Thực trạng vệ sinh an toàn thực phẩm của cơ sở sản xuất nước uống đóng chai tại tỉnh Bình Dương Năm 2013

Số lượng cơ sở dùng nguồn nước giếng khoan để sản xuất NUĐC còn nhiều (50,6%); Số lượng cơ sở áp dụng các quy trình quản lý chất lượng còn rất thấp (2,3%); Đa số cơ sở sản xuất NUĐC có công suất nhỏ dưới 5.000 lít/ngày (90,8%), dùng vỏ chai trên 20 lít (63,2%) và sản xuất nước uống đóng chai theo công nghệ thủ công (86,2%). Các điều kiện về an toàn thực phẩm đạt còn thấp: Điều kiện về thiết kế nhà xưởng đạt (24,1%); Điều kiện nhà vệ sinh đạt (59,8%); Điều kiện con người đạt (62,1%); Vệ sinh bao bì đạt (60,9%). Người sản xuất có kiến thức đúng về thực hành sản xuất là rất thấp (13,9%), đặc biệt là kiến thức đúng về vệ sinh bàn tay (28,4%).

pdf8 trang | Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 490 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng vệ sinh an toàn thực phẩm của cơ sở sản xuất nước uống đóng chai tại tỉnh Bình Dương Năm 2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 552 THỰC TRẠNG VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM CỦA CƠ SỞ SẢN XUẤT  NƯỚC UỐNG ĐÓNG CHAI TẠI TỈNH BÌNH DƯƠNG NĂM 2013  Nguyễn Văn Đạt*  Đặt vấn đề: Ngày nay, với sự phát triển của kinh tế, xã hội thì việc sử dụng nước uống đóng chai (NUĐC)  đang ngày trở lên phổ biến. Tuy nhiên, thực tế NUĐC không phải luôn luôn an toàn. Do đó, việc nghiên cứu  thực  trạng an  toàn  thực phẩm  (ATTP) nước uống đóng chai  tại  tỉnh Bình Dương nơi đang phát  triển công  nghiệp nhanh là cần thiết.  Mục tiêu: Xác định tỉ lệ mẫu nước uống đóng chai đạt theo tiêu chuẩn, tỉ lệ cơ sở sản suất NUĐC đạt các  điều kiện an toàn thực phẩm, tỉ lệ người sản xuất có kiến thức đúng về thực hành ATTP.  Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên toàn bộ 87 cơ sở sản xuất  NUĐC tại tỉnh Bình Dương, các mẫu nước được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống. Các chỉ tiêu đánh  giá chất lượng nước được chọn theo QCVN: 6 ‐ 1:2010 ‐ BYT.  Kết quả nghiên cứu: Trong số 87 mẫu NUĐC có 56,3% mẫu NUĐC đạt tiêu chuẩn. Trong đó, chỉ tiêu vi  sinh vật đạt 57,5%, kim loại nặng đạt 98,8%, lý hóa đạt 100%. Điều kiện về thiết kế nhà xưởng đạt (24,1%);  Điều kiện nhà vệ sinh đạt (59,8%); Điều kiện con người đạt (62,1%); Vệ sinh bao bì đạt (60,9%). Trong 194  người sản xuất được khảo sát, tỉ lệ có kiến thức đúng về thực hành sản xuất (13,9%). Có mối liên quan giữa chất  lượng nước uống đóng chai với điều kiện con người [PR=1,8; KTC95%(1,2 ‐ 2,8); p=0,015], dung tích vỏ chai  [PR=1,5; KTC95%(1,1 ‐ 2,1); p=0,005] và vệ sinh bao bì [PR=1,9; KTC95% (1,1 ‐ 3,4; p=0,021).  Kết luận: Thực trạng về điều kiện kiện vệ sinh cơ sở, con người và quá trình vệ sinh bao bì đạt thấp. Tỉ lệ  NUĐC đạt theo tiêu chuẩn thấp, đặc biệt là chỉ tiêu vi sinh vật. Có mối liên quan dung tích vỏ chai và vệ sinh bao  bì với chất lượng NUĐC.   Từ khóa: Nước uống đóng chai, an toàn thực phẩm  ABSTRACT  THE STATUS OF FOOD SAFETY IN THE PRODUCTION FACILITIES OF BOTTLED WATER   IN BINH DUONG PROVINCE 2013  Nguyen Van Dat * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6 ‐ 2014: 552 ‐ 559  Background: Nowadays, with  the development of  economy and  society,  the use of bottled water  is more  common. However, the bottled water is not always safe. Therefore, examining food safety status of bottled water in  Binh Duong province, where there is a rapidly developing industry is necessary.  Objectives: To identify the proportion of bottled water complied with food safety standards, the production  facilities  of  bottled water  complied with  food  safety  standards  and  percentage  of  producers who  have  proper  knowledge on food safety practice.  