Còn theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), Thương mại điện tử được định nghĩa sơ bộ là các giao dịch thương mại dựa trên truyền dữ liệu qua các mạng truyền thông như Internet.
Như vậy, “thương mại” trong “thương mại điện tử” không chỉ là buôn bán hàng hoá (trade) theo cách hiểu thông thường mà còn bao quát một phạm vi rộng hơn nhiều, do đó, việc áp dụng thương mại điện tử sẽ làm thay đổi cách thức hoạt động của hầu hết các hoạt động kinh tế. Theo ước tính hiện nay, thương mại điện tử có tới trên 1300 lĩnh vực ứng dụng, trong đó buôn bán hàng hoá và dịch vụ chỉ là một lĩnh vực ứng dụng.
85 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1687 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thương mại điện tử và thực trạng ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
te ở đây mặc dù được thiết kế công phu nhưng cho tới nay, sau 3-4 năm cũng chỉ mới có trên 1000 lượt truy cập. Trong số đó, trang web của công ty TNHH Haminco (www.haminco.com.vn) được đánh giá cao nhất với cách thiết kế đẹp, tốc độ truy cập nhanh, có đủ các thư mục như giới thiệu truyền thống lịch sử làng gốm sứ, trưng bày các mẫu mới, các sản phẩm truyền thống... nhưng đã 4 năm trôi qua mà khách đến liên hệ qua trang web mới chỉ được vài ba người. Chính vì chưa thấy được hiệu quả thực tế nên nhiều website sau thời gian đầu được đầu tư khá công phu, được cập nhật thường xuyên thì hiện nay trở nên trì trệ, không được cập nhật, ngay như trang web của Haminco trong ví dụ trên cũng phải nửa năm mới được cập nhật một lần, thậm chí nhiều trang web cả 1-2 năm không được cập nhật. Điều này gây lãng phí cho các doanh nghiệp bởi ngoài chi phí ban đầu để lập trang web, mỗi năm doanh nghiệp cũng phải mất một số tiền không nhỏ để duy trì trang web.
Việc giao dịch trực tiếp qua website ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng còn rất hạn chế hay nói cách khác là chưa có mấy doanh nghiệp thực hiện giao dịch bán hàng trực tiếp qua website. Nguyên nhân là các giao dịch trực tuyến qua mạng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp không ít trở ngại mà các doanh nghiệp lớn ít khi mắc phải. Đó là những trở ngại về vốn, chi phí, thẩm định đối tác, thanh toán, giao nhận vận chuyển...
Theo các doanh nghiệp, sau khi được nối kết qua mạng thì việc thẩm định đối tác rất quan trọng để đi đến những giao dịch nhưng việc thẩm định này lại nằm ngoài khả năng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các thông tin trên mạng không đủ để các doanh nghiệp biết rõ tình hình thực tế của các đối tác, đặc biệt là những đối tác nước ngoài. Kế đến, với quy mô nhỏ, các doanh nghiệp này khó được các đối tác nước ngoài tin tưởng giao cho thực hiện các hợp đồng thương mại có số lượng hàng hoá khổng lồ để có thể đem lại lợi nhuận cao và ổn định. Nhìn chung, khách hàng chưa đủ tin tưởng vào tư cách pháp nhân của người lập nên trang web nên việc đặt hàng qua mạng còn rất hạn chế.
Thêm vào đó, khách hàng vẫn giữ thói quen xem trực tiếp hàng hoá trước khi mua, đặc biệt là với những mặt hàng như thủ công mỹ nghệ, hiện chiếm tỷ lệ lớn trong số các website của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, những hình ảnh, thông tin được giới thiệu trên website chưa đủ để khách hàng tin tưởng vào chất lượng của hàng hoá để có thể đặt mua trực tuyến. Hơn nữa, thậm chí ngay cả khi có khách đặt hàng trực tuyến thì việc vận chuyển và giao hàng tận nơi cũng là một điểm hạn chế với các doanh nghiệp vì khi đó doanh nghiệp phải chịu mọi chi phí phát sinh trong quá trình vận chuyển bởi, với quy mô nhỏ, các doanh nghiệp này khó có được hệ thống phân phối rộng khắp để đảm bảo tự đưa hàng đến nơi khách yêu cầu. Chi phí cho việc vận chuyển giao hàng tận nơi có thể rất cao so với giá trị hàng hoá, nhất là khi khách hàng lại ở nước ngoài.
Một số doanh nghiệp cho rằng họ rất khó khăn về vốn, kể cả vốn đầu tư mua sắm trang thiết bị và đổi mới công nghệ. Hầu hết các giám đốc doanh nghiệp vừa và nhỏ cho biết họ còn gặp khó khăn trong quản lý, vận hành doanh nghiệp do thiếu khả năng tài chính để thuê những người có trình độ quản lý thành thạo về công nghệ thông tin. Khó khăn về vốn cũng là một yếu tố cản trở các doanh nghiệp quảng bá website đến khách hàng một cách hiệu quả bởi theo nhiều chuyên gia công nghệ thông tin, chi phí lớn nhất cho thương mại điện tử chính là chi phí quảng bá website đến các khách hàng. Để website được nhiều người biết đến phải quảng bá nó bằng cách đưa vào các search engine (công cụ tìm kiếm) càng nhiều càng tốt nhưng chi phí cho việc quảng bá này khá cao, một doanh nghiệp cỡ nhỏ phải chi ít nhất 500-1000 USD một năm cho việc “phát triển và quảng bá website” và thực tế ở Việt Nam chưa có công ty nào làm dịch vụ này.
Ngoài ra, trong số 3% doanh nghiệp có thực hiện thương mại điện tử, nhiều doanh nghiệp cho rằng khó khăn lớn nhất là ở khâu thanh toán điện tử bởi, theo họ, công nghệ bảo mật thông tin ở Việt Nam còn quá thấp, doanh nghiệp khó lòng giao phó việc thanh toán trong kinh doanh bằng thẻ tín dụng một khi chưa tin tưởng vào hệ thống thanh toán điện tử của ngân hàng.
Tóm lại, việc ứng dụng thương mại điện tử trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam cho tới nay vẫn còn ở giai đoạn khởi đầu, giai đoạn thử nghiệm khi các doanh nghiệp bắt đầu bước vào một hình thức kinh doanh mới dựa trên sự phát triển của nền công nghệ thông tin. Do vậy, cùng với những hạn chế vốn có về quy mô và vốn, những hạn chế đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi tham gia thương mại điện tử là khó tránh khỏi. Tuy nhiên, những hạn chế này là cơ sở để các doanh nghiệp rút ra kinh nghiệm, từ đó có thể nâng cao hiệu quả ứng dụng thương mại điện tử khi hình thức kinh doanh này trở nên phổ biến hơn ở Việt Nam.
III. triển vọng ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
1. Triển vọng ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Cho đến nay, thương mại điện tử không còn là một lĩnh vực kinh doanh quá mới mẻ trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Trong xu thế phát triển chung của thương mại điện tử toàn cầu, các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam cũng đang từng bước tham gia vào hoạt động thương mại điện tử, nhiều doanh nghiệp đã có những thành công bước đầu, thừa nhận những lợi ích mà thương mại điện tử đem lại. Mặc dù còn một số hạn chế khi thương mại điện tử được ứng dụng trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam nhưng trong thời gian tới, thương mại điện tử sẽ còn phát triển hơn nữa.
