Thực trạng về vai trò của nhà nước trong công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu của Malaixia – Bài học kinh nghiệm

Từ việc nghiên cứu và vận dụng lý thuyết của Heckscher - Ohlin trong thực tế, một số nhà kinh tế học hiện đại bổ sung thêm một số vấn đề liên quan như sau: + Định lý Stolper - Samuelson: Khi giá của một loại hàng hoá tăng thỡ giỏ của yếu tố sản xuất mà hàng hoỏ đó thâm dụng sẽ tăng và giá của yếu tố mà hàng hoá đó không thâm dụng sẽ giảm. Như vậy, một sự gia tăng trong giá tương đối của một hàng hoá sẽ tạo ra tác động phân phối thu nhập. Chủ sở hữu yếu tố sản xuất mà hàng hoá xuất khẩu thâm dụng sẽ có lợi cũn chủ sở hữu yếu tố sản xuất mà hàng hoỏ nhập khẩu sẽ bị tổn thất. Chủ sở hữu yếu tố mà nước đó dồi dào sẽ có lợi nhưng chủ sở hữu của yếu tố khan hiếm sẽ bất lợi từ ngoại thương;

doc186 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 945 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng về vai trò của nhà nước trong công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu của Malaixia – Bài học kinh nghiệm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên những luận chứng khoa học được nghiên cứu về định tính và định lượng. Không phải tất cả những ngành muốn tự chủ đều có thế làm được hoặc nên làm. Trước mắt, Việt nam không nên đặt ra các mục tiêu quá tham vọng như phải nội địa hóa hầu hết một sản phẩm nào đó. Một sản phẩm nội địa hóa 100% không phải là tối ưu ngay cả tại các nước có nền công nghệ tiên tiến như Mỹ, Nhật Bản. Xu hướng toàn cầu hóa tạo một cơ hội lớn cho Việt Nam tham gia vào các mạng lưới sản xuất quốc tế bằng việc chuyờn mụn húa vào một số quy trình và nhập khẩu cỏc hàng húa trung gian khỏc. Cỏc hàng húa mà Việt Nam sản xuất và xuất khẩu phải là những hàng húa mà Việt Nam cú lợi thế so sỏnh động, hàng hóa mà Việt Nam nhập khẩu phải là những hàng hóa mà Việt Nam bất lợi so sánh động so với các nước khác trong mạng. 3.3.4. Nhà nước cần đổi mới chính sách đầu tư và đặc biệt khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ góp phần thúc đẩy phát triển các ngành sản xuất hàng xuất khẩu Từ kinh nghiệm của Malaixia cho thấy, để thực hiện chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, Nhà nước cần có những điều chỉnh trong chính sách đầu tư nhằm tạo điều kiện và khuyến khích phát triển các ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu. - Nhà nước vẫn có thể tập trung đầu tư để phát triển khu vực kinh tế nhà nước - những lĩnh vực liên quan đến hạ tầng cơ sở và dịch vụ công, thường đũi hỏi vốn đầu tư lớn, luân chuyển chậm, thiếu hấp dẫn với các nhà đầu tư tư nhân song lại rất cần thiết cho mọi quá trình tỏi sản xuất xó hội, là điều kiện tiên quyết nhằm đổi mới môi trường công nghiệp hóa bởi với hệ thống hạ tầng cơ sở yếu kém, hệ thống dịch vụ công hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh không đảm bảo sẽ hạn chế rất nhiều đến khả năng kêu gọi đầu tư, kể cả đầu tư tư nhân trong nước. Hơn nữa, Nhà nước đảm nhận tốt những lĩnh vực này, nguồn lực của đầu tư tư nhân trong nước và nước ngoài sẽ có cơ hội tập trung mạnh vào những ngành, những lĩnh vực luôn đũi hỏi phải cú sự phản ứng nhanh nhạy với cỏc tớn hiệu thị trường, nhất là các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Ngoài ra, với một số lĩnh vực nào đó, Nhà nước cũng có thể làm nhưng phải có sự chọn lọc và dự báo được khả năng phát triển và sức mạnh của chúng trong cạnh tranh quốc tế. Đồng thời, Nhà nước cần tạo ra những cơ chế, hệ thống chính sách để hướng dẫn các doanh nghiệp đầu tư phát triển các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với xu hướng và động thái phân công lao động quốc tế theo hướng phát huy các lợi thế của họ chứ không phải làm thay, áp đặt và chi phối theo kiểu dắt tay doanh nghiệp như đó từng làm. Núi cỏch khỏc, Nhà nước cần thể hiện đúng vai trò của người điều hành vĩ mô để cho cơ cấu kinh tế được đổi mới theo các nguyên tắc thị trường, theo những tác động mới của hệ thống phân công lao động quốc tế và theo đó, làm thế nào để nền kinh tế Việt Nam thực sự tham gia vào phân công lao động quốc tế và chuỗi giá trị toàn cầu thay vỡ bị ỏp đặt chủ quan và có nguy cơ bị gạt ra ngoài lề của các cuộc chơi hội nhập kinh tế quốc tế trên nhiều tuyến, nhiều cấp độ như hiện nay. Chính sách đầu tư của Nhà nước cũng cần tập trung vào những vấn đề cấp bách nhất đối với việc thực hiện mục tiêu chiến lược hướng về xuất khẩu đó là những hạn chế về nguồn lực cho công nghiệp hóa. Để khắc phục các vấn đề về thiếu vốn, công nghệ và mạng lưới marketing toàn cầu, chính sách của Nhà nước cần tập trung đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư FDI, đặc biệt là từ tập đoàn xuyên quốc gia và cần phải tạo ra một môi trường cạnh tranh cho các doanh nghiệp FDI này để thúc đẩy sự lan tỏa công nghệ và phát triển công nghiệp nói chung. Nguồn nhân lực là yếu tố then chốt để Việt Nam tiến hành công nghiệp hóa. Các nhà đầu tư nước ngoài sẵn sàng chuyển giao công nghệ nếu con người tại nước sở tại có khả năng nắm bắt và làm chủ công nghệ ấy một cách hiệu quả hơn so với sản xuất ở nước khác. Chính sách hỗ trợ hiệu quả và hợp pháp trong bối cảnh mới của Nhà nước đó là hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho các ngành, xây dựng thị trường công nghệ, nâng cao tính thực thi của luật bảo hộ trí tuệ để khuyến khích sự phỏt triển của khoa học và công nghệ. Đặc biệt đối với những ngành thuộc kết cấu hạ tầng quan trọng như năng lượng (nhất là điện), giao thông vận tải, thông tin liên lạc, xây dựng, hệ thống cấp thoát nước rất cần thiết cho sự phát triển của nền kinh tế. Với thực trạng kết cấu hạ tầng ở Việt Nam cũn lạc hậu và yếu kộm thỡ việc ưu tiên đầu tư để cải tạo, mở rộng, hiện đại hóa đồng bộ, phục vụ kịp thời và có hiệu quả cho nhu cầu phát triển kinh tế – xó hội là việc làm cấp bỏch. Do vậy, đầu tư của Nhà nước cần hướng vào hoạt động này. Ngoài ra, Nhà nước cần có chính sách thu hút các nguồn vốn xó hội đa dạng đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. - Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ cần phải được coi là một trong những nội dung trọng tâm trong chính sách đầu tư của Nhà nước. Hiện nay, trong cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam, tỷ lệ giá trị nhập khẩu tư liệu sản xuất rất cao (trên 90%). Điều đó cho thấy, các ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam vẫn cũn kộm phỏt triển, chưa đủ khả năng đáp ứng nhu cầu của sản xuất trong nước. Đó cũng là nguyên nhân làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước, ảnh hưởng khá lớn đến sự hấp dẫn nguồn vốn FDI và đóng góp