Method:A  cross  ‐  sectional  study  included  all  87  production  facilities  of  bottled water  in Binh Duong  province was  conducted. Water  samples were  selected  by  systematic  random method. The  indicator  of water  quality is selected by QCVN: 6 ‐ 1:2010 ‐ BYT.  Results: Only 56.3% of the bottled water samples complied with  food safety standards. In particular, the  microorganic,  heavy metal  and  physicochemical  indicators were  57.5%,  100%,  and  98.8%  respectively.  The  * Chi Cục An toàn vệ sinh thực phẩm tỉnh Bình Dương  Tác giả liên lạc: BS.CKII Nguyễn Văn Đạt  ĐT: 0918119493  Email: nguyendat1964@gmail.com  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  553 conditions of food safety at the production facilities were low: including toilet (59.8%); human (62.1%); hygiene  packaging  (60.9%). The  producers had proper  knowledge  about production practices were very  low  (13.9%).  There was an association between the quality of bottled water with the human condition [PR = 1, 8, 95% CI (1.2  to 2.8), p = 0.015], bottle capacity [PR = 1, 5, 95% CI (1.1 to 2.1), p = 0,005] and hygienic packaging [PR = 1, 9,  95% CI (1.1 to 3.4, p = 0.021).  Conclusion:  The  hygiene  conditions  of  the  production  facilities,  human,  and  packaging were  low.  The  bottled water samples complied with food safety standards was low, in particular, the microorganisms. There was  an association between the quality of bottled water with bottle capacity and hygienic packaging.  Keywords: Bottled water, food safety  ĐẶT VẤN ĐỀ  Nước  là một  thực  phẩm  cần  thiết  cho  đời  sống và nhu cầu sinh lý của cơ thể. Bên cạnh đó,  chất lượng nước cũng đang là vấn đề quan tâm  hàng đầu của Y tế công cộng. Ngày nay, với sự  phát  triển  của kinh  tế, xã hội  thì việc  sử dụng  NUĐC đang ngày trở lên phổ biến ở nhiều nước  trên thế giới trong đó có Việt Nam.  Có  nhiều  lý  do  người  tiêu  dùng  tìm  đến  NUĐC,  trong đó có sự  tiện  lợi,  tính  thời  trang,  hương  vị  và  thường  được  nhìn  nhận  là  tinh  khiết,  sạch  sẽ  và  có  chất  lượng  tốt. Tuy  nhiên,  thực  tế NUĐC  không  phải  luôn  luôn  an  toàn.  Theo nghiên cứu điều tra chất lượng vi sinh vật  và hóa học của nước đóng chai ở Sri Lanka, kết  quả  cho  thấy  63%  của  các  thương  hiệu  được  kiểm tra vượt quá mức cho phép(2). Nghiên cứu  trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh năm 2006  cho thấy chỉ có 42% mẫu NUĐC đạt tiêu chuẩn,  báo  cáo  công  tác kiểm nghiệm vệ  sinh an  toàn  thực phẩm của Cục ATTP ‐ Bộ Y tế năm 2007 thì  chất  lượng NUĐC không  đạt về vi  sinh  (E.coli,  Coliform) 42,9%.  Tỉnh  Bình  Dương  là một  tỉnh  thuộc miền  Đông Nam Bộ, có tốc độ phát triển công nghiệp  nhanh.  Theo  số  liệu  thống  kê  của Chi  cục An  toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) Bình Dương  đến  tháng  12/2012  đã  có  87  cơ  sở  sản  xuất  NUĐC. Năm  2012, qua báo  cáo kết quả  thanh  kiểm tra 19 cơ sở sản xuất NUĐC có 28,3% cơ sở  không  đảm bảo điều kiện vệ  sinh cơ  sở, 42,1%  mẫu nhiễm vi sinh vật, 15,7% mẫu không đạt chỉ  tiêu về  lý hóa, đây  là con số đáng báo động về  chất  lượng NUĐC,  bên  cạnh  đó  cũng  chưa  có  một nghiên cứu nào  liên quan đến NUĐC  trên  địa  bàn  tỉnh  Bình  Dương.  Do  đó,  tiến  hành  nghiên  cứu  “Thực  trạng  vệ  sinh An  toàn  thực  phẩm  cơ  sở  sản  xuất  nước  uống  đóng  chai  tại  tỉnh Bình Dương năm 2013” nhằm đánh giá chất  lượng NUĐC theo QCVN mới và thực trạng cơ  sở sản xuất NUĐC để giúp cơ quan quản lý kịp  thời có các giải pháp can thiệp, kiểm soát và hạn  chế tình hình ô nhiễm chất lượng NUĐC.  