Với những lợi ích tiềm năng mà các doanh nghiệp có thể thu được khi ứng dụng thương mại điện tử và với tính linh hoạt sẵn có của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong tương lai không xa, thương mại điện tử có thể được ứng dụng trong hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt khi những cơ sở hạ tầng cho thương mại điện tử ở Việt Nam được phát triển hoàn thiện hơn và người tiêu dùng đã tạo dựng được thói quen tìm kiếm thông tin và mua hàng qua mạng. Khi đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở mọi ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh đều có thể sử dụng những tiến bộ của công nghệ thông tin để thực hiện những chu trình giao dịch hoàn chỉnh trên mạng, từ tìm hiểu thông tin thị trường, tìm kiếm khách hàng, quảng bá sản phẩm đến nhận đặt hàng và thanh toán. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, điều cần thiết hiện nay là phải đánh giá đúng những mặt thuận lợi cũng như những khó khăn mà doanh nghiệp có thể gặp phải khi áp dụng thương mại điện tử, từ đó, doanh nghiệp mới có thể xây dựng một chiến lược kinh doanh thích hợp để khai thác tốt những mặt thuận lợi và khắc phục khó khăn, tiến tới để có thể khai thác tối đa những tiện ích mà thương mại điện tử đem lại, chuẩn bị cho việc gia nhập sâu hơn, toàn diện hơn vào hoạt động thương mại điện tử trên phạm vi toàn cầu.
2. Thuận lợi và khó khăn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc ứng dụng thương mại điện tử
2.1 Thuận lợi
Xét ở tầm vĩ mô, thuận lợi lớn nhất đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay khi ứng dụng thương mại điện tử là tình hình kinh tế - thương mại của đất nước đang có những chuyển biến mạnh mẽ trong xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới. Với việc hội nhập và triển khai thực hiện các cam kết CEPT/AFTA, triển khai thực hiện Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới WTO, nền kinh tế - xã hội Việt Nam cần thiết phải có những thay đổi theo hướng tích cực, điều này tạo ra cơ hội và cả thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung cũng như các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng trong quá trình phát triển khẳng định vị thế của mình trong nền kinh tế. Trong điều kiện đó, tham gia vào thương mại điện tử là một giải pháp đúng đắn đối với các doanh nghiệp để có thể sớm tiếp cận với “nền kinh tế số hoá” - xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới trong thời gian tới.
Ngày 24/10/2000, Việt Nam đã tham gia ký kết Hiệp định khung e-ASEAN, (e-ASEAN Framework Agreement). Mục đích của Hiệp định là nhằm đẩy mạnh hợp tác để phát triển, tăng cường và nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông (ITC - Information Communication Technology) trong ASEAN, tăng cường các dịch vụ thương mại điện tử, giảm mức độ phát triển không đồng đều về kỹ thuật số trong từng nước và giữa các nước ASEAN, đẩy mạnh tiến trình tự do hoá thương mại, thúc đẩy đầu tư ICT trong các nước ASEAN. Tham gia vào hiệp định e-ASEAN sẽ đem lại cho các doanh nghiệp nước ta nhiều cơ hội, đó là sự liên kết giữa các nước thành viên về mặt xã hội, kinh tế trong không gian điện tử e-ASEAN sẽ thúc đẩy giao lưu về mặt thương mại, các doanh nghiệp trong nước sẽ có dịp trao đổi các thông tin về thị trường được nhanh chóng, thuận tiện; thực hiện các giao dịch thương mại trên mạng (thương mại điện tử, doanh nghiệp điện tử, chợ công nghệ ảo).
Thuận lợi tiếp theo đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ để phát triển thương mại điện tử là Việt Nam là một nước đang phát triển nên một số công nghệ được chuyển giao từ nước ngoài vào. Tuy ra đời sau nhưng thương mại điện tử ở Việt Nam có điều kiện học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước để hạn chế bớt rủi ro trong nghiên cứu và chi phí đầu tư vào nghiên cứu. Hơn thế nữa, Việt Nam vị trí địa lý thuận lợi cộng với số dân đông là một thị trường đầy tiềm năng nên đã thu hút được sự quan tâm chú ý và đầu tư của nhiều hãng lớn về công nghệ thông tin và như vậy các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có điều kiện tiếp cận với các công nghệ tiên tiến của thế giới. Ví dụ như, ngày 23/10/2003, hãng Intel đã công bố chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ nâng cao hiệu quả sử dụng công nghệ thông tin. Theo đó, Intel sẽ cung cấp cho các nhà phân phối, đại lý, các nhà phát triển hệ thống và cung cấp giải pháp những hỗ trợ kỹ thuật và tiếp thị để hướng dẫn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đánh giá và triển khai hệ thống máy tính, trên cơ sở đó xác định những gì cần thay thế và các công nghệ mới về phần cứng và phần mềm để có thể thúc đẩy công việc làm ăn của doanh nghiệp.
Sự phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông ở Việt Nam cũng là một thuận lợi không nhỏ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng hơn trong việc tiếp cận thương mại điện tử. Với mạng lưới điện thoại rộng khắp, hệ thống đường truyền Internet ngày càng phát triển với chất lượng và tốc độ ngày một cao hơn và giá cước truy cập cũng ngày càng rẻ hơn với sự gia tăng số lượng các nhà cung cấp dịch vụ Internet, các doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc nhiều hơn với Internet và khai thác triệt để những tiện ích của nó phục vụ cho hoạt động thương mại điện tử. Đồng thời, việc các ngân hàng ngày càng phát triển nhiều hơn các dịch vụ mới phục vụ cho thanh toán điện tử cũng là một điều kiện thuận lợi đối với việc ứng dụng thương mại điện tử của các doanh nghiệp tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, không thể không kể đến những nỗ lực của Chính phủ trong việc xây dựng các chính sách hỗ trợ nhằm thúc đẩy việc ứng dụng thương mại điện tử trong các doanh nghiệp Việt Nam như chính sách thuế, chính sách giá cả, chính sách đầu tư hướng vào ngành công nghệ thông tin, xây dựng các dự án quốc gia về thương mại điện tử và tích cực chuẩn bị cho việc ban hành Pháp lệnh thương mại điện tử - một có sở pháp lý quan trọng cho hoạt động thương mại điện tử tại Việt Nam. Đáng chú ý là:
Ngày 5/6/2000, Thủ tướng Phan Văn Khải đã ký nghị quyết số 07/2000/NĐ-CP về xây dựng và phát triển công nghệ phần mềm giai đoạn 2000-2005, trong đó xác định bước đầu chú trọng hình thức xuất khẩu qua gia công và cung cấp các dịch vụ cho các công ty nước ngoài, đồng thời mở rộng thị trường trong nước, tập trung phát triển phần mềm trong nước sớm mang lại hiệu quả kinh tế xã hội, thay thế phần mềm nhập khẩu; nhanh chóng tổ chức xuất khẩu lao động phần mềm và phần mềm đóng gói để công nghiệp phần mềm Việt Nam từng bước đạt vị thế trên thị trường thế giới. Nghị quyết 07 của Chính phủ được đánh giá là đòn bẩy chiến lược để Việt Nam phát triển, xây dựng nguồn nhân lực cho công nghiệp phần mềm.
