LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, với sự phát triển của Internet, thế giới đã có những thay đổi trong nhận thức và tư duy. Một trong những thay đổi quan trọng là làm cho mọi người trên trái đất gần với nhau hơn. Nói cách khác, sự giao dịch qua mạng đã trở nên dễ dàng. Hình thức kinh doanh này ngày nay đã phổ biến với tên gọi thương mại điện tử (TMĐT), xuất phát từ cụm từ Electronic Comerce hay e-Comerce. Xét trong tương quan với Ngoại thương, chúng ta vẫn nhắc đến một trong những đặc điểm của hoạt đông Ngoại thương là gắn kết nền kinh tế với thế giới, góp phần thúc đẩy đất nước hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Giờ đây,TMĐT ra đời, tất cả các doanh nghiệp trong nước đều có cơ hội trở thành những doanh nghiệp XNK trực tiếp. Con đường hội nhập kinh tế của chúng ta đã mở rộng hơn?
Vậy TMĐT là gì? Các doanh nghiệp Ngoại thương (DNNT) nói riêng và các doanh nghiệp Việt Nam (DNVN) nói chung đã, đang và sẽ làm gì để đón lấy những cơ hội và đương đầu với những thách thức TMĐT đặt ra để góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập của đất nước? Với mục đích tìm hiểu những vấn đề cơ bản của TMĐT; thực trạng, triển vọng của TMĐT trong hoạt động Ngoại thương của nước ta, em chọn đề tài: “Thương mại điện tử trong hoạt động Ngoại thương Việt Nam- thực trạng và giải pháp”.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thu Hương đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I. LÍ LUẬN CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 1
I. Thương mại điện tử 1
1. Định nghĩa về TMĐT 1
2. Các lĩnh vực của TMĐT 2
3. Những yêu cầu chủ yếu của TMĐT 3
II. TMĐT trong hoạt động ngoại thương 5
1. Vai trò của TMĐT trong hoạt động ngoại thương 5
2. Đặc điểm của TMĐT trong hoạt động ngoại thương 6
3. Quy trình nghiệp vụ của TMĐT trong hoạt động Ngoại thương 7
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN TMĐT TRONG HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG Ở VIỆT NAM 8
I. Tính tất yếu của việc phát triển TMĐT trong hoạt động Ngoại thương ở Việt nam 8
II. Thực trạng phát triển của TMĐT trong hoạt động Ngoại thương ở Việt nam 10
1. Khái quát chung về thực trạng phát triển TMĐT trong hoạt động Ngoại thương ở Việt nam 10
2. Tình hình phát triển của TMĐT trong hoạt động Ngoại thương ở Việt nam 11
III. Những thuận lợi và khó khăn cho quá trình phát triểnTMĐT trong hoạt động Ngoại thương.ở Việt nam 14
1. Những thuận lợi 14
2. Những khó khăn 17
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY TMĐT TRONG HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG Ở VIỆT NAM 19
I. Các giải pháp vĩ mô 19
1. Về hạ tầng cơ sở công nghệ 19
2. Về hạ tầng pháp lý 21
3. Về hạ tầng cơ sở xã hội và nhận thức 22
II. Các giải pháp vi mô 23
1. Chuẩn bị nguồn nhân lực 23
2. Lập trang Web sớm 24
3. Quảng cáo, giới thiệu trang web. 25
4. Lựa chọn phương thức thanh toán thích hợp. 26
Kết luận
34 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2044 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thương mại điện tử trong hoạt động Ngoại thương Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, với sự phát triển của Internet, thế giới đã có những thay đổi trong nhận thức và tư duy. Một trong những thay đổi quan trọng là làm cho mọi người trên trái đất gần với nhau hơn. Nói cách khác, sự giao dịch qua mạng đã trở nên dễ dàng. Hình thức kinh doanh này ngày nay đã phổ biến với tên gọi thương mại điện tử (TMĐT), xuất phát từ cụm từ Electronic Comerce hay e-Comerce. Xét trong tương quan với Ngoại thương, chúng ta vẫn nhắc đến một trong những đặc điểm của hoạt đông Ngoại thương là gắn kết nền kinh tế với thế giới, góp phần thúc đẩy đất nước hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Giờ đây,TMĐT ra đời, tất cả các doanh nghiệp trong nước đều có cơ hội trở thành những doanh nghiệp XNK trực tiếp. Con đường hội nhập kinh tế của chúng ta đã mở rộng hơn?
Vậy TMĐT là gì? Các doanh nghiệp Ngoại thương (DNNT) nói riêng và các doanh nghiệp Việt Nam (DNVN) nói chung đã, đang và sẽ làm gì để đón lấy những cơ hội và đương đầu với những thách thức TMĐT đặt ra để góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập của đất nước? Với mục đích tìm hiểu những vấn đề cơ bản của TMĐT; thực trạng, triển vọng của TMĐT trong hoạt động Ngoại thương của nước ta, em chọn đề tài: “Thương mại điện tử trong hoạt động Ngoại thương Việt Nam- thực trạng và giải pháp”.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thu Hương đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
Sinh viên
Phan Lệ Hằng
Lớp K13QT2
CHƯƠNG I
LÍ LUẬN CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG
I. THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1. Định nghĩa về TMĐT
Cuối thế kỷ XX, bước sang đầu thế kỷ XXI, loài người mở thêm một con đường mới cho sự phát triển kinh tế của mình-đó là Internet. Con đường ấy đã làm cho hoạt động thương mại được vận hành theo một cách thức hoàn toàn khác trước. Internet ra đời và được áp dụng ngày càng rộng rãi trong hầu hết các khâu của hoạt động thương mại, mang lại những lợi ích, hiệu quả vô cùng to lớn, người ta mới chính thức thừa nhận một phương thức thương mại mới - đó là thương mại điện tử (TMĐT).
Vậy TMĐT là gì ?
Hiện nay, có rất nhiều quan điểm và định nghĩa khác nhau về TMĐT.
Có quan điểm cho rằng TMĐT bao gồm các giao dịch tài chính và thương mại diễn ra bằng điện tử, kể cả việc chuyển dữ liệu bằng điện tử hay chuyển tiển bằng điện tử, các hoạt động liên quan đến thẻ tín dụng và thẻ thanh toán. Có quan điểm khác lại cho rằng: TMĐT chỉ giới hạn trong giao dịch từ bán lẻ đến người tiêu thụ cuối cùng, trong đó các chu trình từ giao dịch đến thanh toán đều được thực hiện qua mạng chẳng hạn như qua Internet, dùng mạng riêng để trao đổi thông tin và thẻ tín dụng. Như vậy, các quan điểm trên chỉ mới đề cập đến hình thức của TMĐT đã tồn tại thời qua.
Theo Uỷ ban Châu Âu, TMĐT có thể định nghĩa rộng là hoạt động kinh doanh thương mại sử dụng các phương tiện điện tử. Với định nghĩa này, TMĐT bao gồm tất cả các hoạt động trao đổi điện tử hàng hoá hữu hình và vô hình (dịch vụ) như thông tin, hỗ trợ bán, cố vấn thương mại và pháp luật. TMĐT bao gồm tất cả các bước kinh doanh thông thường từ tiến hành các hoạt động marketing điện tử, đặt hàng thanh toán và dịch vụ sau bán thông qua mạng Internet.
Uỷ ban về TMĐT của APEC coi TMĐT là công việc kinh doanh được tiến hành thông qua truyền số liệu và công nghệ tin học kỹ thuật số.
Theo công bố của Bộ trưởng các nước trong WTO: “TMĐT bao gồm sản xuất, phân phối, tiếp thị , bán hàng, giao hàng và các dịch vụ bằng phương tiện điện tử”.
Từ những quan điểm trên, chúng ta có thể đưa ra một cách định nghĩa tương đối đầy đủ và hoàn chỉnh về TMĐT: TMĐT là hoạt động trao đổi trên cơ sở phát triển công nghệ giữa các chủ thể khác nhau (chủ thể bao gồm các cá nhân, tổ chức) và những hoật động bên trong doanh nghiệp hoặc giữa các doanh nghiệp nhằm hỗ trợ những trao đổi này.