Mục tiêu nghiên cứu  Xác định tỉ lệ các đặc tính của cơ sở sản xuất  NUĐC  (Nguồn  nước  sử  dụng,  công  suất  sản  xuất, thực hiện thủ tục hành chính: Chứng nhận  đủ điều kiện ATTP, công bố chất  lượng, chứng  nhận HACCP).  Xác định tỉ  lệ cơ sở sản xuất NUĐC đạt các  điều kiện ATTP về sản xuất NUĐC theo Thông  tư số 16/2012/TT ‐ BYT.  Xác định tỉ lệ người sản xuất NUĐC có kiến  thức đúng về thực hành sản xuất.  Xác định tỉ lệ NUĐC thành phẩm đạt chuẩn  tại các cơ sở sản xuất NUĐC.  Xác  định  mối  liên  quan  giữa  chất  lượng  NUĐC với  điều kiện ATTP của cơ sở  sản xuất  NUĐC.   ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Thiết kế nghiên cứu  Mô tả cắt ngang.   Thời gian và địa điểm nghiên cứu  Từ  01/01/2013  đến  30/9/2013,  tại  tỉnh  Bình  Dương.  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 554 Đối tượng nghiên cứu  Tất  cả  cơ  sở  sản  xuất NUĐC  trên  địa  bàn  tỉnh Bình Dương; Tất  cả nước uống  đóng  chai  thành phẩm của các cơ sở sản xuất NUĐC; Tất  cả người trực tiếp sản xuất NUĐC đang làm việc  tại các khâu vệ sinh bao bì, chiết rót, đóng nắp  thành phẩm tại cơ sở sản xuất NUĐC.  Cỡ mẫu và kỹ thuật chọn mẫu  Chọn toàn bộ 87 cơ sở sản xuất NUĐC trên  địa bàn tỉnh để đánh giá thực trạng ATTP và tại  mỗi cơ sở sản xuất NUĐC chọn ngẫu nhiên 01  mẫu NUĐC  để  đánh giá  chất  lượng. Khảo  sát  kiến thức về ATTP toàn bộ 194 đang người trực  tiếp làm việc tại các cơ sở sản xuất NUĐC.  Phương pháp phân tích số liệu  Số  liệu  được  nhập  liệu  bằng  phần  mềm  EpiData 3.1 và phân  tích bằng phần mềm Stata  12.0. Sử dụng kiểm định χ2 xác định sự khác biệt  2  tỉ  lệ. Dùng mô  hình  hồi  quy Poisson  để  xác  định mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ với  thực  trạng  ATTP  hiệu  chỉnh  cho  các  biến  số  nhiễu  hoặc  tương  tác(0).  Ước  lượng  mối  liên  quan bằng số đo kết hợp tỉ số tỉ lệ hiện mắc (PR).  KẾT QUẢ ‐ BÀN LUẬN  Đặc  tính  của  cơ  sở  sản  xuất  nước  uống  đóng chai (n=87)  Tỉ  lệ  cơ  sở dùng nước giếng khoan  (50,6%)  để sản xuất NUĐC còn cao. Điều này có  thể  là  do nhà sản xuất muốn giảm chi phí nên sử dụng  nước giếng khoan vào quá trình sản xuất. Đa số  các cơ sở sản xuất nước uống đóng chai là các cơ  sở  có  công  suất  vừa  và  nhỏ,  <5.000  lít/ngày  (90,8%).   Tỉ lệ cơ sở sản xuất nước uống đóng chai có  giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP (98,6%) và  có  công  bố  chất  lượng  (97,7%)  là  cao. Kết  quả  này là phù hợp với báo cáo của Chi cục An toàn  vệ sinh  thực phẩm  tỉnh Bình Dương năm 2012.  Tuy  nhiên,  chỉ  có  2,3%  cơ  sở  có  chứng  nhận  HACCP, điều này có thể là do Luật ATTP cũng  không bắt buộc  cơ  sở  sản xuất NUĐC phải  có  chứng nhận này nên đa số các cơ sở chưa  thực  hiện hoặc không có đủ kinh phí để thực hiện.   2. Thực trạng an toàn thực phẩm cơ sở sản  xuất nước uống đóng chai (n=87)  Vị trí nhà xưởng  Vị trí xây dựng nhà xưởng có ảnh hưởng lớn  đến  chất  lượng nước uống  đóng  chai vì nó  có  ảnh hưởng quan trọng đến môi trường sản xuất.  Kết quả nghiên cứu cho thấy, vẫn còn 4,6% cơ sở  gần  các  khu  vực  ô  nhiễm  như:  Nhà  vệ  sinh,  chuồng gia súc, đường giao  thông, khu vực dễ  ngập  lụt.  Điều  này  có  thể  là  do  chính  sách  khuyến khích phát triển sản xuất cho các doanh  nghiệp trong nước vừa và nhỏ của Ủy ban nhân  dân tỉnh, các doanh nghiệp sản xuất NUĐC vẫn  chưa phải  tập  trung vào  các khu  công nghiệp,  chính  vì  vậy mà  nhiều  cơ  sở  sản  xuất NUĐC  hình  thành  tại nhiều khu vực khác nhau  thậm  chí là trong cả khu vực dân cư và nhà trọ, những  nơi  này  thường  điều  kiện môi  trường  không  đảm bảo cho hoạt động sản xuất.   