Quyết định số 128/QĐ-TTg ngày 20/11/2000 cũng đã quy định một số chính sách và biện pháp khuyến khích đầu tư, phát triển công nghệ phần mềm với nội dung chính như sau:
- Doanh nghiệp phần mềm sẽ được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng 4 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế;
- Doanh nghiệp phần mềm sẽ được miễn giảm thuế sử dụng đất, tiền thuê đất và được tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng viễn thông;
- Được hưởng các mức thuế suất thuế thu nhập ưu đãi;
- Sản phẩm và các dịch vụ phần mềm được hưởng ưu đãi cao nhất về thuế giá trị gia tăng;
- Miễn thuế nhập khẩu đối với các nguyên liệu phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất phần mềm mà trong nước chưa sản xuất được;
- Miễn thuế xuất nhập khẩu đối với sản phẩm phần mềm;
- Người lao động Việt Nam trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất, dịch vụ phần mềm được áp dụng mức khởi điểm chịu thuế và mức luỹ tiến như quy định đối với người nước ngoài;
- Các tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập các cơ sở đào tạo về công nghệ thông tin.
Các quy định như trên là một điều kiện hết sức thuận lợi cho ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam phát triển, góp phần thúc đẩy sự phát triển của thương mại điện tử.
Ngoài ra, sự quan tâm của chính phủ còn thể hiện ở các hoạt động xúc tiến thương mại điện tử khác mà đáng kể nhất là việc Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam thành lập sàn giao dịch thương mại điện tử VNEMART, khai trương ngày 23/4/2003. Dự án VNEMART nhằm mục tiêu giúp đỡ các doanh nghiệp trong nước làm quen dần dần với thương mại điện tử, từng bước thử nghiệm giao dịch thương mại điện tử, tiến tới sử dụng thương mại điện tử như một công cụ hữu hiệu tìm kiếm bạn hàng mới, phát triển thị trường trong và ngoài nước.
Như vậy, trong quá trình tham gia vào hoạt động thương mại điện tử, các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam có không ít những điều kiện thuận lợi, đây là những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy việc tham gia thương mại điện tử được nhanh chóng và ngày càng toàn diện hơn. Các doanh nghiệp cần nắm bắt kịp thời những thuận lợi này, kết hợp với nỗ lực chủ quan của bản thân doanh nghiệp để xác định cho mình một lộ trình ứng dụng thương mại điện tử thích hợp nhằm thu được hiệu quả cao nhất trong hoạt động kinh doanh.
2.2 Khó khăn
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi, việc phát triển ứng dụng thương mại điện tử trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam vẫn còn một số khó khăn sau:
Về nhân lực: nguồn nhân lực cho thương mại điện tử của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn rất thiếu so với nhu cầu. Mặc dù hiện nay tin học và công nghệ thông tin đã được nhiều trường từ đại học, cao đẳng cho tới phổ thông quan tâm đưa vào giảng dạy nhưng số lượng đầu ra đạt chất lượng vẫn còn thấp. Tâm lý chung những người có bằng đại học loại giỏi thường muốn học tiếp lên cao và muốn làm việc cho các công ty lớn. Trong số nhân viên hiện có của các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có nhiều người có hiểu biết về Internet và thương mại điện tử nhưng trình độ không đồng đều, dẫn đến nhiều khó khăn khi nhân rộng các ứng dụng của thương mại điện tử ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhất là khi phải áp dụng các công nghệ mới, phức tạp.
Về nhận thức: Nhận thức của người dân về thương mại điện tử chưa cao. Tâm lý người tiêu dùng vẫn chưa quen với việc mua hàng mà không xem tận mắt, việc xem hàng hoá trên mạng không đủ để họ yên tâm về chất lượng của hàng hoá. Phương thức thanh toán trực tuyến mang lại nhiều lợi ích cho cả doanh nghiệp và người tiêu dùng nhưng, trong điều kiện Việt Nam hiện nay, thói quen sử dụng tiền mặt vẫn chưa thể thay đổi ngay, mức sống trung bình của người dân còn chưa cao khiến số người quan tâm đến tiền điện tử và thanh toán điện tử còn ít. Về phía doanh nghiệp, không phải lúc nào cũng có thể thuyết phục được ban lãnh đạo doanh nghiệp tham gia và hỗ trợ trực tiếp cho dự án ứng dụng thương mại điện tử trong khi các chiến lược tổ chức lại doanh nghiệp cho phù hợp với thương mại điện tử cần có sự tham gia chỉ đạo của cấp cao nhất trong doanh nghiệp.
Về năng lực cạnh tranh: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và còn non trẻ, tham gia hội nhập vào nền kinh tế, thương mại thế giới trong điều kiện phân công lao động quốc tế khá chặt chẽ, thị trường thế giới đã được phân chia tương đối ổn định, phải cạnh tranh với các tập đoàn đa quốc gia và các doanh nghiệp lớn, dẫn đến sự cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới càng khó khăn, quyết liệt hơn.
Về cơ sở pháp lý: Hệ thống pháp luật trong thương mại điện tử còn chưa hoàn thiện, do đó chưa tạo được lòng tin của khách hàng cũng như của doanh nghiệp khi tham gia thương mại điện tử. Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và quyền lợi của doanh nghiệp mặc dù đã có quy định trong nhiều văn bản pháp luật nhưng còn chưa thực sự có tác dụng khi tham gia thương mại điện tử.
Bên cạnh đó, còn có những khó khăn như việc giao hàng sai hẹn, sai đơn hàng hoặc không đúng chất lượng như quảng cáo là một trở ngại do chính doanh nghiệp tạo ra, hạn chế khách hàng đến với doanh nghiệp thương mại điện tử. ở Việt Nam, nhiều trường hợp sản phẩm, tên tuổi và chất lượng chưa gắn chặt với nhau, nên việc mua hàng trực tuyến còn hạn chế và không đủ cơ sở để tin cậy. Nạn sao chép lậu phát triển tràn lan gây trở ngại không nhỏ đối với các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp phần mềm. Việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ còn gặp nhiều khó khăn cũng là một thách thức đối với các doanh nghiệp khi tham gia thương mại điện tử.
Tóm lại, dù đã trải qua hơn nửa thập kỷ kể từ khi Việt Nam bước chân vào hoạt động thương mại điện tử, sự phát triển ứng dụng thương mại điện tử trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam có thể coi vẫn trong giai đoạn khởi đầu. Tuy nhiên, những kết quả ban đầu thu được và những hạn chế trong quá trình thực hiện cũng như những thuận lợi và khó khăn đối với các doanh nghiệp khi áp dụng thương mại điện tử là những nền tảng kinh nghiệm cơ bản để các doanh nghiệp tiến sâu hơn vào thương mại điện tử, chuẩn bị cho việc gia nhập vào “nền kinh tế số hoá”. Đồng thời, phát triển thương mại điện tử cũng là một giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nâng cao vai trò của bộ phận các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế đất nước.