2. Các lĩnh vực của TMĐT
Tuy mới ra đời và phát triển mấy thập kỷ qua nhưng TMĐT đã có mặt ở tất cả các lĩnh vực trong đời sống kinh tế.
Đầu tiên, TMĐT tham gia vào lĩnh vực mua bán hàng hoá hữu hình. Chúng ta có thể dạo hàng giờ trên các siêu thị ảo trên mạng để chọn mua cho mình một vật cần thiết. Khi cần mua sách và nhạc, chúng ta bước vào webside Amazon.com và Bn.com hay khi cần mua bất kỳ sản phẩm nào khác, chúng ta cũng đã biết ngay các địa chỉ www... cần tìm, chẳng hạn vào Autoweb.com và Carsdirect.com để chọn mua 1 chiếc xe ưa thích; vào CDW.com và PC.connection để mua máy tính và các phụ tùng máy... Chúng ta sẽ được cung cấp các thông tin đầy đủ về hàng hoá, cũng được quyền trả lại hàng bị hư hỏng như đi mua bán thông thường.
TMĐT còn vươn sang lĩnh vực dịch vụ (hàng hoá vô hình). Các công ty dịch vụ thông qua mạng để tiếp cận với khách hàng. Khi cần mua về máy bay hay thuê phòng nghỉ, muốn tham gia đấu giá trực tiếp hay sử dụng các dịch vụ về tài chính,... chúng ta sẽ được cung cấp đầy đủ thông tin trên Expedia.com, Trip.com hay các địa chỉ www... tương thích.
Ngày nay, với trên 1300 lĩnh vực ứng dụng ,TMĐT đã thực sự đi vào mọi ngõ nghách của đời sống kinh tế và ngày càng khẳng định vị trí của mình.
3. Những yêu cầu chủ yếu của TMĐT
TMĐT bao trùm một phạm vi rộng lớn các hoạt động kinh tế-xã hội. Những yêu cầu chủ yếu của nó bao gồm một loạt vấn đề phức tạp đan xen nhau trong mối quan hệ hữu cơ, bao gồm: hạ tầng cơ sở công nghệ; hạ tầng cơ sở nhân lực; bảo mật và an toàn; hạ tầng thanh toán tài chính tự động; bảo vệ sở hữu trí tuệ... Những vấn đề này đòi hỏi được giải quyết trên tất cả các lĩnh vực: từ doanh nghiệp cho đến quốc gia và quốc tế.
-Về hạ tầng cơ sở công nghệ
Hạ tầng cơ sở công nghệ bao gồm các chuẩn của doanh nghiệp, của nhà nước và sự liên kết của các chuẩn ấy với các chuẩn quốc tế, tới kỹ thuật ứng dụng và thiết bị ứng dụng không chỉ của riêng từng các doanh nghiệp mà phải là một hệ thống quốc gia với tư cách là một phân hệ của hệ thống công nghệ thông tin khu vực và toàn cầu .
Mặt khác, hạ tầng cơ sở công nghệ còn đòi hỏi một nền công nghiệp điện năng vững chắc, đảm bảo cung cấp điện năng đầy đủ, ổn định, mức giá hợp lý. Ngoài ra, chi phí trang bị những phương tiện công nghệ thông tin và chi phí dịch vụ truyền thông phải đủ rẻ để đông đảo người sử dụng có thể tiếp cận được. Điều này có ý nghĩa đặc biệt to lớn với những nước đang phát triển, mức sống còn thấp như ở Việt Nam.
-Về hạ tầng cơ sở nhân lực
Áp dụng TMĐT tất yếu làm nảy sinh hai đòi hỏi: một là mọi người đều quen thuộc và có khả năng thành thạo hoạt động trên mạng; hai là có đội ngũ chuyên gia tin học nhanh, thường xuyên bắt kịp những công nghệ thông tin mới phát triển để phục vụ cho TMĐT cũng như có khả năng thiết kế các công cụ phần mềm, tránh lệ thuộc vào nước khác.
-Về hạ tầng cơ sở kinh tế và pháp lý
TMĐT phát triển trên cơ sở mạng Internet và cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, do vậy, nó cũng quyết định môi trường pháp lý ở mỗi nước. Khi một quốc gia xác định rằng, xã hội thông tin và Internet là một cơ hội cho phát triển kinh tế thì nội dung môi trường kinh tế, pháp lý và xã hội có hàng loạt vấn đề cần phải xây dựng và xử lý:
+Tính pháp lý của TMĐT.
+Tính pháp lý của hợp đồng TMĐT.
+ Tính pháp lý của chữ kí điện tử.
+ Tính pháp lý cho thanh toán điện tử.
+ Tính pháp lý bảo vệ các dữ liệu có xuất xứ từ Nhà nước.
+ Tính pháp lý bảo vệ mạng thông tin và sở hữu trí tuệ, bảo vệ bí mật riêng tư một cách thích đáng, chống các tội phạm xâm nhập với mục đích bất hợp pháp...
Khi xây dựng môi trường kinh tế, pháp lý và xã hội này, mỗi quốc gia phải nghiên cứu để hoà nhập được với môi trường kinh tế, pháp lý và xã hội quốc tế vì bản thân TMĐT đã mang tính toàn cầu hoá rất cao .
-Hệ thống thanh toán tài chính tự động
TMĐT chỉ có thể thực hiện được khi đã tồn tại một hệ thống thanh toán tài chính phát triển cho phép thực hiện thanh toán tự động. Khi chưa có hệ thống này thì TMĐT chỉ ứng dụng được phần trao đổi thông tin, buôn bán vẫn phải kết thúc bằng trả tiền trực tiếp hoặc bằng các phương tiện thanh toán truyền thống. Khi ấy, hiệu quả của TMĐT bị giảm thấp và có thể không đủ để bù lại những chi phí trang bị công nghệ đã bỏ ra.
Tóm lại, những yêu cầu của TMĐT đòi hỏi mỗi quốc gia phải giải quyết một cách kịp thời, đồng bộ để nhanh chóng tạo dựng một nền tảng cơ sở hoàn chỉnh cho TMĐT phát triển.
II. TMĐT TRONG HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG
1.Vai trò của TMĐT trong hoạt động ngoại thương
Thực tế đã chứng minh, TMĐT ngày một mở rộng và phát triển trên phạm vi toàn thế giới. Với trên 1300 lĩnh vực ứng dụng, TMĐT đạt mức tăng trưởng theo cấp số nhân và chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong các ngành nghề, đặc biệt, TMĐT đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển Ngoại thương của các nước.
- TMĐT ra đời làm xoá nhoà khoảng cách và biên giới quốc gia. Giờ đây, chỉ cần một Website trên mạng, doanh nghiệp đã có thể vươn tới các đối tác làm ăn và khách hàng trên toàn thế giới. Chính vì vậy, đòi hỏi phải có các định chế, chính sách pháp luật mới điều chỉnh, quản lý hoạt động của phương thức kinh doanh mới này.
- Thông qua mạng toàn cầu, các doanh nghiệp tiến hành xuất nhập khẩu trực tiếp. Vậy các thủ tục từ kê khai hải quan đến thanh toán điện tử tiến hành như thế nào, trên cơ sở nào, Nhà nước thu thuế xuất nhập khẩu và quản lý các giao dịch này như thế nào,... tất cả đều đòi hỏi phải có cơ sở pháp lý cho hoạt động TMĐT trong Ngoại thương.
Nhận định được tầm quan trọng đó, các quốc gia, các khối kinh tế và cộng đồng thế giới đã và đang nhanh chóng xây dựng các chính sách để tạo sự ổn định về mặt pháp lý, đồng thời hạn chế những tác hại của TMĐT.
2. Đặc điểm của TMĐT trong hoạt động ngoại thương
TMĐT là một bước ngoặt lớn trong lịch sử thương mại nói chung và lịch sử hoạt động ngoại thương giữa các quốc gia nói riêng. Những đặc thù cơ bản của nó tạo ra sự khác biệt căn bản giữa TMĐT với thương mại truyền thống. Đó là:
-TMĐT phụ thuộc vào sự phát triển của hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông và các công nghệ cao cấp khác. TMĐT không thể tồn tại nếu thiếu sự trợ giúp của các công nghệ này.
