảm đương trách nhiệm nặng nề là bảo đảm đủ ăn, giải quyết cho được an toàn lương thực Quốc gia thì thực tiễn những năm vừa qua, nông nghiệp nước ta đã hoàn thành được sứ mệnh lịch sử đó: giải quyết được cái ăn trong nước vốn dĩ đã thiếu thốn triền miên trong nhiều năm (trước năm 1989) vươn lên trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới, đóng góp được ngoại tệ trong cán cân thanh toán của kinh tế. Tuy nhiên, sự cạnh tranh của các nước xuất khẩu gạo trên thế giới ngày càng gay gắt hơn và giá gạo trên thị trường thế giới trong ngắn hạn và trung hạn không cho phép các nhà sản xuất lạc quan. Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới vì thế nền kinh tế và nông dân càng dễ bị tổn thương bởi những biến động của thị trường. Các chuyên gia thị trường cho rằng vấn đề quan trọng hiện nay là cần có những giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng gạo trên thị trường thế giới và tăng vị thế đàm phán của mình. Có như vậy, mặt hàng gạo mới nắm bắt được cơ hội phát triển trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới./. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Sách Thương Mại Quốc Tế. 2. Phương hướng nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam. NXB Thống kê năm 2000. 3. Cùng nhiều trang web khác

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxDA185.docx
Tài liệu liên quan