Chương III:
Phương hướng và giải pháp phát triển
ứng dụng thương mại điện tử trong
doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
I. Phương hướng phát triển thương mại điện tử trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
1. Quan điểm và mục tiêu phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam
1.1 Quan điểm phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam
Kế thừa các quan điểm cơ bản của Nghị quyết 49/CP (ngày 4/8/1993) của Chính phủ về phát triển CNTT ở nước ta trong những năm 90, thực hiện nghiêm túc chỉ thị số 58/CT-TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng ngày 17/10/2000 về việc đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhanh chóng triển khai Nghị quyết số 07/2000/NQ-CP ngày 5/6/2000 của Chính phủ về việc xây dựng và phát triển công nghiệp phần mềm giai đoạn 2001-2005, quan điểm ứng dụng thương mại điện tử ở Việt Nam trong thời gian tới là:
- ứng dụng thương mại điện tử ở Việt Nam cần được coi là biện pháp quan trọng để phát triển các hình thức trao đổi có tính chất thương mại trong giai đoạn mới nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, từng bước chủ động hội nhập quốc tế và khu vực;
- ứng dụng thương mại điện tử ở Việt Nam cần theo hướng xã hội hoá, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và cá nhân tham gia, trong đó các doanh nghiệp nhà nước có vai trò đi tiên phong;
- ứng dụng thương mại điện tử cần định hướng vào thị trường thông qua việc tạo dựng một môi trường pháp lý thuận lợi gồm những chính sách mềm dẻo và thích hợp;
- Cần phải có một hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ và hiện đại phục vụ cho ứng dụng thương mại điện tử, trong đó cơ sở hạ tầng công nghệ là then chốt và phải đi trước một bước.
1.2 Mục tiêu phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam
Trong bối cảnh kinh tế xã hội nước ta hiện nay, dựa vào quan điểm phát triển nêu trên, mục tiêu phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam trong thời gian tới là tạo ra môi trường thông thoáng, đầy đủ và đồng bộ khuyến khích thương mại điện tử phát triển ở Việt Nam và sẵn sàng áp dụng rộng rãi thương mại điện tử trên phạm vi cả nước.
Với mục tiêu trên, một số định hướng và chủ trương lớn nhằm thúc đẩy phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam sẽ là:
Đ Nâng cao nhận thức và kiến thức về thương mại điện tử cho mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt là đối với các cán bộ lãnh đạo và quản lý lĩnh vực kinh tế, thương mại và những ngành liên quan: Cần phải nhận thức đầy đủ về tính tất yếu và mức độ tác động của “kinh tế số hoá” nói chung và “thương mại điện tử” nói riêng. Các chủ thể, đặc biệt là người tiêu dùng và doanh nghiệp có kiến thức cơ bản về thương mại điện tử;
Đ Xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi và các chính sách mềm dẻo khuyến khích đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, mở rộng thị trường và tăng cường trao đổi thương mại, phát triển dịch vụ, chuyển giao công nghệ và hợp tác quốc tế tạo điều kiện thuận lợi để ứng dụng thương mại điện tử;
Đ Triển khai xây dựng một chiến lược quốc gia về hình thành nền “kinh tế số hoá” nói chung và “thương mại điện tử” nói riêng làm định hướng chỉ đạo lâu dài; thiết lập một chương trình hành động trước mắt, phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam, trên cơ sở đó, triển khai nhanh việc phổ cập, đào tạo, thử nghiệm... Xây dựng được một số sản phẩm mật mã áp dụng trong thương mại điện tử, đặc biệt cần chú trọng việc xây dựng hạ tầng mật mã hoá công khai (PKI);
Đ Xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng công nghệ cần thiết cho phát triển thương mại điện tử gồm: kết cấu hạ tầng viễn thông; công nghiệp viễn thông; công nghệ điện tử; công nghệ thông tin; công nghiệp điện lực; Internet. Xây dựng các chuẩn kỹ thuật và công nghệ thống nhất quốc gia và quốc tế. Xây dựng và tổ chức triển khai một số đề án phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ cụ thể phục vụ phát triển thương mại điện tử ở nước ta. Mục tiêu của các hoạt động này là xây dựng được hạ tầng CNTT tiên tiến, đáp ứng được nhu cầu giao dịch thương mại điện tử lớn trên mạng (trước hết là giao dịch thương mại điện tử nội địa, tiếp đến là giao dịch với bạn hàng nước ngoài), sẵn sàng cho việc hội nhập của Việt Nam với hoạt động thương mại điện tử toàn cầu;
Đ Tích cực phát triển nguồn nhân lực cho thương mại điện tử;
Đ Triển khai thử nghiệm rộng rãi các loại hình dịch vụ của thương mại điện tử ở các mức độ khác nhau để rút kinh nghiệm và nhân rộng; Tiến hành thử nghiệm các hình thái giao dịch của thương mại điện tử cho một số doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, các giao dịch bao gồm từ việc chào hàng, đàm phán, ký kết hợp đồng đến việc thanh toán thông qua mạng;
Đ Xây dựng hệ thống tổ chức quản lý thương mại điện tử thích hợp.
2. Phương hướng phát triển thương mại điện tử trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
2.1 Phương hướng phát triển
Trên cơ sở tình hình phát triển thương mại điện tử trên thế giới, thực trạng thương mại điện tử ở Việt Nam trong thời gian qua và kế hoạch phát triển của Chính phủ về thương mại điện tử, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam có thể phát triển ứng dụng thương mại điện tử theo các mức độ sau:
ĐMức độ 1: Quảng cáo - Tiếp thị - Thông tin
Các doanh nghiệp sẽ sử dụng Internet và các website của mình như một công cụ tích cực để khai thác thông tin về thị trường, sản phẩm, quảng cáo tên tuổi và sản phẩm, dịch vụ của mình, giao tiếp với các đối tác là các doanh nghiệp ở thị trường trong và ngoài nước.
Đ Mức độ 2: Trao đổi dữ liệu bằng điện tử trong nội bộ doanh nghiệp
Các thông tin nội bộ sẽ được trao đổi bằng điện tử giữa các bộ phận trong doanh nghiệp, các doanh nghiệp thực hiện quản lý nhân sự, quản lý sản xuất kinh doanh thông qua mạng máy tính trong doanh nghiệp. Việc này sẽ hỗ trợ rất nhiều cho các tương tác bằng điện tử trực tiếp giữa khách hàng với các bộ phận chức năng của doanh nghiệp.
Đ Mức độ 3: Trao đổi dữ liệu bằng điện tử với các đối tác
Doanh nghiệp có khả năng trao đổi dữ liệu bằng điện tử giữa các bộ phận trong và ngoài doanh nghiệp. ở mức độ này, các giao dịch giữa các bộ phận chức năng của doanh nghiệp với khách hàng đã hoàn thiện hơn nhiều, nhiều chức năng giao dịch được tự động hoá.
Đ Mức độ 4: Tự động hoá một phần các giao dịch trên website
Với các chức năng được tự động hoá trên website, các đối tác có thể sử dụng website của doanh nghiệp để trao đổi thông tin với doanh nghiệp.
Đ Mức độ 5: Thương mại điện tử
Mọi công đoạn trong quá trình giao dịch đều có thể thực hiện ngay trên website của doanh nghiệp, người mua có thể xem hàng, đặt hàng và thanh toán ngay trên mạng. Đây là giai đoạn mà thương mại điện tử theo đúng nghĩa bắt đầu phát triển với quy mô lớn.
Như vậy, trong thời gian tới, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể từng bước triển khai ứng dụng thương mại điện tử ở các mức độ khác nhau tuỳ theo đặc điểm, mục đích kinh doanh cũng như quy mô, năng lực của mình.