Thiết kế nhà xưởng  Với tiêu chí đánh giá là cơ sở phải được thiết  kế và xây dựng theo nguyên tắc một chiều và có  diện  tích và cơ cấu diện  tích giữa các khu phải  phù  hợp  với  công  suất  (Khu  vực  sản  xuất  phải  rộng rãi, vỏ chai, bình nước và các dụng cụ dùng để  sản xuất nước không làm ảnh hưởng đến các đường  nội  bộ  trong  nhà máy  và  các  hoạt  động  sản  xuất)  trong nghiên cứu này xác định được 78,3% cơ sở  đạt về mặt  thiết kế nhà xưởng. Điều này  cũng  hợp lý vì như đã nêu ở trên phần lớn các cơ sở  này đã được chứng nhận đủ điều kiện ATTP và  hai tiêu chí thiết kế theo nguyên tắc một chiều và  diện tích không bị thay đổi theo thời gian hoặc bị  xuống cấp.   Kết cấu nhà xưởng  Tỉ  lệ cơ  sở đạt về kết cấu nhà xưởng  là  rất  thấp (24,1%). Trong đó, cơ sở chưa quan tâm đầu  tư cho hệ thống phòng chống côn trùng, thiết kế  mặt sàn khu vực sản xuất và tường khu vực sản  xuất. Tỉ lệ này là thấp hơn so với kết quả thanh  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  555 kiểm tra năm 2011 của Chi cục An toàn vệ sinh  thực phẩm, tỉ lệ đạt là 90%(3). Điều này có thể là  do những tiêu chí này nếu định kỳ không được  bảo dưỡng, tu sửa, nâng cấp thì sẽ bị xuống cấp.  Bên  cạnh  đó,  quá  trình  vệ  sinh  bề mặt  tường  nhà, nền nhà, hệ  thống phòng  chiết  rót  là một  quá trình mang tính chất thường xuyên liên tục  nên để thực hiện tốt các điểm này đòi hỏi người  sản xuất phải có ý thức và trách nhiệm cao.  Trang  thiết bị dụng  cụ:  Điều kiện về  trang  thiết bị dụng cụ đạt  là 79,3%. Để đánh giá điều  kiện về trang thiết bị dụng nghiên cứu đã đánh  giá theo 3 tiêu chí chính: Tiêu chí thứ nhất là các  dụng cụ tiếp xúc với nước phải làm bằng vật liệu  chuyên  dùng  cho  thực  phẩm,  tất  cả  phải  có  chứng  nhận  tiêu  chuẩn  sản  phẩm  được  phép  dùng  trong  thực  phẩm  và  phải  được  vệ  sinh  sạch  sẽ,  với  tiêu  chí  này  nghiên  cứu  xác  định  86/87  cơ  sở đạt, kết quả này  là  cao hơn  so với  nghiên  cứu  của  Trần  Thị Ánh Hồng,  tại  Bình  Định năm 2011(9). Tiêu chí thứ 2 là dụng cụ chứa  gom chất thải trong khu vực sản xuất phải đảm  bảo vệ sinh, tương tự như tiêu chí 1 nghiên cứu  này cũng  tìm  thấy  tỉ  lệ đạt  là cao  (89,7%). Tiêu  chí  thứ  3  (83,9%)  là  đánh  giá  về  dụng  cụ  lọc  nước,  tiêu  chí  này  do  chuyên  gia  chuyên  về  ngành sản xuất nước uống đóng chai đánh giá,  các quá  trình được kiểm  tra  là: Làm mềm, khử  khoáng; lọc thô; lọc thẩm thấu ngược; khử trùng  bằng ozone.   Hệ  thống  thoát nước: Hệ  thống  thoát nước  đạt  tiêu chuẩn an  toàn  thực phẩm  là  tương đối  thấp  (77%),  trong  đó  chủ yếu  là hố  chứa nước  thải  không  đảm  bảo  vệ  sinh.  So  với  kết  quả  nghiên  cứu  của  Trần  Thị  Ánh Hồng  tại  Bình  Định, năm 2011 kết quả nghiên cứu này là thấp  hơn (85%)(9). Sự khác biệt này là do khác biệt về  tiêu  chí  đánh  giá.  Trong  nghiên  cứu  này  xác  định cả hệ  thống  thoát nước  trong và ngoài cơ  sở, bao gồm cả việc đánh giá hố chứa nước thải.   Điều kiện nhà vệ sinh  Trong nghiên cứu này, về vị trí xây dựng các  khu vực nhà vệ sinh cách khu vực sản xuất 5m  có 97,7% cơ sở đạt, về mặt  thiết kế cửa nhà vệ  sinh không quay trực tiếp vào khu vực sản xuất  (91,9%) cơ sở đạt. Kết quả này cũng tương tự với  kết quả  của Trần Thị Ánh Hồng  tại Bình Định  năm  2011(9).Tuy  nhiên,  về  trang  thiết  bị  trong  nhà vệ sinh (Bồn rửa tay, xà bông, phương tiện làm  khô tay) chỉ đạt 62,1%, đa phần các cơ sở không  trang bị hoặc trang bị nhưng không đầy đủ các  trang thiết bị cần thiết để vệ sinh cá nhân sau khi  đi vệ sinh. Điều này là rất nguy hại vì người sản  xuất không có điều kiện  tốt để vệ sinh cá nhân  đặc  biệt  là  vệ  sinh  bàn  tay. Nguyên  nhân  của  tình trạng này có thể là do người sản xuất thiếu  kiến thức hoặc cũng có thể là do người chủ cơ sở  tiết kiệm chi phí không trang bị.  