-TMĐT không chỉ bao gồm những hoạt động mua bán, dịch vụ mà còn bao gồm cả những hoạt động trong nội bộ doanh nghiệp và hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nước, khu vực và quốc tế nhằm hỗ trợ các hoạt động trao đổi thương mại điện tử
-TMĐT gắn liền với phản ứng kịp thời với nhu cầu thị trường, tăng tốc độ ra quyết định, đẩy nhanh tiến trình xâm nhập hàng hoá và nhãn hiệu mới vào thị trường quốc tế, tăng tốc độ đổi mới, nâng cao hiệu quả kinh doanh, tạo sự khác biệt nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước trong thương trường quốc tế
-Các quyết định chiến lược trong TMĐT cũng xuất phát và dựa trên cơ sở sự phát triển của công nghệ, ví dụ như các quyết định về thiết kế siêu thị trên mạng, các chiến lược khách hàng, quảng cáo trên mạng...
Ngoài ra, TMĐT tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước phát huy hiệu quả kinh tế: thu hút ngày càng nhiều người cả trong nước và ngoàI nước tham gia, chi phí cố định thiết kế và xây dựng mạng càng giảm, hiệu quả kinh tế càng tăng.
3. Quy trình nghiệp vụ của TMĐT trong hoạt động Ngoại thương
Trước tiên, người mua vào trang Web của công ty tham khảo và đặt mua hàng. Để đảm bảo an toàn thông tin máy tính cá nhân, Web Browser Tr×nh duyÖt Web: lµ phÇn mÒm cho phÐp ngêi dïng xem, sö dông th«ng tin trªn Website
của khách hàng phải được chọn lọc và nhập vào cửa sổ dữ liệu trong Web Server Lµ nh÷ng m¸y chñ cung cÊp dÞch vô ®Ó ®a tíi ngêi sö dông.
.
Web Server sẽ mã hoá các thông tin khách hàng, quản lý trong Server. Hệ thống thanh toán điện tử sẽ gửi các thông tin đã được mã hoá sang ngân hàng đại diện của người bán để tiến hành kiểm tra tài khoản của người mua.
Sau khi việc kiểm tra hoàn tất, công ty tiến hành báo giá số hoá cho đối tác. Ngay khi nhận được đơn đặt hàng chính thức, công ty lập tức gửi đơn hàng số hoá đến cửa hàng (nếu số lượng hàng hoá ít) và đến kho (nếu số lượng hàng hoá nhiều). Cửa hàng hoặc kho sẽ tiến hành giao hàng theo thời gian trong đơn hàng. Sau đó, người mua tiến hành thanh toán tiền hàng qua ngân hàng phát hành bằng Visa Card hay Master Card. Cuối cùng, ngân hàng phát hành sẽ thanh toán lại cho ngân hàng người bán.
Như vậy, qua chương I, chúng ta đã có cái nhìn tổng thể về TMĐT, Điều này sẽ giúp chúng ta dễ dàng hơn trong việc nhìn nhận và đánh giá thực trạng phát triển của TMĐT trong hoạt động Ngoại thương ở Việt Nam.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN TMĐT TRONG HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG Ở VIỆT NAM
I. TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN TMĐT TRONG HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG Ở NƯỚC TA
Thực tế đã chứng minh, TMĐT ngày một mở rộng và phát triển trên phạm vi toàn thế giới. Với trên 1300 lĩnh vực ứng dụng, TMĐT đạt mức tăng trưởng theo cấp số nhân và chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong các ngành nghề, đặc biệt, TMĐT đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển Ngoại thương của các nước.
Chúng ta thừa nhận rằng, sự ra đời của Internet đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Việt Nam đang trong công cuộc CNH-HĐH đất nước, đồng thời cũng đang trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực nên không thể không chớp lấy những cơ hội mà TMĐT mở ra, càng không thể đứng ngoài guồng quay của nền kinh tế thế giới. Năm 1997, chúng ta đã tham gia kết nối mạng Internet. Có thể khẳng định rằng, việc gia nhập Internet của Việt Nam là một tất yếu trước xu thế mở cửa, hội nhập và những tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ trên thế giới . Đồng thời việc gia nhập này cũng mở ra con đường cho TMĐT Việt Nam phát triển.
Sau đây, để hiểu rõ hơn tính tất yếu của việc phát triển TMĐT trong hoạt động Ngoại thương ở nước ta, chúng ta sẽ đi sâu vào phân tích một số lợi ích cơ bản nhất của việc áp dụng TMĐT trong hoạt động Ngoại thương (có tính đến những đặc điểm riêng của Việt Nam).
1. Thứ nhất, TMĐT giúp các doamh nghiệp khắc phục được tình trạng “đói thông tin”. Từ trước đến nay, một trong những yếu điểm của doanh nghiệp Việt Nam là vấn đề thiếu thông tin trong việc tiếp cận thị trường bên ngoài. Việc định hướng sản xuất thường chậm hoặc không nhận được tín hiệu kịp thời từ thị trường, xuất khẩu thường ở trong tình trạng bị động. Khi nhu cầu của thị trường thế giới tăng, sản xuất trong nước không đáp ứng kịp thời. Ngược lại, khi cầu giảm sẽ dẫn đến tình trạng bị hẫng hụt. Trong kinh doanh hiện đại ngày nay, thông tin là một nhân tố cực kì quan trọng, quyết định sự thành công trong cạnh tranh. Sử dụng TMĐT với công cụ Internet, doanh nghiệp có thể khắc phục được trở ngại này.
Internet là một biển thông tin khổng lồ, được cập nhật liên tục và nhanh chóng với khối lượng thông tin không hạn chế. Các doanh nghiệp có thể dễ dàng thu thập thông tin về thị truờng, thương mại, luật pháp, giá cả, mặt hàng... và tiến hành theo dõi sát biến động của thị trường đó bằng Internet. Đây là những cơ sở để doanh nghiệp xúc tiến hoạt động kinh doanh của mình với đối tác nước ngoài.
2. Thứ hai, TMĐT tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể xuất khẩu trực tiếp. Xuất khấu qua trung gian do sự yếu kém của công tác tìm kiếm thị trường, tìm kiếm đối tác kinh doanh vốn là những bất lợi thường thấy của các doanh nghiệp Việt Nam. Lợi nhuận bị chia sẻ, thị trường luôn luôn phụ thuộc vào thiện chí của người trung gian gây trở ngại cho việc phát triển kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm. Sử dụng Internet có thể giúp chúng ta tránh được những trung gian không cần thiết, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, chủ động về thị trường mà vẫn thu được lợi nhuận.
3. Thứ ba, TMĐT cũng góp phần làm giảm chi phí kinh doanh cho các doanh nghiệp. Chúng ta phải thấy rằng các doanh nghiệp Việt Nam là những doanh nghiệp nhỏ, rất nhỏ so với thế giới. Việc đầu tư mở rộng tiêu thụ, thiết lập đại lý, chi nhánh giới thiệu sản phẩm ở nước ngoài luôn luôn là vấn đề khó khăn đối với hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Chính vì vậy, ngay cả những mặt hàng mà chúng ta có ưu thế về giá, chất lượng nhưng chưa xuất khẩu được chỉ vì một lý do đơn giản: “không tiếp cận được”. Thiếu vốn luôn là vấn đề nan giải của các doanh nghiệp nước ta vì những khoản đầu tư dành cho chiến lược này không phải là nhỏ. TMĐT có thể giúp cho doanh nghiệp khắc phục một phần hạn chế này. Cụ thể:
+ Giảm chi phí thiết lập cơ sở kinh doanh
Nếu tính chi phí các khoản đầu tư dành cho việc thiết lập một cơ sở kinh doanh ở nước ngoài thì khoản này ngoài tầm với của các doanh nghiệp Việt Nam. Song nếu sử dụng Internet – TMĐT thì các doanh nghiệp sẽ khắc phục những hạn chế của mình. Chỉ dành một khoản tiền nhỏ nằm trong tầm tay của các doanh nghiệp chi cho việc thiết lập một “văn phòng kinh doanh ảo” là doanh nghiệp đã có thể tham gia vào thị trường quốc tế một cách dễ dàng.