2.2 Mô hình ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp vừa và nhỏ trong điều kiện hiện nay
Do còn tồn tại nhiều hạn chế đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ như các điều kiện về cơ sở hạ tầng thông tin, thanh toán điện tử, chi phí sử dụng Internet nên việc ứng dụng thương mại điện tử hoàn chỉnh từ khâu mua hàng đến khâu thanh toán trực tuyến sẽ khó là hiện thực trong những năm trước mắt ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do vậy, trên thực tế, các doanh nghiệp này có thể áp dụng mô hình thương mại điện tử kết hợp giữa các giao dịch điện tử qua mạng Internet và các giao dịch truyền thống. Đây sẽ là bước đi đầu tiên trong quá trình chuyển đổi từ thương mại truyền thống sang thương mại điện tử hiện đại của một doanh nghiệp.
Theo mô hình này, các doanh nghiệp sẽ xây dựng các website trong đó thực hiện chức năng quảng cáo sản phẩm, dịch vụ, giao dịch với khách hàng và các đối tác khác để trao đổi thông tin, nhận đặt hàng, doanh nghiệp cũng sẽ thực hiện một phần quá trình hỗ trợ sau bán hàng thông qua website do khách hàng có thể gửi thông tin phản hồi về sản phẩm, dịch vụ qua trang web của doanh nghiệp và doanh nghiệp tư vấn cho khách hàng cũng thông qua hình thức này. Quá trình trao đổi thông tin trong nội bộ doanh nghiệp cũng được thực hiện bằng điện tử thông qua mạng máy tính. Bên cạnh các giao dịch bằng điện tử, các giao dịch khác như giao hàng, thanh toán, bảo hành vẫn có thể được doanh nghiệp thực hiện bằng các phương pháp truyền thống.
Khi ứng dụng mô hình này, tổ chức của doanh nghiệp có thể cần thay đổi để phù hợp hơn với các quá trình kinh doanh mới, các phòng ban trong công ty sẽ tham gia trực tiếp vào các quá trình giao dịch bằng điện tử bổ sung cho các quá trình giao dịch truyền thống.
Về mặt kỹ thuật, doanh nghiệp sẽ sử dụng một chương trình catalog điện tử trên Internet để giới thiệu chi tiết các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. Chương trình catalog điện tử sẽ tạo các trang web tự động trên cơ sở dữ liệu về sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. Catalog này cũng cho phép doanh nghiệp có thể cập nhật cơ sở dữ liệu khách hàng, đơn hàng, sản phẩm, dịch vụ, còn khách hàng có thể đặt hàng và theo dõi quá trình thực hiện đơn hàng.
Do vấn đề tiền điện tử tại Việt Nam còn hạn chế, việc thanh toán có thể vẫn được doanh nghiệp thực hiện trực tiếp theo hình thức chuyển khoản hoặc bằng tiền mặt. Tuy nhiên, các thông tin trên website vẫn là các căn cứ chính để thực hiện việc thanh toán.
Hoạt động của từng bộ phận cũng có thay đổi. Các kế hoạch tiếp thị của bộ phận tiếp thị không chỉ nhằm vào các khách hàng ở địa phương mình mà sẽ nhằm vào một số loại khách hàng nào đó trên phạm vi toàn cầu. Phương thức tiếp thị cũng thay đổi, người ta không chỉ quảng cáo các sản phẩm, dịch vụ của mình trên các phương tiện truyền thông của địa phương mà mà với Internet, các sản phẩm, dịch vụ của các nhà tiếp thị có thể đi khắp nơi trên thế giới, đem các thông tin này đến tận nơi cho những người đang quan tâm tìm kiếm trên Internet. Bộ phận bán hàng cần phải sẵn sàng với các đối tượng khách hàng khác nhau ở các khu vực địa lý khác nhau thậm chí là ở phía bên kia địa cầu. Do đó, các thông tin về thuế xuất khẩu hàng hoá, chi phí vận chuyển tới địa chỉ của khách hàng, các phương thức thanh toán được chấp nhận, các điều kiện về cung cấp sản phẩm, dịch vụ, bảo hành... cũng cần được chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, đảm bảo cho việc trả lời các yêu cầu của khách hàng một cách nhanh chóng và việc thực hiện các đơn hàng không gặp phải các trở ngại không cần thiết. Bộ phận hỗ trợ khách hàng cũng cần chuẩn bị trước các thông tin cho khách hàng về việc bảo trì, bảo dưỡng các sản phẩm, dịch vụ của mình. Dữ liệu về “Những câu hỏi thường gặp” càng nhiều và càng đầy đủ thì càng giúp cho bộ phận này giảm được các yêu cầu hỗ trợ đơn giản do khách hàng cũng có thể tự giải quyết các vấn đề này sau khi đã đọc các câu hỏi và trả lời trên website. Bộ phận kế toán sẽ phải thường xuyên kiểm tra tình hình thực hiện các đơn hàng thông qua website để có được thông tin về khách hàng, các khoản phải thu, phải trả, liên hệ với khách hàng để trao đổi các thông tin về hoá đơn, công nợ, tài khoản ngân hàng. Bộ phận giao hàng mỗi khi có thông báo về việc chuyển hàng cho khách thông qua website hoặc email sẽ lấy hàng từ kho và liên hệ với khách hàng để thực hiện việc bàn giao cho bộ phận nhận hàng của khách hàng.
Về phía khách hàng, họ không cần phải đi đến tận cửa hàng trưng bày sản phẩm để có được các thông tin về sản phẩm, dịch vụ mà họ quan tâm. Với Internet họ có thể tìm được các nhà cung cấp phù hợp, lấy được đầy đủ các thông tin cần thiết như tính năng kỹ thuật, diễn giải chi tiết, giá cả, phí vận chuyển, các điều kiện thanh toán, bảo hành... Khi quyết định mua, khách hàng chỉ cần cung cấp các thông tin cần thiết về thẻ tín dụng, địa chỉ chuyển hàng,... và chấp nhận thanh toán phí vận chuyển nếu có. Nếu không có thẻ tín dụng, khách hàng sẽ liên hệ trực tiếp với bộ phận kế toán để thực hiện các thủ tục thanh toán bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản. Trong quá trình sử dụng, khách hàng vẫn có thể liên lạc bằng điện tử với doanh nghiệp để yêu cầu giúp đỡ hoặc gửi thông tin góp ý.
Tóm lại, việc ứng dụng thương mại điện tử bằng cách kết hợp giữa các giao dịch truyền thống và các giao dịch bằng điện tử là một bước chuyển tiếp có tính khả thi đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam. Để có thể ứng dụng thương mại điện tử hoàn toàn, các doanh nghiệp còn cần nhiều điều kiện khách quan và chủ quan khác. Tuy nhiên, để tránh nguy cơ tụt hậu quá xa so với xu thế phát triển của thương mại điện tử thế giới, các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam cần phải xác định sớm hướng đi để bắt đầu các hoạt động thương mại điện tử của mình theo điều kiện thực tế môi trường kinh doanh hiện có của Việt Nam cũng như năng lực của chính bản thân doanh nghiệp.