Điều kiện vệ sinh con người  Với  2  tiêu  chí  đánh  giá  (Không  mắc  bệnh  truyền nhiễm và thực hành vệ sinh cá nhân) nghiên  cứu này chỉ tìm thấy 62,1% cơ sở đạt vệ sinh về  mặt người  sản xuất. Do  đó,  trong  thời gian  tới  cần phải có biện pháp can thiệp nhằm nâng cao  ý thức chấp hành cho chủ cơ sở và cho người sản  xuất nhằm hạn chế đến mức thấp nhất nguy cơ ô  nhiễm từ người sản xuất. Bên cạnh đó, tỉ lệ cơ sở  có vệ  sinh bao bì  đạt  tiêu  chuẩn ATTP  là  thấp  (60,9%). Trong đó, chủ yếu  là do quá  trình xúc  rửa vỏ chai không đảm bảo vệ sinh.   Vỏ chai sử dụng  Chỉ có 36,8% cơ sở dùng vỏ chai sử dụng 1  lần (vỏ chai dưới 20 lít), đa số các cơ sở này là các  cơ sở  lớn có quy trình công nghệ tự động. Việc  sử dụng vỏ chai 1 lần sẽ hạn chế được nguy cơ ô  nhiễm từ quá trình xúc rửa vỏ chai, tuy nhiên sử  dụng loại vỏ chai này sẽ làm tăng chi phí cho sản  xuất do đó nhà sản xuất còn hạn chế sử dụng.  Quy trình công nghệ  Đa  số  các  cơ  sở  sản  xuất  nước  uống  đóng  chai có công nghệ sản xuất thủ công (86,2%). Chỉ  có (13,8%) cơ sở áp dụng công nghệ sản xuất tự  động. Kết quả này cũng hợp  lý vì trong nghiên  cứu này đa số các cơ sở có quy mô vừa và nhỏ,  do đó quy trình công nghệ thủ công là chủ yếu.  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 556 Tuy  nhiên,  quá  trình  sản  xuất  tự  động  là  quá  trình sản xuất khép kín, do đó sẽ hạn chế được  tối  đa  được  sự  ô nhiễm  chéo  từ  quá  trình  sản  xuất  do  con  người  và môi  trường  gây  ra.  Để  nâng cao chất lượng nước uống đóng chai trong  thời gian tới thì cần có giải pháp chuyển đổi quy  trình  công nghệ  từ  thủ  công qua  công nghệ  tự  động để hạn chế đến mức thấp nhất nguy cơ ô  nhiễm do qua trình sản xuất gây ra.  Kiến  thức  của người  sản  xuất nước uống  đóng chai (n=194)  Kiến thức về khám sức khỏe  Người  sản  xuất  có  kiến  thức  đúng  về  sức  khỏe (Biết được định kỳ khám sức khỏe 1 lần/năm và  biết được  ít nhất 4  loại bệnh cần phải tạm thời nghỉ  việc)  là  thấp  (50,5%).  Điều này  cho  thấy  người  sản xuất chưa có kiến thức đầy đủ về sức khỏe.  Mặc dù họ đã biết  là phải khám sức khỏe định  kỳ nhưng cụ thể những bệnh nào cần phải tạm  nghỉ việc thì người sản xuất chưa biết đầy đủ.   Biểu đồ 1: Kiến thức về khám sức khỏe (n=194)  Kiến thức về trang phục khi sản xuất  Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số người sản  xuất  đã  biết  được  cần  phải  có  mũ,  áo,  khẩu  trang,  găng  tay  (trên  85%)  khi  sản  xuất  nước  uống  đóng  chai. Kết  quả  này  tương  đồng  với  nghiên cứu của Tiêu Văn Linh  tại Bà Rịa Vũng  Tàu, năm 2009 (83,3%)(8). Tuy nhiên, chỉ có 68%  người sản xuất biết cần phải có giày dép  riêng  trong  khu  vực  chiết  rót.  Do  dó,  chỉ  có  51,6%  người sản xuất đúng về trang phục khi sản xuất.  Kết quả nghiên này cho thấy các cơ sở sản xuất  cần quan tâm hơn nữa các quy định về giày dép  riêng trong khu vực chiết rót, nếu người sản xuất  dùng  chung  giày  dép  cho  tất  cả  các  khâu  sản  xuất thì sẽ rất dễ gây ô nhiễm chéo giữa các công  đoạn của sản xuất.   Kiến thức về vệ sinh bàn tay  Tỉ lệ người sản xuất có kiến thức đúng về vệ  sinh tay là thấp (28,4%), trong đó người sản xuất  chưa  biết  được  cách  thức  rửa  tay  đúng  tiêu  chuẩn và các thời điểm cần phải rửa tay. Kết quả  này là thấp hơn so với nghiên cứu trước đây của  Tiêu Văn Linh tại Vũng tàu năm 2009 (97,1%)(8).   Kết quả xét nghiệm nước (n=87)  Chỉ tiêu kim loại nặng  Để đánh giá kim loại nặng, nghiên cứu đánh  giá  các  chỉ  tiêu:  Antimony,  Arsen,  Bari,  Bor,  Bromat,  Cadimi,  Crom,  Đồng,  Chì,  Mangan,  Thủy  ngân, Molydben, Nicken,  Selen. Kết  quả  xét  nghiệm  cho  thấy mẫu NUĐC  đạt  chỉ  tiêu  kim loại nặng là 98,8%, đa số kim loại nặng đều  nằm  trong  giới  hạn  cho phép  theo QCVN:  6  ‐  1:2010 ‐ BYT. Chỉ có chỉ tiêu Bromat không đạt.  