+ Giảm chi phí cho quảng cáo – trao đổi
Để quảng cáo được trên thị trường thế giới, thông thường chỉ có các công ty rất lớn mới có thể thực hiện được. Tuy nhiên, nếu biết vận dụng Internet trong hoạt động này, doanh nghiệp có thể thực hiện quảng cáo của mình ngay trong nước mà vẫn tới dược khách hàng nước ngoài.
Ngoài ra, trong kinh doanh quốc tế, các chi phí cho trao đổi giao dịch, đi lại, đàm phán, điện thoại, fax, thư tín... cũng không phải là nhỏ. Nhưng với công nghệ mới, chỉ bằng một phần chi phí này, TMĐT đã có thể giúp doanh nghiệp thực hiện được thực hiện toàn bộ các hoạt động trên.
Tóm lại, TMĐT áp dụng vào hoạt động Ngoại thương là mô hình áp dụng phù hợp nhất đối với nước ta hiện nay cũng như trong tương lai. Nếu áp dụng được triệt để TMĐT thì Ngoại thương nước ta sẽ giải quyết được những bất cập lớn hiện vẫn còn tồn tại, mở đường cho sự phát triển mạnh mẽ của giao lưu, buôn bán, trao đổi hàng hoá và dịch vụ với thị trường thế giới.
II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG Ở VIỆT NAM
1. KháI quát chung về TMĐT ở Việt Nam
“Thương mại điện tử”- khái niệm này đến nay còn rất mới và mơ hồ đối với người đân Việt Nam nói chung, cho dù các phương tiện thông tin đại chúng đã nhắc đến nhiều. Còn đối với doanh nghiệp Ngoại thương, đặc biệt là các doanh nghiệp Việt Nam, TMĐT vẫn ở giai đoạn phôi thai. Ngay bản thân Internet cũng chưa thực sự đi sâu vào đời sống xã hội của người Việt Nam nên TMĐT chưa thực sự phát triển.
Theo Bộ Thương mại, kết quả của cuộc nghiên cứu gần đây cho thấy: hiện chỉ có 2% các doanh nghiệp XNK quan tâm và triển khai TMĐT cùng với khoảng 7% doanh nghiệp khác là bắt đầu triển khai hình thức kinh doanh mới này. Có nhiều lý do khiến các doanh nghiệp chưa nhận ra lợi ích và áp dụng TMĐT, nhưng sự chậm trễ làm cho các doanh nghiệp XNK bị thua thiệt khi tham gia buôn bán với khu vực và thế giới. Cũng theo kết quả điều tra, có đến 90% các doanh nghiệp XNK chưa quan tâm và cũng chưa có bất cứ nghiên cứu gì về TMĐT. Hiện nay, Việt Nam đã đi gần hết 1/3 lộ trình để tiếp cận với TMĐT và nhiều doanh nghiệp đã nhận ra lợi ích các loại hình kinh doanh qua mạng này, tuy nhiên sau 4 năm kết nối mạng Internet, trong tổng số 56000 doanh nghiệp Việt Nam, hiện chỉ có khoảng 1500 doanh nghiệp có trang web và vài nghìn doanh nghiệp có quảng cáo trên mạng. Tuy nhiên, những trang web và quảng cáo này đa phần mới dừng lại ở việc giới thiệu địa chỉ, số fax, e-mail, các mặt hàng chính... chứ chưa phải là nơi để tăng sức cạnh tranh và đẩy mạnh hoạt động thương mại.
Tuy nhiên, trong thời gian tới, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của mạng Internet và sự ra đời của các hành lang pháp luật có liên quan, TMĐT sẽ là thứ không thể thiếu đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, đặc biệt là các doanh nghiệp XNK vốn đã có các nghiệp vụ và sẵn có các mối quan hệ làm ăn với các đối tác nước ngoài.
2. Tình hình phát triển TMĐT trong hoạt động Ngoại thương ở Việt Nam
Về phía các doanh nghiệp
Trong những năm gần đây, TMĐT đã làm sôI động thị trường kinh doanh qua mạng. PhảI nói đến trước tiên là hãng hàng không Pacific Airlines. Pacific Airlines là hãng hàng không lớn thứ hai ở Việt nam, được thành lập vào năm 1991. Hãng hàng không này sử dụng phương thức giao dịch qua mạng. Tất cả mọi khách hàng đều có thể đặt chỗ, bán vé và thanh toán tiền vé băng thẻ tín dụng cho các chuyến bay nội địa cũng như quốc tế của Pacific Airlines. Nhờ có phương thức giao dịch này mà các hoạt động trở nên dễ dàng, thuận tiện, nhanh chóng hơn nhiều.
Gần đây nhất, 4/4/2007, khai trương “siêu thị trực tuyến 123 mua” với chương trình khuyến mại hấp dẫn “Shopping online – Hai lần miễn phí”. Theo chương trình, các khách hàng tham gia mua hàng trực tuyến sẽ có cơ hội nhận những phần quà hấp dẫn và quà tặng sẽ dược gửi đến tận nhà cho những khách hàng may mắn nhất. Thể lệ tham gia cực kì đơn giản,khách hàng chỉ cần truy cập vào trang web “123 mua” và 50 phần quà sẽ được gửi đến những khách hàng mua những sản phẩm đó sớm nhất.
Ở TPHCM, cũng có rất nhiều công ty đã vươn ra thị trường nước ngoài bằng con đường trên mạng, điển hình là công ty TNHH Phát Thành. Trang fataco.com.vn của công ty khá đơn giản gồm 3 trang tiếng Việt, 3 trang tiếng Anh đã mang lại hợp đồng đầu tiên với khách hàng Hà Lan trị giá 100.000 USD(vào tháng 10/2005). Đến nay, tỷ lệ giao dịch qua mạng trên tổng doanh thu của công ty ngày càng tăng, các đối tác, bạn hàng nước ngoài ngày càng mở rộng. Tính đến tháng 8/2007, tổng trị giá giao dịch qua mạng của công ty lên tới gần 1.5 triệu USD với các hợp đồng giá trị lớn được kí kết với bạn hàng Hà Lan, Hồng Kông, Ấn Độ...
b. Về phía nhà nước và các cơ quan ban ngành liên quan
Tháng 9/2000, Sở Thương Mại TPHCM đã đưa vào hoạt động trang web hàng Việt Nam xuất khẩu trên mạng. Trang web giới thiệu khoảng 500 doanh nghiệp Việt Nam có hàng xuất khẩu (tên, địa chỉ liên lạc, sản phẩm, hình ảnh...) bằng tiếng Anh và bằng tiếng Việt. Hơn hai năm qua, thông qua sự hoạt động cửa trang web này, rất nhiều bạn hàng từ nước ngoài đã biết đến các mặt hàng xuất khẩu của các công ty Việt Nam và trực tiếp liên hệ, tìm hiểu, thiết lập mối quan hệ bạn hàng. Nhiều hợp đồng Ngoại thương theo phương thức giao dịch điện tử đã được kí kết và thực hiện.
Siêu thị điện tử lớn nhất Việt Nam hiện nay là Vietnam Cybermall đã hoạt động được hơn 3 năm với khoảng hơn 500 mặt hàng. Đã có khoảng 60.000 đợt đặt hàng qua siêu thị, trong đó những đơn đặt hàng có khối lượng lớn và giá trị lớn đều là những đơn đặt hàng từ các bạn hàng nước ngoài như Nhật Bản, Thái Lan, Singapore... Chỉ cần truy cập vào Website theo địa chỉ “Cybermall.com.vn”, khách hàng đã có thể chọn các mặt hàng khác nhau. Sau khi điền vào đơn đặt hàng của siêu thị qua E-Mail, việc thanh toán có thể là thẻ tín dụng hoặc tiền gửi qua ngân hàng. Các khách hàng nước ngoài, sau khi hoàn tất mọi thủ tục, hàng sẽ được giao theo thời hạn của hợp đồng đã kí.
Hiện có khoảng 60 chi nhánh của các ngân hàng đã tham gia vào hệ thống chuyển tiền điện tử liên ngân hàng. Đó là các chi nhánh của các ngân hàng Công Thương, Đầu Tư, Xuất nhập khẩu và Hàng hải tại các nơi như Hải Phòng, Hà Nội, Đà Nẵng, Tp.HCM và Cần Thơ. Việc xử lý, hoàn tất các khoản thanh toán kể từ khi khởi tạo việc thanh toán cho tới khi hoàn tất việc thanh toán cho người thụ hưởng đều được thực hiện qua mạng máy tính.
