Thực trạng về hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty

Củng cố ở vị trí thị trường quen thuộc, khôi phục thị trường truyền thống, tìm thị trường và bạn hàng mới, giảm xuất nhập khẩu qua thị trường trung gian tham gia vào các khối mậu dịch tự do AFTA, cần tiếp xúc với các diễn đàn Châu á Thái Bình Dương. từng bước tham gia các hoạt động trong hệ thống toàn cầu về sự ưu đãi thương mại với các nước đang phát triển. Tranh thủ sự giúp đỡ của nước ngoài về cả nguồn tài chính cũng như là về kimh nghiệm quản lý, những công nghệ tiên tiến. Từ đó phục vụ cho sự nghiệp đổi mới của nước nhà, hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Việc ưu tiên sản xuất hàng xuất khẩu được thể hiện qua luật đầu tư nước ngoài tai Việt nam. Thông qua các qui định về miễn thuế trong một thời gian nhất định cho các nhà đầu tư. Hình thức liên doanh là hình thức thích hợp nhất về phía Việt nam trong việc tích luỹ vốn, chuyển giao công nghệ và học tập kinh nghiệm quản lý. Bên cạnh đó chúng ta phải có dự án mang lại lời nhuận cao, những dự án có nhiều tiềm năng và phải tạo mọi điều kiện cho bên ngoài đầu tư vào Việt nam một cách tin tưởng và nhanh chóng. Đây là nguồn vốn lớn nhất cho việc sản xuất hàng xuất khẩu.

doc85 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1418 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng về hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c tiến thương mại, xây dựng cơ sở vật chất phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu chất lượng tốt, số lượng lớn, mẫu mã đa dạng nhằm đẩy mạnh công tác xuất khẩu . Chương III Một số phương pháp và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu củA Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ artexport I. Một số phương hướng đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu 1. Một số phương hướng và nhiệm vụ kinh doanh của công ty trong thời gian tới Năm 2002 và những năm tiếp theo, Công ty Artexport tiếp tục đẩy mạnh công tác trung tâm là kinh doanh xuất nhập khẩu, bảo đảm thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch. Để thực hiện được kế hoạch sản xuất kinh doanh trong thời gian tới, công ty phải thấy hết những khó khăn phức tạp trong sự cạnh tranh của cơ chế thị trường. Hiện nay đã có hàng ngàn doanh nghiệp kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ, tới đây còn nhiều cơ sở hơn nữa, kể cả các công ty nước ngoài có kinh nghiệm và tiềm lực hơn công ty, nhà nước tiếp tục có chính sách cởi mở thông thoáng hơn, tạo điều kiện cho tất cả các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Tất cả các yếu tố trên tạo sức cạnh tranh quyết liệt trên thương trường. Không có con đường nào khác, buộc công ty phải có quyết sách phù hợp để giảm thiểu thách thức, tăng cơ hội để phát triển công ty, công ty cũng cần khác phục những bất hợp lý, những yếu kém để có bước phát triển ngày càng vững chắc hơn. 1.1. Công tác sản xuất kinh doanh a) Về chỉ tiêu kế hoạch: để thực hiện được các chỉ tiêu và nhiệm vụ của công ty tương lai thì trước hết công ty phải đề ra cá chỉ tiêu, kế hoạch của mình. Chỉ tiêu kế hoạch của công ty năm 2002 và những năm tiếp theo là: - Kế hoạch xuất nhập khẩu năm 2002 là: 27 triệu USD Trong đó: + xuất khẩu: 11,5 triệu USD + nhập khẩu: 15,5 triệu USD - Doanh thu đạt 170 tỷ VNĐ - Lợi nhuận đạt 1,2 tỷ VNĐ - Thu nhập bình quân/người/tháng 1,5 triệu VNĐ - Đầu tư xây dựng 10 tỷ - Thực hiện đầy đủ đối với nhà nước . Còn mục tiêu của những năm tiếp theo là: lấy chỉ tiêu kế hoạch năm 2002 làm mốc thì năm sau tăng so vớ năm trước khoảng 7-10%, b) Về công tác thị trường: Trong những năm tới, lãnh đạo công ty phải chủ trương đầu tư thích đáng và có những biện pháp thích hợp cho việc tìm kiếm khách hàng, mở rộng thị trường bằng việc nghiên cứu, tìm hiểu những mặt hàng mới, sáng tạo những mẫu mới phù hợp với thị hiếu của khách hàng. Các đơn vị có định hướng thị trường và thường xuyên tham gia hội chợ, triển lãm ở nước ngoài một cách có hiệu quả. Công ty đầu tư xây dựng phòng mới có thật nhiều mẫu mới, khang trang, ấn tượng để thu hút khách hàng. Công tác tuyên truyền quảng cáo, khai thác thông tin, mở rộng mối quan hệ để giải quyết tốt công tác thị trường, giúp Công ty có được mặt hàng, khách hàng và thị trường ổn định. Đối với các thị trường quen thuộc như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và các nước châu Âu, Công ty cần giữ vững ổn định và phát triển. Đối với thị trường mới, đặc biệt là thị trường Mỹ Công ty cần phải quan tâm nghiên cứu, tìmm hiểu các chính sách và thị hiếu tiêu dùng một cách tích cực nhất để sớm tiếp cận và khai thác thị trường tiềm năng này. c) Công tác sản xuất kinh doanh và dịch vụ - Trong sản xuất kinh doanh, công ty vẫn chủ trương chú trọng giữ vững và phát triển những mặt hàng chuyên doanh truyền thống các mặt hàng như hàng Thêu,Gốm, Cói Mây tre và Mỹ nghệ. - Đẩy mạnh kinh doanh xuất nhập khẩu mặt hàng tổng hợp là sự hỗ trợ cần thiết và là hướng đi đúng. Trong những năm qua kim ngạch các mặt hàng tổng hợp tăng lên đán kể nhưng trước yêu cầu thực tế hiện nay công ty còn phải tập trung trí tuệ công sức để đẩy mạnh h ơn nữa trong những năm tới. - Tăng cường xuất nhập khẩu trực tiếp đạt hiệu quả cao có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó khẳng định được thực chất của kinh doanh khẳng định được uy tín, giúp cho sự ổn định và phát triển của kinh doanh. Tập trung công sức xây dựng mặt hàng, khách hàng phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm của các đơn vị trong công ty . - Xuất khẩu uỷ thác trong những năm qua đã giúp cho công ty giữ vững và tăng kim ngạch, tăng bạn hàng, tăng việc làm cho cán bộ công nhân viên. Trong những năm tới công ty tiếp tục làm tốt công tác này bằng cách phục vụ tận tình về thủ tục giấy tờ, về vốn trên cơ sở an toàn trong kinh doanh. - Tiếp tục việc thực hiện việc gắn sản xuất với xuất khẩu, đây là chủ trương hết sức đúng đắn công ty phải hiểu chủ trương này trên hai khía cạnh. + Gắn sản xuất tại các cơ sở vệ tinh, làng nghề với xuất khẩu của công ty. Xây dựng những cơ sở sản xuất gắn bó thuỷ chung là bạn đồng hành của công ty. Công ty sẽ làm hết sức mình về hỗ trợ vốn, cung cấp mẫu hướng dẫn kỹ thuật để cùng các cơ sở phát triển sản xuất kinh doanh. + Gắn sản xuất với các xưởng của công ty với xuất khẩu là việc làm có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhất là sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường hiện nay. Nhưng trong những năm vừa qua, việc này công ty chưa làm được là bao vì công ty vẫn còn thiếu cán bộ, chuyên viên có kinh nghiệm trong quản ký, có tay nhgề cao trong sản xuất, thiếu sự ủng hộ hết mình của các phòng nghiệp vụ. Trong thời gian tới,công ty cần phải giải quyết tập trung giải quyết những yếu kém trên. d) Công tác tài chính. Thường xuyên bảo đảm kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm nguồn tài chính cho công tác xây dựng, làm tốt công tác hạch toán chính xác và công khai kịp thời về kết quả kinh doanh của các đơn vị. Thường xuyên duy trì việc chấp hành chế độ kiểm toán nội bộ theo qui đinh.Theo dõi đôn đốc nghĩa vụ nộp thuế, không để chậm dẫn dẫn đến bị cưỡng chế thuế thực hiện chế độ báo cáo chính xác và đúng kỳ hạn đối với cơ quan Nhà nước. Hoàn chỉnh các nội dung qui chế nội bộ về quản lý xuất nhập khẩu, quản lý tài chính hạch toán nội bộ và đôn đốc các đơn vị thực hiện tốt các qui chế đã ban hành, 1. 