Tuy  nhiên, mức  độ  vượt  quá  giới hạn  của  chỉ  tiêu này  là không cao (0,3mg/l). So với khu vực  phía bắc,  thì kết quả nghiên  cứu này  là  tương  đương so với nghiên cứu của Trần Thị Nga  tại  Hà Nam năm 2011,  đa  số  các  chỉ  tiêu kim  loại  nặng  đạt  theo  quy  định  chỉ  có  chỉ  tiêu Pb  đạt  94,7%(10). So với khu vực  Đông Nam Bộ  thì kết  quả nghiên cứu này  là  thấp hơn  so với nghiên  cứu của Đặng Ngọc Chánh tại thành phố Hồ Chí  Minh năm 2008 (100%).   Chỉ tiêu lý hóa  Tất cả các chỉ tiêu lý hóa (Clor, Clorat, Clorit,  Xyanid, Nitrat, Nitrit,  Fluorid)  đều  nằm  trong  giới hạn cho phép theo QCVN: 6 ‐ 1:2010 ‐ BYT.  Kết quả này là tương đương với nghiên cứu của  Trần  Thị  Nga  tại  Hà  Nam  năm  2011(11)).  Tuy  nhiên, kết quả này là cao hơn so với nghiên cứu  của  Đặng Ngọc Chánh về khảo  sát  chất  lượng  nước uống đóng chai trên địa bàn thành phố Hồ  Chí Minh năm 2006”(42%). Sự khác biệt này có  thể là do khác biệt về địa bàn nghiên cứu và thời  gian nghiên cứu.   Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  557 Chỉ tiêu vi sinh vật  Bảng 1: Kết quả xét nhiệm chỉ tiêu vi sinh vật (n=87)  Tên chỉ tiêu Tiêu chuẩn Đạtn (%) TV(KTV) Nhỏ nhất Lớn nhất Coliform tổng số 0 73(83,9) 65(20 - 76) 5 9,5.104 Streptococci feacal 0 86 (98,8) 5(5 - 5) 5 5 Pseudomonas aeruginosa 0 56 (64,4) 90(25 - 1.200) 2 5,5.104 Bào tử vi khuẩn kị khí khử sulfit 0 83 (95,4) 5(2 - 10) 1 13 Đạt tất cả chỉ tiêu trên 0 50 (57,5) - - - Ghi chú: TV: Trung vị; KTV: Khoảng tứ vị. Nhỏ nhất, lớn nhất, khoảng tứ vị và trung vị chỉ tính trên số mẫu  không đạt   ‐ Coliform tổng số: Có 83,9% mẫu NUĐC  đạt chất lượng theo QCVN, so với nghiên cứu  của Trần Thị Ánh Hồng năm 2011 tại khu vực  miền  trung  (70%)  và  khu  vực  Đông Nam Bộ  theo  nghiên  cứu  của  Đặng  Ngọc  Chánh  tại  thành  phố Hồ Chí Minh  năm  2006  (68%)  thì  kết quả nghiên cứu này có tỉ lệ đạt về chỉ tiêu  Coliform  là  cao. So với  các nước  trên  thế giới,  nghiên  cứu  này  cũng mẫu NUĐC  đạt  về  chỉ  tiêu Coliform là cao hơn: nghiên cứu Kassenga,  G.  R  ở  Tanzania,  năm  2007  (có  73,8%  mẫu  nước có coliform tổng số đạt)(6).   ‐ Streptococci  feacal: Chỉ  có 1 mẫu NUĐC  không  đạt  chỉ  tiêu Streptococci  feacal và  có hàm  lượng  thấp  (5 Streptococci  feacal/100ml). Kết  quả  này là cao hơn so với nghiên cứu của Đặng Ngọc  Chánh như đã nêu ở trên (Có 76% mẫu NUĐC  đạt chỉ tiêu Streptococci feacal)(11). Nhìn chung chỉ  tiêu Streptococci feacal trong các mẫu nước uống  đóng chai tại thời điểm nghiên cứu là tương đối  an toàn cho người sử dụng.   ‐  Pseudomonas  aeruginosa:Chỉ  có  56/87  (64,4%)  mẫu  NUĐC  có  hàm  lượng  Pseudomonas  aeruginosa  đạt  theoquy  định.  So  với  các  nghiên  cứu  được  tiến  hành  tại  Việt  Nam và  trên  thế giới  thì nghiên cứu này có  tỉ  lệ  đạt  thấp hơn: nghiên  cứu  tại khu vực  tỉnh  Bình Định năm 2011 (98%), tỉnh Hà Nam năm  2011 (94,7%), nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí  Minh năm 2006  có kết quả  là  (84,7%), nghiên  cứu  được  tiến  hành  ở  Trinidad  năm  2003  có  92,4% mẫu nước uống  đóng  chai  đạt  chỉ  tiêu  Pseudomonas aeruginosa(6).   ‐  Bào  tử  vi  khuẩn  kị  khí  khử  sulfit:  Có  95,4%  mẫu  NUĐC  có  hàm  lượng  bào  tử  vi  khuẩn kị khí khử  sulfit  đạt  theo quy  định, kết  quả này là tương đương với các nghiên cứu như  đã nêu ở trên và nguy cơ ô nhiễm chỉ tiêu này là  tương đối thấp.  