Việt Nam trong hai, ba năm trở lại đây đã xuất hiện nhiều mạng giao dịch nối giữa Việt Nam và nước ngoài. Chúng ta có thể kể đến mạng giao dịch giữa ta và Nhật Bản. Tuy nhiên, sau một thời gian hoạt động, việc giao dịch tỏ ra không hiệu quả do khối lượng giao dịch quá nhỏ.
Tóm lại, TMĐT trong hoạt động Ngoại thương nước ta tuy mới triển khai song đã thu được những thành tựu nhất định. Bước đầu, tỷ lệ giao dịch qua mạng mới chiếm khoảng 6% tổng kim ngạch XNK cả nước song đây là những tín hiệu khả quan cho phép chúng ta hy vọng bước phát triển đột phá của TMĐT trong hoạt động Ngoại thương trong thời gian tới.
III. Những thuận lợi và khó khăn cho quá trình phát triển TMĐT trong hoạt động Ngoại thương ở Việt Nam
Những thuận lợi
Thuận lợi khách quan
TMĐT ở Việt Nam ra đời muộn hơn so vơi nước khác trên thế giới và trong khu vực, do đó, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp Ngoại thương nói riêng có điều kiện học hỏi, rút kinh nghiệm từ những bài học thành công của các nước đi trước trong việc áp dụng TMĐT vào hoạt động kinh doanh XNK.
Xét từ một góc độ khác, Việt Nam là một nước đang phát triển nên một số công nghệ phải chuyển giao từ nước ngoài vào, trong đó có ngành công nghệ thông tin. Những doanh nghiệp tiếp nhận công nghệ chuyển giao đầu tiên sẽ là những doanh nghiệp lớn, có khả năng ứng dụng công nghệ thông và các doanh nghiệp sẵn có mối liên hệ với nước ngoài khi những doanh nghiệp gia công XNK, các khu chế xuất, các doanh nghiệp XNK. Đây là những thuận lợi rất lớn cho các doanh nghiệp Ngoại thương trong việc giảm được rủi ro nghiên cứu và chi phí đầu tư vào nghiên cứu.
Mặt khác, hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ đã kí kết ngày 13/7/2000 tại Washington làm thay đổi chính sách thuế; giao dịch giữa hai nước được điều hoà, chuyển giao công nghệ được dễ dàng hơn. Như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tiếp cận với nền công nghệ tiên tiến nhất thế giới, tiếp cận với cái nôi của TMĐT.
Thuận lợi chủ quan
Bên cạnh những thuận lợi khách quan trên, TMĐT trong lĩnh vực Ngoại thương cũng có những thuận lợi đáng kể xét từ mặt chủ quan mà trước tiên phải kể đến những nỗ lực của chính phủ.
Chúng ta biết rằng TMĐT phát triển gắn liền với sự phát triển của Internet và công nghệ phần mềm. Do đó, quan tâm và thúc đẩy TMĐT phát triển, chính phủ cũng rất quan tâm đến chính sách phát triển công nghệ phần mềm. Ngày 20/11/2000, phó thủ tướng Phạm Gia Khiêm đã kí quyết định 128/QĐ_TTg về một số chính sách và biện pháp khuyến khích đầu tư, phát triển công nghệ phần mềm, trong đó có rất nhiều ưu đãi đối với các doanh nghiệp, chẳng hạn:
- Miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất phần mềm mà trong nước chưa sản xuất được.
- Miễn thuế XNK đối với sản phẩm phần mềm...
Thiết thực hơn đối với việc thúc đẩy sự phát triển TMĐT trong lĩnh vực Ngoại thương, trong năm 2002, một loạt cơ sở pháp lý đã được thiết lập:
Thứ nhất, Việt Nam đã công nhận chữ kí điện tử trong thanh toán vốn
Ngày 21/3/2002, Thủ tướng chính phủ đã có quyết định công nhận giá trị chữ kí điện tử dùng trong thanh toán. Theo đó, các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán sử dụng chứng từ điện tử làm chứng từ kết toán để hạch toán và thanh toán vốn. Chứng từ điện tử phải có đủ các yếu tố quy định cho chứng từ kế toán, bảo đảm tính pháp lý của chứng từ kế toán và phải được mã hoá để đảm bảo an ninh trong quá trình xử lý truyền tin và lưu trữ. Quyết định này cũng quy định việc mã hoá bằng khoá mật mã cho chữ kí điện tử và công nhận giá trị của chữ kí điện tử như chữ ký tay trên chứng từ giấy.
Thứ hai, khai báo hải quan qua mạng
Việc khai báo hải quan qua mạng được tiến hành từ tháng 6/2002 đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực hàng gia công.
Hiện nay, hải quan TPHCM đang quản lý hồ sơ XNK của hơn 1000 doanh nghiệp gia công các ngành hàng khác nhau. Nhiều nhất là các doanh nghiệp ngành dệt may, da giầy, điện tử. Mỗi ngày, chi cục xử lý từ 600-700 tờ khai hải quan.
Thứ ba, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng đi vào hoạt động từ cuối tháng 7/2002
Hệ thống này được tuyên bố hoàn thành kỹ thuật vào ngày 6/3/2002 và chính thức hoạt động vào ngày 2/5/2002.
Như vậy, từ tháng 8/2002, người sử dụng chỉ cần vài phút nhập dữ liệu và sau khi gửi dữ liệu này bằng E-Mail đến tài khoản của người nhận thì người nhận sẽ nhận được tiền tức thì tại ngân hàng đến.
Mỗi khoản thanh toán từ khởi lệnh cho đến khi hoàn tất đều đuợc trung tâm thanh toán Quốc Gia tại Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam kiểm soát.
Tóm lại, một loạt cơ sở pháp lý quan trọng đã được thiết lập thúc đẩy sự mở rộng và phát triển TMĐT trong hoạt động Ngoại thương. Cùng với sự tham gia vào mạng của các hãng lớn như Hàng Hải, Bảo hiểm, giờ đây, sau khi kí kết các hợp đồng Ngoại thương qua mạng, các doanh nghiệp sẽ thông qua một đầu mối do Bộ Thương Mại quản lý, làm tất cả các thủ tục từ thủ tục hải quan đến mua bảo hiểm, thuê tàu và cuối cùng kết thúc giao dịch bằng phương thức thanh toán điện tử. Tất cả các công đoạn này của quy trình giao dịch đã có đầy đủ cơ sở pháp lý để thực hiện hợp pháp nhanh chóng và thuận tiện.
2. Những khó khăn
Những khó khăn trong quá trình phát triển TMĐT trong hoạt động Ngoại thương cũng chính là những khó khăn mà Việt Nam đang phải đối mặt trong quá trình đưa TMĐT thâm nhập vào cuộc sống.
* Trước hết, về hạ tầng công nghệ, hạ tầng kinh tế kĩ thuật của chúng ta còn rất hạn chế, các Website đều mang tính “tự thích ứng”. Quy mô mạng trực tuyến tương đối nhỏ, cơ hội thị trường hạn chế. Tỷ lệ máy tính trên đầu người ở nuớc ta thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực, hơn nữa, số máy tính đã lạc hậu, hiệu suất sử dụng không cao. Sau 4 năm triên khai dịch vụ Internet ở Việt Nam, nếu tính cả các thuê bao trực tuyến, thuê kênh riêng với số người dùng chung account, cả những hình thức khác như dùng thẻ Internet, dịch vụ “gọi VNN 1269”, Internet công cộng,... theo ước tính có tới 300.000 người sử dụng Internet thì Việt Nam mới chỉ đạt gần 0,4% dân số sử dụng Internet, thấp hơn nhiều so với khu vực (Asean 1,5%) và thế giới (8%).
Hệ thống điện lực cũng là vấn đề cần quan tâm. Lượng điện cung cấp không đủ lại hay bị trục trặc. Điều này là một trở ngại rất lớn đối với TMĐT- một phương thức giao dịch 24/24. Điều này càng gây trở ngại lớn đối với các doanh nghiệp Ngoại thương khi giao dịch với các đối tác nước ngoài.