II. Giải pháp phát triển ứng dụng thương mại điện tử trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
1. Về phía Chính phủ
1.1 Hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, tối đa hoá phổ biến các lợi ích kinh tế - xã hội
- Thường xuyên đưa các thông tin và cách khai thác thương mại điện tử phục vụ nhu cầu đa dạng của xã hội;
- Đảm bảo kỹ thuật và giảm cước viễn thông, phí truy cập;
- Xây dựng hệ thống phân phối với cước phí vận chuyển thấp;
- Phổ cập hoá Internet thông qua các chương trình đào tạo cấp phổ thông và đại học và các chương trình hỗ trợ các tổ chức kinh tế - xã hội khác;
- Ban hành chính sách thuế ưu đãi đối với các doanh nghiệp tham gia các chương trình thương mại điện tử và kinh doanh CNTT;
1.2 Tạo môi trường tin cậy và an toàn cho các giao dịch
- Đảm bảo việc thừa nhận tính pháp lý của các giao dịch thương mại điện tử (hoá đơn, chứng từ, thuế...);
- Cung cấp các dịch vụ xác thực và sản phẩm mật mã với khoá mật mã theo tiêu chuẩn quy định của pháp luật;
- Xây dựng các tiêu chuẩn đảm bảo an toàn giao dịch thương mại điện tử;
- Cung cấp các dịch vụ cơ sở hạ tầng, đảm bảo tính riêng tư của cac thành viên tham gia thương mại điện tử;
- Phổ biến các biện pháp chống truy cập bất hợp pháp và đề phòng tin tặc;
- Ban hành các quy phạm pháp luật và xây dựng các giải pháp công nghệ để truy bắt, xử phạt các hành vi vi phạm nghiệp vụ, lợi dụng trong từng khâu hoặc toàn bộ quá trình giao dịch thương mại điện tử.
1.3 Phát triển hơn nữa cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông
Đ Cơ sở hạ tầng viễn thông và Internet
- Đảm bảo chất lượng các dịch vụ viễn thông để đáp ứng yêu cầu phát triển CNTT với giá cước bằng hoặc thấp hơn so với các nước trong khu vực;
- Tăng cường các biện pháp nhằm phổ biến rộng rãi dịch vụ Internet trong toàn dân, mở rộng hơn nữa mạng các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) và các nhà cung cấp nội dung (ICP) cho mọi thành phần kinh tế, không hạn chế số lượng các ISP và ICP;
- Cho phép sử dụng mọi dịch vụ đã có và sẽ có trên Internet để phát triển CNTT, tăng dung lượng đường truyền và mở thêm cổng ra quốc tế;
Đ Chuẩn hoá thông tin
- Lựa chọn và chấp nhận những tiêu chuẩn công nghiệp hiện đại trên thế giới phù hợp với điều kiện phát triển công nghiệp trong nước đồng thời nhanh chóng xây dựng các tiêu chuẩn công nghệ đặc thù của Việt Nam;
- Hoàn chỉnh và sớm quy định chuẩn hoá các loại thông tin cho các hoạt động quản lý điều hành quan trọng của Nhà nước, các bộ, ngành, địa phương và các hoạt động kinh tế phù hợp với khu vực và quốc tế.
Đ Hạ tầng nhân lực và đào tạo cán bộ
- Đa dạng hoá và xã hội hoá các hình thức đào tạo về thương mại điện tử. Chính phủ tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức quần chúng, xã hội như Hội tin học Việt Nam và các hội thành viên, các trung tâm đào tạo... mở các lớp bồi dưỡng thường xuyên cho các đối tượng trong xã hội về CNTT và đầu tư thêm để hoàn chỉnh một bộ giáo trình tốt cho việc giảng dạy, phân loại trình độ học viên để soạn giáo trình và giảng dạy cho phù hợp;
- Tăng cường gửi người đi đào tạo ở nước ngoài về thương mại điện tử. Hỗ trợ các doanh nghiệp gửi người đi đào tạo theo các học bổng của nước ngoài. Khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế và cá nhân đi học ở nước ngoài về thương mại điện tử bằng nguồn vốn tự có;
- Xây dựng phương án tổ chức và triển khai các hoạt động của Trung tâm phát triển nguồn lực thương mại điện tử trình Chính phủ phê duyệt để sớm thực hiện nhiệm vụ của trung tâm này.
1.4 Đầu tư nghiên cứu và ứng dụng thương mại điện tử
- Nhà nước đầu tư cho một số hướng nghiên cứu và triển khai phục vụ trực tiếp các ứng dụng quan trọng của thương mại điện tử. Chính phủ cần đầu tư xây dựng một trung tâm nghiên cứu và thử nghiệm quốc gia về Internet và thương mại điện tử. Trung tâm nghiên cứu, thử nghiệm những công nghệ, đề xuất các chính sách cho Internet, thương mại điện tử và mở rộng các dịch vụ Internet là một điều cần thiết và cấp bách;
- Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp một phần kinh phí thực hiện các đề án triển khai thương mại điện tử, nếu trong đó có những nội dung nghiên cứu khoa học hoặc tiếp thu chuyển giao công nghệ nhằm tạo ra công nghệ mới do doanh nghiệp tự thực hiện hoặc phối hợp với các cơ quan nghiên cứu khoa học thực hiện.
1.5 Tạo ra một môi trường vĩ mô thuận lợi cho phát triển thương mại điện tử
Tham gia thương mại điện tử là vấn đề có tầm chiến lược quốc gia, vấn đề có tính sống còn đối với tương lai của đất nước và đang là vấn đề có tính nhạy cảm về chính trị và kinh tế trên phạm vi quốc tế. Vì thế, nội dung các bản tuyên bố chính thức của Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế, việc tham gia ký kết về mặt nhà nước các cam kết có tính ràng buộc trong các tổ chức quốc tế trên tất cả các khía cạnh có liên quan đến vấn đề thương mại điện tử cần phải được thảo luận kỹ lưỡng, bảo đảm tính chủ động, hiệu quả, an toàn và có tính lâu dài.
Nhà nước cần sớm ban hành một số chính sách hỗ trợ cho thương mại điện tử nhằm đẩy nhanh hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam như:
- Chính sách đầu tư:
Để hình thành đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật cho thương mại điện tử đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu tư rất lớn từ mọi nguồn, trong đó vốn của Nhà nước có vai trò quan trọng. Trước hết ở khâu đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật cho thương mại điện tử, trong đó tập trung ưu tiên đầu tư các lĩnh vực như nghiên cứu phát triển CNTT, hệ thống thanh toán tự động, bảo mật và an toàn, tiêu chuẩn hoá công nghiệp và thương mại. Chính phủ cân nhắc thành lập Quỹ hỗ trợ ứng dụng thương mại điện tử. Quỹ này được hình thành từ nguồn vốn đầu tư phát triển của Nhà nước và được giao cho cơ quan quản lý nhà nước về thương mại điện tử quản lý sử dụng vào việc hỗ trợ, bồi thường rủi ro cho các đơn vị, doanh nghiệp thử nghiệm ứng dụng thương mại điện tử nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đi tiên phong thử nghiệm, ứng dụng thương mại điện tử. Vì Việt Nam có trình độ phát triển ở mức thấp, các doanh nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên khó có khả năng doanh nghiệp tự bỏ tiền đầu tư ứng dụng các hoạt động thương mại điện tử.
- Chính sách thuế:
Nhà nước áp dụng chính sách thuế để khuyến khích phát triển các doanh nghiệp kinh doanh dung liệu số hoá (các nhà cung cấp dịch vụ Internet, các trung gian Internet...) để tạo cơ sở hạ thấp giá các dịch vụ trong thương mại điện tử.
- Chính sách giá cả:
Các hoạt động dịch vụ của thương mại điện tử phải hướng vào kích thích phát triển các khách hàng thuê bao, các khách hàng sử dụng các dịch vụ của thương mại điện tử. Do đó, Nhà nước cần sử dụng công cụ giá cả để điều tiết cung - cầu thông qua việc quy định mức giá trần các dịch vụ để kích thích tăng trưởng nhanh nhu cầu sử dụng các dịch vụ của thương mại điện tử, ngăn chặn các nhà cung cấp dịch vụ tuỳ tiện nâng giá các dịch vụ, vượt quá sức mua của khách hàng trên thị trườngtrong nước.