Kết  quả  xét  nghiệm  chung  cho  tất  cả  chỉ  tiêu  Tỉ  lệ  mẫu  nước  uống  đóng  chai  đạt  tiêu  chuẩn  theo  QCVN:  6  ‐  1:2010  ‐  BYT  là  thấp,  56,3%. Kết quả này phù hợp với kết quả khảo sát  của  Viện  Y  tế  Công  cộng  thành  phố  Hồ  Chí  Minh (Năm 2006 chỉ có 51% mẫu nước đạt tiêu  chuẩn  TCVN  6096:2004;  năm  2007  tỉ  lệ  mẫu  NUĐC đạt tiêu chuẩn là 45,4% và năm 2008 chỉ  có 43,8% mẫu NUĐC được thử nghiệm đạt tiêu  chuẩn(6). Điều này cho  thấy, chất  lượng NUĐC  trên địa bàn tỉnh Bình Dương đang là vấn đề cấp  thiết và cần có chính sách can thiệp.   Chất  lượng  nước  uống  đóng  chai  và  các  yếu tố liên quan  Những biến  số được  đưa vào phân  tích  đa  biến bao gồm những biến số có mối liên quan có  ý nghĩa  thống kê  trong phân  tích  đơn  biến  và  những biến số trong phân tích đơn biến có giá trị  p  từ 0,05  đến dưới 0,25. Do  đó, những biến  số  đưa  vào  phân  tích  đa  biến  gồm:  Biến  số  phụ  thuộc: Chất  lượng nước; Biến số độc  lập: Trang  thiết bị dụng cụ, kết cấu nhà xưởng, nhà vệ sinh,  vệ  sinh  bao  bì,  điều  kiện  con  người,  hệ  thống  thoát nước, nguồn nước sử dụng; Biến số kiểm  soát: Dung tích vỏ chai, quy trình công nghệ. Sau  khi khử các yếu tố gây nhiễu bằng mô hình hồi  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 558 quy Poisson(0) và kiểm định mô hình có kết quả  như sau:  Bảng 2. Chất lượng nước và các yếu tố liên quan   Các đặc tính PR KTC95% P Điều kiện con người đạt 1,8 1,1 - 2,8 0,015 Vệ sinh bao bì đạt 1,9 1,1 - 3,4 0,021 Dung tích vỏ chai <20 lít (Vỏ chai dùng 1 lần) 1,5 1,1 - 2,1 0,005 Kết cấu nhà xưởng đạt 1,2 0,9 - 1,6 0,09 Trang thiết bị dụng cụ đạt 2,3 0,9 - 6,1 0,08 Có mối  liên quan có ý nghĩa  thống kê giữa  chất  lượng nước uống với điều kiện con người  [PR=1,8, KTC95% (1,1  ‐ 2,8), P=0,015]. Cơ sở đạt  điều kiện con người có tỉ lệ mẫu NUĐC đạt cao  hơn 1,8 lần so với cơ sở không đạt điều kiện con  người. Có mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  chất  lượng  NUĐC  với  vệ  sinh  bao  bì  [PR=1,9 KTC95%  (1,1  ‐  3,4), p=0,0021]. Kết  quả  này  là  phù  hợp  với  nghiên  cứu  của  Trần  Thị  Ánh Hồng như đã nêu ở trên(9). Có mối liên quan  có ý nghĩa thống kê giữa chất lượng NUĐC với  dung  tích vỏ chai  [PR=1,5; KTC95%  (1,1  ‐ 2,11),  p=0,005]. Trong nghiên  cứu này  chưa  tìm  thấy  mối  liên quan giữa: kết cấu nhà xưởng (p=0,09)  và trang thiết bị dụng cụ (p=0,08) với chất lượng  nước uống đóng chai.   KẾT LUẬN  Số  lượng  cơ  sở  dùng  nguồn  nước  giếng  khoan để sản xuất NUĐC còn nhiều (50,6%); Số  lượng cơ sở áp dụng các quy trình quản lý chất  lượng còn rất thấp (2,3%); Đa số cơ sở sản xuất  NUĐC  có  công  suất  nhỏ  dưới  5.000  lít/ngày  (90,8%), dùng vỏ chai  trên 20  lít  (63,2%) và sản  xuất nước uống  đóng  chai  theo  công nghệ  thủ  công (86,2%).   Các  điều  kiện  về  an  toàn  thực  phẩm  đạt  còn thấp: Điều kiện về thiết kế nhà xưởng đạt  (24,1%);  Điều  kiện  nhà  vệ  sinh  đạt  (59,8%);  Điều kiện con người đạt  (62,1%); Vệ sinh bao  bì đạt (60,9%).  Người  sản xuất  có kiến  thức  đúng về  thực  hành sản xuất là rất thấp (13,9%), đặc biệt là kiến  thức đúng về vệ sinh bàn tay (28,4%).  Tỉ  lệ  mẫu  nước  uống  đóng  chai  đạt  tiêu  chuẩn an toàn thực phẩm theo QCVN: 6 ‐ 1:2010  ‐ BYT là thấp (56,3%). Trong đó, chỉ tiêu vi sinh  vật chỉ đạt 57,5%. Trong đó, ô nhiễm nhiều nhất  là Coliform tổng số và Pseudomonas aeruginosa.   Có mối liên quan giữa điều kiện con người,  dung tích vỏ chai sử dụng và vệ sinh bao bì với  chất lượng nước uống đóng chai.  KIẾN NGHỊ  Về phía cơ quan quản lý   ‐ Công tác truyền thông: Vận động, khuyến  khích các cơ sở sản xuất NUĐC hạn chế sử dụng  nước  giếng  khoan  vào  quá  trình  sản  xuất,  có  chính sách hỗ trợ áp dụng các quy trình quản lý  chất lượng vào quá trình sản xuất; Khuyến khích  các các cơ sở dùng vỏ chai chỉ sử dụng một lần;  Nâng cao kiến  thức về  thực hành sản xuất, đặc  biệt  là  kiến  thức  đúng  về  vệ  sinh  bàn  tay  cho  người sản xuất nước uống đóng chai.   ‐  Công  tác  thanh,  kiểm  tra:  Tăng  cường  thanh, kiểm tra các cơ sở sản xuất NUĐC không  để  các  cơ  sở  có  chất  lượng nước không  đạt và  không đủ điều kiện an toàn thực phẩm tiếp tực  sản  xuất nước uống  đóng  chai,  đặc  biệt  là  các  điều kiện: Điều kiện về thiết kế nhà xưởng, điều  kiện  nhà  vệ  sinh;  điều  kiện  con  người;vệ  sinh  bao bì.   ‐ Công tác giám sát nguy cơ ô nhiễm: Định  kỳ  tổ  chức giám  sát ô nhiễm  thực phẩm nước  uống  đóng chai và  đặc biệt chú ý giám  sát các  chỉ tiêu vi sinh vật, đặc biệt là Coliform tổng số và  Pseudomonas aeruginosa.  Về phía cơ sở sản xuất  Từng  bước  áp dụng  các  quy  trình  quản  lý  chất  lượng  vào  quá  trình  sản  xuất;  Thường  xuyên  tổ  chức  hướng  dẫn  cho  người  sản  xuất  nâng cao kiến thức và thực hành trong quá trình  sản  xuất; Thường  xuyên nâng  cấp, bảo dưỡng  các  điều kiện về  thiết kế nhà xưởng;  điều kiện  nhà vệ sinh, điều kiện con người, vệ sinh bao bì;  Định kỳ giám sát các chỉ tiêu vi sinh vật, đặc biệt  là Coliform tổng số và Pseudomonas aeruginosa.  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  559 TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Barros  AJ,  Hirakata  VN  (2003)  Alternatives  for  logistic  regression  in  cross  ‐  sectional  studies:  an  empirical  comparison  of modelsthat  directly  estimate  the  prevalence  ratio.BMC Medical Research Methodology. 3 (20) 123 ‐ 133  2. Bharath JM. Mosodeen S. Motilal S (2003) Microbial quality of  domestic and imported brands of bottled water in Trinidadʺ.  International journal of food microbiology. 81 (1) 53 ‐   3. Chi cục ATVSTP (2011) ʺBáo cáo công tác đảm bảo vệ sinh an  toàn  thực phẩm năm  2011ʺ.  Lưu Hành nội bộ. Sở Y  tế Bình  Dương. Tr. 3 ‐ 8.  4. Cục ATVSTP  (2007) Tài  liệu hội nghị  tổng kết chương  trình  mục tiêu quốc gia VSATTP năm 2007ʺ. Lưu hành nội bộ. Bộ Y  tế. Tr. 7 ‐ 9.  5. Herath  ATCL,  Abayasekara  R,  Chandrajith  NKA  (2012)Temporal  variation  of  microbiological  and  chemical  quality of noncarbonated bottled drinking water  sold  in Sri  Lankaʺ. Journal of food science. 77 (3) 160 ‐ 164.  6. Kassenga  GR.  (2007)  The  health  ‐  related  microbiological  quality  of  bottled  drinking  water  sold  in  Dar  es  Salaam.  Tanzania. Journal of water and health. No 5 (1). page179 ‐ 185.  7. Labo phân tích ‐ Khoa sức khỏe môi trường (2009) Chất lượng  nước uống đóng chai trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ  năm 2006 đến năm 2008ʺ. Kỷ yếu hội nghị khoa học an toàn thực  phẩm năm 2009. Cục ATVSTP. Tr 261 ‐ 264.  8. Tiêu Văn Linh (2009) Thực trạng vệ sinh an toàn thực phẩm ở  bếp ăn tập thể trường mẫu giáo ‐ tiểu học basn trú tỉnh bà Rịa  Vũng Tàu năm 2009. Luận văn tốt nghiệp CKII. Đại học Y dược  thành phố Hồ Chí Minh. Tr 56 ‐ 85.  9. Trần  Thị  Ánh Hồng  (2012). Nghiên  cứu  chất  lượng  nước  uống đóng chai về mặt vi sinh vật trên địa bàn tỉnh Bình Định  năm 2011. Tạp chí y học thực hành. 842. 135 ‐ 147.  10. Trần Thị Thanh Nga  (2012) Khảo sát chất  lượng nước uống  đóng chai trên địa bàn tỉnh Hà Nam năm 2011. Tạp chí y học  thực hành. 842.119 ‐ 128.  11. Vũ  Trọng  Thiện,  Đặng Ngọc  Chánh,  Trần  Thị Nga  (2008)  ʺKhảo sát chất lượng nước uống đóng chai trên địa bàn thành  phố Hồ Chí Minhʺ. Tạp chí Y học Tp Hồ Chí Minh. 12 (4). 192 ‐  197.  Ngày nhận bài báo:       17/5/2014  Ngày phản biện nhận xét bài báo:   24/6/2014  Ngày bài báo được đăng:     14/11/2014 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthuc_trang_ve_sinh_an_toan_thuc_pham_cua_co_so_san_xuat_nuoc.pdf
Tài liệu liên quan