vào tỡnh trạng thõm hụt cỏn cõn thương mại. Do vậy, Nhà nước cần: + Nhanh chúng xõy dựng chiến lược phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, trước mắt tập trung vào các ngành cung cấp đầu vào cho các ngành sản xuất có tỷ trọng xuất khẩu lớn như dệt, may, điện tử, giày da và các ngành công nghiệp chế tạo như ô tô, xe máy. + Điều chỉnh chính sách thuế để khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư vào phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ. Hiện nay, ta chưa có chính sách nhằm khuyến khích doanh nghiệp sử dụng phụ liệu sản xuất trong nước, thuế nhập khẩu những mặt hàng này (để tái xuất) bằng 0%. Hiện các doanh nghiệp sử dụng nguyên vật liệu sản xuất trong nước để sản xuất hàng xuất khẩu chẳng những không được hưởng ưu đói mà cũn phải nộp thuế giá trị gia tăng đầu vào, tuy được hoàn trả nhưng phải thực hiện nhiều thủ tục. + Từng bước cắt giảm bảo hộ đối với các mặt hàng nguyên nhiên liệu sản xuất trong nước để đưa các doanh nghiệp vào môi trường cạnh tranh, thích ứng với môi trường tự do hóa đang ngày càng mở rộng. + Phải đưa ra một tầm nhỡn rừ ràng và cụ thể về phỏt triển cỏc ngành công nghiệp phụ trợ tạo sự yên tâm cho các nhà đầu tư. Đồng thời, cần tạo mối liên kết chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước tạo điều kiện cho công nghiệp phụ trợ phát triển. Trước mắt, cần có chính sách ưu đói để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp phụ trợ như giảm thuế nhập khẩu máy móc, miễn thuế doanh nghiệp trong một thời gian nhất định. + Để phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, Chính phủ cần cho quy hoạch tổng thể phát triển từng ngành với lộ trình và chớnh sỏch ổn định lâu dài. Chính sách thuế cần hướng đến ưu đói cho những doanh nghiệp sản xuất hàng phụ trợ, sử dụng nguyờn phụ liệu trong nước làm ra để gia công hàng xuất khẩu. Quy hoạch đầu tư cần hướng doanh nghiệp sản xuất chuyên môn hóa những mặt hàng phụ trợ để nâng cao chất lượng, tăng khả năng cạnh tranh và tránh đầu tư chồng chéo. 3.3.5. Chớnh sỏch thúc đẩy phỏt triển khoa học - công nghệ phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu Công nghệ là một yếu tố hết sức quan trọng nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, đặc biệt khoa học - công nghệ sẽ phát huy vai trò của nú trong quỏ trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của nước ta. Thực tế, muốn đẩy mạnh việc gia tăng xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu cần phải có các chính sách đầu tư cho khoa học - công nghệ một cách thỏa đáng để phát huy được lợi thế và bắt kịp với xu thế phát triển chung của thế giới. Chỉ có đầu tư vào khoa học - công nghệ mới có thể có một cơ cấu xuất khẩu vừa hiện đại, vừa ổn định trước những biến động của thế giới, vừa mang lại hiệu quả cao trong xuất khẩu. Do vậy, Nhà nước cần: Thứ nhất, cần đổi mới phương thức quản lý khoa học - công nghệ phự hợp với cơ chế thị trường. Trong đó tập trung vào các nội dung: - Đổi mới chính sách đầu tư tài chính cho hoạt động khoa học - công nghệ: + Nhà nước cần xác định cơ cấu đầu tư hợp lý cho hoạt động khoa học - công nghệ theo hướng tăng cường hỗ trợ cho các hoạt động sáng tạo và hoàn thiện công nghệ; nâng cao tỷ trọng đầu tư hỗ trợ cho các nhiệm vụ phát triển công nghệ; sản xuất thử nghiệm, ươm tạo công và ươm tạo doanh nghiệp, trên cơ sở đáp ứng thị hiếu của thị trường thế giới; + Có chính sách mua sáng chế, thiết kế công nghiệp tiên tiến đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh, kết hợp với việc đẩy mạnh học hỏi, nâng cao năng lực thiết kế, chế tạo trong nước; nhanh chóng hỡnh thành và đưa vào hoạt động các quỹ phát triển khoa học và công nghệ của Bộ, ngành, địa phương và các tổ chức; khuyến khích việc thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm của các tổ chức và cá nhân; + Đổi mới phương thức xác định nhiệm vụ và tuyển chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học - công nghệ của Nhà nước nhằm nâng cao chất lượng và khả năng nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ, gắn kết các hoạt động nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ với chuyển dịch cơ cấu sản xuất kinh doanh. Việc hỡnh thành nhiệm vụ khoa học - công nghệ của Nhà nước phải gắn với nhu cầu thực tiễn và huy động được sự tham gia, đặt hàng của khu vực sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. Khuyến khích các tổ chức khoa học - công nghệ trong nước liên doanh, liên kết với các tổ chức khoa học - công nghệ nước ngoài, với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia tuyển chọn thực hiện nhiệm vụ khoa học - công nghệ của Nhà nước. + Một ngành hàng mới ra đời, hoặc tham gia vào thị trường thế giới rất cần có sự nghiên cứu nghiêm túc và kỹ lưỡng tất cả các yếu tố đầu vào, đầu ra, chính sách, chiến lược phát triển cũng như các ngành phụ trợ Điều này đũi hỏi cần cú sự điều chỉnh chính sách đầu tư về tài chính một cách hợp lý để nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ giữa các cơ quan khoa học và các doanh nghiệp thực hiện một cách có hiệu quả. Ngoài vốn do Nhà nước cấp, các ngành, doanh nghiệp cần đầu tư về mặt tài chính, kết hợp với các trường đại học, các viện nghiên cứu trong và ngoài nước, thực hiện tốt công tác nghiên cứu và chuyển giao kết quả nghiên cứu để những mặt hàng mới này khi thâm nhập vào thị trường mới đó cú đủ khả năng cạnh tranh và đứng vững trên thị trường thế giới. - Ban hành quy định cụ thể về sở hữu, khai thác, chia sẻ lợi ích từ việc khai thác kết quả R&D sử dụng kinh phí Nhà nước. + Đối với kết quả nghiên cứu phục vụ công ích, Nhà nước quy định rừ trỏch nhiệm đối với các cơ quan chuyển giao và nhận chuyển giao công nghệ. + Các kết quả nghiên cứu có khả năng thương mại hóa cao, Nhà nước ban hành quy định xác lập quyền sở hữu trí tuệ, quyền định đoạt các tài sản này, bao gồm: quyền khai thác thương mại, bán đứt, cấp lixăng cho bên thứ ba, góp vốn cổ phần bằng tài sản trí tuệ. + Quy định rừ việc phõn chia lợi ớch cho các bên Nhà nước - cỏ nhõn tạo ra kết quả nghiên cứu - tổ chức khoa học - công nghệ trực tiếp đảm bảo các điều cho hoạt động nghiên cứu, theo hướng tạo động lực hấp dẫn đối với cá nhân và tổ chức hoạt động khoa học - công nghệ. Thứ hai, Nhà nước có chính sách tạo điều kiện thúc đẩy tăng cường hợp tác công nghệ với nước ngoài Nhà nước xây dựng cơ chế, chính sách khuến khích hợp tác, liên kết giữa doanh nghiệp, viện, trường trong việc khai thác, giải mó công nghệ nước ngoài, xây dựng năng lực cung cấp hệ thống công nghệ hoàn chỉnh trong những ngành thớch hợp: - Tổ chức hoạt động tỡm kiếm, khai thỏc thụng tin sỏng chế, tập