Nhìn chung, hạ tầng cơ sở Internet còn rất giản đơn, phần mềm và công cụ Internet còn thô sơ. Các phần mềm cơ bản để tạo ra các trình ứng dụng đặc thù cho TMĐT còn hạn chế. Thêm vào đó, đường truyền hẹp cũng làm giảm khả năng truy cập Internet của các đối tượng truy cập.
*Về hạ tầng pháp lý cho TMĐT trong lĩnh vực Ngoại Thương, hiện kế hoạch xây dựng trung tâm đầu mối thương mại (Tradepoint) của Bộ Thương mại vẫn chưa hoàn thành nên còn nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp Ngoại thương khi tiến hành các giao dịch XNK. Ngoài việc khai báo hải quan qua mạng, chữ kí điện tử, phương thức thanh toán điện tử được thừa nhận cùng vài dịch vụ khác, các hãng lớn như vận tải, bảo hiểm... vẫn chưa thực sự triển khai giao dịch EDI. Do đó, các giao dịch XNK chưa hoàn toàn tiến hành bằng phương thức điện tử mà vẫn phải kết hợp với phương thức giao dịch truyền thống.
Vấn đề bảo mật và an toàn trên mạng của chúng ta vẫn còn hạn chế. Luật bảo vệ quyền lợi của người vào mạng cũng như các chế tài hành chính, hình sự cho các trường hợp vi phạm hầu như chưa được xây dựng.
*Về hạ tầng xã hội, TMĐT hiện đòi hỏi một đội ngũ chuyên gia về công nghệ thông tin lớn ở các trình độ khác nhau nhưng hiện chúng ta chưa đáp ứng được. Mặc dù có rất nhiều trường đại học, cao đẳng quan tâm đến ngành công nghệ thông tin nhưng số lượng đầu ra chất lượng cao hầu như rất thấp. Đội ngũ cán bộ tin học của chúng ta mới chỉ có khoảng trên 20.000 người, lực lượng chuyên gia công nghệ thông tin từ nhiều ề nguồn khác nhau như chuyên viên đào tạo từ nước ngoài, các Việt kiều... nhưng chỉ là rất nhỏ so với nhu cầu hiện nay.
*Về nhận thức, tâm lý, nhiều doanh nghiệp XNK Việt Nam chưa đựơc chuẩn bị. Các doanh nghiệp vẫn quen với phương thức giao dịch truyền thống; nghĩa là trực tiếp đàm phán để kí kết hợp đồng. Họ chỉ thật sự an tâm khi tận mắt tiếp cận với sản phẩm, trong phương thức thanh toán chỉ chủ yếu thực hiện bằng hình thức nhờ thu, chuyển tiền hoặc dùng phương thức L/C. Các hình thức thanh toán điện tử còn rất mới mẻ đối với các doanh nghiệp XNK Việt Nam.
Bản thân nhiều doanh nghiệp chưa ý thức được việc quảng bá địa chỉ Website của mình trong hoạt động quảng cáo, kinh doanh; thông tin cần thiết về sản phẩm lại không cập nhật. Đặc biệt, hầu hết các doanh nghiệp Ngoại thương Việt Nam chưa chú trọng đến việc xây dựng cho mình một thương hiệu trực tuyến trên Internet. Điều này sẽ gây khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp Ngoại thương Việt Nam trong việc xây dựng hình ảnh và uy tín của mình trên trường quốc tế.
Tóm lại, việc phát triển TMĐT ở Việt Nam nói chung và trong hoạt động Ngoại thương nói riêng còn nhiều khó khăn, trở ngại. Tuy nhiên, những trở ngại này cũng dần được khắc phục khi cả ba chủ thể chính: Chính phủ, các doanh nghiệp và người tiêu dùng chúng ta cùng quyết tâm vào cuộc.
CHƯƠNG IIIMỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY TMĐT TRONG HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG Ở VIỆT NAM
Xuất phát từ thực trạng của TMĐT tại Việt Nam, đặc biệt trong hoạt động Ngoại thương, đồng thời xuất phát từ những thuận lợi cũng như những khó khăn như đã phân tích ở chương II, để TMĐT ở Việt Nam có những bước phát triển phục vụ cho quá trình hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu, không chỉ chính phủ mà các tổ chức, các doanh nghiệp đều phải tự trang bị cho mình, đồng thời giải quyết những vấn đề mà TMĐT đặt ra.
I. CÁC GIẢI PHÁP VĨ MÔ ( PHÍA NHÀ NƯỚC )
Để TMĐT có thể phát huy những tác dụng trong hoạt động Ngoại thương đòi hỏi phải giải quyết một loạt vấn đề liên quan đến hạ tầng cơ sở, công nghệ, nhân lực, bảo mật và an toàn, bảo vệ sở hữu trí tuệ... Xét trên góc độ vĩ mô, Chính phủ cần có những biện pháp thiết thực tạo cơ sở cho TMĐT phát triển.
1. Về hạ tầng cơ sở công nghệ
Đây là nền tảng để TMĐT phát triển. Tuy nhiên, việc đầu tư vào hạ tầng tốn rất nhiều kinh phí, không thể tiến hành vi mô, riêng lẻ. Do đó, nhà nước phải đầu tư để cung cấp cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin cần thiết như viễn thông, công nghệ phần mềm, phần cứng,...cho các doanh nghiệp. Giải pháp cụ thể là: nhà nước có thể cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu vay vốn với lãi suất thấp trong thời hạn dài để các doanh nghiệp trang bị thiết bị máy móc công nghệ... phục vụ cho việc hoà mạng Internet và đi vào tiến hành từng buớc của TMĐT. Ngoài nguồn vốn đầu tư từ ngân sách quốc gia, nhà nước nên có cơ chế huy động vốn, khuyến khích đầu tư và xã hội hoá lĩnh vực TMĐT để xây dựng một hệ thống TMĐT hoàn chỉnh cho các doanh nghiệp. Nhà nước cũng nên ưu tiên hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có khả năng đầu tư vào công nghệ để doanh nghiệp tham gia TMĐT càng sớm càng tốt.
Bên cạnh việc trực tiếp hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, nhà nước cũng có thể sử dụng các biện pháp gián tiếp khuyến khích các doanh nghiệp này sớm tham gia TMĐT bằng cách tác động đến các ngành và doanh nghiệp khác có liên quan như ngành Bưu chính, Viễn thông, Điện lực hay các doanh nghiệp tin học và phát triển công nghệ.
Đối với các doanh nghiệp tin học và phát triển công nghệ phần mềm, nhà nước cần đưa các chính sách và biện pháp khuyến khích cụ thể để khuyến khích các doanh nghiệp này phát triển, chẳng hạn:
+Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc cho các doanh nghiệp này hưởng các mức thuế suất thuế thu nhập ưu đãi trong vòng 4-5 năm đầu từ khi có thu nhập chịu thuế.
+ Miễn thuế nhập khẩu đối với các nguyên liệu phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất phần mềm mà trong nước chưa sản xuất được.
Khi các doanh nghiệp này đã phát triển, nó sẽ hỗ trợ trở lại cho chính phủ và sẽ trở thành nguồn động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát triển của TMĐT trong cả nước nói chung và trong lĩnh vực Ngoại thương nói riêng.
Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, nhà nước tiến hành hỗ trợ cho các doanh nghiệp có khả năng đầu tư vào công nghệ, giảm bớt chi phí truy cập Internet bằng nhiều phương thức chẳng hạn như hỗ trợ về giá cho các loại cung cấp dịch vụ mạng hoặc tháo gỡ những quy định bất hợp lý đối với các nhà cung cấp dịch vụ Internet hay dịch vụ của ngành Viễn thông.
Cần nhấn mạnh lại một đặc điểm rất quan trọng của TMĐT là tính toàn cầu hoá cao độ. Vì vậy, chỉ cần thiết lập Website trên Internet, Doanh nghiệp đã có thể trở thành một doanh nghiệp XNK trực tiếp. Chính vì vậy, để TMĐT trong hoạt động Ngoại thương ngày một mở rộng và phát triển, sự hỗ trợ của Chính phủ đối với các doanh nghiệp mà trước hết là những doanh nghiệp có khả năng đầu tư vào công nghệ là hết sức cần thiết.