2. Công tác tổ chức cán bộ Đây là công tác vô cùng quan trọng và quyế định thắng lợi mọi việc, vì vậy công ty thường xuyên quan tâm sắp xếp điều chỉnh bộ máy làm việc gọn nhẹ và hiệu quả hơn nữa, coi trọng việc tuyển chọn, đào tạo cán bộ, có chính sách hợp lý thu hút được cán bộ nghiệp vụ và quản lý giỏi về kinh doanh và thị trường để giúp công ty phát triển sản xuất kinh doanh. Công tác cán bộ phải kịp thời bổ sung, điều chỉnh các qui chế tuyển chọn đào tạo cán bộ, sử dụng lao động nâng bậc lương tiền lương, tiền thưởng đồng thời chấn chỉnh việc thực hiện nội qui kỷ luật lao động trong công ty . Vấn đề công tác trong thi đua khen thưởng cần đổi mới, theo đúng chỉ đạo của thi đua Nhà nước đồng thời phù hợp với tình hình của công ty. 2. Phương hướng đẩy mạnh xuất khẩu của Nhà nước 2.1) Phát huy thế mạnh ở trong nước và tận dụng tiềm năng ở bên ngoài để mở rộng quan hệ phấn công lao động và hợp tác quốc tế trên mọi lĩnh vực. Củng cố ở vị trí thị trường quen thuộc, khôi phục thị trường truyền thống, tìm thị trường và bạn hàng mới, giảm xuất nhập khẩu qua thị trường trung gian tham gia vào các khối mậu dịch tự do AFTA, cần tiếp xúc với các diễn đàn Châu á Thái Bình Dương... từng bước tham gia các hoạt động trong hệ thống toàn cầu về sự ưu đãi thương mại với các nước đang phát triển. Tranh thủ sự giúp đỡ của nước ngoài về cả nguồn tài chính cũng như là về kimh nghiệm quản lý, những công nghệ tiên tiến.... Từ đó phục vụ cho sự nghiệp đổi mới của nước nhà, hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Việc ưu tiên sản xuất hàng xuất khẩu được thể hiện qua luật đầu tư nước ngoài tai Việt nam. Thông qua các qui định về miễn thuế trong một thời gian nhất định cho các nhà đầu tư. Hình thức liên doanh là hình thức thích hợp nhất về phía Việt nam trong việc tích luỹ vốn, chuyển giao công nghệ và học tập kinh nghiệm quản lý. Bên cạnh đó chúng ta phải có dự án mang lại lời nhuận cao, những dự án có nhiều tiềm năng và phải tạo mọi điều kiện cho bên ngoài đầu tư vào Việt nam một cách tin tưởng và nhanh chóng. Đây là nguồn vốn lớn nhất cho việc sản xuất hàng xuất khẩu. 2.2) Xây dựng qui hoạch phát triển các doanh nghiệp, hợp tác xã, làng nghề và vùng nguyên liệu phục vụ cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Tăng cường hợp tác, liên doanh, liên kết, giữa các vùng kinh tế trao đổi về sản phẩm, công nghệ, kỹ thuật sản xuất –xây dựng và phát triển thêm các làng nghề truyền thống. Trên cơ sở đó hình thành và phát triển công nghiệp nông thôn. Cần ổn định chỉ tiêu khai thác gỗ hợp lý, có tính đến việc bảo vệ môi trường để phát triển kinh tế bền vững. Đối với các cơ sở phát triển xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thì không nên hạn chế chỉ tiêu gỗ hàng năm. 2.3) Giải quyết mọi vướng mắc về cơ chế, chính sách Sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ, đặc biệt là đối với các hàng đồ gỗ, thêu, đan, móc. Dành một phàn vốn ODA để phát triển nghành nghề, đổi mới công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp được xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Do đầu tư trong lĩnh vực này chủ yếu là tư nhân và các đơn vị sản xuất kinh doanh nhỏ nên rất cần đến sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua các chính sách như cho vay ưu đãi, miễn giảm thuế… Vai trò của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn rất quan trọng bởi ngân hàng này có mạng lưới các ngân hàng cơ sở rộng khắp để cho nông dân và các thợ thủ công vay vốn. 2.4) Hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu Việc quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu ngày càng được theo hướng khuyến khích xuất khẩu tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu trên thị trường thế giới. Quốc hội đã thông qua luật Thương mại để tập trung quản lý xuất khẩu vào một đầu mối đó là Bộ Thương Mại thực hiện chức năng thống nhất quản lý Nhà nước và phối hợp với các cơ quan ngang Bộ và Chính phủ để quản lý hoạt động thương mại nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Đối với các doanh nghiệp đã có giấy phép kinh doanh xuất khẩu và nhận uỷ thác kinh doanh xuất khẩu cả những mặt hàng ngoài phạm vi ngành hàng đã có qui định riêng. Dần dần Nhà nước đã hoàn thiện được bộ máy quản lý của mình, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong kinh doanh được thuận lợi. 2.5) Hoàn thiện thủ tục xuất khẩu và chính sách thuế Nhà nước ta sử dụng chính sách thuế để khuyến khích xuất khẩu. Luật thuế thu nhập và thuế giá trị gia tăng đã được thông qua Quốc hội và đã được thực hiện. Đây là biện pháp tài chính khuyến khích tích cực của hoạt động xuất khẩu ở Việt nam. Tuy vậy chính sách thuế của ta còn nhiều kẽ hở, chưa thống nhất. Tuy cơ chế mới về thủ tục đã có thuận tiện và giản đơn còn một số thủ tục chưa khuyến khích được xuất khẩu. 2.6) Xây dựng một mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu Mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu thường lấy nhu cầu của thị trường thế giới làm mục tiêu phát triển, chuyển dịch và cải tạo cơ cấu mặt hàng sao cho thích ứng với những đòi hỏi của thế giới. Mà mục tiêu hướng về xuất khẩu là mở rộng hoạt động xuất khẩu, tăng kim ngạch xuất khẩu. Để mở rộng xuất khẩu cần phải xây dựng cơ sở vật chất làm nền tảng cho sự phát triển. Mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu nhằm khai thác lọi thế so sánh của nền kinh tế Việt nam và tăng cường khả năng cạnh tranh hàng hoá Việt nam trên thị trường thế giới. Xác định nghành trọng điểm của nền kinh tế Việt Nam có ý nghĩa quan trọng cần phải cân nhắc kỹ càng. Hiện nay nhà nước đã xoá bỏ độc quyền kinh doanh xuất khẩu để bảo vệ quyền lợi của người sản xuất và người tiêu dùng. Cho phép các doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài. 2.7) Mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế vào hoạt động xuất khẩu Nhà nước đã xoá bỏ độc quyền trong kinh doanh xuất nhập khẩu tạo ra sự sôi động đa dạng trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu, đảm bảo quyền lợi của người sản xuất và người tiêu dùng. Đề cao phương châm xuất khẩu là ưu tiên, là trọng điểm của kinh tế đối ngoại, tạo thêm các mặt hàng chủ lực, nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường thế giới giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh trong hàng xuất khẩu. Nâng cao tỷ trọng phần giá trị tăng trong giá trị hàng xuất khẩu. II. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu ở công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ artexport. 1 Một số giải pháp vĩ mô từ phía nhà nước Trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, để tồn tại đã khó khăn nhưng để phát triển được lại càng khó khăn hơn. Do vậy, mỗi doanh nghiệp cần phải xác định cho mình một hướng đi phù hợp có hiệu quả. Dù theo hướng kinh doanh nào, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu vẫn có chung một mục tiêu là “đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng đi ưu tiên, trọng điểm cho mục tiêu phát triển của doanh nghiệp”. Theo đánh giá của Bộ Thương Mại và thống kê chính thức của Tổng cục Hải Quan, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ cả nước năm 2000 đạt mức kỷ lục là 326,8 triệu USD, gấp 3 lần so với năm 1996 và tăng 41% so với năm 1999. Tuy vậy năm 2001 xuất khẩu nghành hàng này có sự giảm sút rõ rệt so với cùng kỳ năm trước, năm 2001 chỉ đạt 114 triệu USD, giảm gần 16% so với cùng kỳ năm 2000, trong khi xuất khẩu chung của cả nước tuy có nhiều khó khăn hơn trước nhưng vẫn có tốc độ tăng trưởng 15%. Theo đánh giá của Bộ Thương Mại, bên cạnh nguyên nhân chính là sự trì trệ của nền kinh tế thế giới và sự giảm giá đồng tiền của các nước nhập khẩu thì khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và từng ngành hàng xuất khẩu của ta còn yếu kém. Đây cũng chính là những trăn trở của các doanh nghiệp nước ta nói chung và ngành hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng. Như vậy ngoài những cố gắng của doanh nghiệp ra thì Nhà nước cần phải làm gì để tăng sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp xuất khẩu trên thương trường quốc tế. Hầu như tất cả các doanh nghiệp đều cho rằng, đầu vào của sản xuất là quan trọng nhất, vì vậy cần phải được đầu tư đúng mức, có như vậy mới hạ giá thành và nâng cao được chất lượng của sản phẩm. Cụ thể, Nhà nước phải nghiêm cấm hẳn việc xuất khẩu nguyên liệu thô, đi đôi với việc khuyến khích trồng nguyên liệu và đầu tư công nghệ cao cần thiết cho sản xuất. Mặt khác, Nhà nước cần có biện pháp hữu hiệu khắc phục tình trạng “ngăn sông cấm chợ” cản trở dòng chẩy nguyên liệu đi vào sản xuất và sản phẩm đi xuất khẩu. Nhà nước cũng cần có chính sách mở rộng làng nghề, dậy nghề cho ngành thủ công mỹ nghệ đặc biệt là hàng mây tre lá, đan cói... Kiểm tra chặt chẽ tránh việc làm chiếu lệ để lấy kinh phí Nhà nước mà nên giao cho các doanh nghiệp thực hiện sẽ hiệu quả hơn. Nhà nước cần giải quyết vấn đề vay vốn cho doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp lớn, cần có chính sách cho vay thích hợp, không cần thiết cứ phải thế chấp nhà xưởng, hợp đồng kinh tế.... Vì điều này đã không còn phù hợp với điều kiện sản xuất, kinh doanh hiện nay. Đối với các cơ sở sản xuất nhỏ nên đưa quỹ xoá đói giảm nghèo vào đây vì hầu hết những người làm thủ công mỹ nghệ đều nghèo. Nhà nước cần phải cải thiện những bất hợp lý trong lĩnh vực thuế như khấu trừ, hoàn thuế GTGT... cho doanh nghiệp. Mặt khác, Nhà nước nên giảm thuế thu nhập doanh nghiệp xuống để doanh nghiệp có điều kiện thực hiện các biện pháp thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ. Đa số doanh nghiệp cho rằng, Nhà nước cần có chính sách tăng cường cả về vật chất và những điều kiện hỗ trợ khác cho xúc tiến thương mại, mà vai trò giúp đỡ của tham tán thương mại, cục xúc tiến thương mại thực sự quan trọng. Cần tổ chức các trung tâm trưng bầy hàng hoá tại một số thị trường khu vực xuất khẩu chủ yếu và tiềm năng, tổ chức định kỳ hội trợ hàng thủ công mỹ nghệ mỗi năm hai lần và nên vào tháng ba, tháng chín hàng năm, thành lập tổ chức hiệp hội ngành hàng để doanh nghiệp có một nơi trao đổi kinh nghiệm, thông tin, hỗ chợ nhau và thống nhất giá cả khi chào hàng, tránh tình trạng chào hàng tùm lum gây thiệt hại cho nền kinh tế... 2. Một số giải pháp vi mô từ phía công ty 2.1. Giải pháp về thị trường a. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, bạn hàng và đối thủ cạnh tranh Thị trường có ảnh hưởng quyết định đến doanh nghiệp, do vậy cần phải nghiên cứu kỹ thị trường. Trước khi một sản phẩm mới được sản xuất ra thì cần phải biết thị trường có cần không và cần có chính sách quyết định sản phẩm. Doanh nghiệp cần nghiên cứu xác định rõ: Nhu cầu hiện tại của thị trường Dự báo nhu cầu của thị trường Khả năng chiếm lĩnh thị trường Khả năng cạnh tranh trên thị trường Để thu hút được những thông tin chính xác, nhanh chóng kịp thời trong nghiên cứu thị trường, công ty cần chú trọng thiết lập các mối quan hệ thường xuyên với các cơ quan, sứ quán thương vụ, văn phòng đại diện của Việt Nam tại nước ngoài. Đồng thời thiết lập các mối quan hệ với các cơ quan, đơn vị đại diện của nước ngoài tại Việt Nam. Qua các tổ chức này công ty có thể được giới thiệu với các khách hàng nước ngoài và có được thông tin nhanh về đối tác. Mặt khác công ty cũng cần cử cán bộ sang nước ngoài trực tiếp khảo sát thị trường đàm phán trực tiếp với doanh nhân nước ngoài. Tăng cường cử các đoàn đi dự hội chợ và đi ra nước ngoài để tìm kiếm thị trường. Tìm mọi biện pháp để tham ra thực hiện đựoc chỉ tiêu trả nợ nghị định thư của Nhà nước, tiếp tục tìm mọi bịên pháp mở rộng thị trường ngoài nghị định thư. Củng cố và duy trì các thị trường khách hàng cũ, nơi đã tiêu thụ khối lượng lớn hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống của công ty như ở khu vực thị trường châu á, Nhật Bản, Trung Quốc... mở rộng sang thị trường mới ở Đông Âu, châu Âu và các nước ASEAN để hưởng chế độ ưu đãi. Công ty cần tổ chức việc kiểm tra nghiên cứu nhu cầu thị trường các nước để có thể cải tiến mặt hàng xuất khẩu phù hợp với từng thị trường. Cần tập trung vào các mặt hàng đơn giản, dễ làm nhưng vẫn đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, những mặt hàng đang thường xuyên có nhu cầu lớn và giá bán phù hợp. Đẩy mạnh liên doanh với nước ngoài, nhận bao tiêu sản phẩm. Mở rộng các hình thức gia công sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng bằng nguyên liệu của chính công ty hoặc của khách hàng. Bên cạnh việc nghiên cứu thị trường, để công ty có thể đứng vững và phát triển thì công ty phải tự tìm bạn hàng, tự giao dịch. Khi thị trường cũ biến động thì cần