trung vào cỏc công nghệ cũn trong thời hạn được bảo hộ và công nghệ hết thời hạn bảo hộ; phân tích khả năng khai thác thương mại các sáng chế phục vụ nhu cầu phỏt triển kinh tế - xó hội của Việt Nam; mua lixăng để phát triển công nghệ này. - Ưu tiên dành một phần thích đáng ngân sách nhà nước cho khoa học - công nghệ, trong đó có ngân sách cho hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ để hỗ trợ thực hiện các dự án nội địa hóa công nghệ theo đặt hàng của doanh nghiệp. Khoản hỗ trợ này được dùng để chi trả cho các khoản chi phí liên quan tới quyền khai thác patăng sáng chế, phí chuyển giao công nghệ, tiền thuê chuyên gia nước ngoài, chi phí cho cán bộ ra nước ngoài học hỏi và tiền thưởng cho các sáng kiến, giải pháp mang tính quyết định. Tăng cường hợp tác giữa các Bộ, ngành trong việc hoạch định và thực hiện chính sách công nghiệp và xây dựng chiến lược, bước đi phù hợp trong học hỏi công nghệ trong cỏc ngành kinh tế - kỹ thuật. - Khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư cho R&D tại Việt Nam, thông qua các chương trình hỗ trợ về đào tạo, tài chính và thủ tục kinh doanh. Nhà nước có biện pháp khuyến khích thiết lập các tổ chức nghiên cứu và đào tạo, tài chính và thủ tục kinh doanh. Nhà nước có biện pháp khuyến khích thiết lập các tổ chức nghiên cứu và đào tạo chung giữa các công ty nước ngoài, công ty Việt Nam và các tổ chức nghiên cứu – đào tạo. Xây dựng và thực thi các chính sách ưu đói đặc biệt cho các công ty đa quốc gia có công nghệ nền thiết lập cơ sở tại Việt Nam về sản xuất, nghiên cứu, thiết kế. - Xây dựng các chương trình khuyến khớch công ty nước ngoài chuyển giao và truyền đạt các tri thức công nghệ cho phía Việt Nam trong các hợp đồng liên doanh và hợp tác kinh doanh. Đảm bảo lợi ích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong đào tạo cho lao động Việt Nam (về công nghệ, kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng quản lý) cũng như trong các hoạt động hỗ trợ về công nghệ, kỹ thuật cho cỏc tổ chức khỏc Thứ ba, Nhà nước có chính sách khuyến khích phỏt triển cỏc loại hỡnh dịch vụ kỹ thuật và cỏc dịch vụ khỏc hỗ trợ chuyển giao công nghệ - Nhà nước định kỳ tổ chức công nghệ - thiết bị ở quy mô cả nước, nhằm xúc tiến, hỗ trợ chuyển giao công nghệ, kết quả nghiên cứu khoa học - công nghệ vào sản xuất. Khuyến khích các địa phương định kỳ tổ chức chợ công nghệ - thiết bị phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của địa phương. Nhà nước sớm ban hành quy chế về chợ công nghệ - thiết bị. - Phỏt triển các dịch vụ tư vấn, môi giới, mua bán công nghệ, giám định, đánh giá công nghệ: + Nhà nước đầu tư thành lập mới một số tổ chức tư vấn công nghệ hoặc củng cố những tổ chức đó cú theo chuyờn ngành, nhúm ngành, trờn cơ sở một số ngành công nghệ, viện thiết kế phù hợp, và sự hợp tác song phương với các tổ chức quốc tế, các công ty tư vấn có năng lực. Đảm bảo các tổ chức này có đủ năng lực tư vấn, liên kết về mọi vấn đề liên quan tới mua bán công nghệ trong ngành, nhóm ngành đó, hoạt động theo phương thức khụng vỡ mục tiờu lợi nhuận; + Đảm bảo các ưu đói về tài chớnh và hỗ trợ về thủ tục nhằm khuyến khớch mọi thành phần kinh tế, kể cả cỏc tổ chức cú vốn đầu tư nước ngoài đầu tư kinh doanh vào hoạt động đánh giá, thẩm định và giám định trong hoạt động kinh tế - xó hội; + Nhà nước và các địa phương cần đầu tư thỏa đáng cho các trung tâm khuyến công - nông - lâm ngư, trung tâm ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ. Xây dựng cơ chế hợp tác tích cực giữa các trung tâm này với các tổ chức khoa học - công nghệ của Nhà nước nhằm cung cấp dịch vụ tư vấn không mang tính lợi nhuận cho cộng đồng; + Khuyến khớch phỏt triển dịch vụ phỏp lý về sở hữu trớ tuệ và cỏc dịch vụ phỏp lý khỏc liờn quan tới mua bỏn công nghệ. Nhà nước cần xem xét hủy bỏ những quy định không cũn phự hợp liờn quan tới chứng chỉ hành nghề tư vấn pháp lý trong lĩnh vực sở hữu trớ tuệ và chuyển giao công nghệ . ỏp dụng thuế suất ưu đói cho cỏc dịch vụ phỏp lý về sở hữu trớ tuệ và cỏc dịch vụ phỏp lý khỏc liờn quan tới mua bỏn công nghệ. Thành lập các cơ quan tư vấn pháp lý về sở hữu trớ tuệ và chuyển giao công nghệ ở địa phương, hoạt động theo nguyên tắc không vỡ mục tiờu lợi nhuận. 3.3.6. Hoàn thiện cơ chế chính sách thúc đẩy xuất khẩu Để thực hiện mục tiêu gia tăng xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu, khai thác được những lợi thế của đất nước, Việt Nam cần hoàn thiện cơ chế, chớnh sỏch quản lý xuất nhập bao gồm cỏc nội dung: Đổi mới bộ máy quản lý hoạt động thương mại nói chung và xuất khẩu nói riêng, theo hướng gọn nhẹ, nâng cao chất lượng; Chuyển đổi một cách triệt để quản lý hoạt động xuất khẩu sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước; Có sự nhất quán giữa cơ chế quản lý kinh tế chung, cơ chế quản lý xuất nhập khẩu và cơ chế ngành quản lý cú liờn quan; Thực hiện nghiờm chỉnh cỏc cam kết hội nhập kinh tế quốc tế nhất là những vấn đề liên quan đến chính sách thuế và những hàng rũ phi quan thuế khỏc. Đặc biệt, để thực hiện mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu, Việt Nam cần: - Tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến xuất khẩu. + Hoàn thiện các văn bản pháp luật, tăng cường quản lý Nhà nước về xúc tiến xuất khẩu. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan tới xúc tiến xuất khẩu theo hướng tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng và cạnh tranh bỡnh đẳng cho các hoạt động xúc tiến xuất khẩu ở tất cả các cấp và phải coi đó là công việc cần được ưu tiên hàng đầu trong tiến trình đổi mới và hoàn thiện quản lý nhà nước về xúc tiến xuất khẩu. Nói cách khác, Nhà nước cần thực hiện tốt chức năng tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động xúc tiến xuất khẩu, nhất là môi trường cho thị trường dịch vụ xúc tiến xuất khẩu. Như vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến xuất khẩu trước hết cần nhanh chóng hoàn thiện các văn bản pháp luật về xúc tiến xuất khẩu, đồng thời phải tăng cường và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về xúc tiến xuất khẩu. Do vậy: Thứ nhất, Luật Thương mại cần được sửa đổi, mở rộng định nghĩa về xúc tiến xuất khẩu để tạo điều kiện cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu được tiến hành tốt hơn và có thể bổ sung thêm một số vấn đề sau: i) Đề xuất, bổ sung thêm những quy định về quyền và nghĩa của bên thuê dịch vụ hội chợ, triển lóm thương mại (chưa được quy định trong Luật Thương mại) vào mục 15 quy định về hội chợ, triển lóm thương mại. ii) Bổ sung những quy định về giới thiệu dịch vụ (chưa được quy định trong Luật Thương mại) vào mục thay thế hành vi trưng bày giới thiệu hàng hóa bằng hành vi trưng bày giới thiệu hàng hóa và dịch vụ thương mại. Thứ hai, cần đưa trực tiếp vào luật hoặc các văn bản dưới luật điều khoản liên quan đến tổ chức và thực hiện cỏc dịch vụ xỳc tiến xuất khẩu. Thứ ba, cần kết hợp hoạt động xúc tiến xuất khẩu với đầu tư. Hiện nay, hoạt động xúc tiến xuất khẩu vẫn tách rời hoạt động xúc tiến kêu gọi đầu tư nước ngoài trong khi hai lĩnh vực này gắn bó chặt chẽ với nhau và trên thực tế hoạt động đầu tư nhiều ngành hàng xuất khẩu mới và có kim ngạch lớn của Việt Nam hiện nay thuộc khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Vỡ vậy, để mở rộng hoặc tăng cường hoạt động xuất khẩu thỡ xỳc tiến xuất khẩu khụng chỉ hướng vào những sản phẩm đang có mà cần hướng tới cả những sản phẩm tiềm năng thông qua hoạt động xúc tiến kêu gọi đầu tư nước ngoài. Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và phương thức thâm nhập thị trường là một chiến lược phù hợp để tránh phụ thuộc quá nhiều vào các thị trường xuất khẩu then chốt, qua đó cũng hạn chế tác động bất lợi đối với hoạt động sản xuất xuất khẩu do các rủi ro phát sinh. Tuy nhiên, đây cũng là chiến lược đũi hỏi cam kết chắc chắn của Nhà nước thụng qua cỏc biện phỏp hỗ trợ tài chớnh cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu đồng bộ ở nhiều cấp để mở cửa thị trường xuất khẩu mới. + Thiết lập mạng lưới xúc tiến xuất khẩu của Việt Nam: Khi một nền kinh tế thực hiện chuyển dịch cơ cấu hướng về xuất khẩu, bờn cạnh những mặt hàng truyền thống, sẽ xuất hiện nhiều mặt hàng mới. Do vậy, công tỏc xỳc tiến xuất khẩu sẽ xuất hiện nhiều yờu cầu mới, cần được thực hiện ở nhiều cấp, có nhiều chủ thể tham gia. Để tránh tỡnh trạng thiếu sự phối hợp trong hoạt động giữa các tổ chức xúc tiến xuất khẩu này, nhất thiết phải hỡnh thành một mạng lưới xúc tiến xuất khẩu có hiệu quả. Trong cơ chế thị trường hiện nay, một cơ chế cứng nhắc phân công rừ ràng bằng biện phỏp hành chớnh chức năng và nhiệm vụ của các tổ chức này là không phù hợp. Một mạng lưới xúc tiến xuất khẩu phù hợp phải là một mạng lưới mở và tự nguyện đối với tất cả các tổ chức tham gia. Mạng lưới này sẽ hoạt động theo cơ chế vừa cạnh tranh vừa hợp tác với nhau để phát triển. Một mạng lưới xúc tiến xuất khẩu sẽ có các tổ chức nũng cốt (hạt nhõn) như là Bộ Công thương, mà trực tiếp là Cục xúc tiến thương mại, Phũng Thương mại và Công nghiệp, các Bộ, ngành có liên quan đến thương mại, các Hiệp hội ngành hàng. Các tổ chức này sẽ tập trung vào các lĩnh vực xây dựng, chỉ đạo hướng dẫn thực hiện, theo dừi, đánh giá và điều chỉnh các chiến lược và kế hoạch xúc tiến xuất khẩu, gắn những mặt hàng cụ thể với những thị trường cụ thể. Các tổ chức vệ tinh của mạng lưới có thể là các tổ chức xúc tiến xuất khẩu nhà nước cấp tỉnh/thành phố, các chi nhánh của các Hiệp hội ngành hàng và cỏc chi nhỏnh Phũng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các Hiệp hội doanh nghiệp địa phương và các tổ chức cung ứng dịch vụ xúc tiến xuất khẩu. + Nâng cao năng lực hỗ trợ thương mại của hệ thống cơ quan đại diện thương mại và các trung tâm thương mại ở nước ngoài đối với những mặt hàng mới. Nhà nước cần có biện pháp nhằm nâng cao trách nhiệm của các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan Thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài trong các hoạt động xúc tiến xuất khẩu, nhất là đối với các thị trường trọng điểm. Thực tế những năm qua cho thấy, chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cơ quan Thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài chưa đáp ứng được yêu cầu của các cộng đồng các doanh nghiệp (cả trong và ngoài nước) trong tỡnh hỡnh mới. Do vậy, việc củng cố và kiện toàn các cơ quan Thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài là một công việc hết sức cần thiết đối với hoạt động thương mại nói chung và hoạt động xúc tiến xuất khẩu nói riêng. Các cơ quan này sẽ có nhiệm vụ rất quan trọng trong việc nắm sát tỡnh hỡnh kinh tế, thương mại của từng nước cũng như khả năng và yêu cầu của các khách hàng nước ngoài đề giúp Bộ Công thương xây dựng chiến lược về thị trường, đối tác và mặt hàng xuất khẩu. Cụ thể: i) Có kế hoạch, biện pháp tuyển chọn, bồi dưỡng, đào tạo, từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ công tác thị trường nước ngoài đủ năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Sớm tiến hành chế độ thi tuyển cán bộ đi làm công tác Thương vụ. ii) Mở rộng mạng lưới cơ quan Thương vụ. Đối với những nước đang hoặc sẽ có nhiều triển vọng phát triển kinh tế thương mại với nước ta. Bố trí thêm cán bộ cho một số thị trường trọng điểm và tăng kinh phí, đầu tư thêm cơ sở vật chất kỹ thuật cho các Thương vụ. iii) Bố trí chỗ làm việc của Thương vụ có thể đặt bên ngoài Đại sứ quán để phù hợp với tính chất trong quan hệ giao dịch với các đơn vị kinh tế và thương nhân. iv) Cần duy trỡ và tăng cường hoạt động trao đổi thông tin: báo cáo định kỹ về thị trường và mặt hàng; những yêu cầu của doanh nghiệp trong nước nhờ các Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài giúp đỡ; thông tin về các cơ hội tham dự triển lóm, khảo sỏt thị trường, tham dự hội thảo, giới thiệu đối tác kinh doanh Với các hoạt động này, các Thương vụ có thể thu phí để gia tăng kinh phí cho hoạt động thu thập thông tin. + Duy trỡ hoạt động xúc tiến xuất khẩu thông qua “Chương trình xỳc tiến xuất khẩu trọng điểm quốc gia”. Việc Nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua “Chương trình xỳc tiến xuất khẩu trọng điểm quốc gia” thực sự rất quan trọng trong bối cảnh phần lớn các doanh nghiệp cũn nhiều khó khăn về tài chính cho hoạt động này. Chương trình xỳc tiến xuất khẩu trọng điểm quốc gia được thực hiện từ năm 2003 nhưng do Cục xúc tiến thương mại chưa có đơn vị chuyên trách mà giao cho Phũng Hợp tỏc quốc tế kiờm nhiệm nờn việc triển khai thực hiện cũn nhiều lỳng tỳng. Do vậy, một mặt Nhà nước nên duy trỡ hoạt động này trong một thời gian đủ dài. Mặt khác, Chính phủ cần sớm thành lập một bộ phận chuyên trách như một đơn vị thực hiện dự án để nâng cao tính chuyên môn hóa và có đủ thời gian cho công việc thẩm định và quản lý chương trình này một cỏch hiệu quả hơn. + Thường xuyên tổ chức các cuộc đối thoại giữa các cơ quan Chính phủ với các doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, chỉ có tiếp xúc và đối thoại với các doanh nghiệp thỡ cỏc cơ quan thuộc Chính phủ mới có những thông tin phản hồi từ phía doanh nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc tăng cường sự phối hợp và tác động qua lại trong giới doanh nghiệp, các tổ chức hỗ trợ thương mại và Chính phủ về