2. Về hạ tầng pháp lý
Vì TMĐT còn tương đối mới mẻ với không ít các doanh nghiệp XNK khẩu Việt Nam. Vì vậy, nhà nước cần ban hành riêng các Nghị định về phát triển TMĐT trong lĩnh vực Ngoại thương. Bên cạnh đó, việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện bộ luật Thương mại để điều chỉnh phương thức giao dịch mới này trong lĩnh vực Ngoại thương cũng là việc làm hết sức cần thiết.
TMĐT còn đặt ra các vấn đề về an toàn, bảo mật, bảo vệ sở hữu trí tuệ. Vì vậy, Nhà nước cần ban hành bộ luật về sở hữu trí tuệ, trong đó quy định rõ quyền sở hữu trí tuệ của các cá nhân và tổ chức. Như vậy, bí mật quốc gia, bí mật thương mại, bảo mật dữ liệu,... sẽ được quy định cụ thể trong luật, thay thế cho các pháp lệnh hiện hành. Đối với các sản phẩm phần mềm, Nhà nước cần xúc tiến biện pháp dán nhãn sản phẩm được phép lưu hành và đã đăng ký bảo hộ.
Về vấn đề thuế trong TMĐT, Nhà nước cần có những quy định cụ thể đưa thành luật và tổ chức thi hành sao cho có hiệu quả, ít tốn kém. Chính phủ cần có các quy định chặt chẽ về thuế tiêu dùng trong quản lý Internet, chẳng hạn như các tiêu chuẩn thanh tra qua Internet. Tuy nhiên, việc thu thuế từ những nhà cung cấp nhỏ hay người tiêu dùng có thể gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy mà tuỳ từng giai đoạn, Nhà nước có thể ban hành luật thuế hướng vào các nhà cung cấp dịch vụ lớn. Các cơ quan thuế phải tạo điều kiện thuận lợi nhất để các nhà cung cấp dịch vụ trực tiếp qua Internet có thể chấp hành luật thuế.
3. Về hạ tầng cơ sở xã hội và nhận thức
Trong mọi thời đại, nhân tố con người luôn là nhân tố quan trọng và quyết định nhất. Trong bối cảnh này, sự thành công của TMĐT trong hoạt động Ngoại thương nói riêng cũng như trong các lĩnh vực khác ở Việt Nam nói chung hoàn toàn phụ thuộc vào “nguồn nhân lực” chúng ta có. Do vậy, có thể khẳng định, đây là điều kiện mang tính sống còn đối với Việt Nam. TMĐT ra đời sẽ làm thay đổi đường cầu lao động. Nhu cầu về lao động có trình độ kỹ thuật tăng cao, trong khi đó lại cắt giảm hàng loạt công nhân, nhà bán lẻ, nhà môi giới. Lực lượng làm phần mềm chuyên nghiệp sẽ là lực lượng nòng cốt trong tương lai. Dự đoán trong ba năm tới, Việt Nam cần khoảng 5 – 6 nghìn người. Vì thế, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực làm phần mềm chuyên nghiệp cần được chú trọng cả về mặt chất lượng và số lượng.
Do đó, chính phủ cần có những điều chỉnh phù hợp trong chính sách giáo dục. Chương trình tin học cần được sớm đưa vào giảng dạy như một môn học chính thức bắt buộc từ cấp phổ thông cho đến cấp đại học. Tiếng Anh cần được phổ cập cho tất cả các học sinh, sinh viên, doanh nhân để tiếp cận trực tiếp với thế giới Internet. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia đào tạo nguồn nhân lực cho cả công nghệ thông tin và TMĐT dưới hình thức doanh nghiệp phục vụ phần mềm hay các hình thức khác. Đặc biệt chú trọng tạo điều kiện thuận lợi cho số sinh viên, học sinh đã tốt nghiệp các ngành khác được tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng về công nghệ thông tin và kỹ năng giao dịch TMĐT.
Nhà nước cũng nên trích một phần Ngân sách để hỗ trợ các đề tài nghiên cứu về công nghệ thông tin, phát học bổng khuyến khích các học sinh, sinh viên chuyên sâu và nghiên cứu về ngành học mới này. Các lớp bồi dưỡng, chương trình hội thảo về TMĐT cần được tổ chức thường xuyên để các doanh nghiệp và các đối tuợng quan tâm khác tham gia.
Ngoài ra, cần tiến hành tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng về TMĐT để người dân từ chỗ hiểu về TMĐT, thấy được những lợi ích to lớn mà TMĐT mang lại sẽ dần thay đổi nhận thức của mình tiến tới sử dụng phương thức giao dịch mới này.
II. CÁC GIẢI PHÁP VI MÔ ( PHÍA DOANH NGHIỆP )
Để thành công trong TMĐT, các doanh nghiệp Việt Nam phải kết hợp những nguyên tắc của thương mại truyền thống với các ưu điểm riêng có của TMĐT, vận dụng TMĐT sao cho phù hợp với điều kiện và thực lực của doanh nghiệp mình. Sau đây là một số giải pháp cụ thể để các doanh nghiệp Việt Nam có thể thành công khi tham gia TMĐT:
1. Chuẩn bị nguồn nhân lực
Đối với các doanh nghiệp Ngoại thương giờ đây, đội ngũ cán bộ công nhân viên không chỉ phải am hiểu về nghiệp vụ xuất nhập khẩu mà còn phải am hiểu về Internet, các dịch vụ trên Internet liên quan đến nghiệp vụ của mình như khai báo hải quan trên mạng, thuê tàu, mua bảo hiểm, thanh toán điện tử,... để có thể sử dụng, khai thác các dịch vụ phục vụ cho công việc. Vấn đề cấp bách đặt ra cho tất cả các Doanh nghiệp Ngoại thương là phải đào tạo được đội ngũ cán bộ đáp ứng cả hai yêu cầu quan trọng này, bởi nếu không có nhân lực khai thác thì những đầu tư cho cơ sở hạ tầng sẽ trở nên lãng phí. Rất nhiều Doanh nghiệp đã bỏ ra không ít tiền để kết nối Internet nhưng lại chỉ sử dụng chủ yếu để trao đổi thư điện tử, chính vì không có những nhân lực biết khai thác những điểm mạnh của Internet. Ngoài ra, lãnh đạo Doanh nghiệp cũng phải hiểu biết sâu sắc về công nghệ thông tin để quản lý, kiểm soát các giao dịch trên mạng để có thể vận hành một tổ chức TMĐT, nắm bắt được hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình từ đó có những quyết sách đúng đắn để phát triển kinh doanh.
2. Lập trang Web sớm
Nếu các doanh nghiệp Việt Nam không có riêng một hộp thư điện tử và trang Web trên các site nổi tiếng thì các doanh nghiệp nước ngoài và người tiêu dùng nước ngoài không thể tiếp cận trực tiếp với các doanh nghiệp Việt Nam với chi phí thấp, kết quả là doanh nghiệp Việt Nam sẽ mất cơ hội làm ăn với các đối tác. Do đó, càng thiết lập trang Web sớm càng khiến khách hàng chóng quen với doanh nghiệp, tạo lợi thế tham gia sớm để tạo nên cảm giác quen thuộc đối với doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp.
Cần lưu ý rằng, trang Web chính là bộ mặt của doanh nghiệp trên Internet cũng như văn phòng là bộ mặt của doanh nghiệp theo cách thức kinh doanh truyền thống. Để đạt được hiệu quả, doanh nghiệp cần tính đến những đặc điểm sau của một trang Web:
Mục tiêu của trang Web phải rõ ràng, minh bạch, làm sao để nhìn vào là có thể thấy được đó là một Website kinh doanh chứ không phải giải trí.
Chiến lược thị trường qua trang Web: Doanh nghiệp định hướng mở rộng hoạt động của mình đến thị trường nào, kế hoạch phát triển của doanh nghiệp tại những thị trường tiềm năng đó đã sắn sàng chưa, cần có những điều kiện gì để thực hiện giao dịch nếu có một yêu cầu đặt quan hệ từ một đối tác nước ngoài tại một thị trường mà doanh nghiệp chưa có sự hiểu biết sâu sắc.