tìm và mở rộng thêm thị trường, phải nghiên cứu khách hàng và đối thủ cạnh tranh sẽ tạo ra được những thuận lợi: Tạo được hình ảnh tốt đẹp của công ty với khách hàng và cả cơ sở sản xuất cung ứng hàng cho công ty. Tác động đến cả khách hàng chưa quen biết, khách hàng tiềm năng. Đạt được sự tin tưởng của khách hàng. Gợi mở đựoc nhu cầu của khách hàng. Hiểu rõ hơn về các đối thủ cạnh tranh trong việc tổ chức hoạt động của họ, từ đó có biện pháp, kế hoạch kịp thời dành lấy những hợp đồng mới. Xác định được các chiến lược của mình cần quan tâm như: + Nhận biết được thị trường xuất khẩu có triển vọng từ đó xem xét, cắt giảm những thị trường kém hấp dẫn để tập trung vào thị trường mục tiêu. + Sắp xếp có thứ tự các thị trường để có thể có chế độ ưu tiên hợp lý. Điều tra được sản phẩm, người điều tra thị trường cần phải nắm được rõ: + Ai là khách hàng đối với sản phẩm của mình. + Mục đích của họ mua để làm gì. + Số lượng khách hàng có thể mua là bao nhiêu, có thể chấp nhận ở mức giá nào. + Đối thủ cạnh tranh là ai, mức độ đến đâu. Vấn đề mở rộng mối quan hệ với khách hàng nó không chỉ đơn thuần là việc xây dựng thêm các mối quan hệ với các bạn hàng thuộc hoặc không thuộc ngành hàng thủ công mỹ nghệ, mà hơn nữa là mở rộng quan hệ với nhau về mặt hàng, về những lĩnh vực cụ thể công ty có thể phối hợp đầu tư với các bạn hàng. Trong sự đa dạng hoạt động kinh doanh không cho phép các hoạt động kinh doanh chỉ bó hẹp trong cùng một số bạn hàng nhất định. Do sự cạnh tranh cùng với sự mất đi của một số bạn hàng thì việc tìm và quan hệ với các bạn hàng mới là tất yếu và không thể thiếu được. Song trong quan hệ đó công ty phải luôn giữ được chữ tín với các bạn hàng bởi vì hoạt động xuất khẩu là hoạt động rất phức tạp chứa đựng nhiều rủi ro nên đã không có niềm tin vào nhau thì các đơn vị kinh doanh không bao giờ mạo hiểm tham gia vào các quan hệ đó. Sự thành bại của công ty bị chi phối rất lớn bởi sự biến động của thị trường, khách hàng, bạn hàng, đối thủ cạnh tranh. Để từ đó đưa ra được những biện pháp tận dụng được tiềm lực của mình, tận dụng những thời cơ đẻ đạy được hiệu quả cao nhất trong sản xuất kinh doanh. b.Tổ chức hợp lý, hiệu quả hoạt động Marketing-Mix Marketing là một quá trình quản lý mang tính xã hội, nhờ đó mà các cá nhân và tập thể có được những gì mà họ cần và mong muốn thông qua việc tạo ra, chào bán và trao đổi bhững sản phẩm có giá trị với những người khác. Marketing có thể hiểu là các hoạt động nhằm nắm bắt nhu cầu thị trường để xác lập các biện pháp thoả mãn tối đa nhu cầu đó, qua đó mang lại lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp. Một doanh nghiệp muốn tăng cường và phát triển tiềm lực của mình không thể thiếu khả năng Marketing mạnh. Để khẳng định vị thế, uy tín của mình trên thị trường, công ty cần phải có hệ thống Marketing mạnh mẽ để khéo léo hấp dẫn khách hàng đến công ty. Với tầm quan trọng như vậy, công ty Artexport không nên chỉ có hướng chung trong hoạt động Marketing mà điều cần thiết là phải cụ thể, hoàn thiện và đẩy mạnh hoạt động Marketing ở công ty. Công ty cần tuyên truyền giáo dục cho cán bộ công nhân viên của mình biết và thấy được tầm quan trọng của công tác này đồng thời chú trọng tới công tác nâng cao nghiệp vụ Marketing cho các nhân viên thông qua các lớp học ngắn hạn và dài hạn dưới bất kỳ hình thức nào. Một chiến lược Marketing tốt có thể giúp doanh nghiệp đạt được cả ba mục tiêu: Lợi nhuận, uy tín và sự an toàn trong kinh doanh qua đó nâng cao lợi nhuận của mình ở cả thời điểm trước mắt và trong tương lai. Hiện nay công ty Artexport không có một phòng Marketing riêng, mà trong mỗi phòng kinh doanh, cán bộ công nhân viên tự làm công tác này, tự tìm hiểu khách hàng và thị trường để ký kết hợp đồng. Như vậy cần phải nâng cao hơn nữa trình độ nghiệp vụ Marketing cho các cán bộ công nhân viên này vì cơ bản họ chưa có trình độ Marketing chuyên môn. Nói tóm lại hoạt động Marketing là một hoạt động không thể thiếu được trong các doanh nghiệp ở nền kinh tế thị trường. Để có hiệu quả tốt thì công ty phải xây dựng và hoạch định các chiến lược Marketing tổ chức thực thi sát với thực tế và nhu cầu của thị trường thì mới đáp ứng được mục tiêu mà công ty đề ra. Đổi mới hình thức xuất khẩu Hiện nay công ty đang chủ yếu áp dụng hai hình thức xuất khẩu: xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu uỷ thác. trong thời gian tới công ty cần có biện pháp tăng cường xuất khẩu trực tiếp cũng như cần thu hút khách hàng nội địa để uỷ thác. Công ty phải lựa chọn hình thức thanh toán có lợi nhất. Công ty cần có đầy đủ thông tin về khách hàng, bên uỷ thác để kịp thời giải quyết các vấn đề khiếu nại để bảo đảm quyền lợi cho các bên, giữ chữ tín cho công ty. Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại Một kinh nghiệm quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu và thành lập các tổ chức xúc tiến thương mại. Đây là tổ chức phi lợi nhuận, thu thập và nghiên cứu thông tin về thị trường ngoài nước, bố trí triển lãm giao lưu quốc tế nhằm hỗ trợ phát triển các mặt hàng mới hoặc ngành nghề sản xuất cụ thể. Hỗ trợ thực hiện các chương trình nằm trong chính sách xuất khẩu của Nhà nước và các tổ chức hợp tác kinh tế đối ngoại. Việt Nam nên có một tổ chức xúc tiến thương mại đủ mạnh để chuyên làm các nhiệm vụ trên. Việc thành lập tổ chức cho phép mở rộng khả năng phối hợp giữa các Bộ, các cơ quan cũng như khả năng được cung cấp thông tin và khả năng tham gia vào thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. Cho đến nay, hàng thủ công mỹ nghệ của công ty đã có mặt trên 30 nước và lãnh thổ. Thị trường xuất khẩu mặt hàng này trong mấy chục năm qua có những giai đoạn thăng trầm, có khi thuận lợi, có lúc khó khăn. nhưng nhìn chung trong thời gian gần đây có chiều hướng phát triển tốt, có nhiều chủng loại hàng hoá mới và mở được nhiều thị trường mới theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ thị trường và quan hệ buôn bán. Trong xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, một mặt ta không bỏ qua những nhu cầu, những lô hàng nhỏ lẻ, miễn là bán được hàng, phát triển được sản xuất và có hiệu quả kinh tế xã hội. Mặt khác cần hết sức quan tâm có định hướng chiến lược, chính sách và biện pháp khai thác những thị trường có dung lượng lớn, có nhu cầu thường xuyên và phong phú về các chủng loại hàng hoá mà ta có khả năng phát triển, từng bước tạo sức cạnh tranh mới để thâm nhập các thị trường này với quy mô ngày càng lớn. Trên thị trường thế giới trong xuất khẩu những loại hàng hóa này công ty đang phải đương đầu với những đối thủ cạnh tranh có nhiều tiềm năng và có kinh nghiệm lớn. Để thắng trong cạnh tranh, về cơ bản công ty