- Về mặt tổ chức:
Chính phủ sớm hình thành một tổ chức đa ngành bao gồm ngân hàng, tài chính, tư pháp, công an, bưu chính viễn thông... đồng thời soạn thảo cơ chế vận hành, hành lang pháp lý cho thương mại điện tử.
Nên thành lập ngay một đầu mối quốc gia về “kinh tế số hoá” và “thương mại điện tử”. Một tổ chức đầu mối quốc gia về thương mại điện tử (có thể là Hội đồng) gồm đại diện của nhiều bộ ngành và giới có liên quan là một tổ chức cần thành lập để có thể hội tụ được kiến thức và sự nhìn nhận từ nhiều khía cạnh. Vì hội đồng là một tổ chức mang tính tư vấn là chủ yếu, nên theo kinh nghiệm các nước, sẽ cần tới một Uỷ ban quốc gia (hoặc tương đương) có chức năng và quyền hạn ra quyết định, chỉ đạo và xử lý giải quyết. Hội đồng và Uỷ ban sẽ là đầu mối đưa ra chiến lược cũng như chương trình hành động cho thương mại điện tử, đồng thời chỉ đạo thực hiện chiến lược và chương trình đó, tránh được các xu hướng thiếu nhìn nhận toàn diện, hoặc cho là chưa thể làm gì với thương mại điện tử, hoặc ngược lại, tiến hành một cách vội vã, nặng về phô diễn, không những không thu được kết quả mong muốn mà còn để lại hậu quả khó có thể khắc phục sau này.
2. Về phía các doanh nghiệp
2.1 Nâng cao nhận thức và chủ động tham gia vào thương mại điện tử
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần xác định rõ xu thế phát triển của thương mại điện tử trong nền kinh tế nói chung và sự cần thiết phải áp dụng thương mại điện tử trong hoạt động kinh doanh của mình do những lợi ích mà thương mại điện tử có thể đem lại, từ đó, dựa vào điều kiện thực tế của doanh nghiệp mà xây dựng chiến lược ứng dụng thương mại điện tử cho phù hợp. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng cần nắm được vai trò của mình trong nền kinh tế và xác định: trong thương mại điện tử doanh nghiệp là người trực tiếp kinh doanh nên phải đóng vai trò tiên phong, còn nhà nước chỉ mang tính hỗ trợ. Do đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên chủ động tham gia thương mại điện tử và lập kế hoạch cụ thể về mức độ tham gia, chuẩn bị các bước cần thiết để khỏi lỡ mất cơ hội kinh doanh. Điều này sẽ làm doanh nghiệp tự chủ hơn trong kinh doanh và, hơn thế nữa, có thể đóng góp những ý kiến thiết thực cho nhà nước để tiến hành hoạt động thương mại điện tử một cách có hiệu quả, bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp và người tiêu dùng tham gia. Các doanh nghiệp cũng nên chủ động tham gia các hội thảo về thương mại điện tử do chính phủ hoặc các tổ chức nước ngoài tổ chức, mặt khác, tham khảo và học hỏi kinh nghiệm nước ngoài về cách thức kinh doanh trên Internet.
2.2 Chuẩn bị nguồn nhân lực
Các doanh nghiệp nên tuyển dụng, đào tạo đội ngũ nhân viên có trình độ, có thể nắm bắt nhanh các kỹ thuật thương mại điện tử, sử dụng những người có hiểu biết sâu sắc về công nghệ thông tin để quản lý, kiểm soát các giao dịch thương mại điện tử. Đồng thời, bản thân lãnh đạo doanh nghiệp cũng cần hiểu rõ cách thức vận hành tổ chức thương mại điện tử để có thể đưa ra chiến lược kinh doanh phù hợp cũng như có thể quản lý được hoạt động của doanh nghiệp khi thực hiện ứng dụng thương mại điện tử trong sản xuất kinh doanh.
2.3 Xem xét lại quy trình kinh doanh cho phù hợp với phương thức hoạt động của thương mại điện tử
Mỗi doanh nghiệp khi tham gia vào mạng Internet trước hết cần xác định rõ mục tiêu và chiến lược kinh doanh bởi mục tiêu và chiến lược kinh doanh trong thương mại điện tử có thể có nhiều điểm khác biệt so với trong phương thức kinh doanh truyền thống. Doanh nghiệp có thể tham khảo ý kiến các chuyên gia trong quá trình xây dựng kế hoạch kinh doanh. Doanh nghiệp cũng cần kiểm tra kỹ lưỡng từng bước trong kế hoạch kinh doanh trước khi đưa vào triển khai để tránh những sai sót có thể ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh.
2.4 Xây dựng website của doanh nghiệp
Khi tham gia vào thương mại điện tử, doanh nghiệp nên xây dựng cho mình một website riêng hoặc đăng quảng cáo tại một website nào đó. Để website thực sự là một công cụ hữu ích trong hoạt động kinh doanh thương mại điện tử của doanh nghiệp, website của doanh nghiệp phải được thiết kế bảo đảm các yêu cầu sau:
Cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác: Website phải trình bày một cách rõ ràng và chính xác các thông tin chi tiết liên quan đến doanh nghiệp mà các đối tác kinh doanh cần biết như địa chỉ trụ sở làm việc, địa chỉ e-mail, số điện thoại, fax..., các thông tin về chất lượng, giá cả sản phẩm hoặc dịch vụ, phương thức vận chuyển hàng, phương thức thanh toán, thời gian bảo hành. Doanh nghiệp cần tạo điều kiện cho khách hàng tìm hiểu nguồn gốc, xuất xứ cũng như tính năng sử dụng của sản phẩm ngay trên website này.
Thiết kế website linh hoạt: Thông tin trên website phải luôn được cập nhật sao cho website này là nguồn thông tin tốt nhất về sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. Đồng thời hình ảnh cũng như các file dữ liệu phải thật sự gây ấn tượng cho mọi đối tượng truy nhập, luôn có các sáng kiến đổi mới để tạo được trang web với những hình ảnh sống động, âm thanh vui tươi mang bản sắc riêng và nét đặc trưng riêng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, website cũng phải đảm bảo tốc độ truy cập nhanh bằng cách loại bỏ các đoạn không cần thiết, giảm hình ảnh giới thiệu sản phẩm ở kích thước vừa phải, doanh nghiệp cũng có thể thiết kế một hệ thống định hướng cho phép khách hàng chọn sản phẩm dễ dàng hơn và nhanh hơn. Những điều này sẽ tạo điều kiện cho khách hàng truy cập website thường xuyên hơn.
Đảm bảo an toàn: Website của doanh nghiệp phải chắc chắn tạo được lòng tin đối với những khách hàng tiềm năng. Do vậy, doanh nghiệp cần chú trọng quan tâm đến việc bảo mật cho khách hàng đồng thời bảo đảm tính an toàn cho hệ thống thanh toán của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, để đảm bảo cho website được nhiều người biết đến, doanh nghiệp không thể không chú ý đến việc giới thiệu địa chỉ website trên các phương tiện thông tin khác bởi website chỉ có thể thực hịên được chức năng của nó khi được mọi người biết đến và truy cập.