Xác định nội dung cần đưa lên trang Web: Không phải bất cứ nội dung gì cũng đều đưa lên trang Web cho dù với mục đích quảng cáo, tiếp thị bởi ngoài vấn đề chi phí , nó còn ảnh hưởng đối với sự minh bạch của trang web, dễ gây nhầm lẫn cho người xem không biết doanh nghiệp thực sự kinh doanh trong lĩnh vực nào. Thông tin ngắn gọn, súc tích, trình bày hợp lý và bắt mắt sẽ tốt hơn những lời giải thích dài dòng. Hãy chọn nội dung cho trang web của mình với phương châm: làm cho khách tham quan, hiểu được mục đích của mình trong thời gian ngắn nhất.
3. Quảng cáo, giới thiệu trang web
Trước hết doanh nghiệp cần chọn các phương tiện quảng cáo điện tử thích hợp dựa vào những ưu điểm của mỗi phương tiện quảng cáo đối với từng nhóm khách hàng. Chẳng hạn, với khách hàng trong nước, có thể dùng điện thoại, fax, www, thư điện tử, điện thoại di động, máy nhắn tin; đối với khách hàng nước ngoài, hầu như không thể áp dụng hoặc chỉ áp dụng diện hẹp với những phương tiện điện thoại hay fax vì chi phí quá lớn. Lúc đó, áp dụng www, thư điện tử sẽ mang lại hiệu quả.
Quảng cáo nên trung thực vì quyền của lợi khách hàng. Đây cũng là cách tạo dựng uy tín cho doanh nghiệp.
Quảng cáo nên có nội dung như một đơn chào hàng vì trong TMĐT, người mua không trực tiếp tiếp xúc với sản phẩm. Hơn nữa, đối với TMĐT trong hoạt động Ngoại thương, các đối tác lại ở các nước khác nhau, cách xa hàng nghìn km, quảng cáo cần có đầy đủ nội dung như một đơn chào hàng càng trở nên cần thiết. Ta có thể tham khảo những trang web quảng cáo về sản phẩm tại Nhật Bản. Những trang web này phải có đầy đủ các nội dung:
Tên của cửa hàng trực tuyến
Địa chỉ
Các số điện thoại
Giá bán
Các chi phí khác, bao gồm cả chi phí vận chuyển,v.v...
Phương thức và điều kiện thanh toán
Ngày giao hàng
Chính sách hoàn trả sản phẩm
Tên của người chịu trách nhiệm
Trong các nội dung trên, ta thấy một lưu ý là tuy quảng cáo trên Internet nhưng vẫn phải có địa chỉ, số điện thoại, tên người chịu trách nhiệm để giải đáp các thắc mắc hoặc khiếu nại của người tiêu dùng (nội dung 3;9); phải công bố rõ chi phí vận chuyển vì chi phí vận chuyển bằng máy bay ra nước ngoài rất cao (nội dung 5); phải có chính sách hoàn trả sản phẩm khi khách hàng thấy sản phẩm không giống với quảng cáo (nội dung 8).
4. Lựa chọn phương thức thanh toán thích hợp
Các phương thức thanh toán phổ biến hiện nay trong TMĐT là:
(1) COD: trả tiền khi nhận hàng
(2) Prepurchase Bank/ Postal Transfer: Chuyển tiền qua ngân hàng/ bưu điện trước khi nhận hàng.
(3) Credit Card: thẻ tín dụng
(4) Electronic Money: tiền điện tử
Tiền điện tử gồm hai loại chính:
Các doanh nghiệp cần phải dựa vào thực lực của mình và quan hệ bạn bè để lựa chọn phương thức thanh toán cho thích hợp. Hiện nay, phương thức (2) là an toàn nhất đối với các doanh nghiệp Ngoại thương Việt Nam. Tuy nhiên, để đối tác chấp nhận trả tiền trước thì doanh nghiệp cũng như sản phẩm của doanh nghiệp phải đạt đủ uy tín.
Trên đây là một giải pháp đưa ra nhằm thúc đẩy sự phát triển trong hoạt động Ngoại thương.Hy vọng trong thời gian tới bằng những việc làm thiết thực từ phía chính phủ cũng như từ phía các doanh nghiệp, TMĐT trong lĩnh vực Ngoại thương sẽ có những bước phát triển nhảy vọt và sẽ là đầu tàu thúc đẩy sự phát triển của TMĐT trong các lĩnh vực khác, đẩy nhanh quá trình hội nhập của nền kinh tế nước nhà với nền kinh tế thế giới và khu vực.
KẾT LUẬN
Kỷ nguyên số hóa đã mở ra mà kinh doanh điện tử là một nhân tố quan trọng, theo đó tất cả những hạn chế về không gian và thời gian đều được khắc phục. Kinh doanh điện tử chắc chắn sẽ là dụng cụ tiềm năng nhất để các doanh nghiệp Ngoại thương nói riêng và các doanh nghiệp Việt Nam nói chung xây dựng lợi thế cạnh tranh. Điều đó không có nghĩa là chỉ buôn bán trên mạng mà bao gồm hầu hết các hoạt động như quản lý doanh nghiệp, quản lý nguồn cung cấp, chăm sóc khách hàng, phân phối sản phẩm...
Dù biết rằng có rất nhiều khó khăn và thách thức trước mắt khi phải cạnh tranh trên quy mô toàn cầu trong bối cảnh khu vực và trên thế giới về nhiều mặt đã bỏ xa Việt Nam, nhưng chính phủ cũng như các doanh nghiệp đã nhận ra tầm quan trọng của TMĐT và đang ra sức chuẩn bị cho cơ hội mới. Chúng ta sẽ tận dụng những cơ hội khi tham gia AFTA, APEC, thực hiện Hiệp định thương mại Việt-Mỹ và gia nhập WTO. Cơ hội đó là sự mở rộng mạnh mẽ thị trường của các nước đối với sản phẩm Việt Nam, sự ra đời của hệ thống thông tin toàn cầu ẩn chứa một tài nguyên phát triển quý giá mà hầu như không tốn kém lắm; khả năng phát huy tối đa nguồn lực trí tuệ của người Việt Nam trong nền kinh tế tri thức qua việc khai thác lập tức các thành quả của công nghệ thông tin.
Chính phủ có nhiệm vụ tạo ra môi trường và xúc tiến hoạt động thương mại này, xây dựng chiến lược, tạo dựng môi trường pháp lý thuận lợi, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực...; các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân cùng nỗ lực trang bị cho mình những điều kiện cần thiết, ứng dụng TMĐT chắc chắn sẽ thành công nếu chúng ta quyết tâm vào cuộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Việt Dũng: Khai báo hải quan qua mạng; Tin học và Đời sống số 6/2002.
Nguyễn Như Dũng: Những bước đi thành công đầu tiên của TMĐT Việt Nam; Tin học và Đời sống số 6/2002.
Ngọc Lâm: Hạ tầng cơ sở cho TMĐT; Tin học và Đời sống số 6/2002.
TS. Trần Văn Lăng: TMĐT: Cơ hội và nghề nghiệp; Tin học và Đời sống số 6/2004
Thế Nguyên: Sàn giao dịch điện tử cho hàng thủ công mỹ nghệ; Tin học và Đời sống số 8/2006
Bùi Việt: Xây dựng thương hiệu kinh doanh trên Internet; Tin học và Đời sống số 8/2003
Trần Lê: Quản lý nội dung thông tin website; Tin học và Đời sống số 8/2005
Th.s.Nguyễn Thị Tuyết Mai: TMĐT và ứng dụng trong Marketing; Tạp chí Kinh tế và Phát triển số 5/2003
Ngọc Trang: Việt Nam công nhận chữ kí điện tử trong thanh toán vốn; Tin học và Đời sống số 4/2002.
Việt Nam đã chấp nhận TMĐT? Tin học và Đời sống số 4/2002.
PGS.TS. Vũ Ngọc Cừ: Thương mại điện tử; Tạp chí Hàng Hải Việt Nam số 7/2002.
Nguyễn Thị Việt: TMĐT, những bước đi ban đầu.
Nguyễn Thị Thanh Phúc: TMĐT và Logistics điện tử.
Hương Giang: Hoạt động ngân hàng trong thời đại bùng nổ Internet; Tạp chí ngân hàng số 1+2/2004
Nguyễn Như Dũng: ứng dụng và phát huy Internet Việt Nam; Tin học và Đời sống số 8/2002.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA137.docx