vấn đề phát triển và xúc tiến thương mại là rất thiết thực. Do vậy, các cơ quan quản lý nhà nước về xúc tiến xuất khẩu, đặc biệt là VIETRADE cần thường xuyên chủ trỡ hoặc phối hợp với cỏc Hiệp hội ngành hàng, cỏc trung tõm xỳc tiến xuất khẩu, chi nhỏnh của Phũng Thương mại và Công nghiệp, các viện nghiên cứu để tổ chức các diễn đàn đối thoại giữa các doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước nhằm giúp Chính phủ xây dựng và ban hành các chính sách và cơ chế quản lý phự hợp, tạo điều kiện thuận lợi và thông thoáng cho các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu và tiến hành các hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Xây dựng quan hệ đối tác chính thức giữa Chính phủ và doanh nghiệp trong hoạt động xúc tiến xuất khẩu đóng vai trò rất quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu gia tăng xuất khẩu. + Nâng cao hiệu quả hoạt động của các trung tâm xúc tiến xuất khẩu địa phương. Để hoạt động xúc tiến xuất khẩu của các trung tâm này diễn ra một cách đồng bộ, đạt hiệu quả cao trên phạm vi cả nước, Nhà nước cần: i) Trực tiếp hỗ trợ một phần kinh phí cũng như đề xuất tăng thêm chi ngân sách cho các hoạt động của các trung tâm xúc tiến xuất khẩu địa phương nhằm giúp đỡ các trung tâm xây dựng và trang bị cơ sở vật chất ban đầu một cách đồng bộ và hiện đại đi vào hoạt động ổn định để tự tạo nguồn thu. ii) Hỗ trợ cỏc trung tõm xõy dựng nguồn nhõn lực cú chuyờn mụn nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, tin học phục vụ cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu thông qua việc tổ chức các lớp tập huấn, hỗ trợ kinh phí đào tạo cỏn bộ... iii) Hỗ trợ cỏc trung tâm xúc tiến xuất khẩu về kỹ thuật, chuyên gia, giảng viên để tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm, tập huấn theo chuyên đề thị trường, nghiệp vụ kinh doanh, nghiệp vụ xúc tiến xuất khẩu iv) Tạo điều kiện cho các cán bộ trung tâm xúc tiến xuất khẩu địa phương cùng tham gia các đoàn khảo sát thị trường, tham dự hội chợ triển lóm ở nước ngoài do Cục xúc tiến thương mại và các tổ chức xúc tiến xuất khẩu khác tổ chức. v) Thông báo chương trình tổ chức tiếp cỏc đoàn doanh nghiệp nước ngoài đến Việt Nam tỡm đối tác để các trung tâm xúc tiến xuất khẩu chủ động tổ chức cho các đoàn doanh nghiệp của địa phương cùng gặp gỡ, tiếp xúc. vi) Đề ra các kế hoạch, định hướng hoặc chương trình hành động chung cho tất cả các trung tâm xúc tiến xuất khẩu toàn quốc đề các trung tâm này có định hướng hoạt động rừ ràng dưới sự chỉ đạo và hỗ trợ của Cục xúc tiến thương mại đồng thời tạo điều kiện cho các trung tâm này nghiên cứu, lập chương trình xỳc tiến xuất khẩu mang tớnh đặc thù riêng phù hợp với thực tế của từng địa phương. 3.3.7. Nhà nước cần đẩy mạnh đổi mới chớnh sỏch tài chính, tiền tệ nhằm tạo điều kiện phát triển mạnh và đồng bộ thị trường tài chính, đồng thời có biện phỏp ngăn ngừa lạm phỏt Thực tế, khu vực tài chính Việt Nam hiện nay do các ngân hàng thương mại quốc doanh chi phối và đang chiếm tới 3/4 thị phần tín dụng. Các ngân hàng quốc doanh đang gặp phải những khó khăn. Ngân hàng quá lớn và quá quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân, nên không thể cho phép sự sụp đổ. Các ngân hàng phải chịu rất ít áp lực cạnh tranh trừ sự cạnh tranh yếu ớt của một vài ngân hàng tư nhân và ngân hàng cổ phần nước ngoài. Chức năng của ngân hàng thương mại là tuân thủ các kế hoạch điều hành tập trung của Chính phủ, hành vi thừa hưởng từ thời cơ chế bao cấp thay đổi rất chậm chạp. Nếu như nợ xấu được tính toán một cách đầy đủ hơn trong tất cả các bản tổng kết tài sản của ngân hàng thỡ nhiều ngõn hàng lớn của Nhà nước có thể được liệt vào danh sách phá sản. Tuy nhiên, do phần lớn các khoản nợ đều là nợ trong nước nên Chính phủ có thể dùng các biện pháp can thiệp như cấp vốn, bán trái phiếu Chính phủ hoặc in thêm tiền. Nhưng nếu cứ tiếp tục trả nợ thay cho ngân hàng mà không cải tổ hành vi của chúng, sẽ khuyến khích các ngân hàng tiếp tục tiếp tục cho các doanh nghiệp nhà nước vay những khoản được liệt vào loại nợ xấu. Một vấn đề mà các nhà kinh tế thường gọi là lợi dụng bảo lónh cố ý làm liều. Nhưng nếu ngân hàng không cho doanh nghiệp nhà nước vay thỡ cỏc doanh nghiệp này phải đóng cửa, không có tiền trả nợ cho các doanh nghiệp khác, dẫn đến phỏ sản hàng loạt cỏc doanh nghiệp. Áp lực buộc các ngân hàng phải cho các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ vay vốn thường xuyên xuất phát từ chính quan điểm đó. Giải pháp pháp cho vấn đề chất lượng của dịch vụ ngân hàng là chỉ nên thực hiện thông qua cạnh tranh. Cạnh tranh giữa các ngân hàng mới có thể gạt bỏ được vai trò và ảnh hưởng của các chính khách ra khỏi hoạt động kinh doanh ngân hàng, loại bỏ các khoản nợ xấu và các khoản phải thu mà không bao giờ nhận được từ các doanh nghiệp nhà nước. Chừng nào hệ thống ngõn hàng của Việt Nam cũn chưa được cải cách thỡ Việt Nam cũn gặp khú khăn trong việc quản lý kinh tế vĩ mô. Từ kinh nghiệm của Malaixia cho thấy, để thực hiện chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu thành công trước hết cần cú sự phỏt triển mạnh và đồng bộ thị trường tài chính. Cần phải chú ý cả thị trường vốn ngắn hạn thông qua đầu tư gián tiếp với dù chỉ 1% đầu tư gián tiếp nước ngoài trong tổng đầu tư xó hội bởi đây như là tiêu chí để xác lập tính lành mạnh của môi trường tài chính và niềm tin về thị trường cho các nhà đầu tư. Ở nước ta, hầu như khía cạnh này đó chưa được chú trọng. Về thị trường vốn dài hạn, việc phát triển thị trường chứng khoán cần có những giải pháp để xóa bỏ sự biệt lập của thị trường tài chính Việt Nam với bên ngoài đồng thời không tạo ra được khả năng phản ánh và năng lực phản ứng của hệ thống tài chính Việt Nam trước các thay đổi của thế giới. Kinh nghiệm của Malaixia cho thấy sự cần thiết phải thận trọng trong tự do húa tài chớnh nhưng cũng khụng vỡ thế mà hạn chế, không mở rộng sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường này. Sự mở rộng cổ phần tham dự cho các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng đó tạo nguồn lực vốn cho sự phỏt triển kinh tế - xó hội nói chung và công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu nói riêng. Đồng thời, nó cũng tạo khả năng phản ứng nhanh nhạy của thị trường trong nước với những biến động từ bên ngoài. Sự cải cách của thị trường tài chính như vậy sẽ giúp cho hệ thống ngân hàng trở nên minh bạch, nâng cao tính chuyên nghiệp hóa trên cơ sở các nguyên tắc điều chỉnh phổ biến của thế giới. KẾT LUẬN Mấy thập kỷ qua, công nghiệp hoá đó và đang diễn ra ở nhiều nước đang phát triển. Công nghiệp hoá có sự đa dạng về mô