phải tìm hiểu phải nghiên cứu sâu và cần học hỏi những kinh nghiệm, thủ pháp kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh và chính sách của Nhà nước, đồng thời với những chất liệu và kỹ thuật riêng của mình phải tạo ra những mẫu mã hàng hoá đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng. 2.2. Giải pháp về sản phẩm Giải pháp về giá cả và quản lý hoạt động xuất khẩu Phát huy những thành tích đã đạt được, Artexport đã rút ra kinh nghiệm thực hiện kế hoạch và vượt qua kế hoạch, tăng cường khả năng của đơn vị, không ngừng tăng kim ngạch. ổn định và phát triển những mặt hàng mỹ nghệ chủ lực nhằm ổn định kim ngạch của công ty, củng cố những thị trường đã và đang xuất khẩu. Nhanh chóng điều chỉnh giá cả cho phù hợp với lợi ích của người sản xuất, nâng cao chất lượng và tạo quan hệ kinh tế tốt đẹp. Mặt khác công ty vẫn thu được lợi nhuận và đảm bảo có nguồn huy động hàng ổn định. Thường xuyên nâng cao chất lượng chào bán, kiên quyết xoá bỏ kiểu làm ăn chạy theo số lượng mà không quan tâm đến chất lượng. - Nghiên cứu đề xuất một số chính sách giá cả, chính sách đối với các nghệ nhân, trích thưởng phần trăm cho người môi giới ký kết hợp đồng... nhằm tạo một bước chuyển biến căn bản với sản xuất hàng mỹ nghệ. Khách hàng mua nhiều loại hàng một lần công ty có thể đưa ra những mức giảm giá hoặc trích thưởng thích hợp hoặc có thể cho phép thanh toán từng phần trong quá trình thực hiện hợp đồng. - Tăng cường các hoạt động bán sản phẩm tại các trung tâm du lịch, các địa điểm của khách nước ngoài nhằm mục đích xuất khẩu tai chỗ. Giải pháp về tạo nguồn hàng, lựa chọn mặt hàng xuất khẩu * Giải pháp về tạo nguồn hàng cho xuất khẩu Công ty chú trọng hơn đến việc xây dựng mối quan hệ với những nhà cung cấp nguyên vật liệu, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, rất cần có sự ổn định của nguồn cung cấp nhằm đảm bảo thực hiện tốt quá trình xuất khẩu. Điều quan trọng nhất là phải có các chính sách về thu mua giá vận tải, lưu kho nhằm hỗ trợ duy trì làm ăn với người dân vùng chuyên canh. Công ty nên tiếp tục vận dụng tổng hợp các hình thức kinh doanh: xuất khẩu trực tiếp, uỷ thác, gia công. Đối với các mặt hàng có hạng ngạch cần thực hiện xuất khẩu trực tiếp, công ty cần cố gắng một cách tối đa trong việc xin cấp hạn ngạch. Trong điều kiện hiện nay việc tìm kiếm khách hàng uỷ thác không phải là dễ. Nhằm thu hút khách hàng uỷ thác công ty phải tạo ra sự hấp dẫn về tỷ lệ thu phí uỷ thác, hỗ trợ khách hàng về vốn và phục vụ tốt các yêu cầu uỷ thác của hãng. Tất nhiên vẫn đảm bảo thu hút mức chi phí hợp lý và lãi trong kinh doanh. Phương thức ra công xuất khẩu cần phải khai thác tối đa để giải quyết các nhu cầu việc làm cho người lao động. Công ty tích cực tìm kiếm khách hàng, kết hợp chặt chẽ trong việc giao nhận và thanh toán. Như vậy để ổn định cho nguồn hàng có chất lượng ổn định đồng thời có thái độ tôn trọng, bình đẳng hợp pháp tôn trọng lẫn nhau, hai bên cùng có lợi giữa công ty và nguồn hàng. Công ty phải có biện pháp cung ứng vốn cần thiết cho đơn vị nguồn hàng. Có chế độ thu mua hợp lý để tạo nguồn động lực khuyến khích người lao động sản xuất nhưng cũng đảm bảo có lãi cho công ty. * Lựa chọn mặt hàng chiến lược, đa dạng hoá hình thức xuất khẩu Ngày nay, một xu hướng kinh doanh được coi có hiệu quả nhất đối với hầu hết các doanh nghiệp đó là đa dạng hoá các mặt hàng trên cơ sở tập trung chuyên môn hoá và một số mặt hàng mũi nhọn, nó sẽ cho phép doanh nghiệp khai thác mọi lợi thế về mặt hàng cũng như về số lượng, giá cả. Đa dạng hoá cho phép doanh nghiệp giảm bớt những rủi ro khi có biến động về mặt hàng. Với chiến lược kinh doanh nay, doanh nghiệp có thể đạt hiệu quả. Để xây dựng được các mặt hàng chiến lược, phải dựa trên những thế mạnh đó là nguồn nguyên liệu, nguồn lao động và phải có thị trường. Như vậy hiện nay các mặt hàng cần phải chú trọng của công ty Artexport đó là hàng: gốm sứ, hàng sơn mài mỹ nghệ, gỗ mỹ nghệ vì đối với những mặt hàng này hiện nay có thị trường tiêu thụ rất lớn, nguồn nguyên liệu sẵn có và có nguồn lao động dồi dào, tay nghề cao. Trên cơ sở các mặt hàng chính đã được xác định là việc nâng cao chất lượng, đa dạng hoá hình thức mẫu mã để thoả mãn một cách tối ưu nhất nhu cầu thị trường quốc tế. Chất lượng hàng thủ công mỹ nghệ phụ thuộc vào chất lượng và việc xử lý nguyên vật liệu. Thực tế cho thấy sản phẩm mỹ nghệ của Việt Nam rất đa dạng độc đáo, mang tính kỹ thuật cao nhưng do điều kiện dịa lý và thiếu phương tiện kỹ thuật cao nên hàng hoá bị xuống cấp, mặt khác mẫu mã của sản phẩm thủ công mỹ nghệ chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Do đó công ty phải có kế hoạch cụ thể để sản phẩm của mình có thể sánh vai cùng với hàng thủ công mỹ nghệ của các nước trên thế giới. Ngoài việc lựa chọn mặt hàng chiến lược công ty cần phải mở rộng danh mục mặt hàng của mình, vì đây là bước đi hoàn toàn phù hợp với nhu cầu thị trường hiện nay. Công ty cần loại bỏ những mạt hàng không sinh lời, không có khả năng phát triển hoặc không tiêu thụ được. Việc đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh sẽ tạo được nhiều cơ hội thâm nhập thị trường hơn, hạn chế được rủi ro trong kinh doanh nhưng công ty không được để dẫn đến việc phân tán làm giảm sức mạnh trong kinh doanh, dẫn đến giảm khả năng về vốn. Bên cạnh đó công ty cần phải có các biện pháp cụ thể để khai thác sử dụng triệt để các nguyên liệu sẵn có trên cơ sở tạo diều kiện thuận lợi cho việc nhập khẩu các loại nguyên liệu ta còn thiếu không thể khôi phục được. Không ngừng cải tiến, đổi mới mẫu mã đề tài, nâng cao chất lượng sản phẩm Hàng thủ công mỹ nghệ phần lớn là hàng trang trí, nên ngoài những đòi hỏi về tính tiện dụng, còn có yếu tố rất cao về tính thẩm mỹ, độc đáo trong kiểu dáng và mẫu mã. Trong khi đó, do phần lớn hàng thủ công mỹ nghệ sản xuất tại nông thôn, sản phẩm hết sức đơn điệu, chất lượng kém và không đồng đều. Nguyên liệu còn chưa được xử lý tốt, thường biến dạng khi có thay đổi về thời tiết, thậm chí phát sinh mối mọt ngay trên đường vận chuyển. Sản xuất phân tán cũng làm cho sản phẩm tốt, xấu lẫn lộn. Vì vậy muốn đảm bảo được uy tín đối với khách hàng, công ty Artexport cần chú trọng đa dạng hoá mẫu mã, đề tài và nâng cao chất lượng sản phẩm. Công ty cần nghiên cứu việc thuê chuyên gia nước ngoài, đặc biệt là việt kiều thiết kế mẫu mã. Tiền thiết kế sẽ được tính vào tiền bán sản phẩm theo tỷ lệ phần trăm, nếu bán được nhà sản xuất sẽ trích tỷ lệ % trả cho nhà thiết kế. Do nắm bắt được thị hiếu của từng năm, từng quý của thị trường, nhà thiết kế sẽ giúp ích không nhỏ cho nhà sản xuất. Nhà sản xuất cũng không thiệt vì chỉ phải trả tiền thiết kế khi bán được sản phẩm. Tuy nhiên vì do thuê chuyên gia thiết kế sẽ mất đi một khoản chi phí đáng kể, do đó chỉ thuê chuyên gia khi đó là những sản phẩm có giá trị cao, khối lượng lớn và thị trường ổn định. 2.3. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong kinh doanh Vốn là yếu tố quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh,nó góp phần chiến thắng trong cạnh tranh và mạng lại lợi nhuận lớn cho công ty. Hiện nay nguồn vốn chủ yếu của công ty là vốn do ngân sách Nhà nước cấp và vốn tự bổ sung. Việc sử dụng vốn của công ty Artexport trong những năm qua là khá hiệu quả. Song trong cơ chế thị trường hiện nay công ty không thể trông chờ vào ngân sách Nhà nước, do đó công ty cần phải có biện pháp huy động nguồn vốn từ mọi khả năng có thể có và điều quan trọng là công ty phải sử dụng nguồn vốn đó sao cho ngày càng có hiệu quả cao hơn. Muốn sử dụng vốn có hiệu quả thì ngoài việc công ty phải biết tiết kiệm chi tiêu, phí hành chính, phí kinh doanh nâng cao chất lượng sản phẩm thì công ty phải giải quyết tốt các công việc: Thu hồi công nợ, giải phóng hàng tồn kho, hạn chế sự phát sinh công nợ mới và hàng tồn kho mới. Khi đầu tư cần phải có trọng điểm và chiều sâu nhằm đem lại những sản phẩm có chất lượng cao, đẩy nhanh khâu tiêu thụ hàng hoá, để tránh hàng tồn và góp phần củng cố uy tín của công ty trên thị trường thế giới. 2.4. Nâng cao trình độ nhiệp vụ kinh doanh, không ngừng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công nhân viên Con người là chủ thể của mọi hoạt động, là yếu tố quyết định đến hiệu quả của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguồn nhân lực là nguyên nhân chính dẫn đến sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp. Vì vậy giải quyết vấn đề con người là tạo động lực cho sự phát triển của công ty. Đặc biệt trong cơ chế thị trường công tác cán bộ tại các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu lại càng quan trọng bởi đối tác có trình độ nghiệp vụ và kinh nghiệm hơn hẳn ta. Do đó, công ty cần có giải pháp đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ phù hợp với công viêc được giao. Mục tiêu của bất kỳ tổ chức nào cũng là sử dụng một cách có hiệu quả nguồn nhân lực, chúng ta có thể nói rằng: “Chiến lược về con người là chiến lược của tất cả các chiến lược, giải quyết vấn đề con người thực chất là tạo động lực cho sự phát triển”. Như vậy cái quý nhất của bất kỳ một doanh nghiệp nào, một đơn vị kinh tế nào cũng đều là nhân tố con người. Hiện nay công ty có tỷ lệ lớn là lực lượng lao động gián tiếp và có một đội ngũ cán bộ quản lý của công ty khá cồng kềnh chưa thích nghi với tính năng động của nền kinh tế thị trường gây trì trệ cho quá trình kinh doanh vủa doanh nghiệp ảnh hưởng tới năng suất và hiệu quả kinh doanh. Đây là một trong những tồn tại còn xót của cơ chế cũ đang xảy ra ở nhiều doanh nghiệp Nhà nước khác. Tuy đội ngũ cán bộ của công ty hầu hết đã có trình độ kinh tế và ngoại ngữ nhưng do thời gian và cơ hội va chạm trực tiếp trên thương trường chưa dài và nhiều, đặc biệt là ttị trường quốc tế. Mặc dù tích luỹ được khá nhiều kinh nghiệm nhưng để đối phó các đối tác nhiều khi còn bị động nên bị đối phương lấn át làm giảm hiệu quả của hoạt động kinh doanh đặc biệt là khi quan hệ làm ăn với các nước lớn như Mỹ, Nhật, ... nhiều kinh nghiệm trên thương trường quốc tế. Trong cơ chế thị trường hiện nay, thành công chỉ đến với doanh nghiệp khi có đủ khả năng, kinh nghiệm, trình độ ngiệp vụ đặc biệt là phải năng động. Cho nên công ty phải không ngừng quan tâm đến việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý. Muốn vậy công ty cần phải thực hiện các vấn đề sau: - Không ngừng nâng cao trình độ, sự hiểu biết chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên, có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại và đào tạo bổ sung cũng như bồi dưỡng lực lượng công tác nghiệp vụ, công việc đào tạo phải được tiến hành một cách từng bước thận trọng phù hợp với tình hình của công ty. Công việc đào tạo phải đem lại chất lượng và sử dụng đúng với khả năng của họ, bố trí cho họ vào những vị trí mà họ có tiềm năng nhất để đem lại sự say mê cho công việc, có như vậy mới đem lại hiệu quả cho hoạt động của công ty. - Công ty phải có chế độ ưu đãi, thưởng phạt phân minh phải quan tâm đến đội ngũ trẻ vì đây là lực lương có vai trò quan trọng đối với những hoạt động kinh doanh có hay không có hiệu quả của công ty. Công ty cần phải có những biện pháp để khuyến khích tinh thần làm việc của cán bộ công nhân viên, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa công ty với thành viên để tạo sự đoàn kết làm cho họ toàn tâm toàn lực với công việc chung. Đây là việc làm hết sức cần thiết và phải tiến hành kịp thời, công ty có thể tiến hành các hình thức như biểu dương, khen thưởng, khuyến khích bằng vật chất, có chế độ thưởng phạt phân minh đối với công sức của mỗi người cần có chế độ ưu đãi đối với cán bộ công nhân viên lâu năm, cần tạo điều kiện cho toàn bộ cán bộ công nhân viên trong công ty có cơ hội hiểu biết và giúp đỡ lẫn nhau. Thực tế, trong những năm qua công ty đã giải quyết tốt mối quan hệ nội bộ tạo bầu không khí gần gũi, hiểu biết lẫn nhau trong toàn công ty cũng như sử dụng hài hoà giữu hai thế hệ. Điều này góp phần tạo nên sức mạnh đưa công ty từng bước đi lên. 5. Tổ chức sản xuất hiệu quả gắn với sản xuất xuất khẩu Để kim ngạch xuất khẩu nâng cao công ty nên kết hợp sản xuất với xuất khẩu nhưng thông qua việc hình thành các xí nghiệp, các xưởng sản xuất. Sự kết hợp này cho phép nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh vì công ty có thể thu lợi từ hai phía: sản xuất –xuất khẩu vì: Đáp ứng tốt, kịp thời nhu cầu của thị trường: qua hoạt động xuất khẩu, công ty có thể nắm được nhu cầu thị hiếu và thói quen của người tiêu dùng để từ đó đưa ra quyết định chính xác khi sản xuất hàng gì. Chủ động về mặt hàng, số lượng và giá cả. Tạo được nguồn hàng chất lượng, ổn định, mẫu mã hợp lý. Giải quyết được việc làm cho người lao động. Khi quyết định hình thành xưởng sản xuất cần phải xác định rõ các yếu tố sau: Chi phí đầu tư về cơ sở vật chất trang thiết bị, chi phí đào tạo nghề không quá cao. Phải nghiên cứu, sáng tạo ra nhiều mẫu hàng mới. Quản lý và nâng cao chất lượng sản phẩm Đồng thời khi xây dựng xưởng sản xuất phải đảm bảo được công tác sau: Nghiên cứu, sáng chế để thử chế ra các sản phẩm mẫu mã đạt chất lương cao. Tổ chức thu gom, đóng gói và giao hàng phải tuân thủ mọi qui chế quản lý kinh tế của Nhà nước, qui định của công ty và xưởng sản xuất phải chịu trách nhiệm về sản xuất, chất lượng hàng hoá sau khi đã thu gom. Như vậy kết hợp giữa sản xuất và xuất khẩu là điều quan trọng đối với