2.5 Tham gia sàn giao dịch thương mại điện tử
Trên thực tế, việc xây dựng và duy trì một website có hiệu quả có thể tốn khá nhiều chi phí và là một khó khăn đối với nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ vì quy mô vốn của các doanh nghiệp này thường không lớn. Tham gia sàn giao dịch là một giải pháp giúp các doanh nghiệp giảm nhẹ được khó khăn về chi phí. Đồng thời, các doanh nghiệp tham gia sàn giao dịch sẽ được hỗ trợ về đào tạo, đào tạo cả cho người quản lý và người triển khai, để họ có thể chủ động tạo cho mình một gian hàng trực tuyến, bằng các công cụ trong sàn giao dịch. Thông qua sàn giao dịch, các doanh nghiệp sẽ được cung cấp thông tin và tư vấn về các văn bản, chính sách, các quy định và tập quán thương mại quốc tế, nhằm giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh khi hội nhập quốc tế. Sàn giao dịch cũng là diễn đàn cho các doanh nghiệp có điều kiện trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, hỏi đáp những vấn đề quan tâm. Như vậy, có thể nói, sàn giao dịch thương mại điện tử giúp các doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận với thương mại điện tử một cách chủ động, kể cả trong điều kiện nguồn kinh phí hạn chế.
2.6 Các doanh nghiệp cần có chiến lược xây dựng và phát triển thương hiệu
Thương hiệu là một tài sản quan trọng của doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp bị thất bại là do không củng cố được tên tuổi của mình trên mạng và gắn nó với những hình tượng dành cho khách hàng. Vấn đề thương hiệu trong thương mại điện tử phức tạp và dễ gặp rắc rối hơn so với thương hiệu trong kinh doanh truyền thống vì, trong kinh doanh truyền thống, thương hiệu thường có tính chất khu vực nhưng trên Internet lại không tồn tại các khu vực truyền thông. Tính toàn cầu của Internet có thể gây ra những tranh cãi về thương hiệu. Thêm vào đó, tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ vẫn còn là một vấn đề lớn đang tồn tại và có nguy cơ ngày càng gia tăng khi thương mại điện tử phát triển. Vì vậy, ngay từ những ngày đầu tham gia vào thương mại điện tử, các doanh nghiệp phải vạch cho mình một chiến lược xây dựng, củng cố, phát triển và bảo vệ thương hiệu của mình.
Kết luận
Thương mại điện tử đã, đang phát triển rất nhanh chóng trên thế giới và sẽ là thành phần quan trọng của thương mại nói chung vào thế kỷ 21. Không chỉ có các nước phát triển mà cả các nước đang phát triển cũng ngày càng nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của việc phát triển thương mại điện tử trong xu thế hội nhập, toàn cầu hoá và hướng tới phát triển “nền kinh tế số hoá”. Các quốc gia không tính đến xu thế này sẽ khó tránh khỏi nguy cơ tụt hậu nhất là trong điều kiện mà ngành công nghệ thông tin đang phát triển với tốc độ như vũ bão hiện nay.
Với Việt Nam, trong tiến trình tham gia thương mại điện tử đã có nhiều kết quả đáng khích lệ đặc biệt là về việc phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông phục vụ cho thương mại điện tử. Tuy nhiên, để thương mại điện tử có thể phát triển hoàn thiện ở Việt Nam, trong điều kiện Việt Nam đang và sẽ tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế khu vực và thế giới, đặc biệt là Hiệp định khung e-ASEAN, còn có nhiều vấn đề đòi hỏi nước ta phải giải quyết như xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về thương mại điện tử, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ phát sinh trong thương mại điện tử, bảo vệ dữ liệu cá nhân và bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng Do vậy, nước ta cần tiếp tục tăng cường xây dựng hạ tầng cơ sở thông tin, nâng cao chất lượng dịch vụ viễn thông, giảm giá bán các loại dịch vụ viễn thông cho phù hợp với mặt bằng chung của thế giới. Đồng thời, cần tập trung phát triển nguồn nhân lực về công nghệ thông tin có chất lượng cao hơn nữa, nâng cao trình độ ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh bởi đây là ngôn ngữ giao dịch phổ biến trong thương mại điện tử trên thế giới.
Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, là một thành phần quan trọng trong nền kinh tế xét về tỷ trọng trong tổng số các doanh nghiệp cũng như xét về khía cạnh giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, việc tham gia ứng dụng thương mại điện tử hiện nay mới ở giai đoạn khởi đầu và kết quả thu được còn thấp nhưng trong tương lai, chắc chắn thương mại điện tử sẽ có hiệu quả cao hơn đem lại nhiều lợi ích hơn nữa cho các doanh nghiệp và có thể được ứng dụng trong hầu hết các doanh nghiệp. Tuy nhiên để đạt được điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải chủ động chuẩn bị và đầu tư các thiết bị, công nghệ tiên tiến, điều chỉnh cơ cấu, quy trình sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao sức cạnh tranh để có thể đứng vững trong nền kinh tế và tham gia vào thị trường thế giới. Điều quan trọng là mỗi doanh nghiệp cần phải có được nhận thức đúng đắn về thương mại điện tử và xây dựng được cho mình một kế hoạch ứng dụng thương mại điện tử phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế tri thức. Đó là giải pháp tốt nhất đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam để phát triển vững chắc trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá và phát triển kinh tế số hoá hiện nay.
Tài liệu tham khảo
1. Thương mại điện tử - Học viện hành chính quốc gia - NXB Lao động 2003
2. Khía cạnh văn hoá trong thương mại điện tử - NXB Chính trị quốc gia 2003
3. Thương mại điện tử cho doanh nghiệp - NXB Khoa học kỹ thuật 2001
4. Tương lai của thương mại điện tử - Sayling Wen - NXB Bưu điện 2002
5. Giao dịch thương mại điện tử - Một số vấn đề cơ bản - NXB Chính trị quốc gia 2002
6. Thương mại điện tử với phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ - Viện kinh tế thế giới 2001
7. Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - NXB Chính trị quốc gia 2002
8. Dự thảo Pháp lệnh thương mại điện tử (lần thứ 6) - Bộ Thương mại
9. Dự án quốc gia kỹ thuật thương mại điện tử - Bộ Thương mại
10. Nghiên cứu ứng dụng thương mại điện tử trong các doanh nghiệp Việt Nam - Luận án tiến sỹ - Lê Minh Lương
11. Vietnam e-Readiness and e-Needs Assessment Report (5/2003)
12. Một số khoá luận tốt nghiệp của sinh viên Đại học Ngoại thương
13. Các báo và tạp chí:
- Tin học và đời sống số 6,10/2002, số 1,4,9/2003
- Kinh tế Châu á Thái Bình Dương số 2, 8,10/2001, 2/2002
- Ngoại thương số 7,8/2003
- Phát triển kinh tế số 5/2003
- Thương mại các số năm 2003
- Tuần tin Công nghiệp - Thương mại Việt Nam (Bộ Thương mại)
- Bưu chính viễn thông số 5,6,7,8/2003
- Kinh tế và phát triển số 11/2002
- Diễn đàn doanh nghiệp số 8/2003
- Những vấn đề kinh tế thế giới số 5/2003
14. Thông tin trên các trang Web
- www.thuongmaidientu.com
- www.mot.gov.vn
- www.ecommercetimes.com
- www.ebusinessforum.com
- www.vnexpress.net
- www.it-life.vnn.vn
- www.vnn.vn
- www.bvom.com/news/