hỡnh và xu hướng phổ biến ở nước đang phát triển là chuyển từ công nghiệp hoá hướng nội sang hướng ngoại – hướng về xuất khẩu. Thành công hay thất bại của mỗi nước trong điều chỉnh chiến lược công nghiệp hoá tuỳ thuộc vào vai trò của nhà nước. Nghiên cứu đề tài: “Vai trò của nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu của Malaixia - kinh nghiệm và khả năng vận dụng với Việt Nam”, nghiên cứu sinh đó hoàn thành những mục tiờu nghiên cứu đề ra và có những đóng góp sau: 1. Luận án đó hệ thống hoỏ và đi sâu phân tích làm rừ những vấn đề lý luận về vai trò của nhà nước trong công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Thực tế, trong điều kiện mở cửa nền kinh tế, nhà nước cần có những chính sách, giải pháp phù hợp để định hướng, điều tiết và thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoỏ nhằm tạo lập một cơ cấu kinh tế năng động, phát huy được lợi thế so sánh. Từ đó thúc đẩy xuất khẩu và đem lại hiệu quả tích cực đối với tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là mục tiêu mà tất cả các nước đang phát triển hướng đến trong công nghiệp hoá. Ở đây, lý thuyết lợi thế so sánh là cơ sở để luận án tiếp cận nghiên cứu định hướng công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu và cũng là cơ sở cho việc hoạch định các chính sách, giải pháp giúp nhà nước thực hiện tốt chức năng của mỡnh trong triển khai thực thi công nghiệp hoỏ. 2. Luận ỏn đó khỏi quỏt những vấn đề chủ yếu về công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu ở Malaixia. Đó là những chính sách và giải pháp của nhà nước tác động vào công nghiệp hoá, những kết quả và hạn chế trong công nghiệp hoá. Ở đó, luận án đó chỉ rừ những hạn chế của công nghiệp hoá theo chiến lược hướng nội – thay thế nhập khẩu sẽ dẫn đến sự chuyển hướng tất yếu với Malaixia là chuyển sang công nghiệp hoá theo chiến lược hướng ngoại – hướng về xuất khẩu. Đó như điều kiện cần thiết để mở ra đường hướng mới cho Malaixia trên con đường phát triển kinh tế - xó hội. Trong chương này, luận án đi sâu nghiên cứu vai trò của nhà nước trong công nghiệp hoá ở Malaixia qua hai giai đoạn (1971 – 1996) và (1997 – nay). Qua kết quả nghiên cứu trong mỗi giai đoạn cụ thể tuỳ thuộc điều kiện kinh tế - chính trị trong nước và những thay đổi trong môi trường kinh tế quốc tế và khu vực, nhà nước đó làm tốt chức năng định hướng, điều tiết việc thực hiện công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu thông qua các chính sách, giải pháp cụ thể điều đó đó đem lại những kết quả tích cực đối với sự phát triển của Malaixia trong quỏ trình hội nhập sõu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế và thích ứng kịp với những biến đổi của tỡnh hỡnh kinh tế thế giới như sau khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á năm 1997. Malaixia đó chuẩn bị gia nhập hàng ngũ NICs. Từ vai trò của nhà nước trong công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu của Malaixia, luận án đó rỳt ra một số bài học kinh nghiệm cú ý nghĩa tham khảo với nhiều nước đang phát triển ngày nay khi tiến hành công nghiệp hoá trong điều kiện mở cửa nền kinh tế nhằm khai thức những lợi thế trong phát triển. 3. Luận án đó làm rừ vai trò của Nhà nước Việt Nam trong tiến hành công nghiệp hoá theo đường lối đổi mới từ 1986 đến nay. CNH, HĐH trong điều kiện cách mạng khoa học – công nghệ, trong phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế nên những chính sách và giải pháp của Nhà nước tác động vào tiến trình công nghiệp hoỏ đều có những thay đổi để thích ứng và phù hợp với tỡnh hỡnh mới. Mục tiờu của công nghiệp hoỏ nhằm hướng tới đẩy nhanh tăng trưởng, phát huy tốt lợi thế so sánh trong hội nhập kinh tế quốc tế để ngoại thương và đặc biệt là hoạt động xuất khẩu ngày càng đóng vai trò tớch cực và là động lực quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế đất nước. Luận án đó chỉ ra những thành công và hạn chế của công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu ở nước ta thời gian qua. Đồng thời cũng làm rừ những nguyên nhân của những hạn chế từ phía chính sách, giải pháp của Nhà nước. Luận án đó làm rừ những điểm tương đồng và khác biệt của Việt Nam và Malaixia trong tiến hành công nghiệp hoá. Đó là cơ sở để xem xét tiếp thu có chọn lọc một số kinh nghiệm của Malaixia khi tiến hành công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu có khả năng vận dụng vào nước ta. Trong chương 3, luận án đó tập trung làm rừ khả năng vận dụng những kinh nghiệm về vai trò của nhà nước trong công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu của Malaixia với nước ta hiện nay khi Việt Nam đang hướng tới mục tiêu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại khi Việt Nam đó gia nhập WTO, quỏ trình tự do hoỏ thương mại và tự do hoá đầu tư vừa là cơ hội, vừa là thách thức mới với Việt Nam trong công nghiệp hoá. Thực tế ấy đũi hỏi Nhà nước cần làm gỡ để thúc đẩy công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu ngày càng cú ý nghĩa tớch cực đối với tăng trưởng kinh tế đất nước. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 1 Về đổi mới công tác tổ chức bộ máy quản lý và sử dụng lao động với doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay Tạp chí Thanh tra tài chính, số 33 (3-2005) Trang 25 2 Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: Kinh nghiệm từ Trung Quốc Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp, số 4-2005 Trang 38 3 Thu hút FDI ở Malaixia: Khả năng vận dụng vào Việt Nam Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp, số 06-2007 Trang 37 4 Malaixia với chiến lược phát triển công nghệ cao trong công nghiệp hoá Thời báo Tài chính Số 151 09-2007 Trang 32-33 5 Công nghiệp hoá: Thời cơ và thách thức với các nước đang phát triển Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp, số 10-2007 Trang 33-34 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt Vũ Tuấn Anh (1994), Vai trò của nhà nước trong phát triển kinh tế, Nhà xuất bản Khoa học xó hội. Lê Xuân Bá (2006), “Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chớ Quản lý kinh tế số 12 tháng 1+2 năm 2007, tr 11. Đỗ Đức Bỡnh – Nguyễn Thường Lạng (đồng chủ biên) (2006), Những vấn đề kinh tế – xó hội nảy sinh trong đầu tư trực tiếp nước ngoài kinh nghiệm Trung Quốc và thực tiễn Việt Nam, Nhà xuất bản Lý luận Chớnh trị. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện chiến lược phát triển (1997), Công nghiệp hóa và chiến lược tăng trưởng dựa trên xuất khẩu, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2008), Bối cảnh trong nước quốc tế và việc nghiên cứu xây dựng chiến lược 2011-2020. Bộ Khoa học và công nghệ (2006): Khoa học và công nghệ Việt Nam 2001 - 2005. Bộ Ngoại giao (1999), Toàn cầu hoỏ và hội nhập kinh tế của Việt Nam, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Bộ Ngoại giao (2002), Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu hướng toàn cầu hoá vấn đề và giải phỏp, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. CIEM-SIDA (2003), Hội nhập kinh tế, áp lực cạnh tranh trên thị trường và đối sách của một số nước, NXB Giao thụng vận tải. Chương trình Việt Nam - Đại học Havard (2008), Lựa chọn thành công bài học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương lai Việt Nam. Mai Ngọc Cường (1996), Lịch sử cỏc học thuyết kinh tế, Nhà xuất bản Thống kờ. Vũ Đỡnh Cự (2000) (chủ biờn), Khoa học và công nghệ hướng tới thế kỷ XXI. Định hướng và chính sách, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Diễn đàn phát triển GRIPS (2003), Báo cáo tóm tắt Gắn tăng trưởng kinh tế với giảm nghèo - Cơ sở hạ tầng quy mô lớn trong bối cảnh Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam. Diễn đàn phát triển Việt Nam – VDF (2006), Hoạch định chính sách công nghiệp ở Thái Lan, Malaysia và Nhật Bản – Bài học kinh nghiệm cho các nhà hoạch định chính sách Việt Nam, Nhà xuất bản Lao động xó hội. Nguyễn Trớ Dĩnh (1991), Vai trò nhà nước ở các nước ASEAN, Nhà xuất bản Thống kờ. Nguyễn Trớ Dĩnh - Phạm Thị Quý (2006), Giỏo trình Lịch sử kinh tế, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân. Lê Đăng Doanh (2002), Hỡnh thành đồng bộ hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô thúc đẩy CNH, HĐH, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Phạm Tất Dong (2001), Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong CNH, HĐH, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Phan Huy Dũng (2004), Chuyển giao công nghệ ở Việt Nam thực trạng và giải phỏp, NXB Chớnh trị quốc gia. Phan Xuõn Dũng - Hồ Thị Mỹ Duệ (2006), Đổi mới quản lý và hoạt động các tổ chức khoa học và công nghệ theo cơ chế doanh nghiệp, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Trần Thái Dương (2004), Chức năng kinh tế của Nhà nước - Lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Công an nhõn dõn. Đảng cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự thật. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nhà xuất bản Sự thật. Đảng cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 khoá VII, Nhà xuất bản Sự thật. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Ngô Văn Điểm (2004), Toàn cầu hoỏ kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Đỗ Đức Định (1991), Nhà nước trong kinh tế thị trường các nước đang phát triển châu Á, Nhà xuất bản Khoa học xó hội. Đỗ Đức Định (1999), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Phát huy lợi thế so sánh - Kinh nghiệm của các nền kinh tế đang phát triển ở châu Á, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Đỗ Đức Định (1999), Một số vấn đề về chiến lược công nghiệp hoá và lý thuyết phỏt triển, Nhà xuất bản Thế giới. Đỗ Đức Định (2004), Kinh tế học phỏt triển về công nghiệp hoỏ và cải cỏch nền kinh tế, Nxb Chớnh trị quốc gia. Vũ Bá Định (2004), Hoàn thiện năng lực quản lý và xỳc tiến đầu tư để thu hút các công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam, Tạp chí Thuế nhà nước, số 1/2004, tr.28. Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào CNH, HĐH, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Dương Phú Hiệp (1996), Con đường phát triển của một số nước Châu Á - Thái Bỡnh Dương, NXB Chớnh trị quốc gia. Dương Phú Hiệp - Vũ Văn Hà (2001), Toàn cầu hoỏ kinh tế, Nhà xuất bản Khoa học xó hội. Đặng Hữu (2001), Phỏt triển kinh tế tri thức rỳt ngắn quỏ trình CNH, HĐH, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Phạm Khiêm Ích - Nguyễn Đỡnh Phan (1994), Công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở Việt Nam và các nước trong khu vực, Nhà xuất bản Thống kờ. JICA-NEU (2004), Chính sách công nghiệp hoá và thương mại của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, Nhà xuất bản Thanh Hoỏ. Nguỵ Kiệt - Hạ Diệu (1993), Bớ quyết cất cỏnh của bốn con rồng nhỏ, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Kỷ yếu hội thảo quốc gia (2003), Thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Thống kờ. Trần Quang Lâm - An Như Hải (2006), Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Đặng Thị Loan - Lê Du Phong - Hoàng Văn Hoa (2006), Kinh tế Việt Nam 20 năm đổi mới (1986-2006): Thành tựu và những vấn đề đặt ra, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân. Hoàng Thị Bớch Loan (2002), Công ty xuyờn quốc gia của cỏc nền kinh tế công nghiệp mới chõu Á, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Đặng Danh Lợi (2003), “Kinh tế tư nhân Việt Nam: Những thuận lợi khó khăn trong quá trình phỏt triển”, Tạp chớ Phỏt triển kinh tế, Số 04/2003. Nguyễn Thị Luyến (1998) (chủ biờn), CNH, HĐH: Những bài học thành công của Đông Á, Viện kinh tế thế giới. Nguyễn Thị Luyến (2005) (chủ biờn), Nhà nước với phát triển kinh tế tri thức trong bối cảnh toàn cầu hoá, Nhà xuất bản Khoa học xó hội. Vừ Đại Lược (1998), “Từ mụ hỡnh công nghiệp hoỏ cổ điển tới mô hỡnh công nghiệp hoỏ theo hướng hội nhập quốc tế”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, Số 4 (54) thỏng 8/1998. Vừ Đại Lược (1999), Những xu hướng phát triển của thế giới và sự lựa chọn mô hỡnh công nghiệp hoỏ của nước ta, Nhà xuất bản Khoa học xó hội. Bùi Xuân Lưu - Nguyễn Hữu Khải (2006), Giỏo trình kinh tế ngoại thương, Nhà xuất bản Lao động - xó hội. Đinh Hiền Minh (2006), “Tăng trưởng kinh tế và cơ cấu kinh tế Việt Nam trong năm 2006”, Tạp chớ Quản lý kinh tế, số 12 tháng 1+2 năm 2007, tr 68. Đào Lê Minh – Trần Lan Hương (2001), Kinh tế Malaixia, Nhà xuất bản Khoa học xó hội. Đỗ Hoài Nam (2004), Một số vấn đề về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xó hội. Ngõn hàng thế giới (1999), Đông Á - Con rồng dẫn đến phục hồi, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Ngõn hàng thế giới (2002), Suy ngẫm lại sự thần kỳ Đông Á, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Nguyễn Bớch Ngọc (2005), Luật đầu tư chung sẽ trao quyền bỡnh đẳng cho các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Tạp chớ Tài chớnh doanh nghiệp số 8/2005, tr.19. Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia (1997), Malaixia – kế hoạch triển vọng lần thứ hai 1991-2000, Nhà xuất bản Chớnh trị Quốc gia. Phựng Xuõn Nhạ (2000), Đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ công nghiệp hoá ở Malaixia, Nhà xuất bản Thế giới. Hoàng Thị Thanh Nhàn (2003) (chủ biờn), Điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở Hàn Quốc, Malaixia và Thái Lan, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Trần Nhõm (1997), Có một Việt Nam như thế đổi mới và phát triển, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Lục Kiến Nhõn (chủ biờn) (1999), APEC với Trung Quốc và cỏc thành viờn chủ yếu khỏc, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Nguyễn Thiện Nhõn (2002), Khủng hoảng kinh tế tài chớnh ở Chõu Á 1997-1999 nguyờn nhõn, hậu quả và những bài học kinh nghiệm với Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Tp Hồ Chí Minh. Lờ Du Phong (2006) (chủ biờn): Nguồn lực và động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nhà xuất bản Lý luận chớnh trị. Lê Hồng Phục - Đỗ Đức Định (1988), Cỏc mụ hỡnh công nghiệp húa: Xinhgapo, Nam Triều Tiờn, Ấn Độ, Viện kinh tế thế giới. Nguyễn Trần Quế (2000) (chủ biờn), Lựa chọn sản phẩm và thị trường trong ngoại thương thời kỳ công nghiệp hoá của các nền kinh tế Đông Á, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Lương Xuân Quỳ (2006) (chủ biên), Quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nhà xuất bản Lý luận chớnh trị. Phạm Thị Quý (2002), Chuyển đổi mô hỡnh kinh tế ở Việt Nam - Thực trạng và kinh nghiệm, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Đặng Kim Sơn (2001), Công nghiệp hoỏ từ nụng nghiệp - Lý luận, thực tiễn và triển vọng ỏp dụng ở Việt Nam, Nhà xuất bản Nụng nghiệp. Lờ Bàn Thạch - Trần Thị Tri (2000), Công nghiệp hoá ở NIEs Đông Á và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới. Bựi Tất Thắng (2006) (chủ biờn), Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xó hội. Trần Văn Thọ (1997), Công nghiệp hoá Việt Nam trong thời đại châu Á - Thái Bỡnh dương, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chớ Minh. Trần Văn Thọ (2005), Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hoá Việt Nam, Nxb Chớnh trị quốc gia. Trần Văn Thọ - Nguyễn Ngọc Đức - Nguyễn Văn Chỉnh - Nguyễn Quán (2000), Kinh tế Việt Nam 1955 - 2000 - Tớnh toỏn mới, phõn tớch mới, Nhà xuất bản Thống kờ. Vừ Thanh Thu (2003), Quan hệ kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Thống kờ. Nguyễn Văn Thuỵ (1994), Một số vấn đề về chính sách phát triển khoa học và công nghệ, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Bựi Sĩ Tiếu (2007), “Phát triển khoa học, công nghệ, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chớ Cộng sản, số 774 thỏng 4/2007. Lê Văn Toàn - Trần Hoàng Kim - Phạm Huy Tú (1992), Kinh tế NICs Đông Á kinh nghiệm đối với Việt Nam, Nhà xuất bản Thống kờ. Tổng cục Thống kờ: Tổng quan về xuất nhập khẩu của Việt Nam trong 20 năm đổi mới. Tổng cục thống kờ (1996), Tư liệu kinh tế các nước ASEAN, Nhà xuất bản Thống kờ. Tổng cục thống kờ (2004), Tư liệu kinh tế các nước ASEAN, Nhà xuất bản Thống kờ. Tổng cục thống kờ (2007), Niờn giỏm Thống kờ 2006. Nhà xuất bản Thống kờ. Trung tõm kinh tế Chõu Á - Thỏi Bỡnh Dương (2002), Công ty xuyờn quốc gia cỏc nền kinh tế công nghiệp mới Chõu Á, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Nguyễn Anh Tuấn (2006), “Chuyển giao công nghệ qua đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam những năm qua”, Tạp chớ Cộng sản, số 18 thỏng 9/2006. Trần Văn Tùng (2003), Chất lượng tăng trưởng nhỡn từ Đông Á, Nhà xuất bản Thế giới. Trần Xuõn Tựng (2005), Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2002), Một số vấn đề lý luận, phương pháp luận phương pháp xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế Việt Nam, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Viện Kinh tế thế giới (1997), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Phát huy lợi thế so sánh kinh nghiệm của các nền kinh tế đang phát triển ở Châu Á, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Viện Kinh tế thế giới (2001), Kinh tế Malaixia, Nhà xuất bản Khoa học xó hội. Viện Kinh tế thế giới (2003), Điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở Hàn Quốc, Malaixia và Thái Lan, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Viện Kinh tế và Chớnh trị thế giới (2004), Hướng tới cộng đồng kinh tế Đông Á, Nhà xuất bản Thế giới. Viện nghiên cứu Đông Nam Á (2002), Kinh tế các nước Đông Nam Á, thực trạng và triển vọng, Nhà xuất bản Khoa học xó hội. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2002), Kinh tế Việt Nam 2001, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2003), Kinh tế Việt Nam 2002, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Vụ Hợp tác kinh tế đa phương – Bộ Ngoại giao (2002), Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá vấn đề và giải pháp, Nhà xuất bản Chớnh trị quốc gia. Tiếng Anh Arumugam Rajenthran, Malaysia: An Overview of the Legal Framework for Foreign Direct Invesment, Insititute of Southeast Asian Studies, Singapore, ISS 0218-8937, Octorber 2002. Haggard, Stephen (1999), “Governance and Growth: Lessons from the Asean Economic Crisis”, Asia Pacific Economic Literature 13 (November): 30 - 42. Krugman, Paul & Obstfeld, Maurice (2003), International Economics: Theory and Policy, Elm Street Publishing Services, Inc. Ministry of International Trade and Industry Malaysia, Malaysia International in the Manufacturing Sector: Policies, Incentives and Facilities, MIDA, January 1995. Ministry of International Trade and Industry Malaysia, Malaysia International in the Manufacturing Sector: Policies, Incentives and Facilities, MIDA, May 1998. Ministry of International Trade and Industry Malaysia, Ministry of International Trade and Industry Malaysia Report 1997/98, August 1998. Ministry of International Trade and Industry Malaysia, Malaysia International in the Manufacturing Sector: Policies, Incentives and Facilities, MIDA, February 1999. Ministry of International Trade and Industry Malaysia, Malaysia International in the Manufacturing Sector: Policies, Incentives and Facilities, MIDA, March 2002. Ministry of International Trade and Industry Malaysia, Malaysia International in the Manufacturing Sector: Policies, Incentives and Facilities, MIDA, January 2004. UKM, 1997, Foreign Direct Investment and Productivity Growth in Malaysia. Wade, Robert (1990), Governing the Market: Economic Theory and the Role of Government in East Asian Industrialization, Priceton University Press, p 65. World Bank (1993), The East Asian Miracle: Economic Growth and Public Policy, New York: Oxford University Press. Cỏc Web sites: www.vietnamnet.vn; www.mof.gov.vn; www.mot.gov.vn; www.tuoitre.com.vn; www.vir.com.vn; www.vneconomy.vn; www.chinhphu.gov.vn; www.laodong.com.vn;

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5923.doc
Tài liệu liên quan