một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu và nó vừa tạo được nguồn hàng cho xuất khẩu, vừa tìm được thị trường cho hàng hoá tiêu thụ dẫn đến tăng lợi nhuận cho công ty. 6. Hoàn thiện hơn công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu và bộ máy tổ chức của công ty Việc xây dựng lại hệ thống tổ chức quản lý, phân định rõ ràng trách nhiệm, quyền hạn của từng bộ phận đã được công ty thực hiện, nhưng công ty cần phải hoàn thiện hơn nữa để khai thác triệt để năng lực của cán bộ công nhân viên nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty. Phân công hợp lý, đúng người, đúng công việc phù hợp với trình độ và khả năng chuyên môn của mỗi người. Ban lãnh đạo phải thực hiện nghiêm túc những việc đề ra. Vì quản lý là phải nghệ thuật và có khoa học điều đầu tiên trong hoạt động này là Ban lãnh đạo phải giữ chữ tín trong hoạt động, vì điều đó làm cho các nhân viên tự giác nhận thức được nghĩa vụ và quyền lợi của mình trong hoạt động chung của công ty, làm cho các bộ phận hoạt động có hiệu quả hơn. Mặt khác công ty càng phải quan tâm hơn nữa tới việc phân bổ các chức năng, nhiệm vụ cho các phòng ban một cách hợp lý hơn tránh chồng chéo không cần thiết trong viềc điều hành. Bộ phận lãnh đạo là khâu nối giữa các cá nhân, yếu tố của sản xuất và các thông tin thị trường bên ngoài thành một khối. Họ phải lường trước tình thế có thể xảy ra cho hệ thống họ phải có trách nhiệm dẫn dắt đưa hệ thống tới các mục tiêu thea thứ tự đặt ra trong suốt nhiệm kỳ mà họ đảm nhận trách nhiệm. Trong thời gian tới công ty cần phải tinh giảm gọn nhẹ bộ máy tạo điều kiện tập trung quản lý về một mối. Công ty thực hiện triệt để cơ chế khoán quản để các phòng ban có mục tiêu phấn đấu rõ ràng. Đồng thời có cơ sở đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của từng thành viên qua đó có chế độ thưởng phạt, đảm bảo chế độ bình đẳng công bằng giữa các bộ phận, cá nhân nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ công nhân viên trong hoạt động kinh doanh của công ty . III. Một số kiến nghị với lãnh đạo Bộ Thương Mại và Nhà Nước Việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu là điều tất yếu khách quan và có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của đất nước nói chung công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Artexport nói riêng. Nó là con đường đi lên công nhgiệp hoá và hiện đại hoá đất nước một cách nhanh nhất. Trong nền kinh tế thị trường đầy cạnh tranh, việc kinh doanh trong nước vốn rấ khó khăn thì việc kinh doanh xuất nhập khẩu lại càng khó khăn hơn do mớ quan hệ kinh tế giữa các quốc gia là khác nhau do vậy để làm tốt công tác xuất nhập khẩu, ngoài sự nỗ lực của công ty thì sự phát triển còn phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống quản lý vĩ mô của Nhà nước như các chính sách, luật pháp, tỷ giá hối đoái. Với các chính sách, cơ chế, biện pháp hợp lý của Nhà nước sẽ tạo điều kiện cho công ty có cơ hội để phát triển, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Vì vậy trước khi ban hành một chính sách nào Nhà nước cần quan tâm hơn đến các đối tượng bị tác động, các vấn đề khó khăn, nổi cộm của các đối tượng đó. Để tăng nhanh hơn nữa hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, đạt được mục tiêu đề ra năm 2005 và 2010, công ty đề nghị các cơ quan quản lý Nhà nước cần nghiên cứu và giải quyết các vấn đề sau: 1. Tăng mức ưu đãi đầu tư sản xuất, kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ Với hệ thống chính sách khuyến khích, ưu đãi hiện hành thì trong sản xuất kinh doanh nội địa, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ thuộc các ngành nghề truyền thống được ưu đãi ở mức cao hơn các mặt hàng khác thuộc ngành nghề truyền thống. Nhưng trong trường hợp xuất khẩu thì mức ưu đãi không có gì khác biệt giữa hàng thủ công mỹ nghệ thuộc ngành nghề truyền thống so với các hàng hoá xuất khẩu khác. Vì vậy đề nghị Nhà nước là: hàng thủ công mỹ nghệ thuộc các ngành nghề tryuền thống có quy định (thuộc diện khuyến khích, ưu đãi trong danh mục A) tức đạt hai nội dung được ưu đãi quy định trong danh mục A thì hưởng mức ưu đãi cao hơn. Ví dụ: Dự án sản xuất kinh doanh mặt hàng thủ công mỹ nghệ thuộc ngành nghề truyền thống (thuộc danh mục A) có sử dụng nhiều lao động, được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 2 năm và giảm 30% cho 4 năm tiếp theo. Nếu dự án thực hiện xuất khẩu trên 30% thì được hưởng ưu đãi, miễn 3 năm thuế thu nhập doanh nghiệp và giảm 30% cho 5 năm tiếp theo. 2. Nhà nước phải có chính sách ưu đãi đối với các làng nghề, các nghệ nhân Nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam được duy trì và phát triển chủ yếu ở các làng nghề. Trong quá trình phát triển những làng nghề có điều kiện cơ hội phát triển nhanh đều gặp một số khó khăn như thiếu vốn hoạt động, cơ sở hạ tầng yếu kém, ô nhiễm môi trường và hiện nay có nơi vấn đề cơ sở hạ tầng, môi trường đặt ra gay gắt, bức xúc như làng gốm Bát Tràng, làng nghề mây tre đan ở Hà Tây... Phát triển các làng nghề thủ công mỹ nghệ sẽ giải quyết được vấn đề xã hội cho đất nước như việc làm cho người lao động nhàn rỗi, tăng thu nhập cải thiện đời sống cho nhân dân, hạn chế các tệ nạn xẩy ra, duy trì nét đẹp văn hoá truyền thống... Nhà nước cần thực hiện rõ vai trò của các làng nghề đối với đất nước mà đưa ra chính sách phát triển hợp lý để qua đó người dân tập trung sản xuất phát triển làng nghề, nâng cao chất lượng sản phẩm, thu hút khách hàng nước ngoài vào đầu tư. Các làng nghề yên tâm sản xuất tạo ra một nguồn hàng xuất khẩu dồi dào, phong phú về mẫu mã, kích thước tạo điều kiện dễ dàng trong khâu thu mua hàng hoá của công ty. Ngoài chính sách đối với các làng nghề ra thì Nhà nước cũng cần có chính sách đối với các nghệ nhân, thợ thủ công vì họ có vai trò rất lớn đối với nghề và làng nghề thủ công truyền thống. Có thể nói nếu không có nghệ nhân thì không có làng nghề hoặc ít nhất cũng không thể có làng nghề nổi danh, họ có vai trò rất tích cực trong việc bảo tồn và phát triển ngành nghề cũng như làng nghề. Vì vậy, muốn duy trì và phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống Nhà nước cần có chính sách đối với nghệ nhân, giúp đỡ hỗ trợ khuyến khích họ phát huy tài năng phát triển nghề phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, truyền dậy nghề cho con cháu, đào tạo nghề cho lao động sản xuất. Chính sách đối với nghệ nhân, thợ giỏi được thực hiện tốt là một đảm bảo duy trì và phát triển đội ngũ thợ lành nghề trong các làng nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống, góp phần bảp tồn và phát triển một trong những di sản văn hoá quý giá của dân tộc. 3. Nhà nước cần chú trọng việc cung ứng nguyên liệu cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ Để tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ khắc phục một số khó khăn hiện nay trong việc tiếp cận nguồn nguyên liệu khai thác ở trong nước. Đề nghị Nhà nước áp dụng một số biện pháp sau: Đối với các loại nguyên liệu như song, mây, tre lá, ... các đơn vị khai thác phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu. Đề nghị Chính phủ có chính sách hỗ trợ dự án đầu tư xây dựng vùng trồng nguyên liệu phục vụ cho xuất khẩu. Đối với gỗ khai thác từ rừng tự nhiên, đề nghị ưu tiên giao cho các đơn vị có hợp đồng xuất khẩu sản phẩm gỗ mỹ nghệ. Các đơn vị này phải duyệt quyết toán việc sử dụng gỗ nguyên liệu cho các hợp đồng đó để được giao hạn mức gỗ nguyên liệu cho năm sau và được nhận gỗ trực tiếp từ các đơn vị khai thác gỗ, tránh việc giao nhận lòng vòng đẩy giá thành lên cao. Nhà nước tổ chức xây dựng ngành công nghiệp khai thác và xử lý nguyên liệu để cung ứng cho cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu như nguyên liệu gỗ, nguyên liệu cho các ngành sản xuất gốm sứ...Vì các cơ sở này thường không có khả năng đủ vốn và kỹ thuật để đầu tư xây dựng công nghiệp này, nguyên liệu được khai thác xử lý đúng quy trình công nghệ vừa đảm bảo tiết kiệm nguyên liệu, đảm bảo chất lượng nguyên liệu đầu vào do đó nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh hàng hoá của ta trên thị trường thế giới. 4. Nhà nước cần sửa đổi, bổ sung các nghị định cho vay vốn, nhất là vốn ưu đãi Hiện nay, vốn luôn là vấn đề nóng hổi, bức xúc đối với các doanh nghiệp. Song theo nghị định 43/1999 NĐ/CP ngày 29/6/1999 của Chính Phủ, quỹ tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, thì những dự án đầu tư tại các vùng khó khăn mới được vay từ quỹ hỗ trợ phát triển của Nhà nước. Vì vậy đề nghị Chính Phủ mở rộng thêm việc cho vay vốn từ quỹ này đối với các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh thuộc ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống. Đồng thời các dự án này được áp dụng chính sách “Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư” theo quy định tại nghị định 43 hoặc được quỹ này bảo lãnh tín dụng đầu tư. Trường hợp dự án đầu tư sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu có thể được quỹ hỗ trợ xuất khẩu quốc gia cấp tín dụng xuất khẩu ưu đãi và bảo lãnh tín dụng xuất khẩu. Thực trạng hiện nay là các đơn vị sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ đều thiếu vốn, không vay được vốn hoặc không dủ sức vay vốn với lãi suất cao để tổ chức sản xuất và kinh doanh. Vì vậy để khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh hiện có tăng nguồn hàng cho xuất khẩu thì đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh làm ăn có hiệu quả, ký kết được nhiều hợp đồng có giá trị cao (lớn hơn 50000 USD) đề nghị Chính Phủ cho hưởng các mức ưu đãi về vốn kinh doanh như: Được Ngân hàng ưu tiên cho vay đủ vốn sản xuất kinh doanh theo hợp đồng đã ký. Sau khi thực hiện hợp đồng quỹ hỗ trợ phát triển của Nhà nước hoặc quỹ hỗ trợ xuất khẩu theo lãi suất quy định tại nghị định 43 nêu trên (tức hỗ trợ 50% lãi suất trên số vốn đã vay thực tế tại Ngân hàng). 5. Giảm nhẹ tiền cước vận chuyển và các lệ phí tại các cảng, cửa khẩu đối với mặt hàng thủ công mỹ nghệ Vì hàng thủ công mỹ nghệ thường là các loại hàng cồng kềnh, giá trị không cao nên Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ ưu đãi cụ thể như sau: Hàng thủ công mỹ nghệ vận chuyển từ nơi sản xuất tới cảng, khẩu để giao hàng xuất khẩu. Trên tất cả các phương tiện vận chuyển đều được giảm 30% hoặc 50% cước vận chuyển theo biểu giá cước hiện hành. Nhà nước hỗ trợ thông qua việc nhận giảm thu trong hạch toán thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp hàng năm. Giảm 50% (theo giá hiện hành) tất cả các chi phí hoặc lệ phí thu tại cảng, khẩu có liên quan đến việc giao hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Giảm 50% tiền cước phí, bưu phí gửi hàng mẫu là hàng thủ công mỹ nghệ cho khách hàng nước ngoài hoặc gửi hàng mẫu tham dự các hội chợ triển lãm ở nước ngoài. Bên cạnh những kiến nghị trên thì các cơ quan quản lý Nhà nước cũng cần có cơ chế khuyến khích xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tại chỗ, sửa đổi một số điểm trong luật thuế giá trị gia tăng, bỏ thuế xuất khẩu đối với một số chủng loại hàng hoá thủ công mỹ nghệ, sửa đổi tiêu chuẩn xuất khẩu đối với hàng thủ công mỹ nghệ. Ngoài những kiến nghị chủ yếu nói trên, còn có nhiều yếu tố và điều kiện khác nhưng trong thời gian ngắn chưa thể giải quyết hết được. Công tác xuất nhập khẩu trước mắt và nhiều năm tới có nhiều thuận lợi nhưng khó khăn còn rất lớn, nhất là sau khi Việt Nam ra nhập ASEAN về thuế quan và đàm phán ra nhập WTO nên sự chỉ đạo quan tâm của Bộ Thưong Mại, Nhà nước và sự ủng hộ của các cấp các ngành sẽ là nguồn động lực lớn để công tác xuất nhập khẩu của công ty có sự khởi sắc và ổn định. Kết luận Trong thời gian thực tập tại công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Artexport vừa qua đã đem lại cho em những kiến thức bổ ích và hiểu biết được về tình hình thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Đây là loại thị trường vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết, do đó việc phát triển thị trường và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mặt hàng này đang đươc công ty đặt lên hàng đầu trong những vấn đề mà công ty quan tâm. Hoạt động xuất khẩu nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đã và đang là hoạt động có đóng góp to lớn vào sự phát triển của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù vẫn còn gặp nhiều khó khăn về vốn, công nghệ, thị trường xuất khẩu... nhưng thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vẫn sôi động và đầy triển vọng. Với quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới, sản phẩm thủ công mỹ nghệ ngày càng đòi hỏi chất lượng cao hơn. Vì vậy qua sự kết hợp lí luận và thực tế em mong muốn được góp sức nhỏ bé của mình để phát triển thị trường mỹ nghệ của công ty và mong muốn công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Artexport sẽ vững bước đi lên cùng sự phát triển của đất nước. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn tới T.S Phan Kim Chiến đã tận tình giúp đỡ hướng dẫn em hoàn thiện bài viết này. Em cũng xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Artexport, đặc biệt là phòng kinh doanh mỹ nghệ đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ em trong quá trình thực tập và viết luận văn này. Mục lục Tài liệu tham khảo………………………………………………………….86

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0472.doc
Tài liệu liên quan